Đường Thi Trích Dịch III - Anh Nguyên
TẢ THIÊN CHÍ LAM QUAN THỊ ĐIỆT TÔN TƯƠNG
左 遷 至 藍 關 示 姪 孫 湘
一 封 朝 奏 九 重 天,
夕 貶 潮 陽 路 八 千.
欲 為 聖 明 除 弊 事,
肯 將 衰 朽 惜 殘 年.
雲 橫 秦 嶺 家 何 在,
雪 擁 藍 關 馬 不 前.
知 汝 遠 來 應 有 意,
好 收 吾 骨 瘴 江 邊.
韩 愈 Nhất phong triêu tấu cửu trùng thiên, Tịch biếm triều dương lộ bát thiên. Bản vị thánh triều trừ tệ chính, Cảm tương suy hủ tích tàn niên. Vân hoành tần lĩnh gia hà tại, Tuyết ủng lam quan mã bất tiền. Tri nhữ viễn lai ưng hữu ý, Hảo thu ngô cốt chướng giang biên. Hàn-Dũ Dịch: Bị biếm đi Lam quan nói cùng cháu Tương Sáng vừa dâng sớ lên Thiên-tử, Chiều đã Triều-Dương đất trích kia. Muốn giúp triều đình, trừ mối hại, Há nề tuổi tác, ngại thân suy! Mây giăng Tần lĩnh, nhà đâu tá, Tuyết phủ Lam quan, ngựa chẳng đi. Hẳn cháu đến đây vì có ý, Hãy thâu xương chú bến sông về! Trần-Trọng-San Sớ vừa buổi sáng dâng vương, Chiều đày đi đến Triều-Dương xa vời. Vì vua trừ mối hại thôi, Há đâu tiếc tuổi đương thời tàn sao. Núi Tần, nhà ở nơi nào? Ải Lam tuyết phủ, ngựa sao lên đường! Cháu từ xa đến, chắc thương, Bên bờ sông Chướng nhặt xương ta về... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 21:04:57 bởi Anh Nguyên >
BÁT NGUYỆT THẬP NGŨ DẠ TẶNG TRƯƠNG CÔNG TÀO 八 月 十 五 夜 贈 張 功 曹 纖 雲 四 卷 天 無 河, 清 風 吹 空 月 舒 波。 沙 平 水 息 聲 影 絕, 一 杯 相 屬 君 當 歌。 君 歌 聲 酸 辭 且 苦, 不 能 聽 終 淚 如 雨。 洞 庭 連 天 九 疑 高, 蛟 龍 出 沒 猩 鼯 號。 十 生 九 死 到 官 所, 幽 居 默 默 如 藏 逃。 下 床 畏 蛇 食 畏 藥, 海 氣 濕 蟄 熏 腥 臊。 昨 者 州 前 捶 大 鼓, 嗣 皇 繼 聖 登 夔 皋。 赦 書 一 日 行 萬 里, 罪 從 大 辟 皆 除 死。 遷 者 追 回 流 者 還, 滌 瑕 蕩 垢 清 朝 班。 州 家 申 名 使 家 抑, 坎 軻 只 得 移 荊 蠻。 判 司 卑 官 不 堪 說, 未 免 捶 楚 塵 埃 間。 同 時 輩 流 多 上 道, 天 路 幽 險 難 追 攀。 君 歌 且 休 聽 我 歌, 我 歌 今 與 君 殊 科。 一 年 明 月 今 宵 多, 人 生 由 命 非 由 他。 有 酒 不 飲 奈 明 何。 韓 愈 Tiêm vân tứ quyển thiên vô hà, Thanh phong xuy không nguyệt thư ba. Sa bình thủy tức thanh ảnh tuyệt, Nhất bôi tương chúc quân đương ca. Quân ca thanh toan từ chính khổ, Bất năng thính chung lệ như vũ. Động đình liên thiên cửu nghi cao, Giao long xuất một tinh ngô hào. Thập sinh cửu tử đáo quan sở, U cư mặc mặc như tàng đào. Hạ sàng úy xà thực úy dược, Hải khí thấp trập huân tinh tao. Tạc giả châu tiền chùy đại cổ, Tự hoàng kế thánh đăng qùy cao. Xá thư nhất nhật hành vạn lš, Tội tòng đại tích giai trừ tử. Thiên giả truy hồi lưu giả hoàn, Điều hà đãng cấu thanh triều ban. Châu gia thân danh sứ gia ức, Khảm kha chỉ đắc di kinh man. Phán tư ty quan bất kham thuyết, Vị miễn chủy sở trần ai gian. Đồng thời bối lưu đa thướng đạo, Thiên lộ u hiểm nan truy phan. Quân ca thả hưu thính ngã ca, Ngã ca kim dữ quân thù khoa. Nhất niên minh nguyệt kim tiêu đa, Nhân sinh do mệnh phi do tha. Hữu tửu bất ẩm nại minh hà! Hàn-Dũ Dịch: Đêm rằm tháng tám tặng ông họ Trương Bốn bề mây cuốn, không sao, Trên trời gió mát, trăng cao sáng ngời. Cát bằng, nước ánh trăng lơi, Bác ca, chén rượu xin mời cùng nhau. Giọng ca chua xót, lời đau, Tôi nghe chưa hết, lệ hầu như mưa. Động-Đình cùng Cửu-Nghi xưa, Rắn rồng khỉ vượn sớm trưa kêu gào. Tới nơi gian hiểm biết bao, Sống im, lặng lẽ, khác nào trốn chui. Ăn nằm sợ rắn, thuốc thôi, Biển hơi ẩm thấp, đất hôi tanh bùn. Hôm qua, huyện trống thì thùng, Lên ngôi, vua dụng tôi trung Cao-Qùy. Lệnh ân xá vội truyền đi, Tử hình khỏi chết, còn gì vui hơn. Lưu đầy về hết, thật ơn, Triều đình trong sạch, oán hờn còn chi. Huyện trình, quan phủ dìm đi, Khổ thay, chỉ được đổi về Kinh-Man. Chức thường, đâu dám thở than, Tránh sao cho khỏi thế gian dập vùi. Nhiều người cùng cảnh về rồi, Đường trời hiểm trở bám thời dễ đâu. Bác ca, tôi cũng ca hầu, Tôi ca, với bác khác đâu chi mà. Trăng nay sáng nhất năm qua, Đời người số mệnh, hại ta được nào. Rượu kia, ta uống cùng nhau, Ánh trăng trong vắt, nỡ nào để suông... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 22:00:38 bởi Anh Nguyên >
SƠN THẠCH 山 石
山 石 犖 確 行 徑 微,
黃 昏 到 寺 蝙 蝠 飛.
升 當 坐 階 新 雨 足,
芭 蕉 葉 大, 梔 子 肥.
僧 言 古 壁 佛 畫 好,
以 火 來 照 所 見 稀.
鋪 床 拂 席 置 羹 飯,
疏 糲 亦 足 飽 我 飢.
夜 深 靜 臥 百 蟲 絕,
清 月 出 嶺 光 入 扉.
天 明 獨 去 無 道 路,
出 入 高 下 窮 煙 霏.
山 紅 澗 碧 紛 爛 漫,
時 見 松 櫪 皆 十 圍.
當 流 赤 足 踏 澗 石,
水 聲 激 激 風 生 衣.
人 生 如 此 自 可 藥,
豈 必 局 促 為 人 鞿?
嗟 哉 吾 黨 二 三 子,
安 得 至 老 不 更 歸. 韓 愈 Sơn thạch lao giác hành kính vi, Hoàng hôn đáo tự biên bức phi. Thăng đường tọa giai tân vũ túc, Ba tiêu diệp đại chi tử phì. Tăng ngôn cổ bích phật họa hảo, Dĩ hỏa lai chiếu sở kiến hi. Phô sàng phất tịch trí canh phạn, Sơ lệ diệc túc bảo ngã ky. Dạ thâm tĩnh ngọa bách trùng tuyệt, Thanh nguyệt xuất lĩnh quang nhập phi. Thiên minh độc khứ vô đạo lộ, Xuất nhập cao hạ cùng yên phi. Sơn hồng giản bích phân lạn mạn, Thì kiến tùng lịch giai thập vi. Đương lưu xích túc đạp giản thạch, Thủy thanh kích kích phong sinh y. Nhân sinh như thử tự khả lạc, Khởi tất cục súc vi nhân ky. Ta tai ngô đảng nhị tam tử, An đắc chí lão bất cánh quy. Hàn-Dũ Dịch: Đá núi Đường đi đá núi nhấp nhô, Mãi khi sẩm tối đến chùa, dơi bay, Ngồi thềm, mưa mới tạnh đây, Những cây chuối, lá to dầy xanh tươi. Thầy rằng tranh Phật tuyệt vời, Soi đèn chỉ thấy hơi hơi nét mờ. Bày giường, rũ chiếu, cơm chờ, Đói ăn cơm hẩm sơ sơ đủ rồi. Đêm khuya giun dế im hơi, Trăng lên khỏi núi chiếu nơi cửa phòng. Ra đi mờ sáng, đường không, Quanh co, lên xuống, khói dâng mịt mờ. Núi hồng, khe biếc, nắng lùa, Tùng, trông thỉnh thoảng to vừa mười ôm. Băng qua suối, đá lồm cồm, Nước kêu róc rách, gió vờn áo bay. Đời người như thế vui thay, Há cho chuyện vặt hàng ngày buộc a? Ừ, hai ba đứa bọn ta, Già rồi, sao chẳng về nhà cho xong!... Anh-Nguyên ĐƯỜNG THI TRÍCH DỊCH
Hết Quyển III
*/-
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 22:04:01 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu: