Đường Thi Trích Dịch II - Anh Nguyên
DỮ NHIỆM THÀNH HỨA CHỦ BẠ DU NAM TRÌ 與 任 城 許 主 簿 遊 南 池 秋 水 通 鉤 洫, 城 隅 進 小 船。 晚 涼 看 洗 馬, 森 木 亂 鳴 蟬。 菱 熟 經 時 雨, 蒲 荒 八 月 天。 晨 朝 降 白 露, 遙 憶 舊 青 氈。 杜 甫 Thu thủy thông câu hức, Thành ngung tiến tiểu thuyền. Vãn lương khan tẩy mã, Xâm mộc loạn minh thiền. Lăng thục kinh thì vũ, Bạc hoang bát nguyệt thiên. Thần triêu giáng bạch lộ, Diêu ức cựu thanh chiên. Dịch: Cùng ông chủ bạ họ Hứa quê ở Nhiệm Thàn đi chơi hồ phía nam Mùa thu, nước sạch đường mương, Góc thành có chiếc thuyền đương tiến vào. Buổi chiều, tắm ngựa, xem nào, Tiếng ve vang khắp cây cao gió vờn. Đúng thời, mưa, ấu dập dờn, Bạc hà, tháng tám, chiều hôm bên đường. Sáng ra, sương trắng đầy vườn, Xa xôi, nhớ nệm xanh* thường kể xưa... ~Anh Nguyên~ * Chuyện xưa: Trộm viếng nhà, Vương Hiến Chi nói: Ta có tấm nệm màu xanh là cổ vật, để ta vào lấy ra cho ngươi.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:11:44 bởi Anh Nguyên >
VÃN TÌNH 晚 晴
村 晚 驚 風 度,
庭 幽 過 雨 沾。 夕 陽 薰 細 草,
江 色 映 疏 簾。
書 亂 誰 能 帙,
杯 乾 可 自 添。
時 聞 有 餘 論,
未 怪 老 夫 潛。
杜 甫
Thôn vãn kinh phong độ, Đình u qúa vũ triêm. Tịch dương huân tế thảo, Giang sắc chiếu sơ liêm. Thư loạn thùy năng trật, Bôi can tự khả thiêm. Thì vãn hữu dư luận, Vị tại lão phu tiềm. Đỗ-Phủ Dịch: Chiều tạnh ráo Xóm chiều cơn gió thổi qua, Mưa rơi ướt sũng sân nhà vắng tanh. Nắng chiều sưởi đám cỏ xanh, Ánh sông nước chiếu lên mành mành thưa. Sách bừa, ai xếp lại chưa? Chén khô, tự rót cho vừa kẻo vơi. Đôi khi nghe nói những lời: Chắc ông già sống ẩn đời nơi đây?!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:14:06 bởi Anh Nguyên >
BÁCH THIỆT 百 舌
百 舌 來 何 處,
重 重 隻 報 春。
知 音 兼 眾 語,
整 翮 豈 多 身。
花 密 藏 難 見,
枝 高 聽 轉 新。
過 時 如 發 口,
君 側 有 讒 人。
杜 甫 Bách thiệt lai hà xứ, Trùng trùng chỉ báo xuân. Tri âm kiêm chúng ngữ, Chỉnh cách khởi đa thân. Hoa mật tàng nan kiến, Chi cao thính chuyển tân. Ngộ thì như phát khẩu, Quân trắc hữu sàm nhân. Đỗ-Phủ Dịch: Chim khiếu Từ đâu chim khiếu tới đây, Bao lần chim đến báo ngày Xuân qua. Hót rành mọi tiếng chim ca, Mỗi khi múa hót, tưởng là nhiều thân. Ẩn hoa, khó thấy dẫu gần, Trên cành cao hót, tiếng ngân vang rền. Mỗi khi cất tiếng hót lên, Y như có kẻ đứng bên nói dèm... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:15:04 bởi Anh Nguyên >
ĐỘNG PHÒNG 洞 房
洞 房 環 珮 冷
玉 殿 起 秋 風
秦 地 應 新 月
龍 池 滿 舊 宮
繫 舟 今 夜 遠
清 漏 往 時 同
萬 里 黃 山 北
園 陵 白 露 中
杜 甫
Động phòng hoàn bội lãnh, Ngọc điện khởi thu phong. Tần địa ưng tân nguyệt, Long trì mãn cựu cung. Hệ chu kim dạ viễn, Thanh lậu vãng thì đồng. Vạn lý hoàng sơn bắc, Viên lăng bạch lộ trung. Đỗ-Phủ Dịch: Phòng khuê Phòng khuê lạnh đẹp tựa châu, Gió Thu điện Ngọc bắt đầu mạnh thêm. Đất Tần, trăng mới ló lên, Long-Trì, cung cũ đầy trên mặt hồ. Đêm nay, thuyền cột xa mù, Giọt đồng, giờ khắc xưa dù đã qua. Núi Hoàng muôn dặm bắc xa, Trong màn sương trắng đó là Viên-Lăng... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:15:54 bởi Anh Nguyên >
CỬU NHẬT LAM ĐIỀN THÔI THỊ TRANG 九 日 藍 田 崔 氏 莊
老 去 悲 秋 強 自 寬
興 來 今 日 盡 君 歡
羞 將 短 髮 還 吹 帽
笑 倩 旁 人 為 正 冠
藍 水 遠 從 千 瀾 落
玉 山 高 並 兩 峰 寒
明 年 此 會 知 誰 健
醉 把 茱 萸 仔 細 看
杜 甫
Lão khứ bi thu cưỡng tự khoan, Hứng lai kim nhật tận quân hoan. Tu tương đoản phát hoàn xuy mạo, Tiếu thỉnh bàng nhân vị chỉnh quan. Lam thủy viễn tòng thiên giản lạc, Ngọc sơn cao tịnh lưỡng phong hàn. Minh niên thử hội tri thùy kiện, Túy bả thù du tử tế khan. Đỗ-Phủ Dịch: Ngày trùng cửu ở nhà họ Thôi tại Lam-Điền Thương Thu, vui gượng tuổi già, Hôm nay cao hứng, thật là vui thay. Thẹn vì tóc ngắn mũ bay, Cười, nhờ người đội cho ngay chẳng nề. Dòng Lam nghìn suối đổ về, Ngọc-Sơn lạnh lẽo hai vì núi xa. Sang năm, ai mạnh biết nha, Thù-Du, cạn chén ngồi ta ngắm hoài... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:17:13 bởi Anh Nguyên >
NGUYỆT DẠ ỨC XÁ ĐỆ
月 夜 憶 舍 弟
戍 鼓 斷 人 行,
秋 邊 一 雁 聲。
露 從 今 夜 白,
月 是 故 鄉 明。
有 弟 皆 分 散,
無 家 問 死 生。
寄 書 長 不 達,
況 乃 未 休 兵。
杜甫 Thú cổ đoạn nhân hành, Thu biên nhất nhạn thanh. Lộ tòng kim dạ bạch, Nguyệt thị cố hương minh. Hữu đệ giai phân tán, Vô gia vấn tử sinh. Ký thư trường bất đạt, Huống nãi vị hưu binh. Đỗ-Phủ Dịch: Đêm trăng nhớ em Trống quân, ngăn bước người đi, Trời Thu biên giới, buồn gì nhạn kêu! Đêm nay, sương trắng xuống nhiều, Trăng vàng tỏa sáng, tiêu điều chốn quê. Các em tản mát chưa về, Không nhà, sống chết có hề biết đâu. Gửi thư, không tới từ lâu, Huống chi binh lửa vẫn hầu chưa yên... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:18:06 bởi Anh Nguyên >
ĐỐI VŨ 對 雨
莽 莽 天 涯 雨,
江 邊 獨 立 時.
不 愁 巴 道 路,
恐 濕 漢 旌 旗.
雪 嶺 防 秋 急,
繩 樓 戰 勝 遲.
西 戎 甥 舅 禮,
未 敢 背 思 私. 杜 甫 Mang mang thiên nhai vũ, Giang biên độc lập thì. Bất sầu ba đạo lộ, Khủng thấp hán tinh kỳ. Tuyết lĩnh phòng thu cấp, Thằng kiều chiến thắng trì. Tây nhung sanh điệt lễ, Vị cảm bối ân ti. Đỗ-Phủ Dịch: Nhìn mưa Chân trời mờ mịt mưa tuôn, Bên sông quạnh quẽ, mình buồn đứng trông. Buồn đường Ba ngập, hẳn không, Chỉ lo cờ Hán sao trông khỏi nhàu. Thu về, Tuyết-Lĩnh thủ mau, Thằng-Kiều, chiến thắng sao lâu thế này! Tây Nhung làm rể mới đây, Ơn sâu, chưa dám lúc này quên đâu... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:18:51 bởi Anh Nguyên >
KHIỂN HỨNG 遣 興 三 首 其 一 下 馬 古 戰 場, 四 顧 但 茫 然。 風 悲 浮 雲 去, 黃 葉 墜 我 前。 朽 骨 穴 螻 蟻, 又 為 蔓 草 纏。 故 老 行 嘆 息, 今 人 尚 開 邊。 漢 虜 互 勝 負, 封 疆 不 常 全。 安 得 廉 恥 將, 三 軍 同 晏 眠。 杜 甫 Hạ mã cổ chiến trường, Tứ cố đãn mang nhiên. Phong bi phù vân khứ, Hoàng diệp trụy ngã tiền. Hủ cốt huyệt lâu nghỉ, Hựu vi man thảo triền. Cố lão hành thán tức, Kim nhân thượng khai biên. Hán lỗ hỗ thắng phụ, Phong cương bất thường toàn. An đắc liêm pha tướng, Tam quân đồng án miên. Đỗ-Phủ Dịch: Gợi hứng Buông cương xuống ngựa chiến trường xưa, Bát ngát mênh mang chỉ bãi thưa. Mây nổi, gió buồn hiu hắt mãi, Lá vàng trước mặt, gió Thu đưa. Xương khô, kiến đục toan làm tổ, Cỏ mọc tràn lan bít lối xưa. Cất bước, già này than thở mãi, Cõi bờ, mở rộng mấy cho vừa. Xen nhau, Hán, giặc, thua và thắng, Biên giới đổi hoài có biết chưa. Nếu có Liêm-Pha làm Thống lãnh, Ba quân tối ngủ mới say sưa... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:20:26 bởi Anh Nguyên >
BI TRẦN ĐàO 悲 陳 陶 孟 冬 十 郡 良 家 子,
血 作 陳 陶 澤 中 水。
野 曠 天 清 無 戰 聲,
四 萬 義 軍 同 日 死。
群 胡 歸 來 血 洗 箭,
仍 唱 胡 歌 飲 都 市。
都 人 回 面 向 北 啼,
日 夜 更 望 官 軍 至。
杜 甫 Mạnh đông thập quận lương gia tử, Huyết tác trần đào trạch trung thủy. Dã khoáng thiên thanh vô chiến thanh, Tứ vạn nghĩa quân đồng nhật tử, Quần hồ quy lai huyết tẩy tiễn, Nhưng xướng di ca ẩm đô thị. Đô nhân hồi diện hướng bắc đề, Nhật dạ cánh vọng quan quân chí. Đỗ-Phủ Dịch: Thương trận Trần-Đào Mười quận quân về lúc chớm đông, Trần-Đào máu đổ, chảy thành sông. Trời trong, đồng trống, im chinh chiến, Bốn vạn nghĩa quân, xác rải đồng. Trở lại, rợ Hồ tên rửa máu, Hát hò, ăn uống chốn thành đông. Hướng về phương bắc, người dân khóc, Sáng, tối, ‘‘Quân về...’’ vẫn ngóng trông. Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:21:41 bởi Anh Nguyên >
BI THANH BẢN 悲 青 阪 我 軍 青 阪 在 東 門, 天 寒 飲 馬 太 白 窟。 黃 頭 奚 儿 日 向 西, 數 騎 彎 弓 敢 馳 突。 山 雪 河 冰 野 蕭 瑟, 青 是 烽 煙 白 人 骨。 焉 得 附 書 與 我 軍, 忍 待 明 年 莫 倉 卒。 杜 甫 Ngã quân thanh bản tại đông môn, Thiên hàn ấm mã thái bạch quật. Hoàng đầu hề nhi nhật hướng tây, Sổ kỵ loan cung cảm trì đột. Sơn tuyết hà băng dã tiêu sắt, Thanh thị phong yên bạch thị cốt. Yên đắc phụ thư dữ ngã quân, Nhẫn đãi minh xuân mạc thảng thốt. Đỗ-Phủ Dịch: Thương trận Thanh-Bản Cửa đông Thanh-Bản đóng quân, Ngựa khe Thái-Bạch uống gần đóng băng. Về chiều, rợ có hay chăng, Vài tên lính kỵ hung hăng đánh liều. Sông băng, núi tuyết, tiêu điều, Xanh là khói trận, trắng nhiều là xương. Nhắn quân ta - nếu có đường-: ‘‘Sang Xuân, ráng đợi, địch đương yếu dần’’... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:23:31 bởi Anh Nguyên >
XUÂN VỌNG
春 望
國 破 山 河 在,
城 春 草 木 深。
感 時 花 濺 淚,
恨 別 鳥 驚 心。
烽 火 連 三 月,
家 書 抵 萬 金。
白 頭 搔 更 短,
渾 欲 不 勝 簪。
杜甫 Quốc phá sơn hà tại, Thành xuân thảo mộc thâm. Cảm thời hoa tiễn lệ, Hận biệt điểu kinh tâm. Phong hỏa liên tam nguyệt, Gia thư để vạn câm, Bạch đầu tao cánh đoản. Hồn dục bất thăng trâm. Đỗ-Phủ Dịch: Ngóng xuân Nước tan, sông núi còn đây, Thành xuân, cây cỏ vẫn đầy xanh tươi. Cảm thương, hoa ứa lệ rơi, Động lòng ly biệt, bên trời chim kêu. Hỏa đài, ba tháng cháy đều, Thơ nhà đáng giá bao nhiêu là vàng! Bạc đầu, bới chẳng dễ dàng, Cài trâm thì lại hoàn toàn không xong!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:24:12 bởi Anh Nguyên >
THÀNH TÂY PHA CHIẾM CHU 城 西 陂 泛 舟
青 蛾 皓 齒 在 樓 船
橫 笛 短 簫 悲 遠 天
春 風 自 信 牙 檣 動
遲 日 徐 看 錦 纜 牽
魚 吹 細 浪 搖 歌 扇
燕 蹴 飛 花 落 舞 筳
不 有 小 舟 能 盪 槳
百 壺 那 送 酒 如 泉
杜 甫 Thanh nga hạo xỉ tại lâu thuyền, Hoành địch đoản tiêu bi viễn thiên. Xuân phong tự tín nha tường động, Trì nhật từ khan cẩm lãm khiên. Ngư xuy tế lãng dao ca phiến, Yến xúc phi hoa lạc vũ diên. Bất hữu tiểu chu năng đãng tưởng, Bách hồ ná tống tửu như tuyền. Đỗ-Phủ Dịch: Chơi thuyền ở bến tây thành Mày xanh, răng trắng, thuyền lầu, Sáo ngang, tiêu ngắn, bắt đầu vang xa. Gió Xuân lay cột buồm ngà, Mặt trời lặn chiếu dây là gấm hoa. Cá phun sóng, múa quạt, ca, Hoa rơi, én đụng, bay qua tiệc nồng. Con thuyền chèo nhỏ...nếu không, Sao trăm bầu rượu men nồng...suối tuôn?!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:26:45 bởi Anh Nguyên >
KHÚC GIANG NHỊ THỦ (Kỳ nhất) 曲 江 二 首 其 一
一 片 花 飛 減 卻 春, 風 飄 萬 點 正 愁 人。
且 看 欲 盡 花 經 眼,
莫 厭 傷 多 酒 入 唇。
江 上 小 堂 巢 翡 翠,
花 邊 高 塚 臥 麒 麟。
細 推 物 理 須 行 樂,
何 用 浮 名 絆 此 身?
杜 甫 Nhất phiến phi hoa giảm khước xuân, Phong phiêu vạn điểm chính sầu nhân. Thả khan dục tận hoa kinh nhãn, Mạc yếm thương đa tửu nhập thần. Giang thượng tiểu đường sào phí thúy, Uyển biên cao trũng ngọa kỳ lân. Tế khan vật lý tu hành lạc, Hà dụng phù danh bạn thử thân. Đỗ-Phủ Dịch: Sông Khúc (Bài một) Hoa bay một cánh, kém xuân, Vạn hoa tung gió, ngẫm thân, người buồn. Hoa tàn, chớ có bồn chồn, Kề môi chén rượu, tâm hồn sẽ vui. Nhà hoang, trả ấp tổ rồi, Mộ cao vườn vắng, lân thời nằm lăn. Lý đời, vui chớ băn khoăn, Cần chi danh hão cột thân mình vào?!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:33:25 bởi Anh Nguyên >
KHÚC GIANG NHỊ THỦ (Kỳ nhị) 曲 江 二 首 其 二
朝 回 日 日 典 春 衣,
每 日 江 头 尽 醉 归。
酒 债 寻 常 行 处 有,
人 生 七 十 古 来 稀。
穿 花 蛱 蝶 深 深 见,
点 水 蜻 蜓 款 款 飞。
传 语 风 光 共 流 转,
暂 时 相 赏 莫 相 违。
杜 甫
Triều hồi nhật nhật điển xuân y, Mỗi nhật giang đầu tận túy quy. Tửu trái tầm thường hành xứ hữu, Nhân sinh thất thập cổ lai hy. Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện, Điểm thủy thanh đình khoản khoản phi. Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển, Tạm thì tương thưởng mạc tương vi. Đỗ-Phủ Dịch: Sông Khúc (Bài hai) Tan triều, đem cố áo xuân, Khướt say, quán rượu bên sông mới về. Khắp nơi nợ rượu, thiếu gì, Đời người bẩy chục, dễ bề mấy ai. Xen hoa, bươm bướm lượn hoài, Chuồn chuồn dỡn nước mãi bay chập chờn. Tháng ngày trôi chảy luôn luôn, Hãy cùng vui hưởng chớ buồn trái nhau... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:34:45 bởi Anh Nguyên >
TÚC PHỦ 宿 府
清 秋 幕 府 井 梧 寒
獨 宿 江 城 蠟 炬 殘
永 夜 角 聲 悲 自 語
中 天 月 色 好 誰 看
風 麈 荏 苒 音 書 絕
關 塞 蕭 條 行 路 難
已 忍 仱 俜 十 年 事
強 移 栖 息 一 枝 安
杜 甫 Thanh thu mạc phủ tỉnh ngô hàn, Độc túc giang thành lạp cự tàn. Vĩnh dạ giác thanh bi tự ngữ, Trung thiên nguyệt sắc hảo thùy khan. Phong trần nhẫm nhiễm âm thư tuyệt, Quan tái tiêu điều hành lộ nan. Dĩ nhẫn linh phinh thập niên sự. Cưỡng di thê tức nhất chi an. Đỗ-Phủ Dịch: Đêm ngủ lại phủ Ngô đồng bên giếng Thu trong, Một mình ngủ lại Thành-Đông, đuốc tàn. Đêm khuya, tiếng ốc sầu than, Khắp trời đầy ánh trăng vàng ai coi. Phong trần, tin đã vắng rồi, Ải quan xơ xác, đường thời khó khăn. Nổi trôi, chuyện đã mười năm, Gượng về nương một cành nằm cho yên... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:36:32 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
Kiểu: