Đường Thi Trích Dịch II - Anh Nguyên
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ tứ) 秦 州 雜 詩 其 四 鼓 角 緣 邊 郡, 川 原 欲 夜 時。 秋 聽 殷 地 發, 風 散 入 雲 悲。 抱 葉 寒 蟬 靜, 歸 山 獨 鳥 遲。 萬 方 同 一 概, 吾 道 竟 何 之! 杜 甫 Cổ giác duyên biên quận, Xuyên nguyên dục dạ thì. Thu thinh ân địa phát, Phong tán nhập vân bi. Bảo diệp hàn thiền tĩnh, Quy sơn độc điểu trì. Vạn phương thanh nhất khái, Ngô đạo cánh hà chi. Đỗ-Phủ Dịch: Thơ vặt ở Tần-Châu (Bài bốn) Sát biên quận, trống, tù và, Sông và đồng ruộng, dần dà đêm buông. Tiếng Thu từ đất trào tuôn, Hòa tan trong gió mang buồn vào mây. Ve sầu lạnh bám lá cây, Về non chậm trễ chim bay một mình. Khắp phương đều một âm thinh. Lặng yên ta tự hỏi mình nói chi?!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 16:46:26 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ ngũ) 秦 州 雜 詩 其 五 南 使 宜 天 馬, 由 來 萬 匹 強。 浮 雲 連 陣 沒, 秋 草 遍 山 長。 聞 說 真 龍 種, 仍 殘 老 馬 霜。 哀 鳴 思 戰 鬥, 迥 立 向 蒼 蒼。 杜 甫 Nam sứ nghi thiên mã, Do lai vạn thất cường. Phù vân liên trận một, Thu thảo biến sơn trường. Văn thuyết chân long chủng, Nhưng tàn lão mã tương. Ai minh tư chiến đấu, Hồi lập hướng thương thương. Đỗ-Phủ Dịch: Thơ vặt Tần Châu (Bài năm) Sứ nam được ngựa tốt ghê, Cho nên sứ đã mang về vạn con. Mây trôi khuất trận đầu non, Cỏ Thu khắp núi hãy còn tốt tươi. Giống rồng thực chẳng phải chơi, Nhưng là ngựa quý đã hơi già rồi. Nghĩ buồn, chiến đấu chửa thôi, Bồn chồn đứng ngóng phương trời xanh xanh... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 16:55:45 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ lục) 秦 州 雜 詩 其 六 城 上 胡 笳 奏, 山 邊 漢 節 歸。 防 河 赴 滄 海, 奉 詔 發 金 微。 士 苦 形 骸 黑, 林 疏 鳥 獸 稀。 那 堪 往 來 戍, 恨 解 鄴 城 圍。 杜 甫 Thành thượng hồ già tấu, Sơn biên hán tiết quy. Phòng hà phó thương hải, Phụng chiếu phát kim vi. Sĩ khổ hình hài hắc, Lâm sơ điểu thú hy. Nả kham vãng lai thú, Hận giải nghiệp thành vi. Đỗ-Phủ Dịch: Thơ vặt ở Tần Châu (Bàì sáu) Trên thành vang tiếng khèn Hồ, Sườn non cờ Hán phất phơ về rồi. Phòng sông, Thương-Hải tới nơi, Kim-Vi, phụng chiếu tức thời đi ngay. Quân đen đủi, khổ suốt ngày, Rừng thưa, chim, thú, đến nay ít về. Lính đi về mãi, chán chê, Nghiệp-Thành chưa giải, hận ghê trong lòng!.. Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 17:00:24 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ thất)
秦 州 雜 詩 其 七
莽 莽 萬 重 山
孤 城 山 谷 閒
無 風 雲 出 寒
不 夜 月 臨 關
屬 國 歸 何 晚
樓 蘭 斬 未 還
煙 塵 獨 長 望
衰 颯 正 摧 顏
杜 甫 Mãng mãng vạn trùng san,
Cô thành sơn cốc nhàn.
Vô phong vân xuất tái,
Bất dạ nguyệt lâm quan.
Thuộc quốc quy hà vãn,
Lâu lan trảm vị hoàn.
Yên trần độc trường vọng,
Suy táp chính tồi nhan.
Đỗ-Phủ
Dịch:
Thơ vặt ở Tần-Châu
(Bài bẩy)
Muôn trùng lớp lớp núi non,
Trong thung lũng vắng, thành còn trơ vơ.
Mây trôi biên giới lững lờ,
Chưa đêm, trăng đã trên bờ ải quan.
Sao quan Thuộc-quốc muộn màng,
Quân đi chém giặc Lâu-Lan chưa về.
Mãi trông khói bụi, chán ghê,
Mặt mày xơ xác, thảm thê khó nhìn...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 17:04:47 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ bát) 秦 州 雜 詩 其 八 聞 道 尋 源 使, 從 天 此 路 回。 牽 牛 去 幾 許, 宛 馬 至 今 來。 一 望 幽 燕 隔, 何 時 郡 國 開。 東 征 健 兒 盡, 羌 笛 暮 吹 哀。 杜 甫 Văn đạo tầm nguyên sứ, Tòng thiên thử lộ hồi. Khiên ngưu khứ kỷ hứa, Uyển mã chí kim lai. Nhất vọng u yên cách, Hà thời quận quốc khai. Đông chinh kiện nhi tận, Khương địch mộ xuy ai. Đỗ-Phủ Dịch: Thơ vặt ở Tần-Châu (Bài tám) Nghe người nói sứ tìm nguồn, Từ trời về, hẳn theo luôn lối này. Khiên, tìm trâu hứa bao ngày, Uyển, chờ ngựa mãi, đến nay mới về. U Yên xa cách mong ghê, Khi nào đất nước đi về mới thông. Quân đang nguy khốn miền đông, Sáo Khương chợt thổi, mênh mông là buồn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 17:08:18 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ cửu) 秦 州 雜 詩 其 九 今 日 明 人 眼, 臨 池 好 驛 亭。 叢 篁 低 地 碧, 高 柳 半 天 青。 稠 疊 多 幽 事, 喧 呼 閱 使 星。 老 夫 如 有 此, 不 異 在 郊 垌。 杜 甫 Kim nhật minh nhân nhãn, Lâm trì háo dịch đình. Tùng hoàng đê địa bích, Cao liễu bán thiên thanh. Trù điệp đa u sự, Huyên hô duyệt sứ tinh. Lão phu như hữu thử, Bất dị tại giao quynh. Đỗ-Phủ Dịch: Thơ vặt ở Tần Châu (Bài chín) Mắt người chợt sáng bữa nay, Bên ao, nhà dịch nơi này đẹp ghê. Tre xanh rủ đất lê thê, Liễu mầu xanh biếc gần kề trời cao. Việc buồn chồng chất biết bao, Sứ đi nhộn nhịp như sao trên trời. Già này nếu được vậy rồi, Dễ gì mà chịu ở nơi mịt mù... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 17:16:17 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ thập) 秦 州 雜 詩 其 十 雲 氣 接 崑 崙, 涔 涔 塞 雨 繁。 羌 童 看 渭 水, 使 節 向 河 源。 煙 火 軍 中 幕, 牛 羊 嶺 上 村。 所 居 秋 草 靜, 正 閉 小 蓬 門。 杜 甫 Vân khí tiếp côn lôn, Sầm sầm tái vũ phồn. Khương đồng khan vị thủy, Sứ khách hướng hà nguyên. Yên hỏa quân trung mạc, Ngưu dương lĩnh thượng đồn. Sở cư thu thảo tĩnh, Chính bế tiểu bồng môn. Đỗ-Phủ Dịch: Thơ vặt ở Tần-Châu (Bài mười) Khí, mây, giáp với Côn-Lôn, Ầm ầm mưa đổ dập dồn ngoài biên. Trẻ Khương, Vị-Thủy, đứng bên, Sứ vua nhắm hướng Hà-Nguyên đi về. Trại quân khói lửa bốn bề, Vội vàng, đỉnh núi trâu dê lên rồi. Cỏ Thu vắng lặng khắp nơi, Cửa tranh đóng chặt, đường thời vắng tanh... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 17:32:47 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ thập nhất) 秦 州 雜 詩 其 十 一 蕭 蕭 古 塞 冷, 漠 漠 秋 雲 低。 黃 鵠 翅 垂 雨, 蒼 鷹 饑 啄 泥。 薊 門 誰 自 北, 漢 將 獨 征 西。 不 意 書 生 耳, 臨 衰 厭 鼓 鼙。 杜 甫 Tiêu tiêu cổ tái lãnh, Mạc mạc thu vân đê. Hoàng hạo xí thùy vũ, Thanh ưng cơ trác nê. Kế môn thùy tự bắc, Hán tướng độc chinh tê. Bất ý thư sinh nhĩ, Lâm suy yếm cổ bề. Đỗ-Phủ Dịch: Thơ vặt ở Tần-Châu (Bài mười một) Ải biên xưa lạnh, buồn buồn, Mây Thu xuống thấp trông luôn mờ mờ. Hộc vàng lấy cánh che mưa, Ưng xanh đói bụng, mổ bừa bùn ăn. Kế-Môn, ai mới về chăng? Đánh tây, tướng Hán hung hăng một mình! Nghĩ chi đến kẻ thư sinh, Trống quân inh ỏi mặc tình vang lên... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 17:41:36 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ thập nhị) 秦 州 雜 詩 其 十 二 山 頭 南 郭 寺, 水 號 北 流 泉。 老 樹 空 庭 得, 清 渠 一 邑 傳。 秋 花 危 石 底, 晚 景 臥 鐘 邊。 俯 仰 悲 身 世, 溪 風 為 颯 然。 杜 甫 Sơn đầu nam quách tự, Thủy hiệu bắc lưu tuyền. Lão thụ không đình đắc, Thanh cừ nhất ấp truyền. Thu hoa nguy thạch để, Vãn cảnh ngọa chung biên. Phủ ngưỡng bi thân thế, Khê phong vị táp nhiên. Đỗ-Phủ Dịch: Thơ vặt ở Tần-Châu (Bài mười hai) Cảnh chùa Nam-Quách đầu non, Bắc-Lưu, dòng suối hãy còn nơi đây. Giữa sân, cổ thụ một cây, Con ngòi qua ấp, nước đầy trong veo. Hoa Thu dưới đá ráng leo, Chiều về, ngắm cảnh, nằm khoèo bên chuông. Ngẩng lên cúi xuống, buồn thương, Trên dòng suối gió vẫn thường an nhiên... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 17:51:55 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ thập tam) 秦 州 雜 詩 其 十 三 傳 道 東 柯 谷, 深 藏 數 十 家。 對 門 藤 蓋 瓦, 映 竹 水 穿 沙。 瘦 地 翻 宜 粟, 陽 坡 可 種 瓜。 船 人 近 相 報, 但 恐 失 桃 花。 杜 甫 Truyền đạo đông kha cốc, Thâm tàng số thập gia. Đối môn đằng cái ngõa, Ánh trúc thủy xuyên sa. Xấu địa phiên nghi túc, Dương pha khả chủng qua. Thuyền nhân cận tương báo, Đãn khủng thất đào hoa. Đỗ-Phủ Dịch: Thơ vặt ở Tần-Châu (Bài mười ba) Nghe đồn hang đá Đông-Kha, Sâu nên chứa đến mười nhà ở trong. Dây leo phủ ngói lòng thòng, Trúc xanh óng ánh trước dòng nước tuôn. Đất cằn, trồng lúa chăm luôn, Nơi nhiều ánh sáng làm vườn trồng dưa. Thuyền gần đến, báo là vừa, Hoa đào, chỉ sợ đi bừa làm rơi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 17:57:01 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ thập tứ) 秦 州 雜 詩 其 十 四 萬 古 仇 池 穴, 潛 通 小 有 天。 神 魚 今 不 見, 福 地 語 真 傳。 近 接 西 南 境, 長 懷 十 九 泉。 何 時 一 茅 屋, 送 老 白 雲 邊。 杜 甫 Vạn cổ cửu trì huyệt, Tiềm thông tiểu hữu thiên. Thần ngư kim bất kiến, Phúc địa ngữ tương truyền. Cận tiếp tây nam cảnh, Trường hoài thập cửu tuyền. Hà thời nhất mao ốc, Tống lão bạch vân biên. Đỗ-Phủ Dịch: Thơ vặt ở Tần-Châu (Bài mười bốn) Cửu-Trì, hố tự ngàn xưa, Có đường ngầm nhỏ dẫn đưa tới trời. Cá thần nay chẳng thấy rồi, Nghe truyền đất phước là nơi chốn này. Cảnh tây nam sát gần đây, Nhớ hoài mười chín suối đầy cỏ hoa. Cỏ tranh dựng một mái nhà, Đám mây trăng trắng, tiễn già tới bên... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 18:02:00 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ thập ngũ) 秦 州 雜 詩 其 十 五 未 暇 泛 蒼 海, 悠 悠 兵 馬 間。 塞 門 風 落 木, 客 舍 雨 連 山。 阮 籍 行 多 興, 龐 公 隱 不 還。 東 柯 遂 疏 懶, 休 鑷 鬢 毛 斑。 杜 甫 Vị há phiếm thương hải, Du du binh mã gian. Tái môn hàn lạc mộc, Khách xá vũ liên sơn. Nguyễn tịch hành đa hứng, Bàng công ẩn bất hoàn. Đông kha toại sơ lãn, Hưu nhiếp mấn mao ban. Đỗ-Phủ Dịch: Thơ vặt ở Tần-Châu (Bài mười lăm) Chưa về Thương-Hải rong chơi, Bỗng đâu binh lửa đất trời mênh mông. Cửa biên lá rụng chất chồng, Mưa rơi nhà khách khắp vùng núi non. Hứng đi, Nguyễn-Tịch vẫn còn, Bàng-Công ở ẩn núi non không về. Đông-Kha lười, thấy thỏa thuê, Hàng ngày chải tóc bỏ bê không làm... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 18:04:43 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ thâp lục) 秦 州 雜 詩 其 十 六 東 柯 好 崖 谷, 不 與 眾 峰 群。 落 日 邀 雙 鳥, 晴 天 卷 片 雲。 野 人 矜 險 絕, 水 竹 會 平 分。 採 藥 吾 將 老, 兒 童 未 遣 聞。 杜 甫 Đông kha hảo nham cốc, Bất dữ chúng phong quần. Lạc nhật yêu song điểu, Tinh thiên quyển phiến vân. Dã nhân căng tuyệt hiểm, Thủy trúc hội bình phân. Thái dược ngô tương lão, Nhi đồng vị khiển văn. Đỗ-Phủ Dịch: Thơ vặt ở Tần-Châu (Bài mười sáu) Đông-Kha hang đá tốt ghê, Chẳng cùng các núi rủ rê kết bầy. Chiều, đôi chim gọi về đây, Trời quang vì các đám mây cuốn rồi. Dân kiêu thế hiểm khắp nơi, Trúc sinh nơi nước đều thời bằng nhau. Ta già hái thuốc chẳng mau, Chửa cho trẻ biết được đâu việc này... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 18:07:36 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI
(Kỳ thập thất) 秦 州 雜 詩 其 十 七 邊 秋 陰 易 久, 不 復 辨 晨 光。 檐 雨 亂 淋 幔, 山 雲 低 度 墻。 鸕 鶿 窺 淺 井, 蚯 蚓 上 深 堂。 車 馬 何 蕭 索, 門 前 百 草 長。 杜 甫
Biên thu âm dị tịch,
Bất phục biện thần quang.
Diêm vũ loạn sâm mạn,
Sơn vân để độ tường.
Lộ tư khuy tàn tỉnh,
Khưu dẫn thướng thâm đường.
Xa mã hà tiêu sách,
Môn tiền bách thảo trường. Đỗ-Phủ
Dịch:
Thơ vặt ở Tần-Châu
(Bài mười bẩy)
Trời Thu biên giới tối mau,
Sáng không phân biêt được đâu là ngày.
Mái tranh mưa hắt màn này,
Núi, mây xuống thấp vướng ngay vào tường.
Vạc, cò, giếng cạn soi gương,
Trong nhà chắc ấm, giun đương bò vào.
Ngựa xe vắng lặng làm sao!
Cỏ ngoài trước cửa đã cao quá rồi!...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 18:14:55 bởi Anh Nguyên >
TẦN CHÂU TẠP THI (Kỳ thập bát) 秦 州 雜 詩 其 十 八 地 僻 秋 將 盡, 山 高 客 未 歸。 塞 雲 多 斷 績, 邊 日 少 光 輝。 警 急 烽 常 報, 傳 聞 檄 屢 飛。 西 戎 外 甥 國, 何 得 迕 天 威。 杜 甫 Tịch địa thu tương tận, Sơn cao khách vị quy. Tái vân đa đoạn tục, Biên nhật thiểu quang huy. Cảnh cấp phong thường báo, Truyền văn hịch lũ phi. Tây nhung ngoại sanh quốc, Hà đắc ngỗ thiên uy. Đỗ-Phủ Dịch: Thơ vặt ở Tần-Châu (Bài mười tám) Nơi đây Thu sắp hết rồi, Núi cao, khách chửa về nơi quê nhà. Ải, mây đứt nối trôi qua, Mặt trời biên giới nhạt nhòa hẳn đi. Lửa thường báo động cấp kỳ, Lệnh quân vẫn cứ bay đi như thường. Tây-Nhung, nước rể biên cương, Tại sao ngang ngược coi thường uy vua?!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 18:17:26 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 4 bạn đọc.
Kiểu: