Anh Nguyên
-
Số bài
:
1747
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 21.10.2008
|
RE: BẮC CHINH
-
04.11.2008 19:06:20
BẮC CHINH 北 征 皇 帝 二 载 秋, 闰 八 月 初 吉。 杜 子 将 北 征, 苍 茫 问 家 室。 维 时 遭 艰 虞, 朝 野 少 暇 日。 顾 惭 恩 私 被, 诏 许 归 蓬 荜。 拜 辞 诣 阙 下, 怵 惕 久 未 出。 虽 乏 谏 诤 姿, 恐 君 有 遗 失。 君 诚 中 兴 主, 经 纬 固 密 勿。 东 胡 反 未 已, 臣 甫 愤 所 切。 挥 涕 恋 行 在, 道 途 犹 恍 惚。 乾 坤 含 疮 痍, 忧 虞 何 时 毕! 靡 靡 逾 阡 陌, 人 烟 眇 萧 瑟。 所 遇 多 被 伤, 呻 吟 更 流 血。 回 首 凤 翔 县, 旌 旗 晚 明 灭。 前 登 寒 山 重, 屡 得 饮 马 窟。 邠 郊 入 地 底, 泾 水 中 荡 潏。 猛 虎 立 我 前, 苍 崖 吼 时 裂。 菊 垂 今 秋 花, 石 戴 古 车 辙。 青 云 动 高 兴, 幽 事 亦 可 悦。 山 果 多 琐 细, 罗 生 杂 橡 栗。 或 红 如 丹 砂, 或 黑 如 点 漆。 雨 露 之 所 濡, 甘 苦 齐 结 实。 缅 思 桃 源 内, 益 叹 身 世 拙。 坡 陀 望 鄜 畤, 岩 谷 互 出 没。 我 行 已 水 滨, 我 仆 犹 木 末。 鸱 鸟 鸣 黄 桑, 野 鼠 拱 乱 穴。 夜 深 经 战 场, 寒 月 照 白 骨。 潼 关 百 万 师, 往 者 散 何 卒? 遂 令 半 秦 民, 残 害 为 异 物。 况 我 堕 胡 尘, 及 归 尽 华 发。 经 年 至 茅 屋, 妻 子 衣 百 结。 恸 哭 松 声 回, 悲 泉 共 幽 咽。 平 生 所 娇 儿, 颜 色 白 胜 雪。 见 爷 背 面 啼, 垢 腻 脚 不 袜。 床 前 两 小 女, 补 绽 才 过 膝。 海 图 坼 波 涛, 旧 绣 移 曲 折。 天 吴 及 紫 凤, 颠 倒 在 裋 褐。 老 夫 情 怀 恶, 呕 泄 卧 数 日。 那 无 囊 中 帛, 救 汝 寒 凛 栗。 粉 黛 亦 解 包, 衾 裯 稍 罗 列。 瘦 妻 面 复 光, 痴 女 头 自 栉。 学 母 无 不 为, 晓 妆 随 手 抹。 移 时 施 朱 铅, 狼 藉 画 眉 阔。 生 还 对 童 稚, 似 欲 忘 饥 渴。 问 事 竞 挽 鬚, 谁 能 即 嗔 喝? 翻 思 在 贼 愁, 甘 受 杂 乱 聒。 新 归 且 慰 意, 生 理 焉 得 说! 至 尊 尚 蒙 尘, 几 日 休 练 卒? 仰 观 天 色 改, 坐 觉 妖 氛 豁。 阴 风 西 北 来, 惨 澹 随 回 纥。 其 王 愿 助 顺, 其 俗 善 驰 突。 送 兵 五 千 人, 驱 马 一 万 匹。 此 辈 少 为 贵, 四 方 服 勇 决。 所 用 皆 鹰 腾, 破 敌 过 箭 疾。 圣 心 颇 虚 伫, 时 议 气 欲 夺。 伊 洛 指 掌 收, 西 京 不 足 拔。 官 军 请 深 入, 蓄 锐 伺 俱 发。 此 举 开 青 徐, 旋 瞻 略 恒 碣。 昊 天 积 霜 露, 正 气 有 肃 杀。 祸 转 亡 胡 岁, 势 成 擒 胡 月。 胡 命 其 能 久, 皇 纲 未 宜 绝。 忆 昨 狼 狈 初, 事 与 古 先 别。 奸 臣 竟 菹 醢, 同 恶 随 荡 析。 不 闻 夏 殷 衰, 中 自 诛 褒 妲。 周 汉 获 再 兴, 宣 光 果 明 哲。 桓 桓 陈 将 军, 仗 钺 奋 忠 烈。 微 尔 人 尽 非, 于 今 国 犹 活。 凄 凉 大 同 殿, 寂 寞 白 兽 闼。 都 人 望 翠 华, 佳 气 向 金 阙。 园 陵 固 有 神, 扫 洒 数 不 缺。 煌 煌 太 宗 业, 树 立 甚 宏 达。 杜 甫 Hoàng đế nhị tải thu, Nhuận bát nguyệt sơ cát. Đỗ tử tương bắc chinh, Thương mang vấn gia thất. Duy thì tao gian ngu, Triều dã thiểu hạ nhật. Cố tàm ân tư bị, Chiếu hứa quy bồng tất. Bái từ nghệ khuyết hạ, Truật dịch cửu vi xuất. Tuy pháp gián tránh tư, Khủng quân hữu di thất. Quân thành trung hưng chủ, Kinh vĩ cố mật vật. Đông hồ phản vị dĩ, Thần phủ phẫn sở thiết. Huy thế luyến hành tại, Đạo đồ do hoảng hốt. Càn khôn hàm sang di, Ưu ngu hà thì tất. Mỹ mỹ du thiên mạch, Nhân yên diểu tiêu sắt. Sơ ngộ đa bi thương, Thán ngâm cánh lưu huyết. Hồi thủ phượng tường huyện, Tinh kỳ vãn minh diệt. Tiền đăng hàn sơn trùng, Lũ đắc ẩm ma quật. Mân giao nhập địa để, Kính thủy trung đãng duật. Mãnh hổ lập ngã tiền, Thương nhai hống thì liệt. Cúc thùy kim thu hoa, Thạch đới cổ xa triệt. Thanh vân động cao hứng, U sự diệc khả duyệt. Sơn quả đa tỏa tế, La sinh tạp tượng lật. Hoặc hồng như đan sa, Hoặc hắc như điểm tất. Vũ lộ chi sở nhu, Cam khổ tề kết thực. Miến tư đào nguyên nội, Ích thán thân thế chuyết. Pha đà vọng phu trĩ, Nham cốc hỗ xuất một. Ngã hành dĩ thủy tân, Ngã bộc do mộc mạt. Chi điểu minh hoàng tang, Dã thử củng loạn huyệt. Dạ tâm kinh chiến trường, Hàn nguyệt chiếu bạch cốt. Đồng quan bách vạn sư, Vãng giả tán hà tốt. Toại linh bán tần dân, Tàn hại vi dị vật. Huống ngã trụy hồn trần, Cập quy tẫn hoa phát. Kinh niên chí mao ốc, Thê tử y bách kết. Đỗng khốc tùng thanh hồi, Bi tuyền cộng u yết. Bình sinh sở kiêu nhi, Nhan sắc bạch thắng tuyết. Kiến gia bội diện đề, Cấu nhị cước bất miệt. Sàng tiền lưỡng tiểu nữ, Bổ dĩnh tài quá tất. Hải đồ chiết ba đào, Cựu tú di khúc chiết. Thiên ngô cập tử phụng, Điên đảo tại đoản cát. Lão phu tình hoài ác, Ẩu tiết ngọa sổ nhật. Na vô nang trung bạch, Cứu nhữ hàn lẫm lật. Phấn đại diệc giải bao, Khâm trù xảo la liệt. Sấu thê diện phục quang, Si nữ đầu tự trất. Học mẫu vô bất vi, Hiểu trang tùy thủ mạt. Di thì chi chu duyên, Lang tạ họa mi khoát. Sinh hoàn đối đồng trĩ, Tự dục vong cơ khát. Vấn sự cạnh vãn tu, Thùy năng tức sân hát. Phiên tư tại tặc sầu, Cam thụ tạp loạn quát. Tân quy thả uý ý, Sinh lý yên đắc thuyết. Chí tôn thượng mông trần, Kỷ nhật hưu luyện tốt. Ngưỡng quan thiên sắc cải, Tọa giác yêu phân khoát. Âm phong tây bắc lai, Thảm đạm tùy hồi hột. Kỳ vương nguyện trợ thuận, Kỳ tục thiện trì đột. Tống binh ngũ thiên nhân, Khu mã nhất vạn thất. Thử bối thiểu vi quý, Tứ phương phục dũng quyết. Sở dụng giai ưng đẳng, Phá địch quá tiễn tật. Thánh tâm phả hư trữ, Thì nghị khí dục đoạt. Y lạc chỉ chưởng thu, Tây kinh bất túc bạt. Quan quân thỉnh thâm nhập, Súc nhuệ khả câu phát. Thử cử khai thanh từ, Tuyền chiêm lược hằng kiệt. Hiệu thiên tích sương lộ, Chính khí hữu túc sát. Họa chuyển vong hồ tuế, Thế thành cầm hồ nguyệt. Hồ mệnh kỳ năng cửu, Hoàng cương vị nghi tuyệt. Ức tích lang bối sơ, Sự dữ cổ tiên biệt. Gian thần cánh thư hải, Đồng ác tùy đãng tích. Bất văn hạ ân suy, Trung tự chu bao đát. Chu hán hoạch tái hưng, Tuyên quang quả minh triết. Hoàn toàn trần tướng quân, Trượng việt phấn trung liệt. Vi nhĩ nhân tận phi, Ư kim quốc do hoạt. Thê lương đại đồng điện, Tịch mịch bạch thú thát. Đô nhân vọng thúy hoa, Giai khí hướng kim khuyết. Viên lăng cố hữu thần, Tảo sái sơ bất khuyết. Hoàng hoàng thái tông nghiệp, Thụ lập thậm hoằng đạt. Đỗ-Phủ Dịch: Lên miền bắc Mùa Thu Chí-Đức thứ nhì, Nhuận hai tháng tám, sớm đi an lành. Đỗ đi miền bắc mới đành, Vội vàng thu xếp về nhanh thăm nhà. Gặp thời buổi khó, đường xa, Triều đình, thôn xóm, ai mà nhàn đâu. Ngoảnh đầu, thẹn với ân sâu, Chiếu cho nghỉ phép về lâu thăm nhà. Cung vua, lễ biệt đi xa, Nghĩ suy, lo lắng, ngẩn ra không về. Can ngăn, cân nhắc mọi bề, Lỡ vua sơ sót, lời quê vắng rồi. Vua trung hưng, quả đúng thôi, Kỷ cương nắm vững, tính thời lại siêng. Phía đông, Hồ phản chưa yên, Phủ này tức giận muốn điên cả người. Hành cung, quyến luyến lệ rơi, Đường đi, hoảng hốt, tâm thời chưa yên. Nước non thương tích triền miên, Bao giờ lo sợ buồn phiền hết đây. Bước theo bờ ruộng cỏ đầy, Xóm thưa nhà ít, khói bay tiêu điều. Bị thương, ta gặp phần nhiều, Vết thương máu rỉ, than kêu não nùng. Phượng-Tường, chợt ngoảnh lại trông, Chiều, cờ ẩn hiện, lúc không thấy gì. Núi non trùng điệp khó đi, Vũng cho ngựa uống còn ghi dấu đầy. Đồng Mân tựa đáy đất này, Sông Kinh cuộn chảy ở ngay giữa đồng. Hổ kia đứng trước ta trông, Gầm vang, tưởng núi tét không còn lành. Thu này cúc đã nở nhanh, Đá còn mang dấu rành rành xe xưa. Mây xanh gợi hứng hồn thơ, Cảnh trông u tĩnh thật vừa lòng thay. Núi non, quả nhỏ tí này, Trổ ra la liệt, lẫn ngay lật vào. Hoặc hồng, hoặc giống son sao, Hoặc đen, thực chẳng khác nào phết sơn. Móc mưa làm ẩm ướt hơn, Ngọt hay đắng chát cũng đơm trái liền. Xa xôi, nghĩ đến Đào-Nguyên, Cảm thương vụng dại cho nên nỗi này. Châu Phu, đàn tế còn đây, Núi, hang, khuất hiện đổi thay nhau hoài. Đã gần bến nước chẳng sai, Gã hầu còn ở đầu vài ngọn cây. Cú kêu, dâu úa vàng đầy, Chuột đồng xúm xít cả bầy trước hang. Đêm khuya, qua chiến trường hoang, Trăng soi sương trắng ngổn ngang lạnh lùng. Đồng-Quan, trăm vạn quân hùng, Một ngày tan tác, lạ lùng, buồn thay. Khiến dân nửa nước Tần này, Chết thành ma quỷ, nơi đây vật vờ. Ta chìm trong gió bụi Hồ, Kịp về, tóc đã bạc phơ mái đầu. Về căn nhà cỏ bỏ lâu, Vợ con, áo vá tới đâu trăm lần. Khóc vang hòa tiếng thông gần, Suối buồn tuôn chẩy trước sân nghẹn ngào. Trai ta trước đẹp thế nào, Mặt giờ trắng bệch tuyết sao sánh bằng. Thấy cha, quay mặt khóc ròng, Chân không, cáu ghét, chạnh lòng xót xa. Trước giường, hai gái nhỏ ta, Áo chằng đụp vá, phủ qua gối gầy. Xé tranh biển sóng vá đây, Tấm thêu, gẫy khúc vá nay khó nhìn. Con nghê và phượng nằm im, Đầu xuôi đuôi ngược vá lên áo này. Thân già lại bệnh, khổ thay, Tiêu và ói mửa vài ngày đã qua. Biết sao! túi chẳng lụa là, Cứu con run lạnh lấy ra tức thời. Mở bao, toàn phấn son thôi, Trải mền, bày khắp mọi nơi trên giường. Vợ gầy tươi tắn khác thường, Gái khờ tự lấy lược gương chải đầu. Làm theo mẹ, sót gì đâu, Sáng ra trang điểm, lau lau chùi chùi. Điểm son chốc chốc làn môi, Chân mày vẽ đậm quá rồi, con ơi! Sống về thấy trẻ vui ôi, Như quên đói khát mất rồi còn đâu. Hỏi han, con cứ kéo râu, Hỏi ai có thể nói câu nặng lời. Buồn trong vùng giặc một thời, Đành cho con cái vui chơi ồn ào. Mới về, an ủi phần nào, Mưu sinh, biết nói được sao lúc này. Nhà vua còn vất vả thay, Luyện rèn binh mã, mấy ngày nghỉ ngơi! Ngẩng nhìn trời đổi sắc rồi, Ngồi nhìn yêu khí khắp nơi tỏa đầy. Gió miền tây bắc về đây, Đi theo Hồi-Hột, tràn đầy thê lương. Vua kia hứa giúp mọi đường, Chuyên về cưỡi ngựa và thường đánh nhanh. Giao năm nghìn lính đánh rành. Ngựa đưa một vạn, tập tành đã lâu. Người ít, tinh nhuệ làm đầu, Anh hùng, cương quyết, đâu đâu cũng mừng. Dùng quân nhanh tựa chim ưng, Phá tan quân địch nhanh chừng tên bay. Nhà vua tin tưởng quá thay!... Những lời bàn tán lúc này dẹp đi. Thâu Y, Lạc, được tức thì, Tây-Kinh, lấy lại có gì khó đâu. Quan quân xin được tiến sâu, Bao lâu rèn luyện bắt đầu tiến lên. Thanh, Từ, tiến đánh trước tiên, Quay về, Hằng, Kiệt, chiếm liền cho xong. Trời quang chứa móc ở trong, Cho nên chính khí lúc trong, khi mờ. Họa từ năm đánh giặc Hồ, Thế thành vào tháng giặc Hồ diệt vong. Giặc Hồ số mạng dài chăng?! Kỷ cương vua, chớ tưởng rằng dứt đâu. Nhớ khi loạn lạc bắt đầu, Tuy so truyện cổ khác nhau ít nhiều. Gian thần, kết cục đều tiêu, Tay chân bị đẩy đến nhiều miền xa. Không nghe Ân, Hạ, suy à, Đát, Bao, đều bị trong nhà giết nhau. Hán, Chu, hưng thịnh lại mau, Tuyên, Quang, sáng suốt như nhau, bậc hiền. Tướng quân Trần thật oai nghiêm, Khiến người trung liệt càng lên tinh thần. Không ông, còn khổ người dân, Nhờ ông, đất nước dần dần hồi sinh. Đại-Đồng ủ rũ in hình, Lại nhìn Bách-Thú riêng mình đứng im. Dân kinh, cờ thúy ngóng nhìn, Những làn khí vượng hướng kim khuyết tràn. Vườn, lăng, thần vẫn an toàn, Quét lau, chùi rửa, phải làm, thiếu sao? Thái-Tông, nghiệp sáng biết bao, Như cây hùng vĩ vút cao giữa trời... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.05.2022 10:51:45 bởi Anh Nguyên >
|