Đường Thi Trích Dịch II - Anh Nguyên
Thay đổi trang: << < 789 > >> | Trang 9 của 12 trang, bài viết từ 121 đến 135 trên tổng số 178 bài trong đề mục
Anh Nguyên 05.11.2008 09:04:38 (permalink)
 
TẦN CHÂU TẠP THI
(Kỳ thập cửu)
 
秦 州 雜 詩 其 十 九
 
鳳 林 戈 未 息,
魚 海 路 常 難。
候 火 雲 烽 峻,
懸 軍 幕 井 幹。
風 連 西 極 動,
月 過 北 庭 寒。
故 老 思 飛 將,
何 時 議 築 壇?
杜 甫
 
Phụng lâm qua vị tức,
Ngư hải lộ thường nan.
Hậu hỏa vân phong tuấn,
Huyền quân mạc tỉnh can.
Phong liên tây cực động,
Nguyệt quá bắc đình hàn.
Cố lão tư phi tướng,
Hà thì nghị trúc đàn.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Thơ vặt ở Tần-Châu
(Bài mười chín)
 
Phụng-Lâm, loạn lạc chưa thôi,
Con đường Ngư-Hải, núi đồi gian lao.
Núi mây, lửa hiệu bốc cao,
Cheo leo quân đóng, giếng đào cạn khô.
Gió miền tây thổi bất ngờ,
Qua sân bắc lạnh hững hờ trăng soi.
Tướng Phi, bô lão quyết đòi,
Lập đàn phong chức...bàn coi khi nào?...
Anh-Nguyên    
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 18:22:11 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 05.11.2008 09:10:50 (permalink)
 
TẦN CHÂU TẠP THI
(Kỳ nhị thập)
 
秦 州 雜 詩 其 二 十
 
唐 堯 真 自 聖,
野 老 復 何 知。
曬 藥 能 無 婦?
應 門 亦 有 兒。
藏 書 聞 禹 穴,
讀 記 憶 仇 池。
為 報 鴛 行 舊,
鷦 鷯 寄 一 枝。    
杜 甫
 
Đường nghiêu chân tự tánh,
Dã lão phục hà tri.
Sái dược năng vô phụ,
Ứng môn diệc hữu nhi.
Tàng thư văn vũ huyệt,
Độc ký ức cừu trì.
Vị báo uyên hàng cựu,
Tiêu liêu tại nhất chi.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Thơ vặt ở Tần-Châu
(Bài hai mươi)
 
Đường Nghiêu đúng bậc thánh rồi,
Già quê sao biết được nơi việc này.
Thuốc, làm không vợ tiếp tay,
Khách, ra mở cửa có ngay con rồi.
Dấu sách, Vũ-Huyệt sẵn nơi,
Đọc trong sách ký, nhớ chơi Cửu-Trì.
Báo bầy cò vạc cùng thì,
Một con chim chích truyền đi trên cành...
Anh-Nguyên 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 18:26:27 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 05.11.2008 09:19:29 (permalink)
 
TẶNG VỆ BÁT XỬ SĨ         
 
贈 衛 八 處 士

人 生 不 相 見,
動 如 參 與 商,
今 夕 復 何 夕?
共 此 燈 燭 光。
少 壯 能 幾 時?
鬢 髮 各 已 蒼。
訪 舊 半 為 鬼,
驚 呼 熱 中 腸。
焉 知 二 十 載,
重 上 君 子 堂。
昔 別 君 未 婚,
兒 女 忽 成 行;
怡 然 敬 父 執,
問 我 來 何 方。
問 答 乃 未 已,
驅 兒 羅 酒 漿。
夜 雨 剪 春 韭,
新 炊 間 黃 粱。
主 稱 會 面 難,
一 舉 累 十 觴;
十 觴 亦 不 醉,
感 子 故 意 長。

明 日 隔 山 岳,
世 事 兩 茫 茫。

杜 甫

Nhân sinh bất tương kiến,
Động như sâm dữ thương.
Kim tịch phục hà tịch,
Cộng thử đăng chúc quang.
Thiếu tráng năng kỷ thì,
Mấn phát các dĩ thương.
Phỏng cựu bán vi quỷ,
Kinh hô nhiệt trung trường.
Yên tri nhị thập tải,
Trùng thướng quân tử đường.
Tích biệt quân vị hôn,
Nhi nữ hốt thành hàng.
Di nhiên kính phụ chấp,
Vấn ngã lai hà phương.
Vấn đáp nãi vị dĩ,
Khu nhi la tửu tương.
Dạ vũ tiễn xuân cửu,
Tân xuy gián hoàng lương.
Chủ xưng hội diện nan,
Nhất cử lũy thập trường.
Thập trường diệc bất túy,
Cảm tử cố ý trường,
Minh nhật cách sơn nhạc,
Thế sự lưỡng mang mang.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Tặng xử sĩ Vệ-Bát
 
Đời người khó gặp được nhau,
Xoay vần xa cách hai đầu Sâm, Thương.
Đêm nay sao thực lạ thường,
Cùng nhau dưới ánh đèn đương sáng ngời.
Trẻ trung mấy chốc xa rồi,
Mái đầu bạc trắng lại ngồi cùng nhau.
Bạn xưa, một nửa còn đâu!
Thốt lên kinh ngạc, lòng đau muôn vàn.
Biết đâu hai chục năm tàn,
Nhà anh, tôi lại đến bàn chuyện xưa.
Tôi đi, anh vợ vẫn chưa,
Mà nay con cái đã vừa lớn khôn.
Bạn cha, vui vẻ kính tôn,
Thưa tôi vừa đến từ thôn xóm nào.
Hõi han chưa đáp ra sao,
Anh sai bày rượu và bao nhiêu đồ.
Mưa đêm cắt hẹ chưa khô,
Nấu cơm, kê độn một tô thật đầy.
Chủ rằng: ‘‘Gặp mặt khó thay,
Một lần nâng chén, uống đầy mười ly’’.
Mười ly đâu có say gì,
Cảm anh tình ý vẫn y thuở nào.
Ngày mai xa cách non cao,
Mênh mang đôi ngả biết sao việc đời!...
Anh-Nguyên      
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 18:31:55 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 05.11.2008 09:29:03 (permalink)
 
GIAI NHÂN        
 
佳 人

絕 代 有 佳 人,
幽 居 在 空 谷;
自 云 良 家 子,
零 落 依 草 木。
關 中 昔 喪 亂,
兄 弟 遭 殺 戮;
官 高 何 足 論?
不 得 收 骨 肉。
世 情 惡 衰 歇,
萬 事 隨 轉 燭。
夫 婿 輕 薄 兒,
新 人 美 如 玉。
合 昏 尚 知 時,
鴛 鴦 不 獨 宿;
但 見 新 人 笑,
那 聞 舊 人 哭?
在 山 泉 水 清,
出 山 泉 水 濁。
侍 婢 賣 珠 迴,
牽 蘿 補 茅 屋。
摘 花 不 插 髮,
采 柏 動 盈 掬。
天 寒 翠 袖 薄,
日 暮 倚 修 竹。
杜 甫  


Tuyệt đại hữu giai nhân,

 
U cư tại không cốc,
Tư vân lương gia từ,
Linh lạc ư thảo mộc.
Quan-Trung tích táng loạn,
Huynh đệ tao sát lục,
Quan cao hà túc luân,
Bất đắc thâu cốt nhục.
Thế tình ố suy yết,
Vạn sự tùy chuyển chúc,
Phu tế khinh bạc nhi,
Tân nhân mỹ như ngọc.
Hợp hôn thượng tri thì,
Uyên ương bất độc túc,
Đãn kiến tân nhân tiếu,
Nả văn cựu nhân khốc,
Tại sơn tuyền thủy thanh,
Xuất sơn tuyền thûy trọc.
Thị tỳ mại châu hồi,
Khiên la bổ mao ốc.
Trích hoa bất xáp mấn,
Thái bách động doanh cúc,
Thiên hàn thúy tụ bạc,
Nhật mộ ỷ tu trúc.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:

 
Người đẹp
 
Có người nữ đẹp tuyệt vời,
Náu nương hang trống làm nơi qua ngày.
Gia đình nền nếp xưa nay,
Lạc loài nên phải cỏ cây vui cùng.
Khi xưa loạn đến Quan-Trung,
Anh em gặp nạn đều cùng chết oan.
Quan trên, sao thể kêu van,
Không thâu được cả xương tàn thịt rời.
Thói đời ghét kẻ hết thời,
Đều theo ngọn đuốc làm nơi hướng về.
Nên chàng bạc bẽo bỏ bê,
Tấm thân ngà ngọc mới về chưa quen.
Cỏ trinh nữ biết ngày đêm,
Chim ương chẳng ngủ suốt đêm ngóng chồng.
Chỉ hay gái mới cười không,
Đâu nghe vợ cũ khóc trong khuê phòng!
Ở nơi khe núi, suối trong,
Ra ngoài, suối đục, ấy lòng người ta.
Gái hầu bán ngọc chợ xa,
Mang về bó cỏ dặm nhà vách tranh.
Ngắt hoa, gắn tóc chẳng đành,
Nhiều lần hái bách, trung thành với ai!
Lạnh trời áo mỏng rách vai,
Chiều chiều tựa trúc thở dài xót thân...
Anh-Nguyên           

<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 18:37:10 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 05.11.2008 09:39:50 (permalink)
 
MỘNG LÝ BẠCH          
(Kỳ nhất)
 
夢 李 白 之 一

死 別 已 吞 聲,
生 別 常 惻 惻。
江 南 瘴 癘 地,
逐 客 無 消 息。
故 人 入 我 夢,
明 我 長 相 憶;
君 今 在 羅 網,
何 以 有 羽 翼?
恐 非 平 生 魂,
路 遠 不 可 測。
魂 來 楓 林 青,
魂 返 關 塞 黑;
落 月 滿 屋 梁,
猶 疑 照 顏 色。
水 深 波 浪 闊,
無 使 蛟 龍 得。
杜 甫

 
Tử biệt dĩ hôn thanh,
Sinh biệt thường trắc trắc.
Giang nam chướng lệ địa,
Trục khách vô tiêu tức.
Cố nhân nhập ngã mộng,
Minh ngã trường tương tức.
Quân kim tại la võng,
Hà dĩ hữu vũ dực.
Khủng phi bình sinh hồn,
Lộ viễn bất khả trắc.
Hồn lai phong lâm thanh,
Hồn phản quan tái hắc.
Lạc nguyệt mãn ốc lương,
Do nghi chiếu nhan sắc.
Thủy thâm ba lãng khoát,
Vô sử giao long đắc.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Mơ Lý-Bạch
(Bài một)
 
Khóc thầm, tử biệt ngậm ngùi,
Sinh ly, lại cũng bồi hồi xót xa.
Giang-Nam bệnh chướng sẩy ra,
Người đày, tin tức nơi xa mịt mờ.
Bạn xưa gặp lúc mộng mơ,
Biết ta thương nhớ bao giờ nguôi đâu.
Bạn nay trong lưới, u sầu,
Mong sao có cánh để hầu về đây.
E hồn đổi khác lúc này,
Đường xa biết được rủi may thế nào.
Hồn về, rừng lá lao xao,
Hồn đi quan ải một màu tối thui.
Trăng tà, xuống mái nhà rồi,
Ngờ vừa mới chiếu mặt người bạn xưa.
Nước sâu, sóng cả cuốn đưa,
Mong sao thoát miệng kình ngư trên đường...
Anh-Nguyên   

<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 18:41:08 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 05.11.2008 09:58:19 (permalink)
 
MỘNG LÝ BẠCH          
(Kỳ nhị)
 
夢 李 白 之 二

浮 雲 終 日 行,
遊 子 久 不 至;
三 夜 頻 夢 君,
情 親 見 君 意。
告 歸 常 局 促,
苦 道 來 不 易。
江 湖 多 風 波,
舟 楫 恐 失 墜。
出 門 搔 白 首,
若 負 平 生 志。
冠 蓋 滿 京 華,
斯 人 獨 憔 悴。
孰 云 網 恢 恢?
將 老 身 反 累!
千 秋 萬 歲 名,
寂 寞 身 後 事。

杜 甫
 
Phù vân chung nhật hành,
Du tử cửu bất chí.
Tam dạ tần mộng quân,
Tình thân kiến quân ý.
Cáo quy thường cục xúc,
Khổ đạo lai bất dị.
Giang hồ đa phong ba,
Chu tiếp khủng thất trụy.
Xuất môn tao bạch thủ,
Nhược phụ bình sinh chí.
Quan cái mãn kinh hoa,
Tư nhân độc tiều tụy.
Thục vân võng khôi khôi,
Tương lão thân phản lụy.
Thiên thu vạn tuế danh,
Tịch mịch thân hậu sự.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Mơ Lý-Bạch
(Bài hai)
 
Suốt ngày mây cứ nổi trôi,
Người đi xa mãi chân trời về đâu.
Ba lần thấy bác đêm thâu,
Vì tình thân thiết hiểu nhau dễ dàng.
Ra đi, từ biệt chẳng an,
Đường về không phải dễ dàng gì đâu.
Sông hồ, sóng gió bạc đầu,
Mái chèo rơi mất, tìm đâu ra nào!
Rời nhà, gãi tóc bạc phau,
Chí bình sinh bỏ lúc nào không hay.
Kinh thành, mũ lọng lúc này,
Riêng người đây, vẫn mặt mày khổ đau.
Lưới trời lồng lộng, thấy đâu,
Thân già còn phải âu sầu trái ngang.
Ngàn Thu tên vẫn còn vang,
Thân này vẳng lặng còn màng làm chi...
Anh-Nguyên      
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 18:43:32 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 05.11.2008 10:16:06 (permalink)
 
THẠCH HÀO LẠI        

石 壕 吏

暮 投 石 壕 村,
有 吏 夜 捉 人。
老 翁 逾 牆 走,
老 婦 出 門 迎。
吏 呼 一 何 怒,
婦 啼 一 何 苦。
聽 婦 前 致 詞,
三 男 鄴 城 戍。
一 男 附 書 至,
二 男 新 戰 死。
存 者 且 偷 生,
死 者 長 已 矣!
室 中 更 無 人,
惟 有 乳 下 孫。
有 孫 母 未 去,
出 入 無 完 裙。
老 嫗 力 雖 衰,
請 從 吏 夜 歸。
急 應 河 陽 役,
猶 得 備 晨 炊。
夜 久 語 聲 絕,
如 聞 泣 幽 咽。
天 明 登 前 途,
獨 與 老 翁 別。

杜 甫

Mộ đầu thạch hào thôn,

Hữu lại dạ tróc nhân,
Lão ông du tường tẩu,
Lão phụ xuất khan môn.
Lại hô nhất hà nộ,
Phụ đề nhất hà khổ,
Thính phụ tiền trí từ:
Tam nam nghiệp thành thú,
Nhất nam phụ thư chí:
Nhị nam tân chiến tử,
Tồn giả thả thâu sinh,
Tử giả trường dĩ hỹ.
Thất trung cánh vô nhân,
Duy hữu nhũ hạ tôn,
Hữu tôn mẫu vị khứ,
Xuất nhập vô hoàn quần.
Lão ẩu lực tuy suy,
Thỉnh tòng lại dạ quy,
Cấp ứng hà dương dịch,
Do đắc bị thần suy.
Dạ cửu ngữ thanh tuyệt,
Như văn khấp u yết,
Thiên minh đăng tiền đồ,
Độc dữ lão ông biệt.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Quan lại Thạch-Hào
 
Buỏi chiều nghỉ xóm Thạch-Hào,
Đêm về nha lại đi vào bất sâu.
Vượt tường ông lão trốn mau,
Lão bà trố mắt đứng sau cổng nhìn,
Lính vào nạt nộ đi tìm,
Lão bà khóc rống kể niềm đắng cay.
Theo bà, khóc lóc trình bày:
‘‘Ba trai đi lính ở ngay Nghiệp-Thành,
Một trai báo sự chẳng lành:
Hai trai chết lúc giao tranh chiến trường.
Kẻ còn, tạm sống náu nương,
Chết rồi, mãi mãi sót thương lệ trào.
Trong nhà chẳng có người nào,
Chỉ còn cháu bé bám vào mẹ thôi,
Nên chưa đi được kịp thời,
Vả chăng quần cũng nhiều nơi chẳng lành.
Già này tuy thế còn nhanh,
Xin theo quan để về thành đêm nay,
Hà-Dương phục dịch đêm ngày,
Sáng ra, cơm nước nấu ngay sẵn sàng’’...
Đêm khuya hết tiếng kêu van,
Nhưng như có tiếng khóc than nghẹn ngào,
Lên đường trời sáng lúc nào,
Giã từ ông lão, nao nao mối sầu.
Anh-Nguyên       

<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 18:45:25 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 05.11.2008 10:33:04 (permalink)
 
TÂN AN LẠI              
 
新 安 吏

客 行 新 安 道,
喧 呼 聞 點 兵,
借 間 新 安 吏,
縣 小 更 無 丁?
府 帖 昨 夜 下,
次 選 中 男 行。
中 男 絕 短 小,
何 以 守 王 城?
肥 男 有 母 送,
瘦 男 獨 伶 俜。
白 水 暮 東 流,
青 山 猶 哭 聲。
莫 自 使 眼 枯,
收 汝 淚 縱 橫。
眼 枯 即 見 骨,
天 地 終 無 情。
我 軍 取 相 州,
日 夕 望 其 平。
豈 意 賊 難 料,
歸 軍 星 散 營。
就 糧 近 故 壘,
練 卒 依 舊 京。
掘 壕 不 到 水,
牧 馬 役 亦 輕。
況 乃 王 師 順,
撫 養 甚 分 明。
送 行 勿 泣 血,
僕 射 如 父 兄。
杜 甫 

 
Khách hành tân an đạo,
Huyên hô văn điểm binh.
Tá vấn tân an lại,
Huyện tiểu cánh vô đinh.
Phủ thiếp tạc dạ há,
Thứ tuyển trung nam hành.
Trung nam tuyệt đoản tiểu,
Hà dĩ thủ vương thành.
Phì nam hữu mẫu tống,
Sấu nam độc linh phinh.
Bạch thủy mộ đông lưu,
Thanh sơn do khốc thanh.
Mạc tự sử nhãn khô,
Thâu nhữ lệ tung hoành.
Nhãn khô tức kiến cốt,
Thiên địa chung vô tình.
Ngã quân thủ tượng châu,
Nhật tịch vọng kỳ bình.
Khởi ý tặc nan liệu,
Quy quân tinh tán doanh.
Tựu lương cận cố lũy,
Luyện tốt y cựu kinh.
Quật hào bất đáo thủy,
Mục mã dịch diệc khinh.
Huống nãi vương sư thuận,
Phủ dưỡng thậm phân minh.
Tống hành vật khấp huyết,
Bộc xạ như phụ huynh.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Quan lại Tân-An
 
Đường Tân-An khách đi qua,
Nghe đang bắt lính, kêu la ồn ào.
Hỏi viên quan lại xem sao,
‘‘Huyện này nhỏ bé chẳng bao nhiêu người,
Đêm qua lệnh Phủ truyền rồi,
Phải đành bắt xuống lớp người trung nam.’’
Trung nam thấp, nhỏ, khó kham,
Làm sao giữ được an toàn thành vua.
Con trai béo, có mẹ đưa,
Trai gầy cô độc, bơ vơ một mình.
Hướng đông, sông chẩy mông mênh,
Núi xanh, tiếng khóc thương tình còn vang.
Đừng cho đôi mắt khô rang,
Để cho nước mắt dọc ngang lan tràn.
Mắt khô liền thấy xương tàn,
Đất trời rốt cuộc mênh mang vô tình.
Quân ta vây đánh Nghiệp-Thành,
Chỉ mong sớm tối an bình được thôi.
Ý đồ của giặc biết rồi...
Rút nên bị đánh tơi bời như sao.
Nhận lương thành cũ thuở nào,
Luyện binh sĩ mới dựa vào kinh xưa.
Đào hào mới chỉ sâu vừa,
Việc chăn nuôi ngựa cũng chưa trọng gì.
Quan quân thuận ý, lo chi,
Vỗ về nuôi nấng chi li rõ ràng.
Tiễn đưa chớ khóc máu tràn,
Có quan tể tướng như hàng cha anh...
Anh-Nguyên         
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 18:49:26 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 05.11.2008 10:49:58 (permalink)
 
ĐỒNG QUAN LẠI
 
潼 關 吏
 
士 卒 何 草 草,
筑 城 潼 關 道。
大 城 鐵 不 如,
小 城 萬 丈 餘。
借 問 潼 關 吏:
修 關 還 備 胡?
要 我 下 馬 行,
為 我 指 山 隅:
連 雲 列 戰 格,
飛 鳥 不 能 逾。
胡 來 但 自 守,
豈 復 憂 西 都。
丈 人 視 要 處,
窄 狹 容 單 車。
艱 難 奮 長 戟,
萬 古 用 一 夫。
哀 哉 桃 林 戰,
百 萬 化 為 魚。
請 囑 防 關 將,
慎 勿 學 哥 舒。   
杜 甫
 
Sĩ tốt hà thảo thảo,
Trúc thành đồng quan đạo.
Đại thành thiết bất như,
Tiểu thành vạn trượng dư.
Tá vấn đồng quan lại,
Tu quan hoàn bị hồ.
Yêu ngã há mã hành,
Vị ngã chỉ sơn ngu.
Liên vân liệt chiến cách,
Phi điểu bất năng du.
Hồ lai đản tự thủ,
Khởi phục ưu tây đô.
Trượng nhân thị yếu xứ,
Trách hiệp dung đan xa.
Gian nan phấn trường kích,
Vạn cổ dụng nhất phu.
Ai tai đào lâm chiến,
Bách vạn hóa vi ngư,
Thỉnh chúc phòng quan tướng,
Thận vật học kha thư.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Quan lại Đồng-Quan
 
Quan quân vất vả khôn lường,
Xây thành đắp lũy trên đường Đồng-Quan.
Thành to, hơn sắt hơn gang,
Thành nhỏ vạn trượng sửa sang chu toàn.
Hỏi viên quan lại Đồng-Quan,
‘‘Sửa sang biên ải để toan ngăn Hồ.’’
Mời ta xuống ngựa đi vô,
Chỉ ta góc núi lững lờ mây bay.
‘‘Ở đây chiến cụ sẵn bày,
Chim bay khó thể chốn này vượt qua.
Quân Hồ đến, giữ không ra,
Tây-Đô há lại lo xa làm gì.
Ông xem chỗ hiểm này đi,
Chỉ xe nhỏ hẹp mới di chuyển vừa.
Giáo dài xoay trở kẹt chưa,
Một người chống giữ, ngày xưa khác nào.’’
Buồn thay cuộc chiến rừng Đào,
Biến làm thân cá biết bao vạn người.
Cầu cho tướng ải nhớ đời,
Đừng nên lầm lỡ như thời Kha-Thư!...
Anh-Nguyên     
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 18:50:53 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 07:40:00 (permalink)
 
TÂN HÔN BIỆT       
 
新 婚 別

兔 絲 附 蓬 麻,
引 蔓 故 不 長 。
嫁 女 與 征 夫,
不 如 棄 路 旁。
結 髮 為 君 妻,
席 不 暖 君 床。
暮 婚 晨 告 別,
無 乃 太 匆 忙!
君 行 雖 不 遠,
守 邊 赴 河 陽。
妾 身 未 分 明,
何 以 拜 姑 嫜?
父 母 養 我 時,
日 夜 令 我 藏。
生 女 有 所 歸,
雞 狗 亦 得 將。
君 今 往 死 地,
沈 痛 迫 中 腸。
誓 欲 隨 君 去,
形 勢 反 蒼 黃。
勿 為 新 婚 念,
努 力 事 戎 行!
婦 人 在 軍 中,
兵 氣 恐 不 揚。
自 嗟 貧 家 女,
久 致 羅 襦 裳。
羅 襦 不 復 施,
對 君 洗 紅 妝。
仰 視 百 鳥 飛,
大 小 必 雙 翔。
人 事 多 錯 迕,
與 君 永 相 望!

杜 甫 
 
Thố ty phụ bồng ma,
Dẫn man cố bất trường,
Giá nữ dữ chinh phu,
Bất như khí lộ bàng.
Kết phát vi thê tử,
Tịch bất noãn quân sàng,
Mộ hôn thần cáo biệt,
Vô nãi thái thông mang.
Quân hành tuy bất viễn,
Thủ biên phó hà dương,
Thiếp thân vị phân minh,
Hà dĩ bái cô chương?
Phụ mẫu dưỡng ngã thì,
Nhật dạ linh ngã tàng,
Sinh nữ hữu sở quy,
Kê cẩu diệc đắc tương.
Quân kim sinh tử địa,
Trầm thống bách trung trường,
Thệ dục tuỳ quân khứ.
Hình thế phản thương hoàn,
Vật vị tân hôn niệm,
Nỗ lực sự nhung hàng.
Phụ nhân tại quân trung,
Binh khí khủng bất dương.
Tự ta bần gia nữ,
Cửu trí la nhu thường,
La nhu bất phục thi,
Đối quân tẩy hồng trang.
Ngưỡng thị bách điểu phi,
Đại tiểu tất song tường,
Nhân sự đa thố ngỗ,
Dữ quân vĩnh tương vương.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Chia ly khi mới cưới nhau
 
Tơ hồng quấn quýt cỏ gai,
Dẫu cho lan rộng chẳng dài được đâu.
Gả con cho lính, chẳng cầu,
Ví như đem bỏ con đâu bên đường.
Cùng chàng kết tóc tơ vương,
Chiếu chăn chưa ấm, nệm giường chưa êm,
Cưới chiều, sáng vĩnh biệt liền,
Vội vàng chi thế để phiền lệ sa.
Chàng đi tuy chẳng bao xa,
Ra miền biên ải, cũng Hà-Dương thôi.
Thân em chưa rõ thứ ngôi,
Lạy sao cha mẹ ở nơi bên chồng.
Nuôi em, cha mẹ dạy rằng:
Ở nhà, chẳng tiếp, nói năng cùng người.
Thân con gái, lấy chồng thôi,
Mang theo gà chó cho vui cửa nhà.
Nay chàng ở tử địa xa,
Niềm đau trong ruột sót sa không cùng.
Theo chàng em nguyện đi chung,
Nào ngờ tình thế vô cùng khẩn trương.
Đừng vì vợ mới, nhớ thương,
Xin chàng ra sức chiến trường xông pha.
Trong quân nếu có đàn bà,
Tinh thần chiến sĩ sợ là không cao.
Thương cho thân gái nghèo sao!
Áo tơ, quần lụa, đã trao lâu ngày.
Từ nay chẳng dịp sỏ tay,
Vì chàng rửa phấn, bỏ ngay tô hồng.
Ngước xem chim lượn trên không,
Từng đôi, lớn, nhỏ, cánh hồng bên nhau,
Việc đời ngang trái, khổ đau,
Cùng chàng mãi mãi nhớ nhau không cùng...
Anh-Nguyên        
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 18:53:14 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 07:57:42 (permalink)
 
THÙY LÃO BIỆT
 
垂 老 別
 
四 郊 未 寧 靜,
垂 老 不 得 安。
子 孫 陣 亡 盡,
焉 用 身 獨 完!
投 杖 出 門 去,
同 行 為 辛 酸。
幸 有 牙 齒 存,
所 悲 骨 髓 幹。
男 兒 既 介 冑,
長 揖 別 上 官。
老 妻 臥 路 啼,
歲 暮 衣 裳 單。
孰 知 是 死 別,
且 復 傷 其 寒。
此 去 必 不 歸,
還 聞 勸 加 餐。
土 門 壁 甚 堅,
杏 園 度 亦 難。
勢 異 鄴 城 下,
縱 死 時 猶 寬。
人 生 有 離 合,
豈 擇 衰 盛 端!
憶 昔 少 壯 日,
遲 回 竟 長 嘆。
萬 國 盡 征 戍,
烽 水 被 岡 巒。
積 屍 草 木 腥,
流 血 川 原 丹。
何 鄉 為 樂 土,
安 敢 尚 盤 桓!
棄 絕 蓬 室 居,
塌 然 摧 肺 肝。   
杜 甫
 
Tứ giao vị ninh tĩnh,
Thùy lão bất năng an.
Tử tôn trận vong tận,
Yên dụng thân độc hoàn.
Đầu trượng xuất môn khứ,
Đồng hành vị tân toan.
Hạnh hữu nha xỉ tổn,
Sở bi cốt tủy can.
Nam nhi ký giới trụ,
Trường ấp biệt thượng quan.
Lão thê ngọa lộ đề,
Tuế mộ y thường đan.
Thục tri thị tử biệt,
Thả phục thương kỳ hàn.
Thử khứ tất bất quy,
Hoàn văn khuyến gia xan.
Thổ môn bích thậm kiên,
Hạnh viên độ diệc nan.
Thế dị nghiệp thành hạ,
Túng tử thì do khoan.
Nhân sinh hữu ly hợp,
Khởi trạch suy thịnh đoan.
Ức tích thiếu tráng nhật,
Trì hồi cánh trường than.
Vạn quốc tận chinh thú,
Phong hỏa bị cương loan.
Tích thi thảo mộc tinh,
Lưu huyết xuyên nguyên đan.
Hà hương vi lạc thổ,
An cảm thượng bàn hoàn.
Khí tuyệt bồng thất cư,
Tháp nhiên tồi phế can.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Chia ly lúc già
 
Bốn bề đã được yên đâu,
Cái thân già cũng còn hầu chưa yên.
Cháu con chết trận ngoài biên,
Tấm thân cô độc sống yên làm gì.
Gậy quăng, ra cửa quyết đi,
Đồng hành chua sót cũng vì ta đây.
May thay, răng vẫn còn đầy,
Nhưng buồn, xương tủy lúc này đã khô.
Thân trai áo giáp khoác vô,
Vái quan từ biệt đến giờ ra đi.
Lăn đường, vợ khóc thảm thê,
Tuổi già vẫn chỉ xiêm y sơ sài.
Sinh ly tử biệt, thảm thay,
Lại thêm đau sót cho ai lạnh lùng.
Chuyến đi chẳng hẹn về cùng,
Còn khuyên ăn gắng chớ đừng biếng nha.
Thổ-Môn tường khó vượt qua,
Hạnh-Viên, bến ấy cách xa đôi bờ.
Nghiệp-Thành khác với bây giờ,
Nếu ta có chết, thời cơ còn dài.
Đời người ly hợp, trừ ai,
Có đâu chọn lựa trẻ trai, người già.
Nhớ xưa trẻ khoẻ như ta,
Chia tay không dứt, xót xa than dài.
Mọi nơi lính thú, riêng ai,
Khắp trên sườn núi hỏa đài sáng trưng.
Thây tanh cây cỏ trong rừng,
Máu tuôn đỏ cả sông cùng đồng xanh.
Nơi nào vui vẻ an lành,
Mà còn nấn ná chưa đành ra đi.
Vứt căn nhà cỏ xá chi,
Tan gan nát phổi bước đi cũng đành...
Anh-Nguyên   
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 18:56:35 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 08:21:11 (permalink)
 
VÔ GIA BIỆT
 
無 家 別
 
寂 寞 天 寶 後,
園 廬 但 蒿 藜。
我 裡 百 餘 家,
世 亂 各 東 西。
存 者 無 訊 息,
死 者 為 塵 泥。
賤 子 因 陣 敗,
歸 來 尋 舊 蹊。
久 行 見 空 巷,
日 瘦 氣 慘 悽。
但 對 狐 與 狸,
豎 毛 怒 我 啼。
四 鄰 何 所 有?
一 二 老 寡 妻。
宿 鳥 戀 本 枝,
安 辭 且 窮 棲。
方 春 獨 荷 鋤,
日 暮 還 灌 畦。
縣 吏 知 我 至,
召 令 習 鼓 鼙。
雖 從 本 州 役,
內 顧 無 所 攜。
近 行 止 一 身,
遠 去 終 轉 迷。
家 鄉 既 蕩 盡,
遠 近 理 亦 齊。
永 痛 長 病 母,
五 年 委 溝 溪。
生 我 不 得 力,
終 身 兩 酸 嘶。
人 生 無 家 別,
何 以 為 蒸 黎!   
杜 甫
 
Tịch mịch thiên bảo hậu,
Viên lư đản cảo lê.
Ngã lý bách dư gia,
Thế loạn các đông tê.
Tồn giả vô tiêu tức,
Tử giả vi trần nê.
Tiện tử nhân trận bại,
Quy lai tầm cựu khê.
Cửu hành kiến không hạng,
Nhật sấu khí thảm thê.
Đản đối hồ dữ ly,
Thụ mao nộ ngã đề.
Tứ lân hà sở hữu,
Nhất nhị lão quả thê.
Túc điểu luyến bản chi,
An từ thả cùng thê.
Phương xuân độc hạ sừ,
Nhật mộ hoàn quán khuê.
Huyện lại tri ngã chí,
Triệu linh tập cổ bề.
Tuy tòng bản châu dịch,
Nội cố vô sở huề.
Cận hành chỉ nhất thân,
Viễn khứ chung chuyển mê.
Gia hương ký đãng tân,
Viễn cận lý diệc tề.
Vĩnh thống trường bệnh mẫu,
Ngũ niên ủy câu khê.
Sinh ngã bất đắc lực,
Chung thân lưỡng toan tê.
Nhân sinh vô gia biệt,
Hà dĩ vi chưng lê.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Không nhà để ly biệt
 
Sau năm Thiên-Bảo điêu tàn,
Mái tranh vườn cũ lan tràn ngải, lê.
Làng xưa trăm nóc vui ghê,
Gặp đời loạn lạc, chạy về đông, tây.
Kẻ còn, tin chẳng đến đây,
Những người đã chết, xác thây bụi, bùn.
Hèn này thua trận trốn luôn,
Lối xưa về lại tìm đường mưu sanh.
Đi lâu, chỉ hẻm vắng tanh,
Mặt trời nhợt nhạt trông thành thê lương.
Gặp toàn chồn cáo trên đường,
Thấy ta, lông dựng, đau thương kêu dài.
Bốn bề lối xóm có ai,
Một hai goá phụ tóc tai bạc màu.
Quen cành chim quyến luyến nhau,
Chốn nghèo từ biệt đi sao cho đành.
Ngày xuân cuốc đất cho nhanh,
Ruộng khô, chiều tối lại đành tưới thêm.
Ta về, huyện biết, gọi lên,
Bắt ta tập trận, trống rền bên tai.
Huyện nhà phục dịch hôm, mai,
Nhìn quanh, chẳng thấy có ai thân tình.
Đi gần, lủi thủi riêng mình,
Đi xa, không bạn, một mình lạc luôn.
Quê nhà tan nát ruộng vườn,
Xa gần gì cũng trông dường như nhau.
Vô cùng thương xót mẹ đau,
Năm năm vùi xác ở đầu suối sâu.
Sanh ta nhờ được gì đâu,
Suốt đời, con, mẹ, âu sầu đắng cay.
Không nhà từ biệt, khổ thay,
Dân đen há đến nỗi này được sao!...
Anh-Nguyên   
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.05.2022 19:01:19 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 08:34:36 (permalink)
 
PHỤNG HOÀNG ĐÀI
 
鳳 凰 臺
 
亭 亭 鳳 凰 臺,
北 對 西 康 州。
西 伯 今 寂 寞,
鳳 聲 亦 悠 悠。
山 峻 路 絕 蹤,
石 林 氣 高 浮。
安 得 萬 丈 梯,
為 君 上 上 頭。
恐 有 無 母 鶵,
飢 寒 日 啾 啾。
我 能 剖 心 出,
飲 噣 慰 孤 愁。
心 以 當 竹 實,
炯 然 無 外 求。
血 以 當 醴 泉,
豈 徒 比 清 流。
所 貴 王 者 瑞,
敢 辭 微 命 休。
坐 看 綵 翮 長,
舉 意 八 極 周。
自 天 銜 瑞 圖,
飛 下 十 二 樓。
圖 以 奉 至 尊,
鳳 以 垂 鴻 猷。
再 光 中 興 業,
一 洗 蒼 生 懮。
深 衷 正 為 此,
群 盜 何 淹 留。     
杜 甫
 
Đình đình phụng hoàng đài,
Bắc đối tây khang châu.
Tây bá kim tịch mịch,
Phượng thanh diệc du du.
Sơn tuấn lộ tuyệt tung,
Thạch lâm khí cao phù.
An đắc vạn trượng thê,
Vị quân thướng thượng đầu.
Khủng hữu vô mẫu sồ,
Cơ hàn nhật thu thu.
Ngã năng phẫu tâm huyết,
Ấm trác ủy cô sầu.
Tâm dĩ đương trúc thực,
Qušnh nhiên vô ngoại cầu.
Huyết dĩ đương lễ tuyền,
Khởi đồ tš thanh lưu.
Sở trọng vương giả thụy,
Cảm từ vi mệnh hưu.
Tọa khán thái cách trường,
Cử ý bát cực chu.
Tự thiên hàm thụy đồ,
Phi há thập nhị lâu.
Đồ dĩ phụng chí tôn,
Phụng dĩ thùy hồng du.
Tái quang trúng hưng nghiệp,
Nhất tẩy thương sinh ưu.
Thâm trung chính vị thử,
Quần đạo hà yêm lưu.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Đài Phượng-Hoàng
 
Phượng-Hoàng sừng sững đài cao,
Nhìn về phía bắc, nơi nào châu Khang.
Im lìm Tây-Bá suối vàng,
Tiếng chim phượng cũng mênh mang xa vời.
Núi cao, đường mất dấu rồi,
Rừng cây, chướng khí núi đồi còn bao.
Làm sao có được thang cao,
Vì vua lên đỉnh, nguy nào nản đâu.
Sợ rằng phượng mất mẹ lâu,
Suốt ngày đói khát âu sầu kêu than.
Phanh tim, lấy máu, cũng làm,
Cho chim ăn uống ủi an nỗi buồn.
Trái tim thay trái trúc thường,
Quang minh chính đại không vương mong cầu.
Máu như suối Lễ từ lâu,
Há là bỏ phí sông sâu chan hòa.
Trọng vì điềm tốt phượng ra,
Hy sinh thân mọn có là bao nhiêu.
Cánh, lông rực rỡ dài nhiều,
Cất mình, tám phía được điều an vui.
Bản đồ, ngậm liệng trên trời,
Từ từ đáp xuống ở nơi các lầu.
Dâng vua thờ phụng từ đầu,
Chương trình rộng lớn mong cầu xét soi.
Nghiệp xưa rạng rỡ phục hồi,
Lo âu, rửa sạch cho người dân đen.
Đáy lòng chỉ ước nhỏ nhen,
Cớ sao bọn cướp đê hèn ở lâu!...
Anh-Nguyên
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 09:48:04 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 08:48:28 (permalink)
 
NGỤ CƯ ĐỒNG CỐC HUYỆN TÁC     
(Kỳ nhất)

寓  居 同  谷  縣  作  其  一

有  客  有  客  字  子  美
白  頭  亂  髮  垂  過  耳
歲  拾  椽  栗  隨  狙  公
天  寒  日  暮  山  谷  裡
中  原  無  書  歸  不  得
手  腳  凍  皴  皮  肉  死
嗚  呼  一  歌  兮  歌  已  哀
悲  風  為  我  從  天  來 
杜  甫
 

Hữu khách hữu khách tự tử mỹ,
Bạch đầu loạn phát thùy quá nhĩ.
Tuế thập tượng lật tùy thư công,
Thiên hàn nhật mộ sơn cốc lý.
Trung nguyên vô thư quy bất đắc,
Thủ cước đống thuân bì nhục tử.
Ô hô nhất ca hề ca dĩ ai,
Bi phong vị ngã tòng thiên lai.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Làm khi ở huyện Đồng-Cốc
(Bài một)
 
Có người, Tử-Mỹ là tên,
Bù xù tóc bạc phủ lên tai rồi.
Theo vượn lượm dẻ trên đồi,
Chiều về, trời rét vẫn ngồi trong hang.
Về sao! thư chẳng một hàng,
Tay chân lạnh cóng, da càng dại tê.
Hát bài thứ nhất, buồn ghê,
Từ trời, gió thảm thổi về vì ta...
Anh-Nguyên
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 09:49:58 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 09:01:48 (permalink)
 
NGỤ CƯ ĐỒNG CỐC HUYỆN TÁC
(Kỳ nhị)
 
寓  居 同  谷  縣  作    二

長  鑱  長  鑱  白  木  柄
我  生  託  子  以  為  命
黃  精  無  苗  山  雪  盛
短  衣  數  挽  不  掩  脛
此  時  與  子  空  歸  來
男  呻  女  呤  四  壁  靜
嗚  呼  二  歌  兮  歌  始  放
鄰  里  為  我  色  惆  悵 
杜  甫


Trường sàm trường sàm bạch mộc bính,
Ngã sinh thác tử dĩ vi mệnh.
Hoàng độc vô miêu sơn tuyết thịnh,
Đoản y xác vãn bất yểm hĩnh.
Thử thì dữ tử không quy lai,
Nam thân nữ ngâm tứ bích tịnh.
Ô hô nhị ca hề ca thủy phóng,
Lư lý vị ngã sắc trù tướng.
Đỗ-Phủ
 
Dich:
 
Làm khi ở huyện Đồng-Cốc
(Bài hai)
 
Thuổng dài, cán gỗ trắng này,
Mạng ta sống chết tùy mày cả đây.
Khoai không mầm, núi tuyết đầy,
Áo thì ngắn củn, chân này chẳng che.
Tay không, cùng với mày về,
Trai than, gái vãn, bốn bề lặng không.
Bài hai vừa hát lên xong,
Bùi ngùi, hàng xóm động lòng vì ta...
Anh-Nguyên
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 09:51:30 bởi Anh Nguyên >
Thay đổi trang: << < 789 > >> | Trang 9 của 12 trang, bài viết từ 121 đến 135 trên tổng số 178 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9