Đường Thi Trích Dịch III - Anh Nguyên
MỘ XUÂN 暮 春
臥 病 擁 塞 在 峽 中,
瀟 湘 洞 庭 虛 映 紅。
楚 天 不 斷 西 時 雨,
巫 峽 常 吹 千 里 風。
沙 上 草 閣 柳 新 闇,
城 邊 野 池 蓮 欲 紅。
暮 春 鴛 鴦 立 洲 渚,
挾 子 翻 飛 還 一 叢。 杜 甫 Ngọa bệnh ủng tái tại giáp trung, Tiêu tương động đình hư ánh hồng. Sở thiên bất đoạn tứ thì vũ, Vu giáp thường xuy thiên lý phong. Sa thượng thảo các liễu tân ám, Thành biên dã trì liên dục hồng. Mộ xuân uyên ương lập châu chử, Hiệp tử phiên phi hoàn nhất tùng. Đỗ-Phủ Dịch: Cuối xuân Bệnh nên nằm bẹp kẽm này, Tiêu-Tương với Động-Đình nay nắng hồng. Bốn mủa, trời Sở mưa không, Kẽm Vu, ngàn dặm gió lồng về đây. Bãi sông, gác cỏ, liễu bày, Bên thành, ao biếc sen nay khoe hồng. Uyên ương bờ nước bềnh bồng, Gom con bay lại hợp chung một bầy... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.09.2022 21:23:54 bởi Anh Nguyên >
MÍNH 暝
日 下 四 山 陰,
山 庭 嵐 氣 侵。
牛 羊 歸 徑 險,
鳥 雀 聚 枝 深。
正 枕 當 星 劍,
收 書 動 玉 琴。
半 扉 開 燭 影,
欲 掩 見 清 砧。 杜 甫
Nhật hạ tứ sơn âm, Sơn đình lam khí xâm. Ngưu dương quy kính hiểm, Điểu tước tụ chi thâm. Chính chẩm đương tinh kiếm, Thâu thư động ngọc cầm. Bán sài khai chúc ảnh, Dục yểm kiến thanh châm. Đỗ-Phủ Dịch: Nhá nhem tối Mặt trời xuống, núi tối mờ, Khí lam đã bốc nãy giờ đầy sân. Trâu, dê, đường hẹp về dần, Sẻ, chim, cành rậm đậu gần bên nhau. Ngắm sao kiếm, sửa gối đầu, Gẩy cây đàn ngọc, sách thâu cất rồi. Cửa còn hé, ánh đuốc ngời, Muốn cài, nghe vọng khắp nơi tiếng chầy... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.06.2022 18:13:22 bởi Anh Nguyên >
DẠ 夜
露 下 天 高 秋 水 清,
空 山 獨 夜 旅 魂 驚。
疏 燈 自 照 孤 帆 宿,
新 月 猶 懸 雙 杵 鳴。
南 菊 再 逢 人 臥 病,
北 書 不 至 雁 無 情。
步 蟾 倚 杖 看 牛 斗,
銀 漢 遙 應 接 鳳 城。 杜 甫 Lộ hạ thiên cao thu thủy thanh, Sơn không độc dạ lữ hồn kinh. Sơ đăng tự chiếu cô phàm túc, Tân nguyệt do huyền song chử minh. Nam cúc tái phùng nhân ngọa bệnh, Bắc thư bất chí nhạn vô tình. Bộ thiềm ỷ trượng khan ngưu đẩu, Ngân hán dao ưng tiếp phượng thành. Đỗ-Phủ Dịch: Ban đêm Trời cao, sương, nước trong xanh, Khách đêm núi vắng, một mình sợ ghê. Đèn mờ, buồm lẻ đậu kia, Tiếng chầy đập áo, trăng khuya, khua rền. Cúc nam, gặp, bệnh liên miên, Vô tình, cánh nhạn, thư miền bắc đâu? Ngắm sao, chống gậy, ngẩng đầu, Sông Ngân vươn tới tận đâu Phượng-Thành... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 18:41:20 bởi Anh Nguyên >
ĐĂNG NHẠC DƯƠNG LÂU
登 岳 陽 樓
昔 聞 洞 庭 水,
今 上 岳 陽 樓。
吳 楚 東 南 坼,
乾 坤 日 夜 浮。
親 朋 無 一 字,
老 病 有 孤 舟。
戎 馬 關 山 北,
憑 軒 涕 泗 流。
杜 甫
Tích văn động đình thủy, Kim thượng nhạc dương lâu. Ngô sở đông nam sách, Càn khôn nhật dạ phù. Thân bằng vô nhất tự, Lão bệnh hữu cô châu. Nhung mã quan san bắc, Bằng hiên thế tứ lưu. Đỗ-Phủ Dịch: Lên lầu Nhạc-Dương Xưa nghe trăng nước Động-Đình, Nhạc-Dương, nay đứng một mình lầu đây. Đông: Ngô, nam: Sở, chốn này, Mênh mang trời đất cả ngày lẫn đêm. Bạn thân, thư đã lãng quên, Bệnh, già, chỉ có con thuyền đơn côi. Chiến tranh ải bắc chưa thôi, Ngoài hiên tựa cột, sụt sùi lệ rơi!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 18:42:37 bởi Anh Nguyên >
LẠC NHẬT
落 日
落 日 在 簾 鉤
溪 邊 春 事 幽
芳 菲 緣 岸 圃
樵 爨 倚 灘 舟
卓 雀 爭 枝 墜
飛 蟲 滿 院 遊
濁 醪 誰 造 汝
一 酌 散 千 憂
杜 甫
Lạc nhật tại liêm câu, Khê biên xuân sự u. Phương phi duyên ngạn phố, Tiều thoán ỷ thán chu. Trác tước tranh chi trụy, Phi trùng mãn viện du. Trọc giao thùy tạo nhữ, Nhất chước tán thiên ưu. Đỗ-Phủ Dịch: Mặt trời lặn Bên rèm trời đã xế chiều, Bờ khe xuân cảnh tiêu điều âm u. Cỏ thơm bờ nước lô nhô, Bác tiều nhóm lửa cành khô trên thuyền. Sẻ tranh cành, rớt liền liền, Côn trùng bay lượn liên miên đầy nhà. Rượu kia ai nấu mày ra, Một ly tan hết cho ta nghìn sầu... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.06.2022 22:01:34 bởi Anh Nguyên >
DI CƯ CÔNG AN SƠN QUÁN 移 居 公 安 山 館
南 國 晝 多 霧﹐
北 風 天 正 寒。
路 危 行 木 杪﹐
身 遠 宿 雲 端。
山 鬼 吹 燈 滅﹐
廚 人 語 夜 闌。
雞 鳴 問 前 館﹐
世 亂 敢 求 安。 杜 甫 Nam quốc trú đa vụ, Bắc phong thiên chính hàn. Lộ nguy hành mộc diểu, Thân viễn túc vân đoan. Sơn qủy xuy đăng diệt, Trù nhân ngữ dạ lan. Kê minh vấn tiền quán, Thế loạn cảm cầu an. Đỗ-Phủ Dịch: Tới ở quán núi tại Công-An Miền nam, ngày có nhiều mây, Vi vu gió bắc, trời nay lạnh rồi. Đường đi, cây cản khắp nơi, Xa xôi, thân ngủ tạm thời trong mây. Đèn tắt, chắc quỷ núi này, Những người nấu bếp, chuyện ngày lại đêm. Tiếng gà, mới hỏi quán bên, Đời đang loạn lạc, cầu yên được à?!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.06.2022 22:03:49 bởi Anh Nguyên >
ĐOẢN CA HÀNH TẶNG VƯƠNG LANG 短 歌 行 贈 王 郎 司 直
王 郎 酒 酣,
拔 劍 斫 地 歌 莫 哀.
我 能 拔 爾,
抑 塞 磊 落 之 奇 才.
豫 章 翻 風 白 日 動,
鯨 魚 跋 浪 滄 溟 開.
且 脫 佩 劍 休 徘 徊.
西 得 諸 侯 棹 錦 水,
欲 向 何 門 趿 珠 履.
仲 宣 樓 頭 春 色 深,
青 眼 高 歌 望 吾 子.
眼 中 之 人 吾 老 矣. 杜 甫
Vương lang tửu hàm, Bạt kiếm chước địa ca mạc ai. Ngã năng bạt nhĩ, Ức tắc lỗi lạc chi kỳ tài. Dự chương phiên phong bạch nhật động, Kình ngư bạt lãng thương minh khai. Thả khoát kiếm bội hưu bồi hồi, Tây đắc chư hầu trạo cẩm thủy. Dục hướng hà môn đạp châu lý, Trọng tuyên lâu đầu xuân dĩ thâm. Thanh nhãn cao ca vọng ngô tử, Nhãn trung chi nhân ngô lão hĩ. Đỗ-Phủ Dịch: Khúc ca ngắn tặng chàng Vương Chàng Vương rượu đã ngà ngà, Rút gươm chém đất và ca đừng buồn! Để ta sẽ giúp người luôn, Tài ba bị loại thật buồn lắm thay. Gió lay cây gụ suốt ngày, Cá kình rẽ sóng mở bày biển xanh. Cất gươm, đừng nghĩ quẩn quanh, Mái chèo sông Gấm phải đành hướng tây. Cổng nào muốn bước vào đây? Trọng-Tuyên, gác trọ tháng ngày Xuân qua, Mắt xanh trông bạn vang ca, Người trong mắt đó, còn ta già rồi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 18:47:31 bởi Anh Nguyên >
MỘ QUY 暮 歸
霜 黃 碧 梧 白 鶴 棲,
城 上 擊 柝 復 烏 啼。
客 子 入 門 月 皎 皎,
誰 家 搗 練 風 淒 淒。
南 渡 桂 水 闕 舟 楫,
北 歸 秦 川 多 鼓 鼙。
年 過 半 百 不 稱 意,
明 日 看 雲 還 杖 藜。 杜 甫 Sương hoàng bích ngô bạch hạc thê, Thành thượng kích tác phục ô đề. Khách tử nhập môn nguyệt hạo hạo, Thùy gia đảo luyện phong thê thê. Nam độ quế thủy khuyết chu tiếp, Bắc quy tần xuyên đa cổ bề. Niên quá bán bách bất xứng ý, Minh nhật khán vân hoàn trượng lê. Đỗ-Phủ Dịch: Trở về lúc chiều tối Ngô đồng, hạc trắng, sương vàng, Trên thành quạ réo, mõ vang từng hồi. Khách về, trăng chiếu sáng ngời, Nhà ai đập lụa, gió trời lạnh the. Xuôi nam, sông chẳng thuyền bè, Ngược về miền bắc, trống nghe liên hồi. Chẳng gì vừa ý, nửa đời, Gậy lê, mai chống, ngắm trời mây bay... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.06.2022 22:08:01 bởi Anh Nguyên >
CHU NGUYỆT ĐỐI DỊCH CẬN TỰ 舟 月 對 驛 近 寺
更 深 不 假 熾,
月 朗 自 明 船.
金 剎 青 楓 外,
朱 樓 白 水 邊.
城 烏 啼 眇 眇,
野 鷺 宿 娟 娟.
皓 首 江 湖 客,
鉤 簾 獨 未 眠. 杜 甫 Canh thâm bất giả chúc, Nguyệt lãng tự minh thuyền. Kim sát thanh phong ngoại, Chu lâu bạch thủy biên. Thành ô đề diệu diệu, Dã lộ túc quyên quyên. Hạo thủ giang hồ khách, Câu liêm độc vi miên. Đỗ-Phủ Dịch: Trăng chiếu thuyền đậu ngang quán dịch gần chùa Chẳng cần đến đuốc đêm khuya, Con thuyền đã có tràn trề ánh trăng. Trước chùa là bến Thanh-Phong, Lầu son, Bạch-Thủy một dòng kề bên. Trên thành quạ réo liền liền, Cò đồng đậu bãi êm êm ngủ gà. Sông hồ, đầu khách bạc ra, Trăng liềm, thao thức, thân già ngủ đâu!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.06.2022 22:10:29 bởi Anh Nguyên >
MỘ XUÂN ĐỀ NHƯƠNG TÂY TÂN NHẪM THẢO ỐC (Kỳ nhất) (暮 春) 題 (瀼 西) 新 賃 草 屋 其 一 久 嗟 三 峽 客, 再 與 暮 春 期。 百 舌 欲 無 語, 繁 花 能 幾 時。 谷 虛 雲 氣 薄, 波 亂 日 華 遲。 戰 伐 何 由 定, 哀 傷 不 在 茲。 杜 甫 Cửu ta tam giáp khách, Tái dữ mộ xuân kỳ. Bách thiệt dục vô ngữ, Phồn hoa năng kỷ thì. Cốc hư vân khí bạc, Ba loạn nhật hoa trì. Chiến phạt hà do định, Ai thương bất tại ti. Đỗ-Phủ Dịch: (Cuối Xuân) Đề nơi nhà cỏ mới thuê (ở Nhương Tây) (Bài một) Ở lâu Tam-Giáp than dài, Lại cùng Xuân muộn với ai hẹn kỳ. Dầu trăm lưỡi muốn nói chi, Hoa nhiều, tươi tốt được thì bao lâu. Hang không, khí mỏng bạc mầu, Sóng dồn nên mặt trời lâu ló hình. Bao giờ hết giặc, yên bình, Đau thương chẳng để phát sinh nơi này... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 19:00:51 bởi Anh Nguyên >
ĐỀ TÂN NHẪM THẢO ỐC (Kỳ nhị) (暮 春) 題 (瀼 西) 新 賃 草 屋 其 二 此 邦 千 樹 橘, 不 見 比 封 君。 養 拙 干 戈 際, 全 生 鹿 麋 群。 畏 人 江 北 草, 旅 食 瀼 西 雲。 萬 里 巴 渝 曲, 三 年 實 飽 聞。 杜 甫 Thử bang thiên thụ quất, Bất kiến bỉ phong quân. Dưỡng chuyết can qua tế, Toàn sinh lộc mê quần. Úy nhân giang bắc thảo, Lữ thực tương tây vân. Vạn lý ba du khúc, Tam niên thực bảo văn. Đỗ-Phủ Dịch: (Cuối Xuân) Đề nơi nhà cỏ mới thuê (ở Nhương Tây) (Bài hai) Hàng ngàn cây quất chốn đây, Người hiền chẳng thấy nơi này của vua. Loạn ly, giao tế giả ngu, Yên thân, phải sống với dù hươu nai. Nơi Giang-Bắc, sợ cỏ thay! Mây Tương-Tây, sống mãi ngày xa quê. Ba-Du vạn dặm đổ về, Ba năm, no bụng, chưa nghe một lần!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.06.2022 22:14:43 bởi Anh Nguyên >
ĐỀ TÂN NHẪM THẢO ỐC (Kỳ tam) (暮 春) 題 (瀼 西) 新 賃 草 屋 其 三 綵 雲 陰 復 白, 錦 樹 曉 來 青。 身 世 雙 蓬 鬢, 乾 坤 一 草 亭。 哀 歌 時 自 適, 醉 舞 為 誰 醒。 細 雨 荷 鋤 立, 江 猿 吟 翠 屏。 杜 甫 Thái vân âm phục bạch, Cẩm thụ hiểu lai thanh. Thân thế song bồng mấn, Càn khôn nhất thảo đình. Ai ca thì tự thích, Túy vũ vị thùy tinh. Tế vũ hà xừ lập, Giang viên ngâm thúy bình. Đỗ-Phủ Dịch: (Cuối Xuân) Đề nơi nhà cỏ mới thuê (ở Nhương Tây) (Bài ba) Vầng mây tối lại sáng ra, Sáng nhìn cây gấm xa xa xanh mầu. Tóc mai rối rắm trên đầu, Đất trời, nhà cỏ, còn đâu chốn nào. Lúc vui, ca giọng buồn sao, Múa say, xem, để người nào tỉnh thôi. Vác bừa, mưa nhỏ, đứng coi, Bên sông vượn hót khuất nơi xanh rì... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.06.2022 22:16:44 bởi Anh Nguyên >
ĐỀ TÂN NHẪM THẢO ỐC (Kỳ tứ) (暮 春) 題 (瀼 西) 新 賃 草 屋 其 四 壯 年 學 書 劍, 他 日 委 泥 沙。 事 主 非 無 祿, 浮 生 即 有 涯。 高 齋 依 藥 餌, 絕 域 改 春 華。 喪 亂 丹 心 破, 王 臣 未 一 家。 杜 甫 Tráng niên học thư kiếm, Tha nhật úy nê sa. Sự chú phi vô lộc, Phù sinh tức hữu nha. Cao trai y dực nhị, Tuyệt vực cải xuân hoa. Táng loạn đan tâm phá, Vương thần vị nhất gia. Đỗ-Phủ Dịch: (Cuối Xuân) Đề nhà cỏ mới thuê (ỡ Nhương Tây) (Bài bốn) Tuổi xuân học kiếm học văn, Thân nay phó mặc ăn nằm bùn nhơ. Giúp vua bổng lộc ắt nhờ, Cuộc đời trôi nổi bến bờ có nơi. Nhà nay chế thuốc tạm thời, Chốn này hiu quạnh đổi đời hoa xuân. Lòng son, loạn lạc tiêu dần, Vua tôi chưa hẳn một tâm một nhà... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.06.2022 22:21:04 bởi Anh Nguyên >
ĐỀ TÂN NHẪM THẢO ỐC (Kỳ ngũ) (暮 春) 題 (瀼 西) 新 賃 草 屋 其 五 欲 陳 濟 世 策, 已 老 尚 書 郎。 未 息 豺 狼 鬥, 空 慚 鴛 鷺 行。 時 危 人 事 急, 風 逆 羽 毛 傷。 落 日 悲 江 漢, 中 宵 溴 滿 床。 杜 甫 Dục trần tế thế sách, Dĩ lão thượng thư lang. Bất tức sài lang đấu, Không tàm uyên lộ hàng. Thì nguy nhân sự cấp, Phong nghịch vũ mao thương. Lạc nhật bi giang hán, Trung tiêu lệ mãn sàng. Đỗ-Phủ Dịch: (Cuối Xuân) đề ở nhà cỏ mới thuê (ở Nhương Tây) (Bài năm) Muốn bày kế sách cứu đời, Nhưng viên quan Thượng tuổi thời đã cao. Sói lang đã dẹp được nào, Hạc, cò, xấu hổ biết bao nhiêu rồi. Lúc nguy cần gấp người thôi, Nếu bay ngược gió, lông thời nát tan, Buồn nơi Giang-Hán chiều tàn, Nửa đêm, lệ nhỏ tràn lan khắp giường... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.06.2022 22:25:57 bởi Anh Nguyên >
DI CƯ ĐÔNG ĐỒN MAO ỐC (Kỳ nhất) (自 瀼 西 荊 扉 且) 移 居 東 屯 茅 屋 其 一 白 鹽 危 嶠 北, 赤 甲 古 城 東。 平 地 一 川 穩, 高 山 四 面 同。 煙 霜 淒 野 日, 粳 稻 熟 天 風。 人 事 傷 蓬 轉, 吾 將 守 桂 叢。 杜 甫 Bạch diêm nguy cảo bắc, Xích giáp cổ thành đông. Bình địa nhất xuyên ẩn, Cao sơn tứ diện đồng. Sương yên thê dã nhật, Canh đạo thục thiên phong. Nhân sự thương bồng chuyển, Ngô tương thủ quế tùng. Đỗ-Phủ Dịch: (Từ cửa tre nơi Nhương Tây bèn) Dời đến nhà cỏ ở Đông-Đồn (Bài một) Núi cao phía bắc: Bạch-Diêm, Phía đông: Xích-Giáp, là miền thành xưa. Đất bằng sông ẩn cây thưa, Núi non bốn mặt từ xưa đến giờ. Đồng quê sương khói mịt mờ, Gió trời, lúa chín đang chờ cắt đây. Thương người, như cỏ bồng lay, Tôi xin tùng quế chốn này gửi thân... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 19:21:35 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 4 bạn đọc.
Kiểu: