Đường Thi Trích Dịch II - Anh Nguyên
KHÚC GIANG TAM CHƯƠNG (Kỳ nhất) 曲 江 三 章 章 五 句 其 一
曲 江 蕭 條 秋 氣 高,
菱 苛 枯 折 隨 風 濤,
游 子 空 嗟 垂 二 毛。
白 石 素 沙 亦 相 蕩,
哀 鴻 獨 叫 求 其 曹。
杜 甫 Khúc giang tiêu điều thu khí cao, Lăng hà khô chiết tùy phong đào. Du tử không ta thùy nhị mao, Bạch thạch tố sa diệc tương đãng. Ai hồng độc khiếu cầu kỳ tào. Đỗ-Phủ Dịch: Khúc-Giang, ba bài (Bài một) Khúc-Giang ảm đạm khí Thu, Ấu sen, sóng gió vi vu dập vùi. Tóc sương, lãng tử than đời, Cát và đá trắng muốn rời, chẳng yên. Ngỗng trời buồn bã kêu lên tìm bầy... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:29:23 bởi Anh Nguyên >
KHÚC GIANG TAM CHƯƠNG (Kỳ nhị) 曲 江 三 章 章 五 句 其 二
即 事 非 今 亦 非 古,
長 歌 激 越 削 林 莽,
此 屋 豪 華 固 難 數。
吾 人 甘 作 心 似 灰,
弟 姪 何 傷 淚 如 雨。 杜 甫 Tức sự phi kim diệc phi cổ, Trường ca khích việt sao lâm mãng. Tý ốc hào hoa cố nan số, Ngô nhân cam tác tâm tự hôi. Đệ điệt hà thương lệ như vũ. Đỗ-Phủ Dịch: Khúc-Giang, ba bài (Bài hai) Làm thơ, cũ mới chẳng theo, Ca dài vọng đến núi đèo rừng sâu. Hào hoa thế khó sánh đâu, Lòng ta đành để từ lâu tro tàn. Cháu, em thương xót, lệ tràn như mưa... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:31:23 bởi Anh Nguyên >
KHÚC GIANG TAM CHƯƠNG (Kỳ tam) 曲 江 三 章,章 五 句 其 三 自 斷 此 生 休 問 天, 杜 曲 幸 有 桑 麻 田, 故 將 移 住 南 山 邊。 短 衣 匹 馬 隨 李 廣, 看 射 猛 虎 終 殘 年 杜 甫 Tự đoạn thử sinh hưu vấn thiên, Đỗ-Khúc hạnh hữu tang ma điền. Cố tương di trụ nam sơn biên, Đoản y thất mã tùy lý quảng, Khán xạ mãnh hổ chung tàn niên. Đỗ-Phủ Dịch: Khúc-Giang, ba bài (Bài ba) Hết đời, thôi chẳng hỏi trời, Dâu, gai, Đỗ-Khúc, ruộng thời còn đây. Nam-Sơn, ở lính chốn này, Đi theo Lý-Quảng, ngựa gầy, áo thô, Tới già, bắn hổ, bao giờ cũng xem... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:32:49 bởi Anh Nguyên >
NGẪU ĐỀ 偶 題
文 章 千 古 事,得 失 寸 心 知。
作 者 皆 殊 列,名 聲 豈 浪 垂。
騷 人 嗟 不 見,漢 道 盛 於 斯。
前 輩 飛 騰 入,餘 波 綺 麗 為。
後 賢 兼 舊 列,歷 代 各 清 規。
法 自 儒 家 有,心 從 弱 歲 疲。
永 懷 江 左 逸,多 病 鄴 中 奇。
騄 驥 皆 良 馬,騏 驎 帶 好 兒。
車 輪 徒 已 斫,堂 構 惜 仍 虧。
漫 作 潛 夫 論,虛 傳 幼 婦 碑。
緣 情 慰 漂 蕩,抱 疾 屢 遷 移。
經 濟 慚 長 策,飛 棲 假 一 枝。
塵 沙 傍 蜂 蠆,江 峽 繞 蛟 螭。
蕭 瑟 唐 虞 遠,聯 翩 楚 漢 危。
聖 朝 兼 盜 賊,異 俗 更 喧 卑。
鬱 鬱 星 辰 劍,蒼 蒼 雲 雨 池。
兩 都 開 幕 府,萬 宇 插 軍 麾。
南 海 殘 銅 柱,東 風 避 月 支。
音 書 恨 烏 鵲,號 怒 怪 熊 羆。
稼 穡 分 詩 興,柴 荊 學 土 宜。
故 山 迷 白 閣,秋 水 隱 黃 陂。
不 敢 要 佳 句,愁 來 賦 別 離。
杜 甫 Văn chương thiên cổ sự, Đắc thất thốn tâm tri. Tác giả giai thù biệt, Danh thanh khởi lãng thùy. Tao nhân ta bất kiến, Hán đạo thịnh vu ti. Tiền bối phi đằng nhập, Dư ba ỷ lệ vy. Hậu hiền kiêm cựu chế, Lịch đại các thanh quy. Pháp tự nho gia hữu, Tâm tòng nhược tuế bì. Vịnh hoài giang tả dật, Đa bệnh nghiệp trung kỳ. Lộc ký giai lương mã, Kỳ lân đới hảo nhi. Xa luân đồ dĩ chước, Đường cấu tích nhưng khuy. Mạn tác tiềm phu luận, Hư truyền ấu phụ bi. Duyên tình úy phiêu đãng, Bảo tật lũ thiên di. Kinh tế tiệm trường sách, Phi thê giả nhất chi. Trần sa bàng phong sái, Giang giáp nhiễu giao ly. Tiêu sắt đường nghiêu viễn, Liên phiên sở hán nguy. Thánh triều kiêm đạo tặc, Dị tục cánh huyên bi. Úc úc tinh thần kiếm, Thương thương vân vũ trì. Lưỡng đô khai mạc phủ, Vạn trụ tháp quân huy. Nam hải tàn đồng trụ, Đông phong tỵ nguyệt chi. Âm thư hận điểu thước, Hào nộ quái hùng bi. Giá sắc phân thi hứng, Sài kinh học thổ nghi. Cố sơn mê bạch các, Thu thủy ức hoàng bi. Bất cảm yêu giai cú, Sầu lai phú biệt ly. Đỗ-Phủ Dịch: Tự nhiên viết Văn chương sự việc ngàn đời, Dở hay chỉ biết ở nơi tấc lòng. Mỗi người riêng một văn phong, Tiếng tăm há thả theo dòng sóng đâu. Tao nhân chẳng gặp được nhau, Văn đời Hán thịnh đạt mau điểm này. Người xưa bay nhảy vào ngay, Như tơ lụa đẹp đến nay chưa mờ. Người sau vẫn giữ phép xưa, Nhiều thời đã trải, luật giờ còn đây. Nhà Nho đặt các luật này, Bao năm theo đuổi, đến nay mệt nhoài. Bên sông ngâm vịnh dài dài, Bệnh nhiều, nghề nghiệp chuyện hay lạ lùng. Ngựa hay, Lộc, Ký, đều cùng, Kỳ Lân cũng được tiếng chung ngựa nòi. Thay nhau đẽo gọt chưa rồi, Luật Đường gây dựng hẳn hoi chưa thành. ‘‘Bàn người ở ẩn’’ viết nhanh, Bia truyền bà trẻ rành rành đó thôi. Theo tình thì sợ nổi trôi, Ngược ngang lại bị đổi dời khác đâu. Giúp đời thẹn kế dài lâu, Bay lên đứng đậu ở đầu cành cây. Bên ong mờ cát bụi đầy, Thuồng luồng, sông nước từng bầy lâu nhâu. Đường, Nghiêu, buồn cách đã lâu, Rối ren Hán, Sở, bắt đầu hiểm nguy. Thánh triều, trôm cướp như di, Khác nhau các tục, nhiều khi ồn ào. Kiếm đeo sáng rỡ như sao, Mây mưa phủ khắp trên ao xanh mờ. Hai kinh đều lập dinh cơ, Khắp nơi cờ xí phất phơ đầy trời. Cột đồng Nam-Hải gẫy rồi, Nguyệt-Chi, tỵ nạn đầy trời gió Đông. Không tin, chim thước giận không, Kêu la, lũ gấu, ngắm trông lạ kỳ. Lúa trồng, thơ hứng nhiều khi, Sống nơi thôn xóm, thổ nghi học hoài. Núi xưa, Bạch-Các, quên dài, Sông Thu lại tưởng đến hoài Hoàng-Bi. Câu hay chẳng dám nghĩ chi, Buồn buồn nói cảnh biệt ly mấy hàng... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:40:21 bởi Anh Nguyên >
ĐỀ TRƯƠNG THỊ ẨN CƯ
(Kỳ nhất) 題 張 氏 隱 居 其 一
春 山 無 伴 獨 相 求
伐 木 丁 丁 山 更 幽
澗 道 餘 寒 歷 雪
石 門 斜 日 到 邱
不 貪 夜 識 金 氣
遠 害 朝 看 麋 鹿 遊
乘 興 杳 然 迷 出 處
對 君 疑 是 泛 虛 舟 杜 甫
Xuân sơn vô bạn độc tương cầu,
Phạt mộc đinh đinh sơn cánh tu. Giản đạo dư hàn lịch vĩnh tuyết.
Thạch môn tà nhật đáo lâm khâu.
Bất tham dạ thức kim ngân khí,
Viễn hại triêu khan mi lộc du.
Thừa hứng yểu nhiên mê xuất xứ,
Đối quân nghi thị phiếm hư chu.
Đỗ-Phủ
Dịch:
Đề nơi họ Trương ở ẩn (Bài một)
Núi Xuân, không bạn, tìm nhau,
Đốn cây chan chát thêm mầu thê lương.
Tuyết lâu, khe lạnh là đường,
Nắng tà cửa đá ánh vương gò rừng.
Đêm, hơi vàng bạc, chẳng ưng,
Sớm, lìa tâm hại, vào rừng ngắm nai.
Hứng, quên về quãng đường dài,
Trước anh, cứ tưởng cùng ai dong thuyền... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:44:36 bởi Anh Nguyên >
ĐỀ TRƯƠNG THỊ ẨN CƯ (Kỳ nhị)
題 張 氏 隱 居
之 子 時 相 見 邀 人 晚 興 留
濟 潭 鱣 發 發 春 草 鹿 呦 呦
杜 酒 偏 勞 勸
張 梨 不 外 求 前 村 山 路 險 歸 醉 每 無 憂 杜 甫 Chi tử thì tương kiến, Yêu nhân vãn hứng lưu. Tế đàm chiên phát phát, Xuân thảo lộc ao ao. Đỗ tửu thiên lao khuyến, Trương lê bất ngoại cầu. Tiền thôn sơn lộ hiểm, Quy túy mỗi vô ưu. Đỗ-Phủ Dịch: Đề nơi ở ẩn của họ Trương (Bài hai) Gặp anh, chiều đã xuống mau, Hứng lên, giữ ở cùng nhau đừng về. Vượt đầm, lạch đạch cá trê, Cỏ Xuân, nai gọi bốn bề ao ao. Xin mời rượu Đỗ uống nào, Lê Trương sẵn có, chẳng hao công tìm. Xóm, đường núi hiểm ban đêm, Say về, nên chẳng lo phiền sợ chi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:56:21 bởi Anh Nguyên >
HIỂU PHÁT CÔNG AN 曉 發 公 安
北 城 擊 柝 復 欲 罷
東 方 明 星 亦 不 遲
鄰 雞 野 哭 如 昨 日
物 色 生 態 能 幾 時
舟 楫 眇 然 去 自 此
江 湖 遠 適 無 前 期
出 門 轉 盻 已 陳 蹟
藥 餌 扶 吾 隨 所 之
杜 甫 Bắc thành kích thác phục dục bãi, Đông phương minh tinh diệc bất trì. Lân kê dã khốc như tạc nhật, Vật sắc sinh thái năng kỷ thì. Chu tiếp diễu nhiên khứ tự thử, Giang hồ viễn thích vô tiền kỳ. Xuất môn chuyển phán dĩ trần tích, Dược nhị phù ngô tùy sở chi. Đỗ-Phủ Dịch: Sớm đi từ Công-An Bắc thành, nghe mõ định thôi, Phương đông sao sáng, chậm thời là bao? Gà đồng gáy giống bữa nào, Cảnh trời nguồn sống dậy bao lâu rồi. Mái chèo từ đấy xa xôi, Sông hồ xa thẳm, hẹn lời gì đâu. Nhà thành dấu vết đã lâu, Thuốc thoa rồi, muốn đi đâu mặc tình... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 19:59:13 bởi Anh Nguyên >
KIẾN HUỲNH HOẢ 見 螢 火
巫 山 秋 夜 螢 火 飛
疏 簾 巧 入 坐 人 衣
忽 驚 屋 裏 琴 書 冷
復 亂 簷 前 星 宿 稀
卻 繞 井 欄 添 箇 箇
偶 經 花 蕊 弄 煇 煇
滄 江 白 髮 愁 看 汝
來 歲 如 今 歸 未 歸
杜 甫 Vu sơn thu dạ huỳnh hỏa phi, Sơ liêm xảo nhập tọa nhân y. Hốt kinh ốc lý cầm thư lãnh, Phục loạn thiềm tiền tinh tú hi. Khước nhiễu tỉnh lan thiêm cá cá, Ngẫu kinh hoa nhị lộng huy huy. Thương giang bạch phát sầu khan nhữ, Lai tuế như kim quy vị quy. Đỗ-Phủ Dịch: Xem đom-đóm Lập lòe đóm lượn đêm Thu, Áo người đến đậu, mành thưa lọt vào. Sợ vì đàn sách lạnh bao, Ra thềm, chớp chớp như sao trên trời. Bay quanh thành giếng dạo chơi, Nhị hoa, lại đến đùa cười vui thay. Sông Thương, đầu bạc nhìn mày, Giờ này năm tới về hay chưa về... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2022 23:27:22 bởi Anh Nguyên >
ĐẢO Y 擣 衣
亦 知 戍 不 返,
秋 至 拭 清 砧。
已 近 苦 寒 月,
況 經 長 別 心。
寧 辭 擣 熨 倦,
一 寄 塞 垣 深。
用 盡 閨 中 力,
君 聽 空 外 音。
杜 甫 Diệc tri thú bất phản, Thu chí thức thanh châm. Dĩ cận hàn khổ nguyệt, Huống kinh trường biệt tâm. Ninh từ đảo y quyện, Nhất ký tái viên thâm. Dụng tận khuê trung lực, Quân văn không ngọai âm. Đỗ-Phủ Dịch: Đập áo Biết người đi chẳng về đâu, Đá vừa lau sạch mới đầu Thu sang. Đã gần tháng buốt tim gan, Huống lòng này đã vắng chàng từ lâu. Nhọc nhằn, đập áo quản đâu, Để đem gửi đến ải đầu xa xôi. Phòng the, gắng hết sức rồi, Mong chàng nghe được tận nơi tiếng chày!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 16:12:42 bởi Anh Nguyên >
KÝ ĐỖ VỊ 寄 杜 位
寒 日 經 簷 短
窮 猿 失 木 悲
峽 中 為 客 久
江 上 憶 君 時
天 地 身 何 在
風 塵 病 敢 辭
封 書 兩 行 淚
沾 洒 浥 新 詩
杜 甫 Hàn nhật kinh thiềm đoản, Cùng viên thất mộc bi. Giáp trung vi khách cửu, Giang thượng ức quân thì. Thiên địa thân hà tại, Phong trần bệnh cảm từ. Phong thư lưỡng hàng lệ, Triêm sái ấp tân thi. Đỗ-Phủ Dịch: Gửi Đỗ-Vị Mặt trời ngày lạnh, xuống mau, Cùng đường, cây mất, ở đâu?!...vượn sầu. Khách nay ở kẽm đã lâu, Trên sông, là lúc buồn rầu nhớ anh. Đất trời thân gửi đâu đành, Cuộc đời gió bụi, bệnh hành...từ sao? Dán thư, dòng lệ tuôn trào, Hạt châu ướt đẫm thấm vào trang thơ... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 16:17:55 bởi Anh Nguyên >
NHẬT MỘ 日 暮
牛 羊 下 來 久,
各 已 閉 柴 門。
風 月 自 清 夜,
江 山 非 故 園。
石 泉 流 暗 壁,
草 露 滴 秋 根。
頭 白 燈 明 裡,
何 須 花 燼 繁。
杜 甫 Ngưu dương hạ lai cửu, Các dĩ bế sài môn. Phong nguyệt tự thanh dạ, Giang sơn phi cố viên. Thạch tuyền lưu ám bích, Thảo lộ trích thu căn. Đầu bạch đăng minh lý, Hà tu hoa tẫn phồn. Đỗ-Phủ Dịch: Chiều tối Trâu, dê, xuống núi từ lâu, Cửa rào đã đóng, sót đâu nhà nào. Gió, trăng, đêm vắng thú sao, Núi sông, chẳng có chút nào giống quê. Sườn non suối đã khuất che, Hạt sương đầu cỏ rớt nhè rễ Thu. Dưới đèn, đầu đã bạc phơ, Hoa đèn nở rộ, đợi chờ chi đây?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 16:21:36 bởi Anh Nguyên >
THIÊN MẠT HOÀI LÝ BẠCH
天 末 懷 李 白
涼 風 起 天 末,
君 子 意 如 何。
鴻 雁 幾 時 到,
江 湖 秋 水 多。
文 章 憎 命 達,
魑 魅 喜 人 過。
應 共 冤 魂 語,
投 詩 贈 汨 羅。
杜 甫 Lương phong khởi thiên mạt, Quân tử ý như hà. Hồng nhạn kỷ thì đáo, Giang hồ thu thủy đa. Văn chương tăng mệnh đạt, Lỵ vị hỷ nhân qua. Ưng cộng oan hồn ngữ, Đầu thi tặng mịch la. Đỗ-Phủ Dịch: Nhớ Lý-Bạch ở chân trời Cuối trời gió mát nổi lên, Ý người quân tử phải liền nghĩ sao? Nhạn hồng sẽ đến khi nào? Sông sâu, hồ rộng đầy trào nước Thu. Văn chương thành đạt, ghen ư? Qủy ma vui sướng, người vừa mới qua. Muốn cùng nói với hồn ma, Ném thơ dòng nước Mịch-La tặng hồn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 16:26:57 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ nhất) 秦 州 雜 詩 其 一 滿 目 悲 生 事, 因 人 作 遠 遊。 遲 回 度 隴 怯, 浩 蕩 及 關 愁。 水 落 魚 龍 夜, 山 空 鳥 鼠 秋。 西 征 問 烽 火, 心 折 此 淹 留。 杜 甫 Mãn mục sinh bi sự, Nhân nhân tác viễn du. Trì hồi độ lũng khiếp, Hạo đãng cập quan sầu. Thủy lạc ngư long dạ, Sơn không điểu thử thu. Tây chinh vấn phong hỏa, Tâm chiết thử yêm lưu. Đỗ-Phủ Dịch: Thơ vặt ở Tần-Châu (Bài một) Mắt nhìn hoài lại sinh buồn, Người đi, ta cũng đi luôn xem nào. Về qua Độ-Lũng sợ sao! Lòng càng rúng động bước vào ải quan. Đêm Ngư-Long nước lũ tràn, Mùa Thu, Điểu-Thử núi càng vắng tanh. Miền tây, hỏi việc chiến tranh, Lòng này vì nó tan tành mất thôi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 16:34:28 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ nhị) 秦 州 雜 詩 其 二 秦 州 城 北 寺, 勝 跡 隗 囂 宮。 苔 蘚 山 門 古, 丹 青 野 殿 空。 月 明 垂 葉 露, 雲 逐 渡 溪 風。 清 渭 無 情 極, 愁 時 獨 向 東。 杜 甫 Tần châu thành bắc tự, Truyền thị ngỗi hiêu cung. Đài tiển sơn môn cổ, Đan thanh dã điện không. Nguyệt minh thùy diệp lộ, Vân trục độ khê phong. Thanh vị vô tình cực, Sầu thì độc hướng đông. Đỗ-Phủ Dịch: Thơ vặt ở Tần-Châu (Bài hai) Ngôi chùa phía bắc Tần-Châu, Truyền là cung lúc ban đầu Ngỗi-Hiêu. Cửa chùa cũ kỹ đầy rêu, Điện hoang, nét vẽ tiêu điều còn trơ. Trăng soi hạt móc hững hờ, Mây theo gió cuốn qua bờ suối sâu. Thờ ơ, sông Vị một mầu, Hướng đông chảy miết, buồn rầu ai hay... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 16:36:24 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ tam) 秦 州 雜 詩 其 三 州 圖 領 同 谷, 驛 道 出 流 沙。 降 虜 兼 千 帳, 居 人 有 萬 家。 馬 驕 朱 汗 落, 胡 舞 白 題 斜。 年 少 臨 洮 子, 西 來 亦 自 誇。 杜 甫 Châu đồ lãnh đồng cốc, Dịch lộ xuất lưu sa. Hàng lỗ kiêm thiên trướng, Cư nhân hữu vạn gia. Mã kiêu châu hãn lạc, Hồ vũ bạch đề tà. Niên thiếu lâm thao tử, Tây lai diệc tự khoa. Đỗ-Phủ Dịch: Thơ vặt ở Tần-Châu (Bài ba) Vốn Đồng-Cốc thuộc Tần-Châu, Con đường bãi cát bắt đầu đi ra. Ngàn đồn trại chặn giặc qua, Dân cư cũng có vạn nhà ít đâu. Ngựa mồ hôi đỏ tựa châu, Dân Hồ nhẩy múa nịt đầu trắng nghiêng. Lâm-Thao, một lũ thiếu niên, Miền tây về lại huyên thuyên khoe tài... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 16:40:16 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: