:: Rau - Cải - Cây - Trái ::
Hột mồng tơi nhà vdn Màu Tím Mồng Tơi Hồ Trường An
Trên đất Pháp, tôi đã từng ăn canh rau mồng-tơi xanh
nấu với tôm he. Ðôi khi lười biếng, tôi đi ăn self-service,
món légume ăn kèm với thịt vẫn là rau mồng tơi xanh nghiền
trộn bơ lạt và kem tươi. Khó mà tìm được mồng tươi
tím. Mồng tơi xanh to lá hơn, cọng bụ bẫm hơn, nấu canh
tôm he cũng ngọt không kém mồng tơi tím. Vậy mà trong tâm
hồn tôi, lá mồng tơi tím đã mọc rễ từ lâu lắm rồi,
trải qua bao khúc quanh éo le của lịch sử và đã tỏa một màu
tím thật lãng mạn và thật thi vị trong suốt thời thơ ấu
của tôi.
Bạn ơi, chắc bạn chưa quên lá mồng tơi tím ngoài bờ giậu
khi bạn còn ở bên quê nhà? Dường như chỉ ở xứ miền
nhiệt đới như xứ sở mình mới có mồng tơi tím mà thôi.
Tôi còn nhớ vào thuở ba tôi về Ngã Ba Trung Lương (tỉnh
Mỹ Tho) lập nghiệp, bà ngoại tôi bảo tôi và chị tôi nên
gầy dây một giậu mồng tơi tím chung quanh khu trồng rau
thơm. Chị em tôi chẻ nứa thành những thanh hơi mỏng để
đan giậu. Chỉ chừng hai ngày thôi, bờ giậu thành hình với
những thanh nứa đan nhặt với những ô hình mắt cáo. Chị
tôi lôi từ gian bếp đen óng vì mồ hóng và khói bếp, lấy
một cái gói nhỏ đựng trong mo cau. Mở gói giấy ra, tôi
chỉ thấy những hột đen đen ngoài bọc một lớp vỏ nhăn
nheo. Chúng tôi đào những lỗ nhỏ cỡ đồng xu và sâu ba
phân, mỗi lỗ cách nhau nửa thước, rồi bỏ một hột mồng
tơi trong đó. Ngoại tôi nói:
- Bây giờ là vào giữa mùa mưa, các cháu không cần tưới
làm gì. Mồng tơi tím dễ trồng lắm.
Chúng tôi chỉ chăm bón những loại rau khác, hầu như quên
lãng những hột mồng tơi gây giống đi.
Mùa mưa tháng bảy kéo về. Những trận mưa kéo dài có khi
suốt ngày, suốt đêm. Mưa ngập ở dãy cây đu đủ và làm
cho mấy gốc đu đủ úng thủy chết đi. Rồi vào một ngày
nắng đẹp, tôi bắt gặp trên lớp đất ướt mịn, những
mầm cây lá non mơn mởn nhú lên. Những cơn nắng lũ đã
làm cho hột mồng tơi nứt vỏ, những trận mưa rào ấp ủ
cho mầm sống nhú lên. Rồi thì cùng với mưa nắng, sương
buổi sáng làm cho mầm cây trưởng thành mau chóng; chỉ độ
hai tuần thôi, nó đã thành một sợi dây leo bò dọc theo một
thanh nứa, lá vẫn xanh mơn mởn để rồi cùng với cọng dây
ửng lên màu tím và rồi tím sẫm dần. Lá mồng tơi có hai
mặt: mặt dương quay về ánh sáng mặt trời nên có màu
xanh của diệp lục tố, còn mặt dưới ẩn trong bóng râm thì
có màu tím.
Từ dây chính, len qua những nách lá, những vòi dây mồng
tơi mọc dài ra thành những dây phụ bám ngang, bám dọc theo
những thanh nứa đan hình mắt cáo, chỉ trong vòng một
tháng thôi, bốn mặt giậu chung quanh khu trồng rau đã được
lá mồng tơi mặt xanh mặt tím che kín rợp.
Dù mùa mưa trôi qua, dù dầu giãi dưới những cơn nắng
trong tiết trời khô ráo, dây mồng tơi vẫn mượt mà,
tươi mát, thấm nhuần nhựa sống dồi dào.
Thế là khu trồng rau của chúng tôi, nhờ giậu mồng tơi đã
có một chỗ riêng biệt giữa những cây cỏ hoang dại mọc hỗn
tạp. Ngoại tôi giậm thêm những cây bồ ngót để nấu canh
tôm, giậm thêm những khóm cao kỷ để nấu canh thịt. Rồi
thì cải ngọt, rau tần ô, rau diếp, rau thơm, ngò gai, rau
cần tàu được trồng theo từng luống. Những loại rau này
cần phải tưới nước và chăm bón cẩn thận. Riêng những
dây mồng tơi thì không cần săn sóc, vẫn đâm tược nẩy
vòi.
Tôi đã từng say ngắm sự tăng trưởng của những dây mồng
tơi ngoài giậu. Những ngày nắng ráo, lá mồng tơi trông
thật mướt, mặt lá bóng láng rung rinh dưới những cơn gió
nhẹ hiu hiu, lóe lên những chấm sao nhấp nháy. Tôi hái một
vài lá vò sát trong lòng bàn tay, khoan khoái cảm nhận chất
nhựa trĩn ướt của lá. Và có những đêm rằm, trời trong
mây tạnh, tôi cũng đến thăm giậu, mê mải nhìn ánh trăng
giát bạc và trắng thủy tinh trên những phiến lá lung linh,
hư ảo.
Ngoại tôi không nấu canh mồng tơi suông đâu. Bà cũng hái
rất nhiều lá mồng tơi, rồi cùng với rau tập tàng, rau
bồ ngót, rau cải trời, rau dịu để nấu canh tôm. Những con
tôm he được ngắt đầu, bóc vỏ, bỏ đuôi, rút gân máu,
đem quyết nhuyễn và tra thêm tiêu, hành lá, nước mắm...
rồi vo từng cục tròn tròn, dẹp dẹp thả vào nồi nước
sôi, trước khi bỏ rau mồng tơi và rau khác vào. Canh rau do
đó, thật ngọt, được múc vào những chiếc tô sành sản
xuất từ Lái Thiêu, với một nét họa phóng bút bằng tay.
Mâm cơm thuở tôi còn thơ ấu chẳng mấy thịnh soạn. Cùng
với canh rau, ngoại tôi kho cá bống trứng, hoặc cá rô
mề, kho bằng tộ để cho cá được thấm tháp, mặn mòi
hơn. Ðôi khi trên mâm cơm có thêm món xào, nhưng độn
rất nhiều giá hoặc rau càng cua hay rau cần ta. Mâm đựng
thức ăn thì bằng thứ gỗ tầm thường, đũa vót bằng
tre; chén dĩa và muỗng cũng bằng sành, cùng do các lò gốm
Lái Thiêu sản xuất. Những thuở đó, ba má tôi rất yêu
thương nhau, cùng chấp nhận cảnh nghèo để tách ra khỏi
đại gia đình dưới sự quản trị nghiêm khắc của ông nội
tôi. Má tôi tự hào là chồng mình đã bắt đầu sống
cuộc đời tự lập. Rồi đó, công cuộc làm ăn của ba
má tôi dễ dàng hơn, cảnh nhà được sung túc hơn. Bàn ăn
phủ khăn trắng, chén dĩa sành được thay thế bằng đồ
sứ mỏng tanh và bóng hơn, đũa tre được đổi thành đũa
mun có đầu bịt bạc hoặc đũa sơn son. Vậy mà, canh rau
mồng tơi vẫn được dọn thường xuyên. Bà ngoại tôi nói:
- Sắp nhỏ hay nổi rôm sảy và đổ ghèn con mắt, phải cho
tụi nó ăn canh mồng tơi hay ăn canh bồ ngót để cho tụi nó
giải nhiệt.
Bồ ngót nẩy lá không kịp theo nhu cầu những nồi canh rau
trong gia đình tôi thuở đó. Chỉ có giậu mồng tơi mới
cung cấp đủ món canh rau thường xuyên mà thôi. Mặc kệ
nắng cháy hay tiết trời khô hạn, những giây mồng tơi vẫn
thản nhiên hiến dâng lá và mầm sống phong phú. Chúng tươi
mát, mềm mại như cô gái đẹp dậy thì. Chỉ cần trải qua
một đêm sương là lá và đọt đã thấm nhuần chất nước
trong mát rồi.
Và thú vị hơn nữa, những trái mồng tơi tím thẳm, to cỡ
đầu mút đũa, bóp dẹp trái mồng tơi giữa hai ngón tay,
chất nước màu tím tươi tiết ra. Chị tôi hái rất nhiều
trái mồng tơi để làm mực tím, viết một lá thư kể tội
tràng giang đại hải cô bạn trong xóm mà nhờ tôi chuyển giao.
Tôi còn nhớ rõ thuở đó, chị tôi cỡ bảy tám tuổi, để
tóc và ăn mặc nam trang, theo lũ con trai chơi những trò chơi
con trai. Lối xóm hầu như quên chị tôi là gái. Lúc nào
cũng liếng thoắng nghịch ngợm, lấy mực mồng tơi vẽ lên
mặt rồi đi dọa con nít. Những đêm rằm, chị thủ sẵn
những bông nấm sáng (nấm lân tinh) đợi những bà hàng xóm
đem bánh và trái cây ra sân cúng rằm, chị rên hừ hừ, rồi
núp vào lùm bụi đối diện với sân, tay cầm nấm sáng quơ
lên. Các bà tưởng là ma, la bài hải, rồi lết vào nhà,
bỏ bánh trái lại. Chị chui ra lấy hết bánh trái và không
quên bỏ lại vỏ trái cây và giấy phong bao bánh cho khổ chủ.
Ba má tôi vì mãi lo làm ăn nên ít khi săn sóc và giáo dục
chúng tôi. Như rau mồng tơi, chúng tôi tăng trưởng tươi
mát khỏe mạnh. Những người ở xa mới tới xóm thường
nhìn chúng tôi khen:
- Hai đứa nhỏ coi "ngộ" quá chớ. Nhứt là cái thằng anh,
vừa cao ráo, trắng trẻo, mắt sáng như sao.
Bà lối xóm ở gần nhà chúng tôi nhất, nhún trề:
- Ðứa lớn là con gái đó đa. Con gái gì mà như quỉ sống,
ma vương. Khạp nước trong của tui để dành nấu nước pha
trà mà nó dám thọc chân dơ vô để rửa chớ.
Tuy ghét chị tôi như vậy mà mỗi khi chị tôi mang qua tô canh
mồng tơi do ngoại tôi nấu, bà không quên thưởng cho chị
khi thì trái ổi, khi thì khúc mía, phong bánh in.
Năm 1946, ba má tôi đem chị em chúng tôi đi chạy giặc. Với
chiếc xuồng ba lá, ba má tôi vượt từ Cai Lậy (Mỹ Tho) qua
Cái Tàu Thượng, Cái Tàu Hạ (Sa Ðéc), vượt qua sông
Bassac (Cần Thơ) rồi theo kinh Bảy Ngàn xuống tới Hỏa Lựu,
Hóc Hỏa. Ở Hóc Hỏa ba tháng, gia đình tôi trôi xuống Chắc
Băng, và ở tại xóm Cây Ða cách chợ Chắc Băng sáu cây số.
Ở đây đất phèn, chẳng có rau cỏ chi cả. Chung quanh là
đồng hoang, nắng cháy. Nhưng con kinh đào, chạy qua xóm có
rất nhiều cá sặc rằn lẫn cá rô mề. Chị em tôi thường
vào rừng tràm hái đọt choại về nấu canh hoặc luộc. Thèm
canh rau mồng tơi và quê nhà ở Ngã Ba Trung Lương (Mỹ Tho)
biết chừng nào!
Vào năm 1946, vừa thấy tình hình yên ổn, má tôi đem chị
em tôi hồi cư. Về quê cũ, gia đình tôi trở lại nếp
sống đạm bạc như xưa. Má tôi bán bớt tư trang và những
món đồ sứ. Canh rau mồng tơi được nấu thường xuyên,
nhưng không còn nấu với tôm thịt, mà chỉ nấu suông và nêm
thêm một chút mắm ruốc cho ngọt. Chiến tranh càng lúc càng
khốc liệt. Con lộ băng qua trước ngõ nhà tôi thường xảy
ra những cuộc chạm súng kinh hồn.
Chúng tôi nghỉ học. Tìm được tập giấy trắng và ngòi
viết lá tre cũ, tôi hái trái mồng tơi pha chế thành mực
tím chép những bài hát nổi tiếng đương thời. Trên nền
giấy ố vàng, những hàng chữ gò gẫm, sắc nét và lối
trình bày sạch sẽ cũng làm cho tập giấy có vẻ ngoạn mục
riêng.
Trong cuộc chạm súng ở trước nhà, tôi bị một vết đạn
trên đầu. Sau hai tuần hôn mê ở bệnh viện Mỹ Tho, tôi
được giải phẫu. Vừa khi tôi lành mạnh ăn giả bữa, chị
tôi đem một "gà-men" đựng canh rau vào để tôi ăn cho ngon
miệng hơn. Lúc đó, tôi ngạc nhiên quá đỗi, chị để
bôm-bê và mặc quần sa-teng đen, áo bà ba lụa tím, đi guốc
sơn đen. Áo lụa tím vẫn là màu mực mồng tơi mà tôi ưa
chuộng.
Rồi chúng tôi bỏ Ngã Ba Trung Lương, về Vĩnh Long sống nhờ
ông nội chúng tôi. Chung quanh nhà, chúng tôi rào giậu mồng
tơi, trồng bồ ngót, cao kỷ, bạc hà, cây lá giấm. Mâm
cơm quê nội có bát dĩa sang trọng, nhưng thức ăn rất đạm
bạc. Việt Minh đã sung công hết ruộng đất của ông nội
tôi. Sản nghiệp của ông dần dần khánh kiệt. Với tài
chế biến khéo léo, má tôi làm những món đạm bạc nhưng
ngon lành và tinh khiết: canh rau nấu bột ngọt, cá cơm kho
tương ăn với dưa leo và rau thơm, cá linh, cá rô kho sả
ớt, con ruốc chấy tóp mỡ... Giậu mồng tơi quê nội đã
giúp cho mẹ con tôi chịu đựng cái nghèo trong cuộc chiến
tranh giữa Pháp và Việt Minh suốt chín năm.
Gia đình tôi lại bắt đầu sung túc khi ba tôi đi kháng Pháp
trở về. Mâm cơm đã có những món xúp nấu với bột mì
hoặc xúp nấu với cải bắp, khoai tây, hành tây và thịt
bò, nhưng chúng tôi vẫn thích ăn canh mồng tơi, nhứt là
để tưởng niệm bà ngoại tôi chết vào năm 1948.
Từ năm 1967, chị tôi thực sự bước vào làng văn do sự
giúp đỡ của ông bà Võ Phiến. Vừa viết văn, làm báo,
vừa đi dạy Anh văn, chị tôi có nhiều tiền. Vậy mà
chị vẫn ở trong căn nhà hẹp té ở gần tòa đại sứ Cam-
bốt. Chị cho rằng chỉ ở trong cái nhà đó, chị mới
làm ăn khấm khá. Tôi cứ ăn chực, sống nhờ chị để
đi học, mà rồi cứ lận đận ở bực đại học hoài.
Mâm cơm ở nhà thật thịnh soạn. Vậy mà vào những buổi
xế nóng nực, uống nước cốt trái cây, uống bia và coca
mà không đã khát, chị tôi dặn cô giúp việc:
- Em nấu canh mồng tơi và kho cá bống trứng cho chị đi.
Rồi tôi vào trường Bộ Binh Thủ Ðức, khóa 26, bắt đầu
từ khoảng đầu thu 1967. Vào Tết Mậu Thân, Việt cộng mở
một cuộc tổng tấn công, trường hoãn việc huấn luyện.
Các sinh viên sĩ quan phải ở trong tình trạng ứng chiến. Nhà
bàn dọn cơm ăn toàn là thịt trâu nấu với khoai lang hoặc các
thực phẩm đóng hộp. Không có chất rau cỏ trong người,
chúng tôi (các bạn đồng khóa và tôi) cảm thấy táo bón, bực
bội. Nhiều đêm, tôi nằm ngủ trong căn liều cắm bên giao
thông hào, mơ thấy mình lạc vào những khu rừng xanh mát, có
những bồn nước mưa trong vắt, có những rẫy trồng rau mơn
mởn và tươi hơn hớn, nhứt là giậu mồng tơi với những
phiến lá mặt tím, mặt xanh, lung linh hư ảo dưới ánh trăng
huyền hoặc. Trong thời gian đó, chị tôi kẹt ở Lộc Ninh.
Khi về được Sài gòn, có đến Thủ Ðức thăm tôi, đem theo
rất nhiều trái cây và rau. Tôi và các bạn bắc ba cục gạch,
chất củi khô nhúm lửa rồi dùng nón sắt đun nước sôi, thả
rau vào luộc hoặc nấu canh với bột ngọt. Bữa cơm rau mồng
tơi đầu tiên trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân mới
ngon lành làm sao! Anh bạn Q. đem cơm và nước tương ở nhà
bàn về, cả bọn bốn đứa ngồi xúm xít bên nón sắt, chan
canh vào cơm, rồi chấm rau vào nước tương, nhai rau ngau
ngáu, húp nước canh xì xụp, cảm thấy gan ruột mình mát
mẻ, mình được chút sinh tố tươi mát, mình được nhuận
trường.
Mãn khóa 26, tôi thực sự bước vào đời lính suốt bảy
năm ròng, lê gót giầy saut khắp Quân Khu 3. Này Bến Cát,
Lai Khê với bản doanh bộ Tư lệnh Sư Ðoàn 5. Này Trị Tâm
nằm trong đồn điền cao su Michelin. Này Tây Ninh có chợ
trời Hiếu Thiện băng qua biên giới. Này Phú Giáo với thị
trấn mới có những căn cứ Mỹ đóng. Này Củ Chi, nơi ổ
giặc núp kín đang làm bàn đạp để tấn công Quân Khu 3,
đêm đêm tôi có thể nghe tiếng chày giã lá bàng trong các
xóm xa. Này Tống Lê Chân, căn cứ được mệnh danh là
"con mắt hồng ngoại tuyến" đã từng dọ dẫm và ngăn chận
sự xâm nhập của địch quân vào lãnh thổ Quân Khu 3. Này
Phước Long, ải địa đầu cực bắc đã chịu nhiều cuộc
pháo kinh hồn cuối năm 1974 và lẫn trong rừng chồi có những
sào huyệt của địch với những tên Chiến Khu D, mật khu
Dương Minh Châu, vùng Tam Giác Sắt với chiến dịch mùa mưa,
cao điểm Ðông Xuân... Sau hết tôi về bộ Tư lệnh Quân
Ðoàn III và Quân Khu 3 ở Biên Hòa, làm việc trong ban Báo Chí.
Tôi đã đi nhiều địa danh, đã theo những toán Dân Sự Vụ
đưa đồng bào ở các vùng xôi đậu về khu định cư lánh
nạn Cộng sản. Bước chân tôi đi trải qua những vùng rừng
chồi rậm rạp, những cánh đồng nhiều hố bom, những ruộng
dưa hấu bỏ hoang, những khu vườn đất còn khét pháo và cây
cối loang lổ vết đạn. Vậy mà rau hoang dại vẫn sinh sôi
nẩy nở. Nhiều nền nhà còn sót lại giàn mồng tơi tím.
Dù không ai săn sóc, dù không khí nồng thuốc khai quang, dây
mồng tơi vẫn mượt mà bám vào những nhánh cây khô, trườn
mình lên nền đất để phơi bày những phiến lá mọng nước,
rung lấp loáng dưới cơn nắng đổ lửa.
Cuối xuân năm Ất Mão, sau khi Việt cộng xâm lăng toàn thể
miền Nam, tôi bỏ xóm ở Phú Nhuận, về nhà chị tôi ở gần
hồ tắm Thiên Nga tá túc. Anh rể tôi, nhà thơ Tô Thùy Yên
đã đi học tập cải tạo. Chị tôi bị cấm hành nghề viết
lách, bán dần từng món trong nhà. Giàn mồng tơi ngoài bờ
rào và bên cửa sổ mọc xum xuê. Nồi canh mồng tơi thời
kháng Pháp ở tại Ngã Ba Trung Lương có dịp nấu lại, và
chẳng có tôm thịt mà chỉ nêm bằng vài thìa mắm ruốc, thêm
một chút ớt bột và tiêu. Tôi cùng với chị tôi và các
cháu cứ ăn canh mồng tơi, rau muống luộc, trứng luộc dầm
với nước mắm từ bữa ăn này sang bữa ăn khác. Vậy mà
chị tôi vẫn vui vẻ, hồn nhiên, nói khôi hài, kể chuyện
tiếu lâm không ngớt. Trong khi đó, tôi lo sợ bị bắt vì
không đăng ký học tập. Tóc tôi bạc đi nhiều mà quái lạ
thay, tuy chị tôi lộ vẻ vui tưoi, nhưng tóc của chị bạc mau
chóng. Nhưng khuôn mặt hai chị em tôi không già héo, dáng
dấp vẫn dẻo dai. Nội lực, tiềm lực của chị em tôi làm
sao cạn với trong tình thương đùm bọc của một số bạn bè?
Dù qua biết bao nhiêu vận nước bi thảm, dù trải qua những
tai ương, chúng tôi còn niềm tin yêu cuộc đời. Chúng tôi
là những dây mồng tơi tím, mượt mà bò trên mặt đất
mấp mô, lăn xả vào gai góc để trổ lá, đâm tược, tha
thiết quấn vòi vào.
Chúng tôi giờ đây dù kẻ ở bên quê nhà, người sống nơi
tha hương vẫn bền lòng đợi anh Yên trở về trong một ngày
nước nhà được thoát khỏi ách thống trị của Việt cộng.
Anh Yên còn ở nhà, rất dở chịu đựng. Thế mà anh đã
chịu đựng trong ngục tù lao động của Cộng sản suốt bảy
năm ròng. Tin mới nhứt từ quê nhà đưa sang là anh vẫn
khỏe mạnh. Có chạm trán và thử thách gian nan, tôi mới rõ
phần tiềm lực sâu sắc nhứt của từng cá nhân. Tôi đã
đương đầu với sinh kế gian nan trên cái xứ nổi tiếng về
nạn thất nghiệp là xứ Pháp. Nếu anh Yên trong vòng kềm
kẹp khắt khe của Cộng sản, vẫn là dây mồng tơi tím,
trườn mình vào chông gai, thì trên đất Pháp, tôi cũng bò
lên những nhiêu khê phiền toái của sinh kế, kiếm chút ít
tiền để mua quà và thuốc men gởi về cho mẹ tôi, chị tôi
và các cháu tôi.
Có một thời gian, nằm trong căn phòng tại thành phố Meudon,
cách Paris hàng mười cây số, trên ngọn đồi cao, đêm đêm
vọng tiếng cú rúc ở bìa rừng, tôi hình dung lại giậu
mồng tơi và tô canh mồng tơi tím nấu với vài thứ rau
khác cùng tôm he. Tôi đã thấy rồi, qua hồi ức, trên
những phiến lá óng mượt dưới ánh trăng, trong đáy bát
canh cả một cuộc đời thăng trầm của gia đình tôi, những
vận mệnh bi đát của quê hương tôi. Tuy vậy, cùng với
mái tóc sớm điểm bạc, tôi đã giữ một chút tươi mát
tận trong cõi tiềm lực thâm thúy, để còn hy vọng ngày
về, để kể cho con cháu nghe lại một loại rau mát lành của quê hương từng nuôi sống gia đình tôi và gieo cho tôi ý niệm về cái ung dung, tươi mát của một tâm hồn thơ mộng không bao giờ hủy diệt trước nghịch cảnh.
Hồ Trường An
Nguồn www.phunuviet.org
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 6 bạn đọc.
Kiểu: