Đường Thi Trích Dịch II - Anh Nguyên
NGUYỆT
月
天 上 秋 期 近
人 間 月 影 清
入 河 蟾 不 沒
搗 藥 兔 長 生
只 益 丹 心 苦
能 添 白 髮 明
干 戈 知 滿 地
休 照 國 西 營
杜 甫 Thiên thượng thu kỳ cận, Nhân gian nguyệt ảnh thanh. Nhập hà thiềm bất một, Đảo dược thố trường sinh. Chỉ ích đan tâm khổ, Năng thiêm bạch phát minh. Can qua tri mãn địa, Hưu chiếu quốc tây dinh. Đỗ-Phủ Dịch: Trăng Bầu trời sắp bước vào Thu, Cõi người trăng vẫn trong như thuở nào. Vào Ngân-Hà, cóc chẳng sao, Thuốc đâm, thỏ vẫn sống bao năm trường. Lòng son thêm khổ, sầu vương, Khiến cho mái tóc như sương bạc dần. Khắp nơi chinh chiến xa gần, Xin trăng đừng chiếu dinh phần phía tây... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:37:54 bởi Anh Nguyên >
SƠ NGUYỆT 初 月
光 細 弦 初 上
影 斜 輪 未 安
微 升 古 塞 外
已 隱 暮 雲 端
河 漢 不 改 色
關 山 空 自 寒
庭 前 有 白 露
暗 滿 菊 花 團
杜 甫
Quang tế huyền sơ thượng, Ảnh tà luân vị an. Vi thăng cổ tái ngoại, Dĩ ẩn mộ vân đoan. Hà hán bất cải sắc, Quan sơn không tự hàn. Đình tiền hữu bạch lộ, Ám mãn cúc hoa đoàn. Đỗ-Phủ Dịch: Trăng non Vành cung mới ló, nhạt mờ, Chênh chênh bóng ngả bây giờ chưa yên. Bên ngoài ải cổ nhô lên, Và nay đã nấp vào bên mây chiều. Vào Ngân-Hà, chẳng đổi nhiều, Chốn quan san, thấy có chiều lạnh hơn. Trước sân móc trắng còn tuôn, Bám đầy hoa cúc nơi vườn trước sân... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:39:07 bởi Anh Nguyên >
THẬP LỤC DẠ NGOẠN NGUYỆT 十 六 夜 翫 月
舊 挹 金 波 爽
皆 傳 玉 露 秋
關 山 隨 地 闊
河 漢 近 人 流
谷 口 樵 歸 唱
孤 城 笛 起 愁
巴 童 渾 不 寐
半 夜 有 行 舟
杜 甫 Cựu ấp kim ba sảng, Giai truyền ngọc lộ thu. Quan sơn tùy địa khoát, Hà hán cận nhân lưu. Cốc khẩu tiều quy xướng, Cô thành địch khởi sầu. Ba đồng hồn bất mị, Bán dạ hữu hàn chu. Đỗ-Phủ Dịch: Ngắm trăng mười sáu Xưa thường ấp ủ sóng vàng, Nay thêm móc ngọc, rõ ràng vào Thu. Ải quan trải rộng tít mù, Ngân-Hà lại chảy gần như bên người. Tiều về hẻm núi, hát, cười, Địch thành vắng vẻ, thổi thời buồn sao! Kẽm Ba, chợp mắt được nào! Nửa đêm, thuyền vẫn nhổ sào ra đi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:40:38 bởi Anh Nguyên >
THIÊN HÀ 天 河
當 時 任 顯 晦
秋 至 最 分 明
縱 被 微 雲 掩
終 能 永 夜 清
含 星 動 雙 闕
伴 月 落 邊 城
牛 女 年 年 渡
何 曾 風 浪 生
杜 甫 Đương thì nhiệm hiển hối, Thu chí tối phân minh. Túng bị vi vân yểm, Chung năng vĩnh dạ thanh. Hàm tinh động song khuyết, Kiện nguyệt lạc biên thành. Ngưu nữ niên niên độ, Hà tằng phong lãng sinh. Đỗ-Phủ Dịch: Dải Ngân Hà Theo thời, khi tỏ, khi mờ, Khi mùa Thu đến, đôi bờ sáng trưng. Mây che có lúc, không chừng, Nhưng rồi, đêm, vẫn sáng trưng nền trời. Cung vua, ảnh hưởng hai nơi, Đưa vừng trăng lặn xuống trời thành biên. Năm năm Ngưu, Chức qua liền, Chưa từng sóng gió nổi lên một lần... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:41:37 bởi Anh Nguyên >
HIỂU VỌNG 曉 望
白 帝 更 聲 盡
陽 臺 曙 色 分
高 峰 上 寒 日
疊 嶺 宿 霾 雲
地 近 江 帆 遠
天 清 木 葉 聞
荊 扉 對 麊 鹿
應 共 爾 為 群
杜 甫
Bạch đế canh thanh tận,
Dương đài thự sắc phân.
Cao hong thướng hàn nhật,
Điệp lĩnh túc mai vân.
Địa cận giang phàm viễn,
Thiên thanh mộc diệp văn.
Kinh phi đối mi lộc,
Ưng cộng nhĩ vi quần. Đỗ-Phû
Dịch:
Ngắm cảnh buổi sớm
Trống canh Bạch-Đế dứt rồi,
Dương-Đài, nắng sớm khắp nơi tỏa lần.
Mặt trời, đỉnh núi nhô dần,
Núi non, mây vẫn lần quần chưa tan.
Đất gần, buồm tít núi ngàn,
Trời trong nghe tiếng lá hàng cây cao.
Hươu đâu trước cổng ngó vào,
Muốn cùng mày với thằng tao hợp bầy...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:42:39 bởi Anh Nguyên >
KHƯƠNG THÔN (Kỳ nhất)
羌 村 (其 一)
崢 嶸 赤 雲 西,
日 腳 下 平 地。
柴 門 鳥 雀 噪,
歸 客 千 裡 至。
妻 孥 怪 我 在,
驚 定 還 拭 淚。
世 亂 遭 飄 蕩,
生 還 偶 然 遂。
鄰 人 滿 牆 頭,
感 嘆 亦 歔 欷。
夜 闌 更 秉 燭,
相 對 如 夢 寐。
杜 甫 Tranh vanh xích vân tây, Nhật cước hạ bình địa. Sài môn điểu tước táo, Quy khách thiên lý chí. Thê noa quái ngã tại, Kinh định hoàn thức lệ. Thế loạn tao phiêu đãng, Sinh hoàn ngẫu nhiên tụy. Lân nhân mãn tường đầu, Cảm thán diệc hư hỷ. Dạ lan cánh bỉnh đăng, Tương đối như mộng mỵ. Đỗ-Phủ Dịch: Làng Khương (Bài một) Mây màu đỏ dựa núi tây, Mặt trời tỏa xuống tràn đầy đất đai. Sẻ kêu xáo xác cửa ngoài, Khách từ ngàn dặm về ai có ngờ. Ai còn tưởng sống đến giờ, Hết cơn kinh sợ, mắt mờ lệ tuôn. Loạn ly trôi nổi luôn luôn, Bỗng nhiên lại sống tìm đường về đây. Ngoài tường, lối xóm đứng đầy, Cảm thương cũng đến dãi bày thở than. Bên đèn chẳng biết đêm tàn, Nhìn nhau cứ tưởng trăm ngàn giấc mơ... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:43:31 bởi Anh Nguyên >
KHƯƠNG THÔN (Kỳ nhị) 羌 村 (其 二)
晚 歲 迫 偷 生,
還 家 少 歡 趣。
嬌 兒 不 離 膝,
畏 我 復 卻 去。
憶 昔 好 追 涼,
故 繞 池 邊 樹。
蕭 蕭 北 風 勁,
撫 事 煎 百 慮。
賴 知 禾 黍 收,
已 覺 糟 床 注。
如 今 足 斟 酌,
且 用 慰 遲 暮。
杜 甫
Vãn tuế bách thâu sinh, Hoàn gia thiểu hoan thú. Kiều nhi bất ly tất, Úy ngã phục khước khứ. Ức tích hiếu truy lương, Cố nhiễu trì biên thụ. Tiêu tiêu bắc phong kình, Phủ sự tiễn bách lự. Lại tri hòa thử thâu, Dĩ giác tao sàng chú. Như kim túc châm chước, Thả dụng ủy trì mộ. Đỗ-Phủ Dịch: Làng Khương (Bài hai) Tuổi già hối sống cho mau, Về nhà sao được cùng nhau vui cười. Các con quấn quýt bên người, Sợ ta đi nữa, phương trời xa xôi. Nhớ xưa, bóng mát dạo chơi, Nay đi dưới bóng cây nơi ao làng. Ào ào gió bắc phũ phàng, Bao nhiêu ngang trái, lại càng lo âu. Biết rằng lúa gặt từ lâu, Lại hay rượu ủ một bầu đã xong. Nay đem uống đủ thỏa lòng, Hãy dùng khuây khỏa suốt trong chiều tà... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:45:47 bởi Anh Nguyên >
KHƯƠNG THÔN (Kỳ tam) 羌 村 (其 三)
群 雞 正 亂 叫,
客 至 雞 斗 爭。
驅 雞 上 樹 木,
始 聞 扣 柴 荊。
父 老 四 五 人,
問 我 久 遠 行。
手 中 各 有 攜,
傾 醘 濁 復 清。
苦 辭“酒 味 薄,
黍 地 無 人 耕。
兵 革 既 未 息,
兒 童 盡 東 征”。
請 為 父 老 歌,
艱 難 愧 深 情。
歌 罷 仰 天 嘆,
四 座 淚 縱 橫。
杜 甫 Quần kê chính loạn khiếu, Khách chí kê đấu tranh. Khu kê thướng thụ mộc, Thủy văn khấu sài kinh. Phụ lão tứ ngũ nhân, Vãn ngã cửu viễn hành. Thủ trung các hữu huề Khuynh kháp trọc phục thanh. Khổ từ tửu vị bạc, Thử địa vô nhân canh. Binh cách kỷ vị túc, Nhi đồng tận đông chinh. Thỉnh vị phụ lão ca, Gian nan quỷ thâm tình. Ca bãi ngưỡng thiên thán, Tứ tọa lệ tung hoành. Đỗ-Phủ Dịch: Làng Khương (Bài ba) Bầy gà nháo nhác kêu inh, Vừa khi khách đến, gà kình đá nhau. Đuổi gà lên hết cây mau, Mới nghe tiếng gõ như đâu cửa rào. Cụ già, năm, sáu, bước vào, Hỏi ta xa vắng ra sao, lâu về? Trong tay mang rượu cập kè, Hết nghiêng bầu đục lại kề bầu trong. Rượu, than lạt chẳng vừa lòng, Đồng không cầy cấy, sao mong rượu nồng. Chiến tranh, việc vẫn chưa xong, Các con đi đánh miền đông hết rồi. Hát hầu các cụ nghe chơi, Gian nan, hổ thẹn tình người vẫn sâu. Nhìn trời than thở hồi lâu, Chung quanh ai cũng lệ sầu chứa chan... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.05.2022 10:37:24 bởi Anh Nguyên >
THUẬT HOÀI 述 懷
去 年 潼 關 破,妻 子 隔 絕 久。
今 夏 草 木 長,脫 身 得 西 走。
麻 鞋 見 天 子,衣 袖 露 兩 肘。
朝 廷 愍 生 還,親 故 傷 老 醜。
涕 淚 授 拾 遺,流 離 主 恩 厚。
柴 門 雖 得 去,未 忍 即 開 口。
寄 書 問 三 川,不 知 家 在 否?
比 聞 同 罹 禍,殺 戮 到 雞 狗。
山 中 漏 茅 屋,誰 複 依 戶 牖?
摧 頹 蒼 松 根,地 冷 骨 未 朽。
幾 人 全 性 命?盡 室 豈 相 偶?
欽 岑 猛 虎 場,鬱 結 回 我 首。
自 寄 一 封 書,今 已 十 月 後。
反 畏 消 息 來,寸 心 亦 何 有!
漢 運 初 中 興,生 平 老 耽 酒。
沉 思 歡 會 處,恐 作 窮 獨 叟。 杜 甫 Khứ niên đồng quan phá, Thê tử cách tuyệt cửu. Kim hạ thảo mộc trường, Thoát thân đắc tây tẩu. Ma hài kiến thiên tử, Y tụ lộ lưỡng trữu. Triều đình mẫn sinh hoàn, Thân cố thương lão xú. Thế lệ thụ thập di, Lưu ly chủ ân hậu. Sài môn tuy đắc khứ, Vị nhẫn tức khai khẩu. Ký thư vấn tam xuyên, Bất tri gia tại phù. Tị văn đồng ly họa, Sát lục đáo kê cẩu. Sơn trung lậu mao ốc, Thùy phục y hộ dũ. Tồi đồi thương tùng căn, Địa lãnh cốt vị hủ. Kỷ nhân toàn tính mệnh, Tận thất khởi tương ngẫu. Khâm sầm mãnh hổ trường, Uất kết hồi ngã thủ. Tự ký nhất phong thư, Kim dĩ thập nguyệt hậu. Phản úy tiêu tức lai, Thốn tâm diệc hà hữu. Hán vận sơ trung hưng, Sinh bình lão đam tửu. Trầm tư hoan hội xứ, Khủng tác cùng độc tẩu. Đỗ-Phủ Dịch: Kể lại nỗi lòng Năm rồi vỡ ải Đồng-Quan, Vợ con cách biệt dặm ngàn từ lâu. Hè này cây cỏ xanh mầu, Thoát thân, vội chạy quay đầu về tây. Giầy gai, vào lậy vua ngay, Áo tay rách cả, để bày khuỷu ra. Triều đình trông thấy xót xa, Bạn bè thương lão sao già xấu đi. Lệ trào nhận chức Thập-Di, Ơn vua sâu nặng, lấy gì đền đây. Được thăm nhà cũ, mừng thay, Vẫn chưa nín miệng, nói ngay tức thì. Tam-Xuyên, hỏi có chuyện gì, Nhà còn ở đấy hay đi mất rồi. Mới nghe gặp nạn đó thôi, Chó, gà, bị giết, huống người ra sao. Mái tranh dột nát núi cao, Có ai tạm đến, ra vào náu nương. Thông xanh gẫy gục, rễ vương, Đất còn lạnh lẽo, nắm xương chưa tàn. Mấy ai giữ mạng cho toàn, Cả nhà lại được về đoàn tụ nhau. Núi cao, cọp ở từ lâu, Ta quay đầu lại, bực hầu muốn điên. Lá thư tự gửi đi liền, Đến nay mười tháng, trông biền biệt tăm. Khi tin tức tới, sợ rằng, Tấc lòng này có còn chăng không nào. Vận nhà Hán mới lên cao, Suốt đời, chén rượu mê sao đến già. Nghĩ về sum họp vui ca, Sợ mình vẫn khổ, thân già cô đơn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.05.2022 10:38:15 bởi Anh Nguyên >
BÀNH NHA HÀNH 彭 衙 行
憶 昔 避 賊 初,
北 走 經 險 艱。
夜 深 彭 衙 道,
月 照 白 水 山。
盡 室 久 徒 步,
逢 人 多 厚 顏。
參 差 谷 鳥 吟,
不 見 遊 子 還。
癡 女 飢 咬 我,
啼 畏 虎 狼 聞。
懷 中 掩 其 口,
反 側 聲 愈 嗔。
小 兒 強 解 事,
故 索 苦 李 餐。
一 旬 半 雷 雨,
泥 濘 相 牽 攀。
既 無 禦 雨 備,
徑 滑 衣 又 寒。
有 時 經 契 闊,
竟 日 數 里 間。
野 果 充 餱 糧,
卑 枝 成 屋 椽。
早 行 石 上 水,
暮 宿 大 邊 煙。
少 留 同 家 窪,
欲 出 蘆 子 關。
故 人 有 孫 宰,
高 義 薄 層 雲。
延 客 已 曛 黑,
張 燈 啟 重 門。
煖 湯 濯 我 足,
剪 紙 招 我 魂。
從 此 出 妻 孥,
相 視 涕 蘭 干。
眾 雛 爛 熳 睡,
喚 起 霑 盤 餐。
誓 將 與 夫 子,
永 結 為 弟 昆。
遂 空 所 坐 堂,
安 居 奉 我 歡。
誰 肯 艱 難 際,
豁 達 露 心 肝。
別 來 歲 日 周,
胡 羯 仍 構 患。
何 當 有 翅 翎,
飛 去 墮 爾 前。 杜 甫 Ức tích tị giặc sơ, Bắc tẩu kinh hiểm gian. Dạ thâm bành nha đạo, Nguyệt chiếu bạch thủy sơn. Tận thất cửu đồ bộ, Phùng nhân đa hậu nhan. Sâm si cốc điểu ngâm, Bất kiến du tử hoàn. Si nữ cơ giảo ngã, Đề úy hổ lang văn. Hoài trung yêm kỳ khẩu, Phản trắc thanh dũ sân. Tiểu nhi cưỡng giải sự, Cố sách khổ lý xan. Nhất tuần bán lôi vũ, Nê nính tương khiên phan. Ký vô ngự vũ bị, Kính hoạt y hựu hoàn. Hữu thì kinh khế khoát, Cánh nhật sổ lý gian. Dã quả sung hầu lương, Ty chi thành ốc duyên. Tảo hành thạch thượng thủy, Mộ túc thiên biên yên. Thiểu lưu đồng gia oa, Dục xuất lô tử quan. Cố nhân hữu tôn tể, Cao nghĩa bạc tằng vân. Diên khách dĩ huân hắc, Trương đăng khải trùng môn. Noãn thang trạc ngã túc, Tiễn chỉ chiêu ngã hồn. Tòng thử xuất thê noa, Tương thị thế lan can. Chúng sồ lạn mạn thụy, Hoán khởi triêm bàn xan. Thệ tương dữ phu tử, Vĩnh kết vi đệ côn. Toại không sở tọa đường, An cư phụng ngã hoan. Thùy khẳng gian nan tế, Khoát đạt lộ tâm can. Biệt lai tuế nguyệt chu, Hồ kiệt nhưng cấu hoạn. Hà đương hữu xí linh, Phi khứ trụy nhĩ tiền. Đỗ-Phủ Dịch: Đường Bành-Nha Nhớ xưa chạy giặc ra đi, Chạy về phương bắc hiểm nguy vô cùng. Bành-Nha, đường tối chập chùng, Trăng soi Bạch-Thủy, đều cùng ra đi. Gia đình gian khổ sợ chi, Gặp người quen biết, mặt lì, biết sao. Trong hang, chim hót ngọt ngào, Trên đường vắng vẻ, về nào thấy ai. Gái thơ đói, cắn ta hoài, Khóc la, lại sợ bao loài cọp, lang. Bịt mồm, ôm dỗ nhẹ nhàng, Không nghe, tiếng khóc lại càng dữ hơn. Bé trai hiểu biết, không hờn, Đòi ăn mận đắng thay cơm đỡ lòng. Một tuần mưa, sấm đùng đùng, Bùn xình, dắt díu, vẫn cùng nhau đi. Che mưa chẳng có vật gì, Đường trơn, áo lạnh, bụng thì đói ăn. Trải bao vất vả nhọc nhằn, Một ngày vài dặm, bước dần mà đi. Lương khô, quả dại thiếu gì, Bẻ cành tạm ở mỗi khi đêm về. Lội trên suối sớm lạnh ghê, Chân trời, tối ngủ khói kề ngay bên. Trũng Đồng-Gia, ghé, đi liền, Muốn ra Lô-Tử ở miền phía tây. Ông Tôn-Tể, gặp ở đây, Con người nghĩa khí như mây giữa trời. Khách, mời ở lại, tối rồi, Treo đèn mở cửa, quyết mời vào trong. Nước đun rửa mặt, chân, xong, Gọi hồn, cắt giấy, trong lòng mới yên. Đưa con, vợ, ở chốn riêng, Nhìn nhau, nước mắt xiên xiên muốn trào. Bày con trẻ ngủ ngon sao! Phải lay chúng dạy ngồi vào bữa cơm. ‘‘Xin thày vui vẻ ban ơn: Kết làm huynh đệ vui buồn có nhau’’. Nói xong, vội bỏ ra mau, Để gia đình được cùng nhau xum vầy. Trong cơn lận đận, ai đây? Mở toang gan dạ, phơi bầy lòng son. Biệt nhau, năm tháng đã tròn, Giặc Hồ như cũ, vẫn còn chưa yên. Làm sao có cánh bay lên, Bay đi, đáp xuống ngay liền trước ai... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.05.2022 10:39:24 bởi Anh Nguyên >
AI GIANG ĐẦU
哀 江 頭
少 陵 野 老 吞 生 哭,
春 日 潛 行 曲 江 曲;
江 頭 宮 殿 鎖 千 門,
細 柳 新 蒲 為 誰 綠?
憶 昔 霓 旌 下 南 苑;
苑 中 景 物 生 顏 色。
昭 陽 殿 裡 第 一 人,
同 輦 隨 君 侍 君 側。
輦 前 才 人 帶 弓 箭,
白 馬 嚼 齧 黃 金 勒。
翻 身 向 天 仰 射 雲,
一 箭 正 墜 雙 飛 翼。
明 眸 皓 齒 今 何 在?
血 污 遊 魂 歸 不 得。
清 渭 東 流 劍 閣 深,
去 住 彼 此 無 消 息。
人 生 有 情 淚 沾 臆,
江 水 江 花 豈 終 極?
黃 昏 胡 騎 塵 滿 城,
欲 往 城 南 望 城 北。
杜 甫 Thiếu lăng dã lão thôn thanh khốc, Xuân nhật tiềm hành khúc giang khúc. Giang đầu cung điện tỏa thiên môn, Tế liễu tân bồ vị thùy lục. Ức tích nghê tinh hạ nam uyển, Uyển trung vạn vật sinh nhan sắc. Chiêu dương điện lš đệ nhất nhân, Đồng liễn tùy quân thị quân trắc. Liễn tiền tài nhân đái cung tiễn, Bạch mã tước nghiễn hoàng kim lặc. Phiên thân hướng thiên ngưỡng xạ vân, Nhất tiếu chính trụy song phi dực. Minh mâu hạo xỉ kim hà tại, Huyết ô du hồn quy bất đắc. Thanh vị đông lưu kiếm các thâm, Khứ vãng bỉ thử vô tiêu tức. Nhân sinh hữu tình lệ triêm ức, Giang thảo giang hoa khởi chung cực. Hoàng hôn hồ kỵ trần mãn thành, Dục vãng thành nam vọng thành bắc. Đỗ-Phủ Dịch: Thương xót nơi bến sông Thiếu-Lăng, lão khóc âm thầm, Ngày xuân đi lén đến dần Khúc-Giang. Bên sông, cung điện chốt ngang, Vì ai? bồ liễu xuân sang xanh rì. Nhớ xưa Nam-Uyển vua về, Trong vườn, hoa cỏ muôn bề tốt tươi. Điện Chiêu-Dương có một người, Bên vua hầu hạ, được ngồi xe loan. Cung tên, thị nữ vai mang, Trước xe, ngựa trắng nhạc vàng rổn rang. Nghiêng mình bắn mũi tên vàng, Cánh hồng rơi xuống, reo vang tiếng cười. Mắt trong, răng trắng đâu rồi, Máu đào hoen ố hồn thời về chăng? Kiếm sâu, Vị chảy băng băng, Đó đây đi lại, khó lòng biết tin. Lệ rơi ướt áo nơi tim, Bên sông hoa, cỏ im lìm, tới đâu? Bụi tung, ngựa giặc phi mau, Sang Nam, thành Bắc, ngó màu năm xưa... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.05.2022 10:40:30 bởi Anh Nguyên >
AI VƯƠNG TÔN
哀 王 孫
長 安 城 頭 頭 白 烏,
夜 飛 延 秋 門 上 呼;
又 向 人 家 啄 大 屋,
屋 底 達 官 走 避 胡。
金 鞭 斷 折 九 馬 死,
骨 肉 不 待 同 馳 驅。
腰 下 寶 玦 青 珊 瑚,
問 之 不 肯 道 姓 名,
但 道 困 苦 乞 為 奴。
已 經 百 日 竄 荊 棘,
身 上 無 有 完 肌 膚。
高 帝 子 孫 盡 隆 準,
龍 種 自 與 常 人 殊。
豺 狼 在 邑 龍 在 野,
王 孫 善 保 千 金 軀。
不 敢 長 語 臨 交 衢,
且 為 王 孫 立 斯 須。
昨 夜 東 風 吹 血 腥,
東 來 橐 駝 滿 舊 都。
朔 方 健 兒 好 身 手,
昔 何 勇 銳 今 何 愚?
竊 聞 天 子 已 傳 位,
聖 德 北 服 南 單 于。
花 門 剺 面 請 雪 恥,
慎 勿 出 口 他 人 狙。
哀 哉 王 孫 慎 勿 疏,
五 陵 佳 氣 無 時 無。 杜 甫 Trường an thành đầu đầu bạch ô, Dạ phi diên thu môn thượng hô. Hựu hướng nhân gia trác đại ốc, Ốc để đạt quan tẩu tỵ hồ. Kim tiên đoạn chiết cửu mã tử, Cốt nhục bất đắc đồng trì khu. Yêu hạ bảo quyết thanh san hô, Khả liên vương tôn khấp lộ ngu. Vấn chi bất khẳng đạo tính danh, Đãn đạo khốn khổ khất vi nô. Dĩ kinh bách nhật thoán kinh cức, Thân thượng vô hữu hoàn cơ phu. Cao đế tử tôn tận long chuẩn, Long chủng tự dữ thường nhân thù. Sài lang tại ấp long tại dã, Vương tôn thiện bảo thiên kim khu. Bất cảm trường ngữ lâm giao cù, Thả vị vương tôn lập tư tu. Tạc dạ đông phong xuy huyết tinh, Đông lai thác đà mãn cựu đô. Sóc phương kiện nhi hảo thân thủ, Tích hà dũng nhuệ kim hà ngu. Thiết văn thiên tử dĩ truyền vị, Thánh đức bắc phục nam thiền vu. Hoa môn ly diện thỉnh tuyết sỷ, Thận vật xuất khẩu tha nhân thư. Ai tai vương tôn thận vật sơ, Ngũ lăng giai khí vô thì vô. Đỗ-Phủ Dịch: Buồn cho cháu vua Trường-An đầy quạ bạc đầu, Diên-Thu, trên cổng, đêm thâu kêu dài. Đến nhà to lớn mổ hoài, Lánh Hồ quan chạy, còn ai ở lầu. Roi vàng gẫy, ngựa chết đâu, Vội vàng, ruột thịt cùng nhau chẳng chờ. Lưng đeo ngọc quý san hô, Góc đường khóc vụng, thẫn thờ cháu vua. Hỏi tên, dấu diếm chẳng thưa, Than rằng khổ sở, chỉ ưa làm hầu. Bụi gai, trốn chẳng ló đầu, Trên thân, da thịt chẳng đâu được lành. Giống vua cái mũi rành rành, Nòi rồng cùng với dân lành khác xa. Rồng ẩn ruộng, sói ở nhà, Giữ thân cẩn thận, rồi ra ngàn vàng. Dài dòng, chẳng tiện giữa đàng, Vì vương tôn, nóì vội vàng vài câu. Máu tanh gió thổi từ đâu, Lạc đà, đông đến, trước sau khắp thành. Trai Bắc, sức mạnh nổi danh, Sao xưa dũng mãnh, giờ thành yếu đi. Nghe vua truyền kẻ kế vì, Thiền Vu phục Hán còn gì ngại đâu. Hoa-Môn, rửa nhục, thỉnh cầu, Miệng nên cẩn thận, biết đâu người rình. Ôi! vương tôn chớ coi khinh, Ngũ-Lăng, khí đẹp thường sinh mọi thời... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.05.2022 10:41:30 bởi Anh Nguyên >
BẮC CHINH
北 征
皇 帝 二 载 秋, 闰 八 月 初 吉。
杜 子 将 北 征, 苍 茫 问 家 室。
维 时 遭 艰 虞, 朝 野 少 暇 日。
顾 惭 恩 私 被, 诏 许 归 蓬 荜。
拜 辞 诣 阙 下, 怵 惕 久 未 出。
虽 乏 谏 诤 姿, 恐 君 有 遗 失。
君 诚 中 兴 主, 经 纬 固 密 勿。
东 胡 反 未 已, 臣 甫 愤 所 切。
挥 涕 恋 行 在, 道 途 犹 恍 惚。
乾 坤 含 疮 痍, 忧 虞 何 时 毕!
靡 靡 逾 阡 陌, 人 烟 眇 萧 瑟。
所 遇 多 被 伤, 呻 吟 更 流 血。
回 首 凤 翔 县, 旌 旗 晚 明 灭。
前 登 寒 山 重, 屡 得 饮 马 窟。
邠 郊 入 地 底, 泾 水 中 荡 潏。
猛 虎 立 我 前, 苍 崖 吼 时 裂。
菊 垂 今 秋 花, 石 戴 古 车 辙。
青 云 动 高 兴, 幽 事 亦 可 悦。
山 果 多 琐 细, 罗 生 杂 橡 栗。
或 红 如 丹 砂, 或 黑 如 点 漆。
雨 露 之 所 濡, 甘 苦 齐 结 实。
缅 思 桃 源 内, 益 叹 身 世 拙。
坡 陀 望 鄜 畤, 岩 谷 互 出 没。
我 行 已 水 滨, 我 仆 犹 木 末。
鸱 鸟 鸣 黄 桑, 野 鼠 拱 乱 穴。
夜 深 经 战 场, 寒 月 照 白 骨。
潼 关 百 万 师, 往 者 散 何 卒?
遂 令 半 秦 民, 残 害 为 异 物。
况 我 堕 胡 尘, 及 归 尽 华 发。
经 年 至 茅 屋, 妻 子 衣 百 结。
恸 哭 松 声 回, 悲 泉 共 幽 咽。
平 生 所 娇 儿, 颜 色 白 胜 雪。
见 爷 背 面 啼, 垢 腻 脚 不 袜。
床 前 两 小 女, 补 绽 才 过 膝。
海 图 坼 波 涛, 旧 绣 移 曲 折。
天 吴 及 紫 凤, 颠 倒 在 裋 褐。
老 夫 情 怀 恶, 呕 泄 卧 数 日。
那 无 囊 中 帛, 救 汝 寒 凛 栗。
粉 黛 亦 解 包, 衾 裯 稍 罗 列。
瘦 妻 面 复 光, 痴 女 头 自 栉。
学 母 无 不 为, 晓 妆 随 手 抹。
移 时 施 朱 铅, 狼 藉 画 眉 阔。
生 还 对 童 稚, 似 欲 忘 饥 渴。
问 事 竞 挽 鬚, 谁 能 即 嗔 喝?
翻 思 在 贼 愁, 甘 受 杂 乱 聒。
新 归 且 慰 意, 生 理 焉 得 说!
至 尊 尚 蒙 尘, 几 日 休 练 卒?
仰 观 天 色 改, 坐 觉 妖 氛 豁。
阴 风 西 北 来, 惨 澹 随 回 纥。
其 王 愿 助 顺, 其 俗 善 驰 突。
送 兵 五 千 人, 驱 马 一 万 匹。
此 辈 少 为 贵, 四 方 服 勇 决。
所 用 皆 鹰 腾, 破 敌 过 箭 疾。
圣 心 颇 虚 伫, 时 议 气 欲 夺。
伊 洛 指 掌 收, 西 京 不 足 拔。
官 军 请 深 入, 蓄 锐 伺 俱 发。
此 举 开 青 徐, 旋 瞻 略 恒 碣。
昊 天 积 霜 露, 正 气 有 肃 杀。
祸 转 亡 胡 岁, 势 成 擒 胡 月。
胡 命 其 能 久, 皇 纲 未 宜 绝。
忆 昨 狼 狈 初, 事 与 古 先 别。
奸 臣 竟 菹 醢, 同 恶 随 荡 析。
不 闻 夏 殷 衰, 中 自 诛 褒 妲。
周 汉 获 再 兴, 宣 光 果 明 哲。
桓 桓 陈 将 军, 仗 钺 奋 忠 烈。
微 尔 人 尽 非, 于 今 国 犹 活。
凄 凉 大 同 殿, 寂 寞 白 兽 闼。
都 人 望 翠 华, 佳 气 向 金 阙。
园 陵 固 有 神, 扫 洒 数 不 缺。
煌 煌 太 宗 业, 树 立 甚 宏 达。 杜 甫 Hoàng đế nhị tải thu, Nhuận bát nguyệt sơ cát. Đỗ tử tương bắc chinh, Thương mang vấn gia thất. Duy thì tao gian ngu, Triều dã thiểu hạ nhật. Cố tàm ân tư bị, Chiếu hứa quy bồng tất. Bái từ nghệ khuyết hạ, Truật dịch cửu vi xuất. Tuy pháp gián tránh tư, Khủng quân hữu di thất. Quân thành trung hưng chủ, Kinh vĩ cố mật vật. Đông hồ phản vị dĩ, Thần phủ phẫn sở thiết. Huy thế luyến hành tại, Đạo đồ do hoảng hốt. Càn khôn hàm sang di, Ưu ngu hà thì tất. Mỹ mỹ du thiên mạch, Nhân yên diểu tiêu sắt. Sơ ngộ đa bi thương, Thán ngâm cánh lưu huyết. Hồi thủ phượng tường huyện, Tinh kỳ vãn minh diệt. Tiền đăng hàn sơn trùng, Lũ đắc ẩm ma quật. Mân giao nhập địa để, Kính thủy trung đãng duật. Mãnh hổ lập ngã tiền, Thương nhai hống thì liệt. Cúc thùy kim thu hoa, Thạch đới cổ xa triệt. Thanh vân động cao hứng, U sự diệc khả duyệt. Sơn quả đa tỏa tế, La sinh tạp tượng lật. Hoặc hồng như đan sa, Hoặc hắc như điểm tất. Vũ lộ chi sở nhu, Cam khổ tề kết thực. Miến tư đào nguyên nội, Ích thán thân thế chuyết. Pha đà vọng phu trĩ, Nham cốc hỗ xuất một. Ngã hành dĩ thủy tân, Ngã bộc do mộc mạt. Chi điểu minh hoàng tang, Dã thử củng loạn huyệt. Dạ tâm kinh chiến trường, Hàn nguyệt chiếu bạch cốt. Đồng quan bách vạn sư, Vãng giả tán hà tốt. Toại linh bán tần dân, Tàn hại vi dị vật. Huống ngã trụy hồn trần, Cập quy tẫn hoa phát. Kinh niên chí mao ốc, Thê tử y bách kết. Đỗng khốc tùng thanh hồi, Bi tuyền cộng u yết. Bình sinh sở kiêu nhi, Nhan sắc bạch thắng tuyết. Kiến gia bội diện đề, Cấu nhị cước bất miệt. Sàng tiền lưỡng tiểu nữ, Bổ dĩnh tài quá tất. Hải đồ chiết ba đào, Cựu tú di khúc chiết. Thiên ngô cập tử phụng, Điên đảo tại đoản cát. Lão phu tình hoài ác, Ẩu tiết ngọa sổ nhật. Na vô nang trung bạch, Cứu nhữ hàn lẫm lật. Phấn đại diệc giải bao, Khâm trù xảo la liệt. Sấu thê diện phục quang, Si nữ đầu tự trất. Học mẫu vô bất vi, Hiểu trang tùy thủ mạt. Di thì chi chu duyên, Lang tạ họa mi khoát. Sinh hoàn đối đồng trĩ, Tự dục vong cơ khát. Vấn sự cạnh vãn tu, Thùy năng tức sân hát. Phiên tư tại tặc sầu, Cam thụ tạp loạn quát. Tân quy thả uý ý, Sinh lý yên đắc thuyết. Chí tôn thượng mông trần, Kỷ nhật hưu luyện tốt. Ngưỡng quan thiên sắc cải, Tọa giác yêu phân khoát. Âm phong tây bắc lai, Thảm đạm tùy hồi hột. Kỳ vương nguyện trợ thuận, Kỳ tục thiện trì đột. Tống binh ngũ thiên nhân, Khu mã nhất vạn thất. Thử bối thiểu vi quý, Tứ phương phục dũng quyết. Sở dụng giai ưng đẳng, Phá địch quá tiễn tật. Thánh tâm phả hư trữ, Thì nghị khí dục đoạt. Y lạc chỉ chưởng thu, Tây kinh bất túc bạt. Quan quân thỉnh thâm nhập, Súc nhuệ khả câu phát. Thử cử khai thanh từ, Tuyền chiêm lược hằng kiệt. Hiệu thiên tích sương lộ, Chính khí hữu túc sát. Họa chuyển vong hồ tuế, Thế thành cầm hồ nguyệt. Hồ mệnh kỳ năng cửu, Hoàng cương vị nghi tuyệt. Ức tích lang bối sơ, Sự dữ cổ tiên biệt. Gian thần cánh thư hải, Đồng ác tùy đãng tích. Bất văn hạ ân suy, Trung tự chu bao đát. Chu hán hoạch tái hưng, Tuyên quang quả minh triết. Hoàn toàn trần tướng quân, Trượng việt phấn trung liệt. Vi nhĩ nhân tận phi, Ư kim quốc do hoạt. Thê lương đại đồng điện, Tịch mịch bạch thú thát. Đô nhân vọng thúy hoa, Giai khí hướng kim khuyết. Viên lăng cố hữu thần, Tảo sái sơ bất khuyết. Hoàng hoàng thái tông nghiệp, Thụ lập thậm hoằng đạt. Đỗ-Phủ Dịch: Lên miền bắc Mùa Thu Chí-Đức thứ nhì, Nhuận hai tháng tám, sớm đi an lành. Đỗ đi miền bắc mới đành, Vội vàng thu xếp về nhanh thăm nhà. Gặp thời buổi khó, đường xa, Triều đình, thôn xóm, ai mà nhàn đâu. Ngoảnh đầu, thẹn với ân sâu, Chiếu cho nghỉ phép về lâu thăm nhà. Cung vua, lễ biệt đi xa, Nghĩ suy, lo lắng, ngẩn ra không về. Can ngăn, cân nhắc mọi bề, Lỡ vua sơ sót, lời quê vắng rồi. Vua trung hưng, quả đúng thôi, Kỷ cương nắm vững, tính thời lại siêng. Phía đông, Hồ phản chưa yên, Phủ này tức giận muốn điên cả người. Hành cung, quyến luyến lệ rơi, Đường đi, hoảng hốt, tâm thời chưa yên. Nước non thương tích triền miên, Bao giờ lo sợ buồn phiền hết đây. Bước theo bờ ruộng cỏ đầy, Xóm thưa nhà ít, khói bay tiêu điều. Bị thương, ta gặp phần nhiều, Vết thương máu rỉ, than kêu não nùng. Phượng-Tường, chợt ngoảnh lại trông, Chiều, cờ ẩn hiện, lúc không thấy gì. Núi non trùng điệp khó đi, Vũng cho ngựa uống còn ghi dấu đầy. Đồng Mân tựa đáy đất này, Sông Kinh cuộn chảy ở ngay giữa đồng. Hổ kia đứng trước ta trông, Gầm vang, tưởng núi tét không còn lành. Thu này cúc đã nở nhanh, Đá còn mang dấu rành rành xe xưa. Mây xanh gợi hứng hồn thơ, Cảnh trông u tĩnh thật vừa lòng thay. Núi non, quả nhỏ tí này, Trổ ra la liệt, lẫn ngay lật vào. Hoặc hồng, hoặc giống son sao, Hoặc đen, thực chẳng khác nào phết sơn. Móc mưa làm ẩm ướt hơn, Ngọt hay đắng chát cũng đơm trái liền. Xa xôi, nghĩ đến Đào-Nguyên, Cảm thương vụng dại cho nên nỗi này. Châu Phu, đàn tế còn đây, Núi, hang, khuất hiện đổi thay nhau hoài. Đã gần bến nước chẳng sai, Gã hầu còn ở đầu vài ngọn cây. Cú kêu, dâu úa vàng đầy, Chuột đồng xúm xít cả bầy trước hang. Đêm khuya, qua chiến trường hoang, Trăng soi sương trắng ngổn ngang lạnh lùng. Đồng-Quan, trăm vạn quân hùng, Một ngày tan tác, lạ lùng, buồn thay. Khiến dân nửa nước Tần này, Chết thành ma quỷ, nơi đây vật vờ. Ta chìm trong gió bụi Hồ, Kịp về, tóc đã bạc phơ mái đầu. Về căn nhà cỏ bỏ lâu, Vợ con, áo vá tới đâu trăm lần. Khóc vang hòa tiếng thông gần, Suối buồn tuôn chẩy trước sân nghẹn ngào. Trai ta trước đẹp thế nào, Mặt giờ trắng bệch tuyết sao sánh bằng. Thấy cha, quay mặt khóc ròng, Chân không, cáu ghét, chạnh lòng xót xa. Trước giường, hai gái nhỏ ta, Áo chằng đụp vá, phủ qua gối gầy. Xé tranh biển sóng vá đây, Tấm thêu, gẫy khúc vá nay khó nhìn. Con nghê và phượng nằm im, Đầu xuôi đuôi ngược vá lên áo này. Thân già lại bệnh, khổ thay, Tiêu và ói mửa vài ngày đã qua. Biết sao! túi chẳng lụa là, Cứu con run lạnh lấy ra tức thời. Mở bao, toàn phấn son thôi, Trải mền, bày khắp mọi nơi trên giường. Vợ gầy tươi tắn khác thường, Gái khờ tự lấy lược gương chải đầu. Làm theo mẹ, sót gì đâu, Sáng ra trang điểm, lau lau chùi chùi. Điểm son chốc chốc làn môi, Chân mày vẽ đậm quá rồi, con ơi! Sống về thấy trẻ vui ôi, Như quên đói khát mất rồi còn đâu. Hỏi han, con cứ kéo râu, Hỏi ai có thể nói câu nặng lời. Buồn trong vùng giặc một thời, Đành cho con cái vui chơi ồn ào. Mới về, an ủi phần nào, Mưu sinh, biết nói được sao lúc này. Nhà vua còn vất vả thay, Luyện rèn binh mã, mấy ngày nghỉ ngơi! Ngẩng nhìn trời đổi sắc rồi, Ngồi nhìn yêu khí khắp nơi tỏa đầy. Gió miền tây bắc về đây, Đi theo Hồi-Hột, tràn đầy thê lương. Vua kia hứa giúp mọi đường, Chuyên về cưỡi ngựa và thường đánh nhanh. Giao năm nghìn lính đánh rành. Ngựa đưa một vạn, tập tành đã lâu. Người ít, tinh nhuệ làm đầu, Anh hùng, cương quyết, đâu đâu cũng mừng. Dùng quân nhanh tựa chim ưng, Phá tan quân địch nhanh chừng tên bay. Nhà vua tin tưởng quá thay!... Những lời bàn tán lúc này dẹp đi. Thâu Y, Lạc, được tức thì, Tây-Kinh, lấy lại có gì khó đâu. Quan quân xin được tiến sâu, Bao lâu rèn luyện bắt đầu tiến lên. Thanh, Từ, tiến đánh trước tiên, Quay về, Hằng, Kiệt, chiếm liền cho xong. Trời quang chứa móc ở trong, Cho nên chính khí lúc trong, khi mờ. Họa từ năm đánh giặc Hồ, Thế thành vào tháng giặc Hồ diệt vong. Giặc Hồ số mạng dài chăng?! Kỷ cương vua, chớ tưởng rằng dứt đâu. Nhớ khi loạn lạc bắt đầu, Tuy so truyện cổ khác nhau ít nhiều. Gian thần, kết cục đều tiêu, Tay chân bị đẩy đến nhiều miền xa. Không nghe Ân, Hạ, suy à, Đát, Bao, đều bị trong nhà giết nhau. Hán, Chu, hưng thịnh lại mau, Tuyên, Quang, sáng suốt như nhau, bậc hiền. Tướng quân Trần thật oai nghiêm, Khiến người trung liệt càng lên tinh thần. Không ông, còn khổ người dân, Nhờ ông, đất nước dần dần hồi sinh. Đại-Đồng ủ rũ in hình, Lại nhìn Bách-Thú riêng mình đứng im. Dân kinh, cờ thúy ngóng nhìn, Những làn khí vượng hướng kim khuyết tràn. Vườn, lăng, thần vẫn an toàn, Quét lau, chùi rửa, phải làm, thiếu sao? Thái-Tông, nghiệp sáng biết bao, Như cây hùng vĩ vút cao giữa trời... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.05.2022 10:51:45 bởi Anh Nguyên >
HỌA BÙI ĐỊCH ĐĂNG THỤC CHÂU ĐÔNG ĐÌNH TỐNG KHÁCH 和 裴 迪 登 蜀 州 東 亭 送 客 東 閣 官 梅 動 詩 興, 還 如 何 遜 在 揚 州。 此 時 對 雪 遙 相 憶, 送 客 逢 春 可 自 由? 幸 不 折 來 傷 歲 暮, 若 為 看 去 亂 鄉 愁。 江 邊 一 樹 垂 垂 發, 朝 夕 催 人 自 白 頭。 杜 甫 Đông các quan mai động thi hứng, Hoàn như hà tốn tại dương châu. Thử thì đối tuyết dao tương ức, Tống khách phùng xuân khả tự do. Hạnh bất chiết lai thương tuế mộ, Nhược vi khan khứ loạn hương sầu. Giang biên nhất thụ thùy thùy phát, Triêu dịch thôi nhân tự bạch đầu. Đỗ-Phủ Dịch: Họa bài ‘‘Lên đình phía đông ở Thục-Châu tiễn khách’’ của Bùi-Địch Gác đông, mai gợi ý thơ, Dương-Châu, Hà-Tốn, bây giờ khác đâu. Xa xôi nhìn tuyết nhớ nhau, Tiễn đưa khách, đã bắt đầu vào Xuân. Nay cành chẳng bẻ tiễn chân, Nếu không, nhìn thấy muôn phần nhớ quê. Bên sông hoa nở xum xuê, Sớm, hôm, khiến kẻ xa quê bạc đầu... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 18:59:25 bởi Anh Nguyên >
NHẤT BÁCH NGŨ THẬP DẠ ĐỐI NGUYỆT 一 百 五 十 夜 望 月
無 家 對 寒 食﹐
有 淚 如 金 波。
斫 卻 月 中 桂﹐
清 光 應 更 多。
仳 離 放 紅 蕊,
想 像 嚬 青 蛾。
牛 女 漫 愁 思,
秋 期 猶 渡 河。 杜 甫 Vô gia đối hàn thực, Hữu lệ như kim ba. Chước khước nguyệt trung quế, Thanh quang ưng cánh đa. Tỷ ly phóng hồng nhụy, Tưởng tượng tần thanh nga. Ngưu nữ mạn sầu tứ, Thu kỳ do độ hà. Đỗ-Phủ Dịch: Đêm thứ một trăm mười lăm ngắm trăng Tiết hàn thực tới, không nhà, Sóng vàng nước mắt chảy ra đầm đìa. Trong trăng, chặt được quế kia, Sáng, còn rực rỡ tràn trề gương nga. Nhị hồng thưa ở trong hoa, Tưởng rằng ly biệt người ta chau mày. Ngưu-Lang, Chức-Nữ sầu đầy, Sông Ngân, Thu tới nơi này hẹn nhau... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:00:46 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: