Đường Thi Trích Dịch III - Anh Nguyên
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 14 trang, bài viết từ 31 đến 45 trên tổng số 198 bài trong đề mục
Anh Nguyên 10.11.2008 07:20:59 (permalink)
 
CỬU NHẬT
   
九 日
 
去 年 登 高 郪 縣 北,
今 日 重 在 涪 江 濱。
苦 遭 白 髮 不 相 放,
羞 見 黃 花 無 數 新。
世 亂 郁 郁 久 為 客,
路 難 悠 悠 常 傍 人。
酒 闌 卻 憶 十 年 事,
腸 斷 驪 山 清 路 塵。 
杜 甫
 
Khứ niên đăng cao thê huyện bắc,
Kim nhật trùng tại bồi giang tân.
Khổ tao bạch phát bất tương phóng,
Tu kiến hoàng hoa vô số tân.
Thế loạn uất uất cửu vi khách,
Lộ nan du du thường bạng nhân.
Tửu lan khước ức thập niên sự,
Trường đoạn ly sơn thanh lộ trần.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Ngày mùng chín
 
Huyện Thê, năm ngoái lên cao,
Sông Phù, nay lại trở vào bến xưa.
Không buông, tóc bạc, khổ chưa,
Hoa vàng, xấu hổ, mới vừa nở ra.
Loạn, buồn mãi khách chốn xa,
Đường đi chật vật theo ta bám hoài.
Mười năm tàn rượu nhớ dai,
Ly-Sơn nghĩ tới, khiến ai đau lòng...
Anh-Nguyên                 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 20:12:48 bởi Anh Nguyên >
#31
    Anh Nguyên 10.11.2008 07:31:56 (permalink)
     
    VIỄN VỌNG


    Tiện tử hà nhân ký,
    Mê phương trước xứ gia.
    Trúc phong liên dã sắc,
    Giang mạt ủng xuân sa.
    Chủng dược phù suy bệnh,
    Ngâm thi giải thán ta.
    Tự văn hồ kỵ tẩu,
    Thất hỷ vấn kinh hoa.
    Đỗ-Phủ
     
    Dịch:
     
    Mong ngóng chốn xa
     
    Thân hèn ai nhớ làm chi,
    Nơi nào lạc tới, đấy thì nhà ta.
    Đồng xanh, trúc biếc la đà,
    Cát Xuân, bọt nước từ xa đưa vào.
    Thuốc trồng, chữa bệnh chứ sao,
    Ngâm thơ, quên mất được bao nỗi buồn.
    Giặc Hồ, nghe đã chạy luôn,
    Kinh đô, mừng rỡ, bồn chồn hỏi thăm...
    Anh-Nguyên            
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 06.06.2022 09:58:57 bởi Anh Nguyên >
    #32
      Anh Nguyên 10.11.2008 07:38:46 (permalink)
       
      CỬU NHẬT NGŨ THỦ
       
      九 日 其 一
       
      重 陽 獨 酌 杯 中 酒,
      抱 病 起 登 江 上 臺。
      竹 葉 於 人 既 無 分,
      菊 花 從 此 不 須 開。
      殊 方 日 落 玄 猿 哭,
      舊 國 霜 前 白 雁 來。
      弟 妹 蕭 條 各 何 往,
      干 戈 衰 謝 兩 相 催。   
      杜 甫
       
      Trùng dương độc chước bôi trung tửu,
      Bảo bệnh khởi đăng giang thượng đài.
      Trúc diệp vu nhân ký vô phận,
      Cúc hoa tòng thử bất tu khai.
      Thù phương nhật lạc huyền viên khốc,
      Cố quốc sơn tiền bạch nhạn lai.
      Đệ muội tiêu điều các hà tại,
      Can qua suy tạ lưỡng tương thôi.
      Đỗ-Phủ
       
      Dịch:
       
      Ngày mồng chín Trùng dương, uống rượu một mình,
       
      Lầu sông, tuy bệnh, thình lình lên chơi.
      Với người, trúc lỡ phận rồi,
      Cúc kia từ đó một thời không hoa.
      Vượn đen chiều lạ, khóc la,
      Sương rơi, nhạn trắng về nhà quê xưa.
      Các em lưu lạc khổ chưa,
      Loạn và bệnh hoạn bao giờ mới thôi...
      Anh-Nguyên       
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 20:18:10 bởi Anh Nguyên >
      #33
        Anh Nguyên 10.11.2008 07:45:48 (permalink)
         
        KHÁCH ĐÌNH
         
        客 亭
         
        秋 窗 猶 曙 色,
        落 木 更 高 風。
        日 出 寒 山 外,
        江 流 宿 霧 中。
        聖 朝 無 棄 物,
        衰 病 已 成 翁,
        多 少 殘 生 事,
        飄 零 任 轉 蓬。   
        杜 甫
         
        Thu song do thự sắc,
        Lạc mộc cánh cao phong.
        Nhật xuất hàn sơn ngoại,
        Giang lưu túc vụ trung.
        Thánh triều vô khí vật,
        Suy bệnh dĩ thành ông.
        Đa thiểu tàn sinh sự,
        Phiêu linh nhiệm chuyển bồng.
        Đỗ-Phủ
         
        Dịch:
         
        Nơi quán trọ
         
        Trước song, trời đã vào Thu,
        Gió lay, lá rụng rơi từ cành cao.
        Mặt trời vượt núi lúc nào,
        Dòng sông lờ lững ẩn vào mù sương.
        Thánh triều chẳng bỏ kẻ thường,
        Bệnh nên già yếu, trông dường cụ ông.
        Đời tàn, nhiều ít chẳng trông,
        Nổi trôi như thể cỏ bồng mà thôi...
        Anh-Nguyên 
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 20:20:55 bởi Anh Nguyên >
        #34
          Anh Nguyên 10.11.2008 08:02:48 (permalink)
          PHÓNG THUYỀN
           
          放 船
           
          送 客 蒼 溪 縣,
          山 寒 雨 不 開。
          直 愁 騎 馬 滑,
          故 作 泛 舟 回。
          青 惜 峰 巒 過,
          黃 知 橘 柚 來。
          江 流 大 自 在,
          坐 穩 興 悠 哉。
          杜 甫
           
          Tống khách thương khê huyện,
          Sơn hàn vũ bất khai.
          Trực sầu kỵ mã hoạt,
          Cố tác phóng thuyền hồi.
          Thanh tích phong loan quá,
          Hoàng tri quất dữu lai.
          Giang lưu đại tự tại,
          Tọa ẩn hứng du lai.
          Đỗ-Phủ
           
          Dịch:
           
          Thuyền đi nhanh vút
           
          Tiễn đưa khách, huyện Thương-Khê,
          Núi non tuy lạnh, chẳng hề có mưa.
          Ngựa đi dễ trượt, phải ngừa,
          Nên dùng thuyền nhỏ để đưa khách về.
          Xanh, qua vùng núi, tiếc ghê,
          Vàng, là vườn quýt, sắp về tới nơi.
          Đi trên sông, thật thảnh thơi,
          Biết bao hứng thú ngồi nơi lòng thuyền...
          Anh-Nguyên      
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 20:24:13 bởi Anh Nguyên >
          #35
            Anh Nguyên 10.11.2008 08:09:59 (permalink)
             
            KHÁCH DẠ
             
            客 夜
             
            客 睡 何 曾 著,
            秋 天 不 肯 明。
            捲 帘 殘 月 影,
            高 枕 遠 江 聲。
            計 拙 無 衣 食,
            途 窮 仗 友 生。
            老 妻 書 數 紙,
            應 悉 未 歸 情。   
            杜 甫
             
            Khách thụy hà tằng trứ,
            Thu thiên bất khẳng minh.
            Nhập liêm tàn nguyệt ảnh,
            Cao chẩm viễn giang thanh.
            Kế chuyết vô y thực,
            Đồ cùng trượng hữu sinh.
            Lão thê thư số chỉ,
            Ưng tất vị quy tình.
            Đỗ-Phủ
             
            Dịch:
             
            Đêm nơi đất kháck
             
            Quê người trằn trọc đêm thâu,
            Trời Thu chưa sáng, còn mầu nhá nhem,
            Trăng tà ánh sáng qua rèm,
            Gối cao, tiếng sóng từ miền sông xa.
            Đói nghèo, vụng tính mà ra,
            Đường cùng, phải đến bạn ta sống nhờ.
            Vợ già, nhận được mấy thơ,
            Thảy đều nhắc nhở sao chưa thấy về?...
            Anh-Nguyên              
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 20:30:12 bởi Anh Nguyên >
            #36
              Anh Nguyên 10.11.2008 08:16:54 (permalink)
               
              CHU TIỀN TIỂU NGA NHI
               
              舟 前 小 鵝 兒
               
              鵝 兒 黃 似 酒,
              對 酒 愛 新 鵝。
              引 頸 嗔 船 逼,
              無 行 亂 眼 多。
              翅 開 遭 宿 雨,
              力 小 困 滄 波。
              客 散 層 城 暮,
              狐 狸 奈 若 何。
              杜 甫
               
              Nga nhi hoàng tự tửu,
              Đối tửu ái tân nga.
              Dẫn hĩnh sân thuyền bức,
              Vô hàng loạn nhãn đa.
              Sí khai tao túc vũ,
              Lực tiểu khốn thương ba.
              Khách tán tầng thành mộ,
              Hồ ly nại nhược hà.
              Đỗ-Phủ
               
              Dịch:
               
              Ngỗng con trước mũi thuyền
               
              Vàng như rượu, lũ ngỗng con,
              Ta bên ly rượu, vẫn còn thương bay.
              Nghểnh đầu nhìn mãi thuyền đây,
              Bơi không hàng lối mắt này rối lên.
              Thấy mưa, đôi cánh giương liền,
              Gặp làn sóng lớn, yếu nên cuống cuồng.
              Khách lên thành lúc chiều buông,
              Còn lo bay gặp cáo chồn thời sao?!...
              Anh-Nguyên 
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 20:32:20 bởi Anh Nguyên >
              #37
                Anh Nguyên 10.11.2008 08:32:27 (permalink)
                 
                TẢO HOA
                 
                早 花
                 
                西 京 安 穩 未,
                不 見 一 人 來。
                臘 日 巴 江 曲,
                山 花 已 自 開。
                盈 盈 當 雪 杏,
                艷 艷 待 春 梅。
                直 苦 風 塵 暗,
                誰 憂 容 鬢 催。  
                杜 甫
                 
                Tây kinh an ổn vị,
                Bất kiến nhất nhân lai.
                Lạp nhật ba giang khúc,
                Sơn hoa dĩ tự khai.
                Dinh dinh đương tuyết hạnh,
                Diễm diễm đãi xuân mai.
                Trực khổ phong trần ám,
                Thùy ưu khách mấn thôi.
                Đỗ-Phủ
                 
                Dịch:
                 
                Hoa sớm
                 
                Tây-Kinh chưa được yên đâu,
                Từ kinh, chẳng thấy từ lâu một người.
                Sông Ba, tháng Chạp tới rồi,
                Núi non hoa nở đầy trời thắm tươi.
                Xinh xinh hạnh trắng mỉm cười,
                Mai xuân rực rỡ chờ thời nở ra.
                Loạn ly, chịu khổ thân già,
                Nào ai ái ngại đầu ta bạc rồi?!...
                Anh-Nguyên                 

                <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 20:34:39 bởi Anh Nguyên >
                #38
                  Anh Nguyên 10.11.2008 08:38:19 (permalink)
                   
                  BI THU
                   
                  悲 秋
                   
                  涼 風 動 萬 里,
                  群 盜 尚 絎 橫。
                  家 遠 傳 書 日,
                  秋 來 作 客 篟。
                  愁 窺 高 鳥 過,
                  老 逐 眾 人 行。
                  始 欲 投 三 峽,
                  何 由 見 兩 京。
                   
                  Lương phong động vạn lý,
                  Quần đạo thượng tung hoành.
                  Gia viễn truyền thư nhật,
                  Thu lai tác khách tình.
                  Sầu khuy cao điểu quá,
                  Lão trục chúng nhân hành.
                  Thủy dục đầu tam giáp,
                  Hà do kiến lưỡng kinh.
                  Đõ-Phủ
                   
                  Dịch:
                   
                  Thu buồn
                   
                  Gió từ ngàn dặm mát rồi,
                  Trong khi giặc giã khắp nơi tung hoành.
                  Nhà xa, thư chuyển chẳng nhanh,
                  Thu về, làm khách quẩn quanh quê người.
                  Buồn nhìn chim tít trên trời,
                  Thân già theo bước các người cùng đi.
                  Muốn về ba kẽm tức thì,
                  Hai kinh, như thế mong gì thấy đâu!...
                  Anh-Nguyên                    

                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 20:36:35 bởi Anh Nguyên >
                  #39
                    Anh Nguyên 10.11.2008 08:51:41 (permalink)
                     
                    NGỤ MỤC
                     
                    寓 目
                     
                    一 縣 蒲 萄 熟,
                    秋 山 苜 蓿 多。
                    關 雲 常 帶 雨,
                    塞 水 不 成 河。
                    羌 女 輕 烽 燧,
                    胡 兒 制 駱 駝。
                    自 傷 遲 暮 眼,
                    喪 亂 飽 經 過。
                       
                    Nhất huyện bồ đào thục,
                    Thu sơn mục túc đa.
                    Quan vân thường đới vũ,
                    Tái thủy bất thành hà.
                    Khương nữ khinh phong toại,
                    Hồ nhi chế lạc đà.
                    Tự thương trì mộ nhãn,
                    Táng loạn bão kinh qua.
                    Đỗ-Phủ
                     
                    Dịch:
                     
                    Mắt thấy
                     
                    Bồ đào cả huyện chín rồi,
                    Núi thu mọc khắp mọi nơi rau dền.
                    Mây ngoài ải dễ mưa liền,
                    Nước nơi biên giới không miền có sông.
                    Gái Khương lửa giặc chẳng trông,
                    Trai Hồ luyện chẳng quản công lạc đà.
                    Thương con mắt lúc chiều tà,
                    Loạn ly đã chán, trải qua nhiều rồi...
                    Anh-Nguyên                   

                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 20:40:58 bởi Anh Nguyên >
                    #40
                      Anh Nguyên 10.11.2008 09:03:24 (permalink)
                       
                      NGHIÊM THỊ KHÊ PHỐNG CA HÀNH
                       
                      嚴 氏 溪 放 歌 行
                       
                      天 下 甲 馬 未 盡 銷,
                      豈 免 溝 壑 常 漂 漂。
                      劍 南 歲 月 不 可 度,
                      邊 頭 公 卿 仍 獨 驕。
                      費 心 姑 息 是 一 役,
                      肥 肉 大 酒 徒 相 要。
                      嗚 呼 古 人 已 糞 土,
                      獨 覺 志 士 甘 漁 樵。
                      況 我 飄 轉 無 定 所,
                      終 日 戚 戚 忍 羈 旅。
                      秋 宿 霜 溪 素 月 高,
                      喜 得 與 子 長 夜 語。
                      東 遊 西 還 力 實 倦,
                      從 此 將 身 更 何 許。
                      知 子 松 根 長 茯 苓,
                      遲 暮 有 意 來 同 煮。    
                      杜 甫
                       
                      Thiên hạ giáp mã vị tận tiêu,
                      Khởi miễn câu hác thường phiêu phiêu.
                      Kiếm nam tuế nguyệt bất khả độ,
                      Biên đầu công khanh nhưng độc kiêu.
                      Phí tâm cô tức thị nhất đoạn,
                      Phì nhục đại tửu đồ tương yêu.
                      Ô hô cổ nhân dĩ xí thổ,
                      Độc giác chí sĩ cam ngư tiều.
                      Huống ngã phiêu chuyển vô định sở,
                      Chung nhật thích thích nhẫn ki lữ.
                      Thu túc sương khê tố nguyệt cao,
                      Hỷ đắc dữ tử trường dạ ngữ.
                      Đông du tây hoàn lực thực quyện,
                      Tòng thử tương thân cánh hà hứa.
                      Tri tử tùng căn trưởng phục linh,
                      Trì mộ hữu ý lai đồng chử.
                      Đỗ-Phủ
                       
                      Dịch:
                       
                      Lời hát nghêu ngao trên suối họ Nghiêm

                      Nước non, giặc giã chưa xong,
                      Ngòi hang, há lại thong dong lúc này.
                      Kiến-Nam, chẳng thể qua ngày,
                      Các quan biên giới lại hay kiêu kỳ.
                      Dốc lòng, qua quít, cũng y,
                      Rượu ngon thịt béo tỳ tỳ đòi ăn.
                      Ôi, người xưa hóa đất chăng,
                      Chỉ hay người chí sống bằng tiều ngư.
                      Huống ta không chỗ ở ư,
                      Suốt ngày áy náy ở nhờ người ta.
                      Suối: sương, cao: ánh trăng ngà,
                      Mừng nay nói suốt canh tà cùng ngươi.
                      Đông, tây, đi hết sức rồi,
                      Thân này đến thế ôi thôi mong gì?
                      Gốc thông, nấm mọc thiếu chi,
                      Chiều hôm, định hái đem về nấu ăn...
                      Anh-Nguyên       

                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 20:43:41 bởi Anh Nguyên >
                      #41
                        Anh Nguyên 10.11.2008 09:20:51 (permalink)
                         
                        HỶ VŨ
                         
                        喜 雨
                         
                        春 旱 天 地 昏,
                        日 色 赤 如 血。
                        農 事 都 已 休,
                        兵 戈 況 騷 屑。
                        巴 人 困 軍 須,
                        慟 哭 厚 土 熱。
                        滄 江 夜 來 雨,
                        真 宰 罪 一 雪。
                        谷 根 小 蘇 息,
                        沴 氣 終 不 滅。
                        何 由 見 寧 歲,
                        解 我 憂 思 結。
                        崢 嶸 群 山 雲,
                        交 會 未 斷 絕。
                        安 得 鞭 雷 公,
                        滂 沱 洗 吳 越。   
                        杜 甫
                         
                        Hỷ vũ Xuân hạn thiên địa hôn,
                        Nhật sắc xích như huyết.
                        Nông sự đô dĩ hưu,
                        Binh nhung huống tao tiết.
                        Ba nhân khốn quân tu,
                        Đỗng khốc hậu thổ nhiệt.
                        Thương giang dạ lai vũ,
                        Chân tể tội nhất tuyệt.
                        Cốc căn tiểu tô tức,
                        Điễn khí chung bất diệt.
                        Hà do kiến ninh tuế,
                        Giải ngã ưu tư kết.
                        Tranh vanh quần sơn vân,
                        Giao hội vị đoạn tuyệt.
                        An đắc tiên lôi công,
                        Bàng đà tẩy ngô việt.
                        Đỗ-Phủ
                         
                        Dịch:
                         
                        Mừng mưa
                         
                        Hạn Xuân, trời đất mịt mờ,
                        Mặt trời đỏ tía tựa hồ máu tươi.
                        Việc đồng áng phải ngưng thôi,
                        Binh đao, rối loạn chẳng ngơi lúc nào.
                        Người Ba nuôi lính khổ sao!
                        Đồng khô nứt nẻ, kêu gào khóc than.
                        Thương-Giang, buổi tối mưa tràn,
                        Tội trời được xoá theo làn nước trôi.
                        Lúa nay tươi lại chút rồi,
                        Những làn khí độc lưng trời chưa tan.
                        Chừng nào năm được bình an,
                        Cởi bao phiền muộn lo toan trong lòng.
                        Chênh vênh dãy núi mây lồng,
                        Còn đang tụ lại chất chồng lên nhau,
                        Ước sao đánh sét roi đau,
                        Mưa tràn Ngô, Việt, ruộng màu hết khô...
                        Anh-Nguyên                 

                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 20:46:00 bởi Anh Nguyên >
                        #42
                          Anh Nguyên 10.11.2008 09:32:12 (permalink)
                           
                          CHINH PHU
                           
                          征 夫
                           
                          十 室 幾 人 在,
                          千 山 空 自 多。
                          路 衢 唯 見 哭,
                          城 市 不 聞 歌。
                          漂 梗 無 安 地,
                          銜 枚 有 荷 戈。
                          官 軍 未 通 蜀,
                          吾 道 竟 如 何。  
                          杜 甫
                           
                          Thập thất kỷ nhân tại,
                          Thiên sơn không tự đa.
                          Lộ cù duy kiến khốc,
                          Thành thị bất văn ca.
                          Phiêu ngạnh vô an địa,
                          Hàm mai hữu hà qua.
                          Quan quân vị thông thục,
                          Ngô đạo cánh như hà.
                          Đỗ-Phủ
                           
                          Dịch:
                           
                          Lính trận
                           
                          Mười nhà, còn lại mấy người,
                          Núi non nghìn ngọn nay thời vắng ghê.
                          Khắp đường tiếng khóc thảm thê,
                          Phố phường vắng lặng chẳng hề nghe ca.
                          Lính thời trôi nổi, yên à,
                          Ngậm cây, vác giáo, đi ra trận tiền.
                          Quan quân, Thục, dẹp chưa yên,
                          Đường ta, ta phải tính liền sao đây?!...
                          Anh-Nguyên       
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 20:51:01 bởi Anh Nguyên >
                          #43
                            Anh Nguyên 10.11.2008 09:38:51 (permalink)
                             
                            BIỆT PHÒNG THÁI ÚY MỘ
                             
                            別 房 太 尉 墓
                             
                            他 鄉 復 行 役,
                            駐 馬 別 孤 墳。
                            近 淚 無 乾 土,
                            低 空 有 斷 雲。
                            對 棋 陪 謝 傅,
                            把 劍 覓 徐 君。
                            唯 見 林 花 落,
                            鶯 啼 送 客 聞。
                            杜 甫  

                            Tha hương phục hành dịch,
                            Trú mã biệt cô phần.
                            Cận lệ vô can thổ,
                            Đê không hữu đoạn vân.
                            Đối kỳ bồi tạ truyện,
                            Bả kiếm mịch từ quân.
                            Duy kiến lâm hoa lạc,
                            Oanh đề tống khách văn.
                            Đỗ-Phủ
                             
                            Dịch:
                             
                            Từ giã mộ Thái-úy Phòng
                             
                            Lại đi công vụ xa vời,
                            Nấm mồ đơn lẻ: ngựa, người đứng im.
                            Chưa khô, đất lệ còn in,
                            Bầu trời thấp xuống, mây liền tan đi.
                            Cờ, hầu Tạ-Truyện có khi,
                            Từ-Quân, đến viếng, kiếm thì dắt lưng.
                            Thấy hoa rơi rụng trong rừng,
                            Nghe oanh tiễn khách vang lừng bên tai...
                            Anh-Nguyên     
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 20:54:42 bởi Anh Nguyên >
                            #44
                              Anh Nguyên 10.11.2008 09:49:42 (permalink)
                               
                              ĐĂNG LÂU
                               
                              登 樓
                               
                              花 近 高 樓 傷 客 心
                               
                              萬 方 多 難 此 登 臨
                              錦 江 春 色 來 天 地
                              玉 壘 浮 雲 變 古 今
                              北 極 朝 廷 終 不 改
                              西 山 寇 盜 莫 相 侵
                              可 憐 後 主 還 祠 廟
                              日 暮 聊 為 梁 父 吟    
                              杜 甫
                               
                              Hoa cận cao lâu thương khách tâm,
                              Vạn phương đa nạn thử đăng lâm.
                              Cẩm giang xuân sắc lai thiên địa,
                              Ngọc lũy phù vân biến cổ câm.
                              Bắc cực triều đình chung bất cải,
                              Tây sơn khấu đạo mạc tương xâm.
                              Khả lân hậu chủ hoàn từ miếu,
                              Nhật mộ liêu vi lương phủ ngâm.
                              Đỗ-Phủ
                               
                              Dịch:
                               
                              Lên lầu
                               
                              Lầu, hoa, dạ khách xót xa,
                              Khắp phương gặp nạn giờ ta lên lầu.
                              Trời xuân sông Gấm thắm mầu,
                              Mây vờn lũy Ngọc trước sau chẳng rời.
                              Triều đình, cực Bắc suy đồi,
                              Núi Tây, giặc cướp chờ thời lấn xâm.
                              Miếu thờ Hậu-Chủ, thương tâm!
                              Chiều vang Lương-Phủ khúc ngâm lắng buồn...
                              Anh-Nguyên
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 20:56:32 bởi Anh Nguyên >
                              #45
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 14 trang, bài viết từ 31 đến 45 trên tổng số 198 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9