Đường Thi Trích Dịch II - Anh Nguyên
HỌA GIẢ XÁ NHÂN TẢO TRIỀU
和 賈 至 舍 人 早 朝
五 夜 漏 聲 催 曉 箭
九 重 春 色 醉 仙 棑
旌 旗 日 煖 龍 蛇 動
宮 殿 風 微 燕 雀 高
朝 罷 香 煙 攜 滿 袖
詩 成 珠 玉 在 揮 毫
欲 知 世 掌 絲 綸 美
池 上 於 今 有 鳳 毛
杜 甫 Ngũ dạ lậu thanh thôi hiểu tiễn, Cửu trùng xuân sắc túy tiên đào. Tinh kỳ nhật noãn long xà động, Cung điện phong vi yến tước cao. Triêu bãi hương yên huề mãn tụ, Thi thành châu ngọc tại huy hào. Dục tri thế chưởng ti luân mỹ, Trì thượng ư kim hữu phượng mao. Đỗ-Phủ Dịch: Họa bài ‘‘Chầu sớm’’của xá nhân Giả-Chi Canh năm giục báo lên vua, Mặt rồng tươi thắm như mùa đào tiên. Cờ bay, trời ấm, rồng lên, Trước cung gió mát, trên thềm yến bay. Tan chầu, hương ngát áo này, Dứt thơ, tiếng ngọc reo ngay bút rồi. Ti luân vẻ đẹp truyền đời. Lông chim phượng có trên nơi ao này... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:02:54 bởi Anh Nguyên >
QUAN LÝ CỐ THỈNH TƯ MÃ ĐỆ SƠN THỦY ĐỒ 觀 李 固 請 司 馬 弟 山 水 圖 其 二 方 丈 渾 連 水, 天 台 總 映 雲。 人 間 長 見 畫, 老 去 恨 空 聞。 范 蠡 舟 偏 小, 王 喬 鶴 不 群。 此 生 隨 萬 物, 何 路 出 塵 氛。 Phương trượng hỗn liên thủy, Thiên đài tổng ánh vân. Nhân gian trường kiến họa, Lão khứ hận không văn. Phạm lãi chu biển tiểu, Vương kiều hạc bất quần. Thử sinh tùy vạn vật, Hà xứ xuất trần phân. Đỗ-Phủ Dịch: Xem tranh sơn thủy của em Tư-mã Lý Cố Thỉnh Phòng tăng liền với nước xanh, Thiên-Đài sáng bởi chung quanh mây vờn. Người đời còn thấy tranh luôn, Già rồi chẳng thấy, nghe muôn hận lòng. Thuyền nhỏ, Phạm-Lãi thong dong, Vương-Kiều, hạc chẳng sống trong một bầy. Theo muôn vật ở đời này, Nơi nào mà chẳng vướng ngay bụi trần... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:03:54 bởi Anh Nguyên >
MỘ ĐĂNG TÂY AN TỰ CHUNG LÂU KÝ BÙI THẬP ĐỊCH 暮 登 西 安 寺 鍾 樓 寄 裴 十 迪
暮 倚 高 樓 對 雪 峰,
僧 來 不 語 自 鳴 鍾。
孤 城 返 照 紅 將 斂,
近 市 浮 煙 翠 且 重。
多 病 獨 愁 常 闃 寂,
故 人 相 見 未 從 容。
知 君 苦 思 緣 詩 瘐,
大 向 交 遊 萬 事 慵。 杜 甫 Mộ ỷ cao lâu đối tuyết phong, Tăng lai bất ngữ tự minh chung. Cô thành phản chiếu hồng tương liễm, Cận thị phù yên thúy thả trùng. Đa bệnh độc sầu thường khuých tịch, Cố nhân tương kiến vị thung dung. Tri quân khổ tứ duyên thi sấu, Đại hướng giao du vạn sự dung. Đỗ-Phủ Dịch: Chiều lên gác chuông chùa Tây-An, Gửi ông mười Bùi-Địch Lầu cao, chiều núi tuyết đầy, Bước lên chẳng nói, tự thầy thỉnh chuông. Thành cô vạt nắng chiều buông, Chợ gần, khói biếc đang tuôn mịt mờ. Bệnh nhiều, buồn nghĩ vẩn vơ, Bạn xưa gặp gỡ, vẫn chờ, thấy đâu! Bác đang tìm ý nhức đầu, Giao du cho thỏa, rồi đâu cũng thành... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:05:26 bởi Anh Nguyên >
NHÂN XUẤT KIM QUANG MÔN, HỮU BI VÃNG SỰ 至 德 二 載,甫 自 京 金 光 門 出,間 道 歸 鳳 翔, 乾 元 初 從 左 拾 遺 移 華 州 掾,與親 故 別, 因 出 此 門,有 悲 往 事 .
此 道 昔 歸 順, 西 郊 胡 正 繁。 至 今 殘 破 膽, 應 有 未 招 魂。 近 得 歸 京 邑, 移 官 豈 至 尊。 無 才 日 衰 老, 駐 馬 望 千 門。 Chí Đức nhị tải, Phủ tự kinh Kim Quang môn xuất, gian đạo quy Phụng Tường, Càn Nguyên sơ tòng Tả thập di di Hoa Châu duyện, dữ thân cố biệt, nhân xuất thử môn, hữu bi vãng sự Thử đạo tích quy thuận, Tây giao hồ chính phồn. Chí kim tàn phá đảm, Ưng hữu vị chiêu hồn. Cận thị quy kinh ấp, Di quan khởi chí tôn. Vô tài nhật suy lão, Thú mã vọng thiên môn. Đỗ-Phủ Dịch: Nhân qua cửa Kim Quang nhớ chuyện cũ (Năm Chí Đức thứ 2, từ kinh đô, qua cửa Kim Quang triều vua mới ở Phụng Tường, năm đầu Càn Nguyên, bị giáng từ Tả thập di làm quan nhỏ ở Hoa Châu, từ biệt người thân, nhân qua cửa này, nhớ chuyện cũ) Đường này, xưa đã theo về, Miền tây, Hồ lại tính bề loạn ly. Đến nay mật nát còn gì, Hồn còn tan tác chờ khi trở về. Gần thì làng xóm kinh kỳ, Làm quan xa, ấy cũng tùy lệnh vua. Không tài, ngày một già nua, Ngựa dừng, đứng ngắm kinh đô ngàn nhà... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2019 16:28:39 bởi Anh Nguyên >
DÃ VỌNG 野 望 清 秋 望 不 极, 迢 遞 起 層 陰。 遠 水 兼 天 淨, 孤 城 隱 霧 深。 葉 稀 風 更 落, 山 迥 日 初 沈。 獨 鶴 歸 何 晚? 昏 鴉 已 滿 林。 杜 甫 Thanh thu vọng bất cập, Thiều đệ khởi tằng âm. Viễn thûy kiêm thiên tïnh, Cô thành ẩn vụ thâm. Diệp hy phong cánh lạc, Sơn quýnh nhật sơ trầm. Độc hạc quy hà vãn, Hôn nha dĩ mãn lâm. Đỗ-Phủ Dịch: Ngắm cánh đồng Thu trong, hướng bắc ngút trông, Xa xăm đã nổi những tầng âm u. Nước xa in sắc trời Thu, Nơi thành quạnh quẽ mây mù bủa vây. Lá còn chút ít, gió lay, Mặt trời xa tít núi tây, chìm dần. Hạc về, sao trễ, một thân? Đầy rừng quạ đậu, xa gần khắp nơi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.04.2022 16:43:21 bởi Anh Nguyên >
XUÂN TRỰC TẢ TỈNH
春 宿 左 省
花 隱 掖 垣 暮,
啾 啾 棲 鳥 過。
星 臨 萬 戶 動,
月 傍 九 霄 多。
不 寢 聽 金 鑰,
因 風 想 玉 珂。
明 朝 有 封 事,
數 問 夜 如 何。 杜 甫 Hoa ẩn dịch viên mộ, Thu thu thê điểu qua. Tinh lâm vạn hộ động, Nguyệt bạng cửu tiêu đa. Bất tẩm thính kim thược, Nhân phong tưởng ngọc kha. Minh triêu hữu phong sự, Sổ vấn dạ như hà. Đỗ-Phủ Dịch: Xuân trực ở Tả tỉnh Chiều về, hoa núp vườn cung, Vù vù, chim đến đậu cùng vườn đây. Vạn nhà lấp lánh sao đầy, Vầng trăng rọi chín tầng mây chập chùng. Khoá vàng, chẳng ngủ, nghe rung, Gió như nhạc ngựa chập chùng nơi đâu. Sớm, đem bài tấu vào chầu, Vua rằng: ''Đêm có gì đâu, hãy trình.'' Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.10.2016 04:25:10 bởi Anh Nguyên >
TRÚ MỘNG 晝 夢 二 月 饒 睡 昏 昏 然, 不 獨 夜 短 晝 分 眠。 桃 花 氣 暖 眼 自 醉, 春 渚 日 落 夢 相 牽。 故 鄉 門 巷 荊 棘 底, 中 原 君 臣 豺 虎 邊。 安 得 務 農 息 戰 鬥, 普 天 無 吏 橫 索 錢。 杜 甫 Nhị nguyệt nhiêu thụy hôn hôn nhiên, Bất độc dạ đoản trú phân miên. Đào hoa khí noãn nhãn tự túy, Xuân chử nhật lạc mộng tương khiên. Cố hương môn hạng kinh cức để, Trung nguyên quân thần sài hổ biên. An đắc vụ nông tức chiến đấu, Phổ thiên vô lại hoành sách tiền. Đỗ-Phủ Dịch: Giấc mộng ngày Tháng hai, mê mệt ngủ say, Chẳng vì đêm ngắn, ngủ ngày bù đâu. Hoa đào trời ấm say nhau, Chiều Xuân bến nước mộng đâu đến liền. Nhà xưa, gai, cỏ, phủ lên, Trung nguyên, tôi, chúa, ở bên sói, hùm. Sao yên, trồng cấy sớm hôm, Không còn quan lại chuyên môn ăn tiền... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:17:23 bởi Anh Nguyên >
ĐẮC XÁ ĐỆ QUAN THƯ 得 舍 弟 觀 書, 爾 到 江 陵 府, 何 時 到 峽 州。 亂 難 生 有 別, 聚 集 病 應 瘳。 颯 颯 開 啼 眼, 朝 朝 上 水 樓。 老身 須 付 托, 白 骨 更 無 懮。 杜 甫 Nhĩ đáo giang lăng phủ, Hà thì đáo giáp châu. Loạn ly sinh hữu biệt, Tụ tập bệnh ưng sưu. Táp táp khai đề nhãn, Triêu triêu thướng thủy lâu. Lão thân tu ký thác, Bạch cốt cánh vô ưu. Đỗ-Phủ Dịch: Được thư em Quan Giang-Lăng, em đã đến rồi, Giáp-Châu, em sẽ tới nơi khi nào? Loạn ly, sống phải xa nhau, Khi nào sum họp, hết đau hết buồn. Chớp đôi mắt, lệ trào tuôn, Lên lầu mỗi sớm, buồn buồn nhìn sông. Thân già có chỗ cậy trông, Hết lo xương trắng bỏ không ai nhìn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:18:43 bởi Anh Nguyên >
BẠT MUỘN 撥 悶
聞 道 雲 安 麴 米 春,
才 傾 一 盞 即 醺 人.
乘 舟 取 醉 非 難 事,
下 峽 銷 愁 定 幾 巡.
長 年 三 老 遙 憐 汝,
捩 柁 開 頭 捷 有 神.
已 辨 青 錢 防 雇 直,
當 今 美 味 入 吾 脣. 杜 甫 Văn đạo vân an khúc mễ xuân, Tài khuynh nhất trản tức huân nhân. Thừa chu thủ túy phi nan sự, Há giáp tiêu sầu định kỷ tuần. Trưởng niên tam lão dao lân nhữ, Lệ đà khai đầu tiệp hữu thần. Dĩ biện thanh tiền phòng hỗ trực, Đương kim mỹ vị nhập ngô thần. Đỗ-Phủ Dịch: Phá tan nỗi buồn Vân-An, nghe nói rượu ngon, Một ly vừa dốc đã toan say rồi. Lên thuyền say cũng dễ thôi, Tiêu sầu xuống kẽm mềm môi mấy tuần. Phu thuyền chèo lái dốc tâm, Lướt nhanh tới trước tựa thần kéo lôi. Tiền thuyền dành sẵn đây rồi, Vị ngon đã thấm đôi môi lão này... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:20:07 bởi Anh Nguyên >
DỮ CHU SƠN NHÂN (Nam lân) 與 朱 山 人
錦 里 先 生 烏 角 巾,
園 收 芋 栗 未 全 貧.
慣 看 賓 客 兒 童 喜,
得 食 階 除 鳥 雀 馴.
秋 水 才 深 四 五 尺,
野 航 恰 受 兩 三 人.
白 沙 翠 竹 江 村 暮,
相 送 柴 門 月 色 新. 杜 甫 Cẩm lý tiên sinh ô giác cân, Viên thâu trữ lật vị toàn bần. Quán khan tân khách nhi đồng hỷ, Đắc thực giai trừ điểu tước tuần. Thu thủy tài thâm tứ ngũ xích, Dã hàng kháp thụ lưỡng tam nhân. Bạch sa thúy trúc giang thôn mộ, Tương tống sài môn nguyệt sắc tân. Đỗ-Phủ Dịch: Tặng cụ Chu người ở núi (Hàng xóm phía nam) Ông thầy thôn Cẩm khăn đen, Vườn, thu khoai, giẻ, nghèo hèn gì đâu. Trẻ vui đón khách đã lâu, Quen ăn, chim sẻ rủ nhau đến thềm. Nước Thu, năm, bốn thước trên, Thuyền, hai, ba khách bước lên đã đầy. Tre xanh, cát trắng chiều nay, Tiễn nhau trước cổng, sáng đầy trăng non... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:21:09 bởi Anh Nguyên >
ỨC ĐỆ (Kỳ nhất) 憶 弟 其 一
喪 亂 聞 吾 弟,
飢 寒 傍 濟 州。
人 稀 書 不 到,
兵 在 見 何 由。
憶 昨 狂 催 走,
無 時 病 去 憂。
即 今 千 种 恨,
惟 共 水 東 流。
杜 甫
Táng loạn văn ngô đệ, Cơ hàn bạng tế châu. Nhân hy thư bất đáo, Binh tại kiến hà do. Ức tạc cuồng thôi tẩu, Vô thì bệnh khứ ưu. Tức kim thiên chủng hận, Duy cộng thủy đông lưu. Đỗ-Phủ Dịch: Nhớ em (Bài một) Loạn ly, nghe được tin em, Tế-Châu nương náu, lạnh kèm thiếu ăn. Vắng người, thư gửi khó khăn, Giặc còn, sao biết có lần gặp nhau. Nhớ xưa, giục chạy cho mau, Có đâu còn tưởng ốm đau, lo buồn. Nay nghìn mối hận nhớ luôn, Phó dòng nước chảy theo nguồn về đông... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:22:34 bởi Anh Nguyên >
ỨC ĐỆ (Kỳ nhị)
憶 弟 其 二
且 喜 河 南 定,
不 問 鄴 城 圍。
百 戰 今 誰 在?
三 年 望 汝 歸。
故 園 花 自 發,
春 日 鳥 還 飛。
斷 絕 人 煙 久,
東 西 消 息 稀。
杜 甫 Thả hỷ hà nam định, Bất vấn nghiệp thành vi. Bách chiến kim thùy tại, Tam niên vọng nhữ quy. Cố hương hoa tự phát, Xuân nhật điểu hoàn phi. Đoạn tuyệt nhân yên cửu, Đông tây tiêu tức hy. Đỗ-Phủ Dịch: Nhớ em (Bài hai) Hà-Nam, mừng được yên rồi, Nghiệp-Thành, chẳng hỏi, vây thời đã lâu. Đánh hoài, còn lại ai đâu, Ba năm, trông ngóng em lâu chưa về. Quê xưa, hoa nở xum xuê, Ngày Xuân, chim vẫn đi về thảnh thơi. Mọi nhà, khói bếp tắt rồi, Đông tây, tin tức mọi nơi họa hoằn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:23:47 bởi Anh Nguyên >
KHÚC GIANG ĐỐI TỬU 曲 江 对 酒
苑 外 江 头 坐 不 归,
水 精 宫 殿 转 霏 微。
桃 花 细 逐 杨 花 落,
黄 鸟 时 兼 白 鸟 飞。
纵 饮 久 判 人 共 弃,
懒 朝 真 与 世 相 违。
吏 情 更 觉 沧 洲 远,
老 大 悲 伤 未 拂 衣。
杜 甫
Uyển ngoại giang đầu tọa bất quy, Thủy tinh cung điện chuyển phi phi. Đào hoa tế trục lê hoa lạc, Hoàng điểu thì kiêm bạch điểu phi. Túng ẩm cửu phan nhân cộng lạc, Lãn triều chân dữ thế tương vi. Lại tình cánh giác thương châu viễn, Lão đại đồ thương vị phất y. Đỗ-Phủ Dịch: Uống rượu ở sông Khúc Bến ngoài vườn Ngự, không về, Nước lồng cung điện khắp bề lung linh. Đào, lê, hoa rụng quanh mình, Chim vàng, chim trắng thỏa tình liệng bay. Rượu tràn, quên bạn lâu ngày, Lười chầu, thực đã trái ngay thói đời. Thương-Châu, bận, thấy xa vời, Tuổi già chưa rũ áo đời...thương thay!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:26:50 bởi Anh Nguyên >
KHÚC GIANG TÚY HẬU 曲 江 醉 後
郭 東 橋 墓 何 年 客,
江 畔 風 光 幾 入 春。
只 合 殷 勤 逐 杯 酒,
不 羞 疏 索 向 交 親。
中 天 或 有 長 生 藥,
下 界 應 無 不 死 人。
除 卻 醉 來 開 口 笑,
世 間 何 事 競 冠 紳。 杜 甫
Quách đông kiều mộ hà niên khách, Giang bạn phong quang kỷ nhập xuân. Chỉ hợp ân cần trục bôi tửu, Bất tu sơ thác hướng giao thân. Trung thiên hoặc hữu trường sinh dược, Hạ giới ưng vô bất tử nhân. Trừ khước túy lai khai khẩu tiếu, Thế gian hà sự cánh quan thân. Đỗ-Phủ Dịch: Sau khi say ở sông Khúc Mộ ai ở xóm Cầu-Đông, Bờ sông, đã mấy nắng hồng Xuân qua. Chỉ còn chén rượu thiết tha, Nghèo xơ chẳng ngại đến nhà bạn thân. Trường sinh, trời có thuốc thần, Cõi người, ai chẳng một lần ra đi. Khi say, miệng mới cười khì, Ở đời, sao lại cần gì mũ, dây?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:27:43 bởi Anh Nguyên >
KHÚC GIANG ĐỐI VŨ 曲 江 值 雨
城 上 春 雲 覆 茆 墻
江 亭 晚 色 靜 年 芳
林 花 著 雨 燕 支 落
水 荇 牽 風 翠 帶 長
龍 武 新 軍 深 駐 輦
芙 蓉 別 殿 漫 焚 香
何 時 紹 此 金 錢 會
暫 醉 佳 人 錦 瑟 傍
杜 甫 Thành thượng xuân vân phú uyển tường, Giang đình vãn sắc tĩnh niên phương. Lâm hoa trước vũ yên chi lạc, Thủy hạnh khiên phong thúy đới trường. Long vũ tân quân thâm trú liễn, Phù dung biệt điện mạn phần hương. Hà thì thiệu thử kim tiền hội, Tạm túy giai nhân cẩm sắt bàng. Đỗ-Phủ Dịch: Gặp mưa nơi sông Khúc Vườn Xuân, mây phủ trên tường, Nhà bên sông vẫn vương hương nắng chiều. Hoa rừng mưa rụng trải đều, Gió đưa hạnh biếc dập dìu trôi xa. Xe quân Long-Vũ la cà, Phù-Dung, hương điện toả ra liền liền. Bao giờ gặp hội Kim-Tiền?! Tạm say, người đẹp kề bên ôm đàn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.10.2016 04:34:03 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
Kiểu: