Đường Thi Trích Dịch II - Anh Nguyên

Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 6 trang, bài viết từ 61 đến 90 trên tổng số 178 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: NGUYỆT - 04.11.2008 04:44:18
 
NGUYỆT    
   



天 上 秋 期 近
人 間 月 影 清
入 河 蟾 不 沒
搗 藥 兔 長 生
只 益 丹 心 苦
能 添 白 髮 明
干 戈 知 滿 地
休 照 國 西 營
杜 甫

 
Thiên thượng thu kỳ cận,
Nhân gian nguyệt ảnh thanh.
Nhập hà thiềm bất một,
Đảo dược thố trường sinh.
Chỉ ích đan tâm khổ,
Năng thiêm bạch phát minh.
Can qua tri mãn địa,
Hưu chiếu quốc tây dinh.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Trăng
 
Bầu trời sắp bước vào Thu,
Cõi người trăng vẫn trong như thuở nào.
Vào Ngân-Hà, cóc chẳng sao,
Thuốc đâm, thỏ vẫn sống bao năm trường.
Lòng son thêm khổ, sầu vương,
Khiến cho mái tóc như sương bạc dần.
Khắp nơi chinh chiến xa gần,
Xin trăng đừng chiếu dinh phần phía tây...
Anh-Nguyên            

<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:37:54 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: SƠ NGUYỆT - 04.11.2008 04:50:38
 
SƠ NGUYỆT 
 
初 月

光 細 弦 初 上
影 斜 輪 未 安
微 升 古 塞 外
已 隱 暮 雲 端
河 漢 不 改 色
關 山 空 自 寒
庭 前 有 白 露
暗 滿 菊 花 團
杜 甫 


Quang tế huyền sơ thượng,
Ảnh tà luân vị an.
Vi thăng cổ tái ngoại,
Dĩ ẩn mộ vân đoan.
Hà hán bất cải sắc,
Quan sơn không tự hàn.
Đình tiền hữu bạch lộ,
Ám mãn cúc hoa đoàn.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Trăng non
 
Vành cung mới ló, nhạt mờ,
Chênh chênh bóng ngả bây giờ chưa yên.
Bên ngoài ải cổ nhô lên,
Và nay đã nấp vào bên mây chiều.
Vào Ngân-Hà, chẳng đổi nhiều,
Chốn quan san, thấy có chiều lạnh hơn.
Trước sân móc trắng còn tuôn,
Bám đầy hoa cúc nơi vườn trước sân...
Anh-Nguyên            
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:39:07 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: THẬP LỤC DẠ NGOẠN NGUYỆT - 04.11.2008 04:59:28
 
THẬP LỤC DẠ
NGOẠN NGUYỆT  

十 六 夜 翫 月

舊 挹 金 波 爽
皆 傳 玉 露 秋
關 山 隨 地 闊
河 漢 近 人 流
谷 口 樵 歸 唱
孤 城 笛 起 愁
巴 童 渾 不 寐
半 夜 有 行 舟
杜 甫

 
Cựu ấp kim ba sảng,
Giai truyền ngọc lộ thu.
Quan sơn tùy địa khoát,
Hà hán cận nhân lưu.
Cốc khẩu tiều quy xướng,
Cô thành địch khởi sầu.
Ba đồng hồn bất mị,
Bán dạ hữu hàn chu.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Ngắm trăng mười sáu
 
Xưa thường ấp ủ sóng vàng,
Nay thêm móc ngọc, rõ ràng vào Thu.
Ải quan trải rộng tít mù,
Ngân-Hà lại chảy gần như bên người.
Tiều về hẻm núi, hát, cười,
Địch thành vắng vẻ, thổi thời buồn sao!
Kẽm Ba, chợp mắt được nào!
Nửa đêm, thuyền vẫn nhổ sào ra đi...
Anh-Nguyên
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:40:38 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: THIÊN HÀ - 04.11.2008 05:13:57
                
THIÊN HÀ   
 
天 河

當 時 任 顯 晦
秋 至 最 分 明
縱 被 微 雲 掩
終 能 永 夜 清
含 星 動 雙 闕
伴 月 落 邊 城
牛 女 年 年 渡
何 曾 風 浪 生
杜 甫

 
Đương thì nhiệm hiển hối,
Thu chí tối phân minh.
Túng bị vi vân yểm,
Chung năng vĩnh dạ thanh.
Hàm tinh động song khuyết,
Kiện nguyệt lạc biên thành.
Ngưu nữ niên niên độ,
Hà tằng phong lãng sinh.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Dải Ngân Hà
 
Theo thời, khi tỏ, khi mờ,
Khi mùa Thu đến, đôi bờ sáng trưng.
Mây che có lúc, không chừng,
Nhưng rồi, đêm, vẫn sáng trưng nền trời.
Cung vua, ảnh hưởng hai nơi,
Đưa vừng trăng lặn xuống trời thành biên.
Năm năm Ngưu, Chức qua liền,
Chưa từng sóng gió nổi lên một lần...
Anh-Nguyên          
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:41:37 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: HIỂU VỌNG - 04.11.2008 05:23:06
 
HIỂU VỌNG        
 
曉 望

白 帝 更 聲 盡
陽 臺 曙 色 分
高 峰 上 寒 日
疊 嶺 宿 霾 雲
地 近 江 帆 遠
天 清 木 葉 聞
荊 扉 對 麊 鹿
應 共 爾 為 群
杜 甫

 
Bạch đế canh thanh tận,

Dương đài thự sắc phân.
Cao hong thướng hàn nhật,
Điệp lĩnh túc mai vân.
Địa cận giang phàm viễn,
Thiên thanh mộc diệp văn.
Kinh phi đối mi lộc,
Ưng cộng nhĩ vi quần.

Đỗ-Phû
 
Dịch:
 
Ngắm cảnh buổi sớm
 
Trống canh Bạch-Đế dứt rồi,
Dương-Đài, nắng sớm khắp nơi tỏa lần.
Mặt trời, đỉnh núi nhô dần,
Núi non, mây vẫn lần quần chưa tan.
Đất gần, buồm tít núi ngàn,
Trời trong nghe tiếng lá hàng cây cao.
Hươu đâu trước cổng ngó vào,
Muốn cùng mày với thằng tao hợp bầy...
Anh-Nguyên          

<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:42:39 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: KHƯƠNG THÔN (Kỳ nhất) - 04.11.2008 06:35:08
 
KHƯƠNG THÔN     
(Kỳ nhất)

羌 村 (其 一)

崢 嶸 赤 雲 西,
日 腳 下 平 地。
柴 門 鳥 雀 噪,
歸 客 千 裡 至。
妻 孥 怪 我 在,
驚 定 還 拭 淚。
世 亂 遭 飄 蕩,
生 還 偶 然 遂。
鄰 人 滿 牆 頭,
感 嘆 亦 歔 欷。
夜 闌 更 秉 燭,
相 對 如 夢 寐。
杜 甫

 
Tranh vanh xích vân tây,
Nhật cước hạ bình địa.
Sài môn điểu tước táo,
Quy khách thiên lý chí.
Thê noa quái ngã tại,
Kinh định hoàn thức lệ.
Thế loạn tao phiêu đãng,
Sinh hoàn ngẫu nhiên tụy.
Lân nhân mãn tường đầu,
Cảm thán diệc hư hỷ.
Dạ lan cánh bỉnh đăng,
Tương đối như mộng mỵ.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Làng Khương
(Bài một)
 
Mây màu đỏ dựa núi tây,
Mặt trời tỏa xuống tràn đầy đất đai.
Sẻ kêu xáo xác cửa ngoài,
Khách từ ngàn dặm về ai có ngờ.
Ai còn tưởng sống đến giờ,
Hết cơn kinh sợ, mắt mờ lệ tuôn.
Loạn ly trôi nổi luôn luôn,
Bỗng nhiên lại sống tìm đường về đây.
Ngoài tường, lối xóm đứng đầy,
Cảm thương cũng đến dãi bày thở than.
Bên đèn chẳng biết đêm tàn,
Nhìn nhau cứ tưởng trăm ngàn giấc mơ...
Anh-Nguyên        
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:43:31 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: KHƯƠNG THÔN (Kỳ nhị) - 04.11.2008 07:07:25
 
KHƯƠNG THÔN  
(Kỳ nhị)
 
羌 村 (其 二)

晚 歲 迫 偷 生,
還 家 少 歡 趣。
嬌 兒 不 離 膝,
畏 我 復 卻 去。
憶 昔 好 追 涼,
故 繞 池 邊 樹。
蕭 蕭 北 風 勁,
撫 事 煎 百 慮。
賴 知 禾 黍 收,
已 覺 糟 床 注。
如 今 足 斟 酌,
且 用 慰 遲 暮。
杜 甫  


Vãn tuế bách thâu sinh,
Hoàn gia thiểu hoan thú.
Kiều nhi bất ly tất,
Úy ngã phục khước khứ.
Ức tích hiếu truy lương,
Cố nhiễu trì biên thụ.
Tiêu tiêu bắc phong kình,
Phủ sự tiễn bách lự.
Lại tri hòa thử thâu,
Dĩ giác tao sàng chú.
Như kim túc châm chước,
Thả dụng ủy trì mộ.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Làng Khương
(Bài hai)
 
Tuổi già hối sống cho mau,
Về nhà sao được cùng nhau vui cười.
Các con quấn quýt bên người,
Sợ ta đi nữa, phương trời xa xôi.
Nhớ xưa, bóng mát dạo chơi,
Nay đi dưới bóng cây nơi ao làng.
Ào ào gió bắc phũ phàng,
Bao nhiêu ngang trái, lại càng lo âu.
Biết rằng lúa gặt từ lâu,
Lại hay rượu ủ một bầu đã xong.
Nay đem uống đủ thỏa lòng,
Hãy dùng khuây khỏa suốt trong chiều tà...
Anh-Nguyên         
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:45:47 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: KHƯƠNG THÔN (Kỳ tam) - 04.11.2008 07:47:42
 
KHƯƠNG THÔN  
(Kỳ tam)
 
羌 村 (其 三)

群 雞 正 亂 叫,
客 至 雞 斗 爭。
驅 雞 上 樹 木,
始 聞 扣 柴 荊。
父 老 四 五 人,
問 我 久 遠 行。
手 中 各 有 攜,
傾 醘 濁 復 清。
苦 辭“酒 味 薄,
黍 地 無 人 耕。
兵 革 既 未 息,
兒 童 盡 東 征”。
請 為 父 老 歌,
艱 難 愧 深 情。
歌 罷 仰 天 嘆,
四 座 淚 縱 橫。

杜 甫

 
Quần kê chính loạn khiếu,
Khách chí kê đấu tranh.
Khu kê thướng thụ mộc,
Thủy văn khấu sài kinh.
Phụ lão tứ ngũ nhân,
Vãn ngã cửu viễn hành.
Thủ trung các hữu huề
Khuynh kháp trọc phục thanh.
Khổ từ tửu vị bạc,
Thử địa vô nhân canh.
Binh cách kỷ vị túc,
Nhi đồng tận đông chinh.
Thỉnh vị phụ lão ca,
Gian nan quỷ thâm tình.
Ca bãi ngưỡng thiên thán,
Tứ tọa lệ tung hoành.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Làng Khương
(Bài ba)

Bầy gà nháo nhác kêu inh,
Vừa khi khách đến, gà kình đá nhau.
Đuổi gà lên hết cây mau,
Mới nghe tiếng gõ như đâu cửa rào.
Cụ già, năm, sáu, bước vào,
Hỏi ta xa vắng ra sao, lâu về?
Trong tay mang rượu cập kè,
Hết nghiêng bầu đục lại kề bầu trong.
Rượu, than lạt chẳng vừa lòng,
Đồng không cầy cấy, sao mong rượu nồng.
Chiến tranh, việc vẫn chưa xong,
Các con đi đánh miền đông hết rồi.
Hát hầu các cụ nghe chơi,
Gian nan, hổ thẹn tình người vẫn sâu.
Nhìn trời than thở hồi lâu,
Chung quanh ai cũng lệ sầu chứa chan...
Anh-Nguyên          
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.05.2022 10:37:24 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: THUẬT HOÀI - 04.11.2008 08:07:04
 
THUẬT HOÀI
 
述 懷

去 年 潼 關 破,妻 子 隔 絕 久。
今 夏 草 木 長,脫 身 得 西 走。
麻 鞋 見 天 子,衣 袖 露 兩 肘。
朝 廷 愍 生 還,親 故 傷 老 醜。
涕 淚 授 拾 遺,流 離 主 恩 厚。
柴 門 雖 得 去,未 忍 即 開 口。
寄 書 問 三 川,不 知 家 在 否?
比 聞 同 罹 禍,殺 戮 到 雞 狗。
山 中 漏 茅 屋,誰 複 依 戶 牖?
摧 頹 蒼 松 根,地 冷 骨 未 朽。
幾 人 全 性 命?盡 室 豈 相 偶?
欽 岑 猛 虎 場,鬱 結 回 我 首。
自 寄 一 封 書,今 已 十 月 後。
反 畏 消 息 來,寸 心 亦 何 有!
漢 運 初 中 興,生 平 老 耽 酒。
沉 思 歡 會 處,恐 作 窮 獨 叟。

杜 甫

Khứ niên đồng quan phá,
Thê tử cách tuyệt cửu.
Kim hạ thảo mộc trường,
Thoát thân đắc tây tẩu.
Ma hài kiến thiên tử,
Y tụ lộ lưỡng trữu.
Triều đình mẫn sinh hoàn,
Thân cố thương lão xú.
Thế lệ thụ thập di,
Lưu ly chủ ân hậu.
Sài môn tuy đắc khứ,
Vị nhẫn tức khai khẩu.
Ký thư vấn tam xuyên,
Bất tri gia tại phù.
Tị văn đồng ly họa,
Sát lục đáo kê cẩu.
Sơn trung lậu mao ốc,
Thùy phục y hộ dũ.
Tồi đồi thương tùng căn,
Địa lãnh cốt vị hủ.
Kỷ nhân toàn tính mệnh,
Tận thất khởi tương ngẫu.
Khâm sầm mãnh hổ trường,
Uất kết hồi ngã thủ.
Tự ký nhất phong thư,
Kim dĩ thập nguyệt hậu.
Phản úy tiêu tức lai,
Thốn tâm diệc hà hữu.
Hán vận sơ trung hưng,
Sinh bình lão đam tửu.
Trầm tư hoan hội xứ,
Khủng tác cùng độc tẩu.
Đỗ-Phủ

Dịch:
 
Kể lại nỗi lòng
 
Năm rồi vỡ ải Đồng-Quan,
Vợ con cách biệt dặm ngàn từ lâu.
Hè này cây cỏ xanh mầu,
Thoát thân, vội chạy quay đầu về tây.
Giầy gai, vào lậy vua ngay,
Áo tay rách cả, để bày khuỷu ra.
Triều đình trông thấy xót xa,
Bạn bè thương lão sao già xấu đi.
Lệ trào nhận chức Thập-Di,
Ơn vua sâu nặng, lấy gì đền đây.
Được thăm nhà cũ, mừng thay,
Vẫn chưa nín miệng, nói ngay tức thì.
Tam-Xuyên, hỏi có chuyện gì,
Nhà còn ở đấy hay đi mất rồi.
Mới nghe gặp nạn đó thôi,
Chó, gà, bị giết, huống người ra sao.
Mái tranh dột nát núi cao,
Có ai tạm đến, ra vào náu nương.
Thông xanh gẫy gục, rễ vương,
Đất còn lạnh lẽo, nắm xương chưa tàn.
Mấy ai giữ mạng cho toàn,
Cả nhà lại được về đoàn tụ nhau.
Núi cao, cọp ở từ lâu,
Ta quay đầu lại, bực hầu muốn điên.
Lá thư tự gửi đi liền,
Đến nay mười tháng, trông biền biệt tăm.
Khi tin tức tới, sợ rằng,
Tấc lòng này có còn chăng không nào.
Vận nhà Hán mới lên cao,
Suốt đời, chén rượu mê sao đến già.
Nghĩ về sum họp vui ca,
Sợ mình vẫn khổ, thân già cô đơn...
Anh-Nguyên    
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.05.2022 10:38:15 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: BÀNH NHA HÀNH - 04.11.2008 08:23:19
 
BÀNH NHA HÀNH
 
彭 衙 行

憶 昔 避 賊 初,
北 走 經 險 艱。
夜 深 彭 衙 道,
月 照 白 水 山。
盡 室 久 徒 步,
逢 人 多 厚 顏。
參 差 谷 鳥 吟,
不 見 遊 子 還。
癡 女 飢 咬 我,
啼 畏 虎 狼 聞。
懷 中 掩 其 口,
反 側 聲 愈 嗔。
小 兒 強 解 事,
故 索 苦 李 餐。
一 旬 半 雷 雨,
泥 濘 相 牽 攀。
既 無 禦 雨 備,
徑 滑 衣 又 寒。
有 時 經 契 闊,
竟 日 數 里 間。
野 果 充 餱 糧,
卑 枝 成 屋 椽。
早 行 石 上 水,
暮 宿 大 邊 煙。
少 留 同 家 窪,
欲 出 蘆 子 關。
故 人 有 孫 宰,
高 義 薄 層 雲。
延 客 已 曛 黑,
張 燈 啟 重 門。
煖 湯 濯 我 足,
剪 紙 招 我 魂。
從 此 出 妻 孥,
相 視 涕 蘭 干。
眾 雛 爛 熳 睡,
喚 起 霑 盤 餐。
誓 將 與 夫 子,
永 結 為 弟 昆。
遂 空 所 坐 堂,
安 居 奉 我 歡。
誰 肯 艱 難 際,
豁 達 露 心 肝。
別 來 歲 日 周,
胡 羯 仍 構 患。
何 當 有 翅 翎,
飛 去 墮 爾 前。

杜 甫
 
Ức tích tị giặc sơ,
Bắc tẩu kinh hiểm gian.
Dạ thâm bành nha đạo,
Nguyệt chiếu bạch thủy sơn.
Tận thất cửu đồ bộ,
Phùng nhân đa hậu nhan.
Sâm si cốc điểu ngâm,
Bất kiến du tử hoàn.
Si nữ cơ giảo ngã,
Đề úy hổ lang văn.
Hoài trung yêm kỳ khẩu,
Phản trắc thanh dũ sân.
Tiểu nhi cưỡng giải sự,
Cố sách khổ lý xan.
Nhất tuần bán lôi vũ,
Nê nính tương khiên phan.
Ký vô ngự vũ bị,
Kính hoạt y hựu hoàn.
Hữu thì kinh khế khoát,
Cánh nhật sổ lý gian.
Dã quả sung hầu lương,
Ty chi thành ốc duyên.
Tảo hành thạch thượng thủy,
Mộ túc thiên biên yên.
Thiểu lưu đồng gia oa,
Dục xuất lô tử quan.
Cố nhân hữu tôn tể,
Cao nghĩa bạc tằng vân.
Diên khách dĩ huân hắc,
Trương đăng khải trùng môn.
Noãn thang trạc ngã túc,
Tiễn chỉ chiêu ngã hồn.
Tòng thử xuất thê noa,
Tương thị thế lan can.
Chúng sồ lạn mạn thụy,
Hoán khởi triêm bàn xan.
Thệ tương dữ phu tử,
Vĩnh kết vi đệ côn.
Toại không sở tọa đường,
An cư phụng ngã hoan.
Thùy khẳng gian nan tế,
Khoát đạt lộ tâm can.
Biệt lai tuế nguyệt chu,
Hồ kiệt nhưng cấu hoạn.
Hà đương hữu xí linh,
Phi khứ trụy nhĩ tiền.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Đường Bành-Nha
 
Nhớ xưa chạy giặc ra đi,
Chạy về phương bắc hiểm nguy vô cùng.
Bành-Nha, đường tối chập chùng,
Trăng soi Bạch-Thủy, đều cùng ra đi.
Gia đình gian khổ sợ chi,
Gặp người quen biết, mặt lì, biết sao.
Trong hang, chim hót ngọt ngào,
Trên đường vắng vẻ, về nào thấy ai.
Gái thơ đói, cắn ta hoài,
Khóc la, lại sợ bao loài cọp, lang.
Bịt mồm, ôm dỗ nhẹ nhàng,
Không nghe, tiếng khóc lại càng dữ hơn.
Bé trai hiểu biết, không hờn,
Đòi ăn mận đắng thay cơm đỡ lòng.
Một tuần mưa, sấm đùng đùng,
Bùn xình, dắt díu, vẫn cùng nhau đi.
Che mưa chẳng có vật gì,
Đường trơn, áo lạnh, bụng thì đói ăn.
Trải bao vất vả nhọc nhằn,
Một ngày vài dặm, bước dần mà đi.
Lương khô, quả dại thiếu gì,
Bẻ cành tạm ở mỗi khi đêm về.
Lội trên suối sớm lạnh ghê,
Chân trời, tối ngủ khói kề ngay bên.
Trũng Đồng-Gia, ghé, đi liền,
Muốn ra Lô-Tử ở miền phía tây.
Ông Tôn-Tể, gặp ở đây,
Con người nghĩa khí như mây giữa trời.
Khách, mời ở lại, tối rồi,
Treo đèn mở cửa, quyết mời vào trong.
Nước đun rửa mặt, chân, xong,
Gọi hồn, cắt giấy, trong lòng mới yên.
Đưa con, vợ, ở chốn riêng,
Nhìn nhau, nước mắt xiên xiên muốn trào.
Bày con trẻ ngủ ngon sao!
Phải lay chúng dạy ngồi vào bữa cơm.
‘‘Xin thày vui vẻ ban ơn:
Kết làm huynh đệ vui buồn có nhau’’.
Nói xong, vội bỏ ra mau,
Để gia đình được cùng nhau xum vầy.
Trong cơn lận đận, ai đây?
Mở toang gan dạ, phơi bầy lòng son.
Biệt nhau, năm tháng đã tròn,
Giặc Hồ như cũ, vẫn còn chưa yên.
Làm sao có cánh bay lên,
Bay đi, đáp xuống ngay liền trước ai...
Anh-Nguyên   
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.05.2022 10:39:24 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: AI GIANG ĐẦU - 04.11.2008 08:31:12
 
AI GIANG ĐẦU       
 
哀 江 頭

少 陵 野 老 吞 生 哭,
春 日 潛 行 曲 江 曲;
江 頭 宮 殿 鎖 千 門,
細 柳 新 蒲 為 誰 綠?
憶 昔 霓 旌 下 南 苑;
苑 中 景 物 生 顏 色。
昭 陽 殿 裡 第 一 人,
同 輦 隨 君 侍 君 側。
輦 前 才 人 帶 弓 箭,
白 馬 嚼 齧 黃 金 勒。
翻 身 向 天 仰 射 雲,
一 箭 正 墜 雙 飛 翼。
明 眸 皓 齒 今 何 在?
血 污 遊 魂 歸 不 得。
清 渭 東 流 劍 閣 深,
去 住 彼 此 無 消 息。
人 生 有 情 淚 沾 臆,
江 水 江 花 豈 終 極?
黃 昏 胡 騎 塵 滿 城,
欲 往 城 南 望 城 北。

杜 甫


Thiếu lăng dã lão thôn thanh khốc,
Xuân nhật tiềm hành khúc giang khúc.
Giang đầu cung điện tỏa thiên môn,
Tế liễu tân bồ vị thùy lục.
Ức tích nghê tinh hạ nam uyển,
Uyển trung vạn vật sinh nhan sắc.
Chiêu dương điện lš đệ nhất nhân,
Đồng liễn tùy quân thị quân trắc.
Liễn tiền tài nhân đái cung tiễn,
Bạch mã tước nghiễn hoàng kim lặc.
Phiên thân hướng thiên ngưỡng xạ vân,
Nhất tiếu chính trụy song phi dực.
Minh mâu hạo xỉ kim hà tại,
Huyết ô du hồn quy bất đắc.
Thanh vị đông lưu kiếm các thâm,
Khứ vãng bỉ thử vô tiêu tức.
Nhân sinh hữu tình lệ triêm ức,
Giang thảo giang hoa khởi chung cực.
Hoàng hôn hồ kỵ trần mãn thành,
Dục vãng thành nam vọng thành bắc.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Thương xót nơi bến sông
 
Thiếu-Lăng, lão khóc âm thầm,
Ngày xuân đi lén đến dần Khúc-Giang.
Bên sông, cung điện chốt ngang,
Vì ai? bồ liễu xuân sang xanh rì.
Nhớ xưa Nam-Uyển vua về,
Trong vườn, hoa cỏ muôn bề tốt tươi.
Điện Chiêu-Dương có một người,
Bên vua hầu hạ, được ngồi xe loan.
Cung tên, thị nữ vai mang,
Trước xe, ngựa trắng nhạc vàng rổn rang.
Nghiêng mình bắn mũi tên vàng,
Cánh hồng rơi xuống, reo vang tiếng cười.
Mắt trong, răng trắng đâu rồi,
Máu đào hoen ố hồn thời về chăng?
Kiếm sâu, Vị chảy băng băng,
Đó đây đi lại, khó lòng biết tin.
Lệ rơi ướt áo nơi tim,
Bên sông hoa, cỏ im lìm, tới đâu?
Bụi tung, ngựa giặc phi mau,
Sang Nam, thành Bắc, ngó màu năm xưa...
Anh-Nguyên              
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.05.2022 10:40:30 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: AI VƯƠNG TÔN - 04.11.2008 08:49:20
 
AI VƯƠNG TÔN            

哀 王 孫

長 安 城 頭 頭 白 烏,
夜 飛 延 秋 門 上 呼;
又 向 人 家 啄 大 屋,
屋 底 達 官 走 避 胡。
金 鞭 斷 折 九 馬 死,
骨 肉 不 待 同 馳 驅。
腰 下 寶 玦 青 珊 瑚,
問 之 不 肯 道 姓 名,
但 道 困 苦 乞 為 奴。
已 經 百 日 竄 荊 棘,
身 上 無 有 完 肌 膚。
高 帝 子 孫 盡 隆 準,
龍 種 自 與 常 人 殊。
豺 狼 在 邑 龍 在 野,
王 孫 善 保 千 金 軀。
不 敢 長 語 臨 交 衢,
且 為 王 孫 立 斯 須。
昨 夜 東 風 吹 血 腥,
東 來 橐 駝 滿 舊 都。
朔 方 健 兒 好 身 手,
昔 何 勇 銳 今 何 愚? 
竊 聞 天 子 已 傳 位,
聖 德 北 服 南 單 于。
花 門 剺 面 請 雪 恥,
慎 勿 出 口 他 人 狙。
哀 哉 王 孫 慎 勿 疏,
五 陵 佳 氣 無 時 無。

杜 甫

Trường an thành đầu đầu bạch ô,
Dạ phi diên thu môn thượng hô.
Hựu hướng nhân gia trác đại ốc,
Ốc để đạt quan tẩu tỵ hồ.
Kim tiên đoạn chiết cửu mã tử,
Cốt nhục bất đắc đồng trì khu.
Yêu hạ bảo quyết thanh san hô,
Khả liên vương tôn khấp lộ ngu.
Vấn chi bất khẳng đạo tính danh,
Đãn đạo khốn khổ khất vi nô.
Dĩ kinh bách nhật thoán kinh cức,
Thân thượng vô hữu hoàn cơ phu.
Cao đế tử tôn tận long chuẩn,
Long chủng tự dữ thường nhân thù.
Sài lang tại ấp long tại dã,
Vương tôn thiện bảo thiên kim khu.
Bất cảm trường ngữ lâm giao cù,
Thả vị vương tôn lập tư tu.
Tạc dạ đông phong xuy huyết tinh,
Đông lai thác đà mãn cựu đô.
Sóc phương kiện nhi hảo thân thủ,
Tích hà dũng nhuệ kim hà ngu.
Thiết văn thiên tử dĩ truyền vị,
Thánh đức bắc phục nam thiền vu.
Hoa môn ly diện thỉnh tuyết sỷ,
Thận vật xuất khẩu tha nhân thư.
Ai tai vương tôn thận vật sơ,
Ngũ lăng giai khí vô thì vô.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Buồn cho cháu vua
 
Trường-An đầy quạ bạc đầu,
Diên-Thu, trên cổng, đêm thâu kêu dài.
Đến nhà to lớn mổ hoài,
Lánh Hồ quan chạy, còn ai ở lầu.
Roi vàng gẫy, ngựa chết đâu,
Vội vàng, ruột thịt cùng nhau chẳng chờ.
Lưng đeo ngọc quý san hô,
Góc đường khóc vụng, thẫn thờ cháu vua.
Hỏi tên, dấu diếm chẳng thưa,
Than rằng khổ sở, chỉ ưa làm hầu.
Bụi gai, trốn chẳng ló đầu,
Trên thân, da thịt chẳng đâu được lành.
Giống vua cái mũi rành rành,
Nòi rồng cùng với dân lành khác xa.
Rồng ẩn ruộng, sói ở nhà,
Giữ thân cẩn thận, rồi ra ngàn vàng.
Dài dòng, chẳng tiện giữa đàng,
Vì vương tôn, nóì vội vàng vài câu.
Máu tanh gió thổi từ đâu,
Lạc đà, đông đến, trước sau khắp thành.
Trai Bắc, sức mạnh nổi danh,
Sao xưa dũng mãnh, giờ thành yếu đi.
Nghe vua truyền kẻ kế vì,
Thiền Vu phục Hán còn gì ngại đâu.
Hoa-Môn, rửa nhục, thỉnh cầu,
Miệng nên cẩn thận, biết đâu người rình.
Ôi! vương tôn chớ coi khinh,
Ngũ-Lăng, khí đẹp thường sinh mọi thời...
Anh-Nguyên             
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.05.2022 10:41:30 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: BẮC CHINH - 04.11.2008 19:06:20
 
BẮC CHINH     

北 征

皇 帝 二 载 秋, 闰 八 月 初 吉。
杜 子 将 北 征, 苍 茫 问 家 室。
维 时 遭 艰 虞, 朝 野 少 暇 日。
顾 惭 恩 私 被, 诏 许 归 蓬 荜。
拜 辞 诣 阙 下, 怵 惕 久 未 出。
虽 乏 谏 诤 姿, 恐 君 有 遗 失。
君 诚 中 兴 主, 经 纬 固 密 勿。
东 胡 反 未 已, 臣 甫 愤 所 切。
挥 涕 恋 行 在, 道 途 犹 恍 惚。
乾 坤 含 疮 痍, 忧 虞 何 时 毕!
靡 靡 逾 阡 陌, 人 烟 眇 萧 瑟。
所 遇 多 被 伤, 呻 吟 更 流 血。
回 首 凤 翔 县, 旌 旗 晚 明 灭。
前 登 寒 山 重, 屡 得 饮 马 窟。
邠 郊 入 地 底, 泾 水 中 荡 潏。
猛 虎 立 我 前, 苍 崖 吼 时 裂。
菊 垂 今 秋 花, 石 戴 古 车 辙。
青 云 动 高 兴, 幽 事 亦 可 悦。
山 果 多 琐 细, 罗 生 杂 橡 栗。
或 红 如 丹 砂, 或 黑 如 点 漆。
雨 露 之 所 濡, 甘 苦 齐 结 实。
缅 思 桃 源 内, 益 叹 身 世 拙。
坡 陀 望 鄜 畤, 岩 谷 互 出 没。
我 行 已 水 滨, 我 仆 犹 木 末。
鸱 鸟 鸣 黄 桑, 野 鼠 拱 乱 穴。
夜 深 经 战 场, 寒 月 照 白 骨。
潼 关 百 万 师, 往 者 散 何 卒?
遂 令 半 秦 民, 残 害 为 异 物。
况 我 堕 胡 尘, 及 归 尽 华 发。 
经 年 至 茅 屋, 妻 子 衣 百 结。
恸 哭 松 声 回, 悲 泉 共 幽 咽。
平 生 所 娇 儿, 颜 色 白 胜 雪。
见 爷 背 面 啼, 垢 腻 脚 不 袜。
床 前 两 小 女, 补 绽 才 过 膝。
海 图 坼 波 涛, 旧 绣 移 曲 折。
天 吴 及 紫 凤, 颠 倒 在 裋 褐。
老 夫 情 怀 恶, 呕 泄 卧 数 日。
那 无 囊 中 帛, 救 汝 寒 凛 栗。
粉 黛 亦 解 包, 衾 裯 稍 罗 列。
瘦 妻 面 复 光, 痴 女 头 自 栉。
学 母 无 不 为, 晓 妆 随 手 抹。
移 时 施 朱 铅, 狼 藉 画 眉 阔。
生 还 对 童 稚, 似 欲 忘 饥 渴。
问 事 竞 挽 鬚, 谁 能 即 嗔 喝?
翻 思 在 贼 愁, 甘 受 杂 乱 聒。
新 归 且 慰 意, 生 理 焉 得 说!
至 尊 尚 蒙 尘, 几 日 休 练 卒?
仰 观 天 色 改, 坐 觉 妖 氛 豁。
阴 风 西 北 来, 惨 澹 随 回 纥。
其 王 愿 助 顺, 其 俗 善 驰 突。
送 兵 五 千 人, 驱 马 一 万 匹。
此 辈 少 为 贵, 四 方 服 勇 决。
所 用 皆 鹰 腾, 破 敌 过 箭 疾。
圣 心 颇 虚 伫, 时 议 气 欲 夺。
伊 洛 指 掌 收, 西 京 不 足 拔。
官 军 请 深 入, 蓄 锐 伺 俱 发。
此 举 开 青 徐, 旋 瞻 略 恒 碣。
昊 天 积 霜 露, 正 气 有 肃 杀。
祸 转 亡 胡 岁, 势 成 擒 胡 月。
胡 命 其 能 久, 皇 纲 未 宜 绝。
忆 昨 狼 狈 初, 事 与 古 先 别。 
奸 臣 竟 菹 醢, 同 恶 随 荡 析。
不 闻 夏 殷 衰, 中 自 诛 褒 妲。
周 汉 获 再 兴, 宣 光 果 明 哲。
桓 桓 陈 将 军, 仗 钺 奋 忠 烈。
微 尔 人 尽 非, 于 今 国 犹 活。
凄 凉 大 同 殿, 寂 寞 白 兽 闼。
都 人 望 翠 华, 佳 气 向 金 阙。
园 陵 固 有 神, 扫 洒 数 不 缺。
煌 煌 太 宗 业, 树 立 甚 宏 达。

杜 甫 
 
Hoàng đế nhị tải thu,
Nhuận bát nguyệt sơ cát.
Đỗ tử tương bắc chinh,
Thương mang vấn gia thất.
Duy thì tao gian ngu,
Triều dã thiểu hạ nhật.
Cố tàm ân tư bị,
Chiếu hứa quy bồng tất.
Bái từ nghệ khuyết hạ,
Truật dịch cửu vi xuất.
Tuy pháp gián tránh tư,
Khủng quân hữu di thất.
Quân thành trung hưng chủ,
Kinh vĩ cố mật vật.
Đông hồ phản vị dĩ,
Thần phủ phẫn sở thiết.
Huy thế luyến hành tại,
Đạo đồ do hoảng hốt.
Càn khôn hàm sang di,
Ưu ngu hà thì tất.
Mỹ mỹ du thiên mạch,
Nhân yên diểu tiêu sắt.
Sơ ngộ đa bi thương,
Thán ngâm cánh lưu huyết.
Hồi thủ phượng tường huyện,
Tinh kỳ vãn minh diệt.
Tiền đăng hàn sơn trùng,
Lũ đắc ẩm ma quật.
Mân giao nhập địa để,
Kính thủy trung đãng duật.
Mãnh hổ lập ngã tiền,
Thương nhai hống thì liệt.
Cúc thùy kim thu hoa,
Thạch đới cổ xa triệt.
Thanh vân động cao hứng,
U sự diệc khả duyệt.
Sơn quả đa tỏa tế,
La sinh tạp tượng lật.
Hoặc hồng như đan sa,
Hoặc hắc như điểm tất.
Vũ lộ chi sở nhu,
Cam khổ tề kết thực.
Miến tư đào nguyên nội,
Ích thán thân thế chuyết.
Pha đà vọng phu trĩ,
Nham cốc hỗ xuất một.
Ngã hành dĩ thủy tân,
Ngã bộc do mộc mạt.
Chi điểu minh hoàng tang,
Dã thử củng loạn huyệt.
Dạ tâm kinh chiến trường,
Hàn nguyệt chiếu bạch cốt.
Đồng quan bách vạn sư,
Vãng giả tán hà tốt.
Toại linh bán tần dân,
Tàn hại vi dị vật.
Huống ngã trụy hồn trần,
Cập quy tẫn hoa phát.
Kinh niên chí mao ốc,
Thê tử y bách kết.
Đỗng khốc tùng thanh hồi,
Bi tuyền cộng u yết.
Bình sinh sở kiêu nhi,
Nhan sắc bạch thắng tuyết.
Kiến gia bội diện đề,
Cấu nhị cước bất miệt.
Sàng tiền lưỡng tiểu nữ,
Bổ dĩnh tài quá tất.
Hải đồ chiết ba đào,
Cựu tú di khúc chiết.
Thiên ngô cập tử phụng,
Điên đảo tại đoản cát.
Lão phu tình hoài ác,
Ẩu tiết ngọa sổ nhật.
Na vô nang trung bạch,
Cứu nhữ hàn lẫm lật.
Phấn đại diệc giải bao,
Khâm trù xảo la liệt.
Sấu thê diện phục quang,
Si nữ đầu tự trất.
Học mẫu vô bất vi,
Hiểu trang tùy thủ mạt.
Di thì chi chu duyên,
Lang tạ họa mi khoát.
Sinh hoàn đối đồng trĩ,
Tự dục vong cơ khát.
Vấn sự cạnh vãn tu,
Thùy năng tức sân hát.
Phiên tư tại tặc sầu,
Cam thụ tạp loạn quát.
Tân quy thả uý ý,
Sinh lý yên đắc thuyết.
Chí tôn thượng mông trần,
Kỷ nhật hưu luyện tốt.
Ngưỡng quan thiên sắc cải,
Tọa giác yêu phân khoát.
Âm phong tây bắc lai,
Thảm đạm tùy hồi hột.
Kỳ vương nguyện trợ thuận,
Kỳ tục thiện trì đột.
Tống binh ngũ thiên nhân,
Khu mã nhất vạn thất.
Thử bối thiểu vi quý,
Tứ phương phục dũng quyết.
Sở dụng giai ưng đẳng,
Phá địch quá tiễn tật.
Thánh tâm phả hư trữ,
Thì nghị khí dục đoạt.
Y lạc chỉ chưởng thu,
Tây kinh bất túc bạt.
Quan quân thỉnh thâm nhập,
Súc nhuệ khả câu phát.
Thử cử khai thanh từ,
Tuyền chiêm lược hằng kiệt.
Hiệu thiên tích sương lộ,
Chính khí hữu túc sát.
Họa chuyển vong hồ tuế,
Thế thành cầm hồ nguyệt.
Hồ mệnh kỳ năng cửu,
Hoàng cương vị nghi tuyệt.
Ức tích lang bối sơ,
Sự dữ cổ tiên biệt.
Gian thần cánh thư hải,
Đồng ác tùy đãng tích.
Bất văn hạ ân suy,
Trung tự chu bao đát.
Chu hán hoạch tái hưng,
Tuyên quang quả minh triết.
Hoàn toàn trần tướng quân,
Trượng việt phấn trung liệt.
Vi nhĩ nhân tận phi,
Ư kim quốc do hoạt.
Thê lương đại đồng điện,
Tịch mịch bạch thú thát.
Đô nhân vọng thúy hoa,
Giai khí hướng kim khuyết.
Viên lăng cố hữu thần,
Tảo sái sơ bất khuyết.
Hoàng hoàng thái tông nghiệp,
Thụ lập thậm hoằng đạt.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Lên miền bắc

Mùa Thu Chí-Đức thứ nhì,
Nhuận hai tháng tám, sớm đi an lành.
Đỗ đi miền bắc mới đành,
Vội vàng thu xếp về nhanh thăm nhà.
Gặp thời buổi khó, đường xa,
Triều đình, thôn xóm, ai mà nhàn đâu.
Ngoảnh đầu, thẹn với ân sâu,
Chiếu cho nghỉ phép về lâu thăm nhà.
Cung vua, lễ biệt đi xa,
Nghĩ suy, lo lắng, ngẩn ra không về.
Can ngăn, cân nhắc mọi bề,
Lỡ vua sơ sót, lời quê vắng rồi.
Vua trung hưng, quả đúng thôi,
Kỷ cương nắm vững, tính thời lại siêng.
Phía đông, Hồ phản chưa yên,
Phủ này tức giận muốn điên cả người.
Hành cung, quyến luyến lệ rơi,
Đường đi, hoảng hốt, tâm thời chưa yên.
Nước non thương tích triền miên,
Bao giờ lo sợ buồn phiền hết đây.
Bước theo bờ ruộng cỏ đầy,
Xóm thưa nhà ít, khói bay tiêu điều.
Bị thương, ta gặp phần nhiều,
Vết thương máu rỉ, than kêu não nùng.
Phượng-Tường, chợt ngoảnh lại trông,
Chiều, cờ ẩn hiện, lúc không thấy gì.
Núi non trùng điệp khó đi,
Vũng cho ngựa uống còn ghi dấu đầy.
Đồng Mân tựa đáy đất này,
Sông Kinh cuộn chảy ở ngay giữa đồng.
Hổ kia đứng trước ta trông,
Gầm vang, tưởng núi tét không còn lành.
Thu này cúc đã nở nhanh,
Đá còn mang dấu rành rành xe xưa.
Mây xanh gợi hứng hồn thơ,
Cảnh trông u tĩnh thật vừa lòng thay.
Núi non, quả nhỏ tí này,
Trổ ra la liệt, lẫn ngay lật vào.
Hoặc hồng, hoặc giống son sao,
Hoặc đen, thực chẳng khác nào phết sơn.
Móc mưa làm ẩm ướt hơn,
Ngọt hay đắng chát cũng đơm trái liền.
Xa xôi, nghĩ đến Đào-Nguyên,
Cảm thương vụng dại cho nên nỗi này.
Châu Phu, đàn tế còn đây,
Núi, hang, khuất hiện đổi thay nhau hoài.
Đã gần bến nước chẳng sai,
Gã hầu còn ở đầu vài ngọn cây.
Cú kêu, dâu úa vàng đầy,
Chuột đồng xúm xít cả bầy trước hang.
Đêm khuya, qua chiến trường hoang,
Trăng soi sương trắng ngổn ngang lạnh lùng.
Đồng-Quan, trăm vạn quân hùng,
Một ngày tan tác, lạ lùng, buồn thay.
Khiến dân nửa nước Tần này,
Chết thành ma quỷ, nơi đây vật vờ.
Ta chìm trong gió bụi Hồ,
Kịp về, tóc đã bạc phơ mái đầu.
Về căn nhà cỏ bỏ lâu,
Vợ con, áo vá tới đâu trăm lần.
Khóc vang hòa tiếng thông gần,
Suối buồn tuôn chẩy trước sân nghẹn ngào.
Trai ta trước đẹp thế nào,
Mặt giờ trắng bệch tuyết sao sánh bằng.
Thấy cha, quay mặt khóc ròng,
Chân không, cáu ghét, chạnh lòng xót xa.
Trước giường, hai gái nhỏ ta,
Áo chằng đụp vá, phủ qua gối gầy.
Xé tranh biển sóng vá đây,
Tấm thêu, gẫy khúc vá nay khó nhìn.
Con nghê và phượng nằm im,
Đầu xuôi đuôi ngược vá lên áo này.
Thân già lại bệnh, khổ thay,
Tiêu và ói mửa vài ngày đã qua.
Biết sao! túi chẳng lụa là,
Cứu con run lạnh lấy ra tức thời.
Mở bao, toàn phấn son thôi,
Trải mền, bày khắp mọi nơi trên giường.
Vợ gầy tươi tắn khác thường,
Gái khờ tự lấy lược gương chải đầu.
Làm theo mẹ, sót gì đâu,
Sáng ra trang điểm, lau lau chùi chùi.
Điểm son chốc chốc làn môi,
Chân mày vẽ đậm quá rồi, con ơi!
Sống về thấy trẻ vui ôi,
Như quên đói khát mất rồi còn đâu.
Hỏi han, con cứ kéo râu,
Hỏi ai có thể nói câu nặng lời.
Buồn trong vùng giặc một thời,
Đành cho con cái vui chơi ồn ào.
Mới về, an ủi phần nào,
Mưu sinh, biết nói được sao lúc này.
Nhà vua còn vất vả thay,
Luyện rèn binh mã, mấy ngày nghỉ ngơi!
Ngẩng nhìn trời đổi sắc rồi,
Ngồi nhìn yêu khí khắp nơi tỏa đầy.
Gió miền tây bắc về đây,
Đi theo Hồi-Hột, tràn đầy thê lương.
Vua kia hứa giúp mọi đường,
Chuyên về cưỡi ngựa và thường đánh nhanh.
Giao năm nghìn lính đánh rành.
Ngựa đưa một vạn, tập tành đã lâu.
Người ít, tinh nhuệ làm đầu,
Anh hùng, cương quyết, đâu đâu cũng mừng.
Dùng quân nhanh tựa chim ưng,
Phá tan quân địch nhanh chừng tên bay.
Nhà vua tin tưởng quá thay!...
Những lời bàn tán lúc này dẹp đi.
Thâu Y, Lạc, được tức thì,
Tây-Kinh, lấy lại có gì khó đâu.
Quan quân xin được tiến sâu,
Bao lâu rèn luyện bắt đầu tiến lên.
Thanh, Từ, tiến đánh trước tiên,
Quay về, Hằng, Kiệt, chiếm liền cho xong.
Trời quang chứa móc ở trong,
Cho nên chính khí lúc trong, khi mờ.
Họa từ năm đánh giặc Hồ,
Thế thành vào tháng giặc Hồ diệt vong.
Giặc Hồ số mạng dài chăng?!
Kỷ cương vua, chớ tưởng rằng dứt đâu.
Nhớ khi loạn lạc bắt đầu,
Tuy so truyện cổ khác nhau ít nhiều.
Gian thần, kết cục đều tiêu,
Tay chân bị đẩy đến nhiều miền xa.
Không nghe Ân, Hạ, suy à,
Đát, Bao, đều bị trong nhà giết nhau.
Hán, Chu, hưng thịnh lại mau,
Tuyên, Quang, sáng suốt như nhau, bậc hiền.
Tướng quân Trần thật oai nghiêm,
Khiến người trung liệt càng lên tinh thần.
Không ông, còn khổ người dân,
Nhờ ông, đất nước dần dần hồi sinh.
Đại-Đồng ủ rũ in hình,
Lại nhìn Bách-Thú riêng mình đứng im.
Dân kinh, cờ thúy ngóng nhìn,
Những làn khí vượng hướng kim khuyết tràn.
Vườn, lăng, thần vẫn an toàn,
Quét lau, chùi rửa, phải làm, thiếu sao?
Thái-Tông, nghiệp sáng biết bao,
Như cây hùng vĩ vút cao giữa trời...
Anh-Nguyên                                                 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.05.2022 10:51:45 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: HOẠ BÙI ĐỊCH ĐĂNG THỤC CHÂU ĐÔNG ĐÌNH TỐNG KHÁCH - 04.11.2008 19:52:21
  
HỌA BÙI ĐỊCH ĐĂNG THỤC CHÂU
ĐÔNG ĐÌNH TỐNG KHÁCH
 
和 裴 迪 登 蜀 州 東 亭 送 客
 
東 閣 官 梅 動 詩 興,
還 如 何 遜 在 揚 州。
此 時 對 雪 遙 相 憶,
送 客 逢 春 可 自 由?
幸 不 折 來 傷 歲 暮,
若 為 看 去 亂 鄉 愁。
江 邊 一 樹 垂 垂 發,
朝 夕 催 人 自 白 頭。   
杜 甫
 
Đông các quan mai động thi hứng,
Hoàn như hà tốn tại dương châu.
Thử thì đối tuyết dao tương ức,
Tống khách phùng xuân khả tự do.
Hạnh bất chiết lai thương tuế mộ,
Nhược vi khan khứ loạn hương sầu.
Giang biên nhất thụ thùy thùy phát,
Triêu dịch thôi nhân tự bạch đầu.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Họa bài ‘‘Lên đình phía đông ở
Thục-Châu tiễn khách’’ của Bùi-Địch
 
Gác đông, mai gợi ý thơ,
Dương-Châu, Hà-Tốn, bây giờ khác đâu.
Xa xôi nhìn tuyết nhớ nhau,
Tiễn đưa khách, đã bắt đầu vào Xuân.
Nay cành chẳng bẻ tiễn chân,
Nếu không, nhìn thấy muôn phần nhớ quê.
Bên sông hoa nở xum xuê,
Sớm, hôm, khiến kẻ xa quê bạc đầu...
Anh-Nguyên       

 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 18:59:25 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: NHẤT BÁCH NGŨ THẬP DẠ ĐỐI NGUYỆT - 04.11.2008 20:05:18
 
NHẤT BÁCH NGŨ THẬP
DẠ ĐỐI NGUYỆT
 
一 百 五 十 夜 望 月

無 家 對 寒 食﹐
有 淚 如 金 波。
斫 卻 月 中 桂﹐
清 光 應 更 多。
仳 離 放 紅 蕊,
想 像 嚬 青 蛾。
牛 女 漫 愁 思,
秋 期 猶 渡 河。
     
杜 甫
 
Vô gia đối hàn thực,
Hữu lệ như kim ba.
Chước khước nguyệt trung quế,
Thanh quang ưng cánh đa.
Tỷ ly phóng hồng nhụy,
Tưởng tượng tần thanh nga.
Ngưu nữ mạn sầu tứ,
Thu kỳ do độ hà.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Đêm thứ một trăm
mười lăm ngắm trăng
 
Tiết hàn thực tới, không nhà,
Sóng vàng nước mắt chảy ra đầm đìa.
Trong trăng, chặt được quế kia,
Sáng, còn rực rỡ tràn trề gương nga.
Nhị hồng thưa ở trong hoa,
Tưởng rằng ly biệt người ta chau mày.
Ngưu-Lang, Chức-Nữ sầu đầy,
Sông Ngân, Thu tới nơi này hẹn nhau...
Anh-Nguyên
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:00:46 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: HOẠ GIẢ XÁ NHÂN TẢO TRIỀU - 04.11.2008 20:08:52
 
HỌA GIẢ XÁ NHÂN TẢO TRIỀU 
 
和 賈 至 舍 人 早 朝

五 夜 漏 聲 催 曉 箭
九 重 春 色 醉 仙 棑
旌 旗 日 煖 龍 蛇 動
宮 殿 風 微 燕 雀 高
朝 罷 香 煙 攜 滿 袖
詩 成 珠 玉 在 揮 毫
欲 知 世 掌 絲 綸 美
池 上 於 今 有 鳳 毛
杜 甫


Ngũ dạ lậu thanh thôi hiểu tiễn,
Cửu trùng xuân sắc túy tiên đào.
Tinh kỳ nhật noãn long xà động,
Cung điện phong vi yến tước cao.
Triêu bãi hương yên huề mãn tụ,
Thi thành châu ngọc tại huy hào.
Dục tri thế chưởng ti luân mỹ,
Trì thượng ư kim hữu phượng mao.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Họa bài ‘‘Chầu sớm’’của xá nhân Giả-Chi
 
Canh năm giục báo lên vua,
Mặt rồng tươi thắm như mùa đào tiên.
Cờ bay, trời ấm, rồng lên,
Trước cung gió mát, trên thềm yến bay.
Tan chầu, hương ngát áo này,
Dứt thơ, tiếng ngọc reo ngay bút rồi.
Ti luân vẻ đẹp truyền đời.
Lông chim phượng có trên nơi ao này...
Anh-Nguyên           
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:02:54 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: LÝ TƯ MÃ ĐỀ SƠN THUỶ ĐỒ - 04.11.2008 20:44:25
 
QUAN LÝ CỐ THỈNH TƯ MÃ ĐỆ
SƠN THỦY ĐỒ
 
觀 李 固 請 司 馬 弟 山 水 圖 其 二
 
方 丈 渾 連 水,
天 台 總 映 雲。
人 間 長 見 畫,
老 去 恨 空 聞。
范 蠡 舟 偏 小,
王 喬 鶴 不 群。
此 生 隨 萬 物,
何 路 出 塵 氛。
 
Phương trượng hỗn liên thủy,
Thiên đài tổng ánh vân.
Nhân gian trường kiến họa,
Lão khứ hận không văn.
Phạm lãi chu biển tiểu,
Vương kiều hạc bất quần.
Thử sinh tùy vạn vật,
Hà xứ xuất trần phân.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Xem tranh sơn thủy của em Tư-mã Lý Cố Thỉnh
 
Phòng tăng liền với nước xanh,
Thiên-Đài sáng bởi chung quanh mây vờn.
Người đời còn thấy tranh luôn,
Già rồi chẳng thấy, nghe muôn hận lòng.
Thuyền nhỏ, Phạm-Lãi thong dong,
Vương-Kiều, hạc chẳng sống trong một bầy.
Theo muôn vật ở đời này,
Nơi nào mà chẳng vướng ngay bụi trần...
Anh-Nguyên
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:03:54 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: MỘ ĐĂNG TÂY AN TỰ CHUNG LÂU KÝ BÙI THẬP ĐỊCH - 04.11.2008 21:24:35
 
MỘ ĐĂNG TÂY AN TỰ CHUNG LÂU
KÝ BÙI THẬP ĐỊCH
 
暮 登 西 安 寺 鍾 樓 寄 裴 十 迪

暮 倚 高 樓 對 雪 峰,
僧 來 不 語 自 鳴 鍾。
孤 城 返 照 紅 將 斂,
近 市 浮 煙 翠 且 重。
多 病 獨 愁 常 闃 寂,
故 人 相 見 未 從 容。
知 君 苦 思 緣 詩 瘐,
大 向 交 遊 萬 事 慵。

杜 甫
 
Mộ ỷ cao lâu đối tuyết phong,
Tăng lai bất ngữ tự minh chung.
Cô thành phản chiếu hồng tương liễm,
Cận thị phù yên thúy thả trùng.
Đa bệnh độc sầu thường khuých tịch,
Cố nhân tương kiến vị thung dung.
Tri quân khổ tứ duyên thi sấu,
Đại hướng giao du vạn sự dung.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Chiều lên gác chuông chùa Tây-An,
Gửi ông mười Bùi-Địch
 
Lầu cao, chiều núi tuyết đầy,
Bước lên chẳng nói, tự thầy thỉnh chuông.
Thành cô vạt nắng chiều buông,
Chợ gần, khói biếc đang tuôn mịt mờ.
Bệnh nhiều, buồn nghĩ vẩn vơ,
Bạn xưa gặp gỡ, vẫn chờ, thấy đâu!
Bác đang tìm ý nhức đầu,
Giao du cho thỏa, rồi đâu cũng thành...
Anh-Nguyên
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:05:26 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: TÁI XUẤT KIM QUANG MÔN - 04.11.2008 21:41:17
 
NHÂN XUẤT KIM QUANG MÔN, HỮU BI VÃNG SỰ
 
至 德 二 載,甫 自 京 金 光 門 出,間 道 歸 鳳 翔,
乾 元 初 從 左 拾 遺 移 華 州 掾,與親 故 別,
因 出 此 門,有 悲 往 事 .

此 道 昔 歸 順,
西 郊 胡 正 繁。
至 今 殘 破 膽,
應 有 未 招 魂。
近 得 歸 京 邑,
移 官 豈 至 尊。
無 才 日 衰 老,
駐 馬 望 千 門。
 
Chí Đức nhị tải, Phủ tự kinh Kim Quang môn xuất, gian đạo quy Phụng Tường,
Càn Nguyên sơ tòng Tả thập di di Hoa Châu duyện, dữ thân cố biệt,
nhân xuất thử môn, hữu bi vãng sự
 
Thử đạo tích quy thuận,
Tây giao hồ chính phồn.
Chí kim tàn phá đảm,
Ưng hữu vị chiêu hồn.
Cận thị quy kinh ấp,
Di quan khởi chí tôn.
Vô tài nhật suy lão,
Thú mã vọng thiên môn.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Nhân qua cửa Kim Quang nhớ chuyện cũ
(Năm Chí Đức thứ 2, từ kinh đô, qua cửa Kim Quang triều vua mới ở Phụng Tường,
năm đầu Càn Nguyên, bị giáng từ Tả thập di làm quan nhỏ ở Hoa Châu,
từ biệt người thân, nhân qua cửa này, nhớ chuyện cũ)
 
Đường này, xưa đã theo về,
Miền tây, Hồ lại tính bề loạn ly.
Đến nay mật nát còn gì,
Hồn còn tan tác chờ khi trở về.
Gần thì làng xóm kinh kỳ,
Làm quan xa, ấy cũng tùy lệnh vua.
Không tài, ngày một già nua,
Ngựa dừng, đứng ngắm kinh đô ngàn nhà...
Anh-Nguyên
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2019 16:28:39 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: VỌNG DÃ - 04.11.2008 22:00:35
 
DÃ VỌNG

野 望
 
清 秋 望 不 极,
迢 遞 起 層 陰。
遠 水 兼 天 淨,
孤 城 隱 霧 深。
葉 稀 風 更 落,
山 迥 日 初 沈。
獨 鶴 歸 何 晚?
昏 鴉 已 滿 林。
 
杜 甫

Thanh thu vọng bất cập,
Thiều đệ khởi tằng âm.
Viễn thûy kiêm thiên tïnh,
Cô thành ẩn vụ thâm.
Diệp hy phong cánh lạc,
Sơn quýnh nhật sơ trầm.
Độc hạc quy hà vãn,
Hôn nha dĩ mãn lâm.
Đỗ-Phủ           
 
Dịch:
 
Ngắm cánh đồng
 
Thu trong, hướng bắc ngút trông,
Xa xăm đã nổi những tầng âm u.
Nước xa in sắc trời Thu,
Nơi thành quạnh quẽ mây mù bủa vây.
Lá còn chút ít, gió lay,
Mặt trời xa tít núi tây, chìm dần.
Hạc về, sao trễ, một thân?
Đầy rừng quạ đậu, xa gần khắp nơi...
Anh-Nguyên     
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.04.2022 16:43:21 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: XUÂN TRỰC TẢ TỈNH - 04.11.2008 22:44:13
 
XUÂN TRỰC TẢ TỈNH          

春 宿 左 省

花 隱 掖 垣 暮,
啾 啾 棲 鳥 過。
星 臨 萬 戶 動,
月 傍 九 霄 多。
不 寢 聽 金 鑰,
因 風 想 玉 珂。
明 朝 有 封 事,
數 問 夜 如 何。

 
杜 甫
 
Hoa ẩn dịch viên mộ,
Thu thu thê điểu qua.
Tinh lâm vạn hộ động,
Nguyệt bạng cửu tiêu đa.
Bất tẩm thính kim thược,
Nhân phong tưởng ngọc kha.
Minh triêu hữu phong sự,
Sổ vấn dạ như hà.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Xuân trực ở Tả tỉnh
 
Chiều về, hoa núp vườn cung,
Vù vù, chim đến đậu cùng vườn đây.
Vạn nhà lấp lánh sao đầy,
Vầng trăng rọi chín tầng mây chập chùng.
Khoá vàng, chẳng ngủ, nghe rung,
Gió như nhạc ngựa chập chùng nơi đâu.
Sớm, đem bài tấu vào chầu,
Vua rằng: ''Đêm có gì đâu, hãy trình.''
Anh-Nguyên      
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.10.2016 04:25:10 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: TRÚ MỘNG - 04.11.2008 22:54:31
 
TRÚ MỘNG
 
晝 夢
 
二 月 饒 睡 昏 昏 然,
不 獨 夜 短 晝 分 眠。
桃 花 氣 暖 眼 自 醉,
春 渚 日 落 夢 相 牽。
故 鄉 門 巷 荊 棘 底,
中 原 君 臣 豺 虎 邊。
安 得 務 農 息 戰 鬥,
普 天 無 吏 橫 索 錢。
杜 甫
 
Nhị nguyệt nhiêu thụy hôn hôn nhiên,
Bất độc dạ đoản trú phân miên.
Đào hoa khí noãn nhãn tự túy,
Xuân chử nhật lạc mộng tương khiên.
Cố hương môn hạng kinh cức để,
Trung nguyên quân thần sài hổ biên.
An đắc vụ nông tức chiến đấu,
Phổ thiên vô lại hoành sách tiền.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Giấc mộng ngày
 
Tháng hai, mê mệt ngủ say,
Chẳng vì đêm ngắn, ngủ ngày bù đâu.
Hoa đào trời ấm say nhau,
Chiều Xuân bến nước mộng đâu đến liền.
Nhà xưa, gai, cỏ, phủ lên,
Trung nguyên, tôi, chúa, ở bên sói, hùm.
Sao yên, trồng cấy sớm hôm,
Không còn quan lại chuyên môn ăn tiền...
Anh-Nguyên              
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:17:23 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: ĐẮC XÁ ĐỆ QUAN THƯ - 04.11.2008 23:02:16
 
ĐẮC XÁ ĐỆ QUAN THƯ
 
得 舍 弟 觀 書,
 
爾 到 江 陵 府,
何 時 到 峽 州。
亂 難 生 有 別,
聚 集 病 應 瘳。
颯 颯 開 啼 眼,
朝 朝 上 水 樓。
老身 須 付 托,
白 骨 更 懮。
杜 甫
 
Nhĩ đáo giang lăng phủ,
Hà thì đáo giáp châu.
Loạn ly sinh hữu biệt,
Tụ tập bệnh ưng sưu.
Táp táp khai đề nhãn,
Triêu triêu thướng thủy lâu.
Lão thân tu ký thác,
Bạch cốt cánh vô ưu.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Được thư em Quan
 
Giang-Lăng, em đã đến rồi,
Giáp-Châu, em sẽ tới nơi khi nào?
Loạn ly, sống phải xa nhau,
Khi nào sum họp, hết đau hết buồn.
Chớp đôi mắt, lệ trào tuôn,
Lên lầu mỗi sớm, buồn buồn nhìn sông.
Thân già có chỗ cậy trông,
Hết lo xương trắng bỏ không ai nhìn...
Anh-Nguyên
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:18:43 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: BẠT MUỘN - 04.11.2008 23:08:54
 
BẠT MUỘN
 
撥 悶

聞 道 雲 安 麴 米 春,
才 傾 一 盞 即 醺 人.
乘 舟 取 醉 非 難 事,
下 峽 銷 愁 定 幾 巡.
長 年 三 老 遙 憐 汝,
捩 柁 開 頭 捷 有 神.
已 辨 青 錢 防 雇 直,
當 今 美 味 入 吾 脣.

 杜 甫

Văn đạo vân an khúc mễ xuân,
Tài khuynh nhất trản tức huân nhân.
Thừa chu thủ túy phi nan sự,
Há giáp tiêu sầu định kỷ tuần.
Trưởng niên tam lão dao lân nhữ,
Lệ đà khai đầu tiệp hữu thần.
Dĩ biện thanh tiền phòng hỗ trực,
Đương kim mỹ vị nhập ngô thần.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Phá tan nỗi buồn
 
Vân-An, nghe nói rượu ngon,
Một ly vừa dốc đã toan say rồi.
Lên thuyền say cũng dễ thôi,
Tiêu sầu xuống kẽm mềm môi mấy tuần.
Phu thuyền chèo lái dốc tâm,
Lướt nhanh tới trước tựa thần kéo lôi.
Tiền thuyền dành sẵn đây rồi,
Vị ngon đã thấm đôi môi lão này...
Anh-Nguyên            
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:20:07 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: DỮ CHU SƠN NHÂN - 04.11.2008 23:32:37
 
DỮ CHU SƠN NHÂN
(Nam lân)
 
與 朱 山 人

錦 里 先 生 烏 角 巾,
園 收 芋 栗 未 全 貧.
慣 看 賓 客 兒 童 喜,
得 食 階 除 鳥 雀 馴.
秋 水 才 深 四 五 尺,
野 航 恰 受 兩 三 人.
白 沙 翠 竹 江 村 暮,
相 送 柴 門 月 色 新.
    
杜 甫
 
Cẩm lý tiên sinh ô giác cân,
Viên thâu trữ lật vị toàn bần.
Quán khan tân khách nhi đồng hỷ,
Đắc thực giai trừ điểu tước tuần.
Thu thủy tài thâm tứ ngũ xích,
Dã hàng kháp thụ lưỡng tam nhân.
Bạch sa thúy trúc giang thôn mộ,
Tương tống sài môn nguyệt sắc tân.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Tặng cụ Chu người ở núi
(Hàng xóm phía nam)
 
Ông thầy thôn Cẩm khăn đen,
Vườn, thu khoai, giẻ, nghèo hèn gì đâu.
Trẻ vui đón khách đã lâu,
Quen ăn, chim sẻ rủ nhau đến thềm.
Nước Thu, năm, bốn thước trên,
Thuyền, hai, ba khách bước lên đã đầy.
Tre xanh, cát trắng chiều nay,
Tiễn nhau trước cổng, sáng đầy trăng non...
Anh-Nguyên   
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:21:09 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: ỨC ĐỆ (Kỳ nhất) - 04.11.2008 23:48:42
 
ỨC ĐỆ    
(Kỳ nhất)
 
憶 弟 其 一

喪 亂 聞 吾 弟,
飢 寒 傍 濟 州。
人 稀 書 不 到,
兵 在 見 何 由。
憶 昨 狂 催 走,
無 時 病 去 憂。
即 今 千 种 恨,
惟 共 水 東 流。
杜 甫


Táng loạn văn ngô đệ,
Cơ hàn bạng tế châu.
Nhân hy thư bất đáo,
Binh tại kiến hà do.
Ức tạc cuồng thôi tẩu,
Vô thì bệnh khứ ưu.
Tức kim thiên chủng hận,
Duy cộng thủy đông lưu.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Nhớ em
(Bài một)
 
Loạn ly, nghe được tin em,
Tế-Châu nương náu, lạnh kèm thiếu ăn.
Vắng người, thư gửi khó khăn,
Giặc còn, sao biết có lần gặp nhau.
Nhớ xưa, giục chạy cho mau,
Có đâu còn tưởng ốm đau, lo buồn.
Nay nghìn mối hận nhớ luôn,
Phó dòng nước chảy theo nguồn về đông...
Anh-Nguyên  
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:22:34 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: ỨC ĐỆ (Kỳ nhị) - 05.11.2008 02:06:00
            
ỨC ĐỆ       
(Kỳ nhị)

憶 弟 其 二

且 喜 河 南 定,
不 問 鄴 城 圍。
百 戰 今 誰 在?
三 年 望 汝 歸。
故 園 花 自 發,
春 日 鳥 還 飛。
斷 絕 人 煙 久,
東 西 消 息 稀。
杜 甫

      
Thả hỷ hà nam định,
Bất vấn nghiệp thành vi.
Bách chiến kim thùy tại,
Tam niên vọng nhữ quy.
Cố hương hoa tự phát,
Xuân nhật điểu hoàn phi.
Đoạn tuyệt nhân yên cửu,
Đông tây tiêu tức hy.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Nhớ em
(Bài hai)
 
Hà-Nam, mừng được yên rồi,
Nghiệp-Thành, chẳng hỏi, vây thời đã lâu.
Đánh hoài, còn lại ai đâu,
Ba năm, trông ngóng em lâu chưa về.
Quê xưa, hoa nở xum xuê,
Ngày Xuân, chim vẫn đi về thảnh thơi.
Mọi nhà, khói bếp tắt rồi,
Đông tây, tin tức mọi nơi họa hoằn...
Anh-Nguyên


<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:23:47 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: KHÚC GIANG ĐỐI TỬU - 05.11.2008 02:22:10
 
KHÚC GIANG ĐỐI TỬU 
 
曲 江 对 酒

苑 外 江 头 坐 不 归,
水 精 宫 殿 转 霏 微。
桃 花 细 逐 杨 花 落,
黄 鸟 时 兼 白 鸟 飞。
纵 饮 久 判 人 共 弃,
懒 朝 真 与 世 相 违。
吏 情 更 觉 沧 洲 远,
老 大 悲 伤 未 拂 衣

杜 甫
 

Uyển ngoại giang đầu tọa bất quy,
Thủy tinh cung điện chuyển phi phi.
Đào hoa tế trục lê hoa lạc,
Hoàng điểu thì kiêm bạch điểu phi.
Túng ẩm cửu phan nhân cộng lạc,
Lãn triều chân dữ thế tương vi.
Lại tình cánh giác thương châu viễn,
Lão đại đồ thương vị phất y.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Uống rượu ở sông Khúc
 
Bến ngoài vườn Ngự, không về,
Nước lồng cung điện khắp bề lung linh.
Đào, lê, hoa rụng quanh mình,
Chim vàng, chim trắng thỏa tình liệng bay.
Rượu tràn, quên bạn lâu ngày,
Lười chầu, thực đã trái ngay thói đời.
Thương-Châu, bận, thấy xa vời,
Tuổi già chưa rũ áo đời...thương thay!...
Anh-Nguyên         
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:26:50 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: KHÚC GIANG TUÝ HẬU - 05.11.2008 02:28:18
 
KHÚC GIANG TÚY HẬU
 
曲 江 醉 後

郭 東 橋 墓 何 年 客,
江 畔 風 光 幾 入 春。
只 合 殷 勤 逐 杯 酒,
不 羞 疏 索 向 交 親。
中 天 或 有 長 生 藥,
下 界 應 無 不 死 人。
除 卻 醉 來 開 口 笑,
世 間 何 事 競 冠 紳。

 
杜 甫

Quách đông kiều mộ hà niên khách,
Giang bạn phong quang kỷ nhập xuân.
Chỉ hợp ân cần trục bôi tửu,
Bất tu sơ thác hướng giao thân.
Trung thiên hoặc hữu trường sinh dược,
Hạ giới ưng vô bất tử nhân.
Trừ khước túy lai khai khẩu tiếu,
Thế gian hà sự cánh quan thân.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Sau khi say ở sông Khúc
 
Mộ ai ở xóm Cầu-Đông,
Bờ sông, đã mấy nắng hồng Xuân qua.
Chỉ còn chén rượu thiết tha,
Nghèo xơ chẳng ngại đến nhà bạn thân.
Trường sinh, trời có thuốc thần,
Cõi người, ai chẳng một lần ra đi.
Khi say, miệng mới cười khì,
Ở đời, sao lại cần gì mũ, dây?...
Anh-Nguyên    
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:27:43 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: KHÚC GIANG ĐỐI VŨ - 05.11.2008 02:36:52
 
KHÚC GIANG ĐỐI VŨ           
 
曲 江 值 雨

城 上 春 雲 覆 茆 墻
江 亭 晚 色 靜 年 芳
林 花 著 雨 燕 支 落
水 荇 牽 風 翠 帶 長
龍 武 新 軍 深 駐 輦
芙 蓉 別 殿 漫 焚 香
何 時 紹 此 金 錢 會
暫 醉 佳 人 錦 瑟 傍

杜 甫 


Thành thượng xuân vân phú uyển tường,
Giang đình vãn sắc tĩnh niên phương.
Lâm hoa trước vũ yên chi lạc,
Thủy hạnh khiên phong thúy đới trường.
Long vũ tân quân thâm trú liễn,
Phù dung biệt điện mạn phần hương.
Hà thì thiệu thử kim tiền hội,
Tạm túy giai nhân cẩm sắt bàng.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Gặp mưa nơi sông Khúc
 
Vườn Xuân, mây phủ trên tường,
Nhà bên sông vẫn vương hương nắng chiều.
Hoa rừng mưa rụng trải đều,
Gió đưa hạnh biếc dập dìu trôi xa.
Xe quân Long-Vũ la cà,
Phù-Dung, hương điện toả ra liền liền.
Bao giờ gặp hội Kim-Tiền?!
Tạm say, người đẹp kề bên ôm đàn...
Anh-Nguyên      

<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.10.2016 04:34:03 bởi Anh Nguyên >

Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 6 trang, bài viết từ 61 đến 90 trên tổng số 178 bài trong đề mục