Đường Thi Trích Dịch III - Anh Nguyên
KHIỂN MUỘN 遣 悶 地 闊 平 沙 岸, 舟 虛 小 洞 房. 使 塵 來 驛 道, 城 日 避 烏 墻. 暑 雨 留 蒸 濕, 江 風 借 夕 涼. 行 雲 星 隱 見, 疊 浪 月 光 芒. 螢 鑑 緣 帷 徹, 蛛 絲 罥 鬢 長. 哀 箏 猶 憑 几, 鳴 笛 竟 霑 裳. 倚 著 如 秦 贅, 過 逢 類 楚 狂. 氣 衝 看 匣 劍, 穎 脫 撫 錐 囊. 妖 孽 關 東 臭, 兵 戈 隴 右 創 時 清 疑 武 略, 世 亂 跼 文 場. 餘 力 於 海 浮, 端 憂 問 彼 蒼. 百 年 從 萬 事, 故 國 耿 難 忘. 杜 甫 Giang phố lôi thanh huyên tạc dạ, Xuân, thành vũ sắc động vi hàn. Hoàng oanh tịnh tọa giao sầu thấp, Bạch lộ quần phi thái kịch can. Vãn tiết tiệm ư thi luật tế, Thùy gia sác khứ tửu bôi khoan. Duy quân túy ái thanh cuồng khách, Bách biến tương qua ý vị lan. Đỗ-Phủ Dịch: Giải buồn Đêm qua, bến sấm rền vang, Xuân, thành nhuốm lạnh, nhẹ nhàng mưa rơi. Oanh vàng thấm ướt cùng ngồi, Một đàn cò trắng lưng trời vẫn khô. Tuổi già rành rẽ luật thơ, Thói quen uống rượu, bao giờ ai thôi. Ngông cuồng, bác vẫn thương tôi, Qua thăm trăm bận, ý thời hết đâu... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 21:01:36 bởi Anh Nguyên >
XUÂN NHẬT GIANG THÔN (Kỳ nhất) 春 日 江 村 其 一 農 務 村 村 急, 春 流 岸 岸 深。 乾 坤 萬 里 眼, 時 序 百 年 心。 茅 屋 還 堪 賦, 桃 源 自 可 尋。 艱 難 賤 生 理, 飄 泊 到 如 今。 杜 甫 Nông vụ thôn thôn cấp, Xuân lưu ngạn ngạn thâm. Càn khôn vạn lý nhãn, Thì tự bách niên tâm. Mao ốc hoàn kham thú, Đào nguyên tự khả tầm. Gian nan vị sinh lý, Phiêu bạc đáo như kim. Đỗ-Phủ Dịch: Xóm sông vào ngày Xuân (Bài một) Thôn thôn vào vụ vội vàng, Bờ bờ nước chảy an nhàn dòng sâu. Đất trời vạn dặm xanh mầu, Trăm năm, thời vụ hàng đầu quan tâm. Mái tranh vui thú vô ngần, Nguồn-Đào có thể trong tầm tay ta. Cuộc đời vất vả đến già, Nổi trôi đưa đẩy, nay ra thế này... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 21:04:57 bởi Anh Nguyên >
XUÂN NHẬT GIANG THÔN (Kỳ nhị) 春 日 江 村 其 二 迢 遞 來 三 蜀, 蹉 跎 有 六 年。 客 身 逢 故 舊, 發 興 自 林 泉。 過 懶 從 衣 結, 頻 游 任 履 穿。 藩 籬 無 限 景, 恣 意 買 江 天。 杜 甫 Đề điệu lai tam thục, Sa đà hữu lục niên. Khách thân phùng cố cựu, Phát hứng tự lâm tuyền. Quá lãn tòng y kết, Tần du nhiệm lý xuyên. Phiên ly phả hữu hạn, Tư ý hướng giang thiên. Đỗ-Phủ Dịch: Xóm sông vào ngàyXuân (Bài hai) Lết lê, đất Thục tới nơi, Lần hồi đã sáu năm trời rồi đây. Bạn xưa, gặp đất khách này, Tự nhiên nổi hứng ở ngay suối rừng. Ra ngoài, cài áo ngại ngùng, Sỏ chân vào guốc, trong rừng dạo chơi. Nếu rào cản mất mắt rồi, Muốn tìm ý, hướng lên trời mà thôi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 21:09:10 bởi Anh Nguyên >
XUÂN NHẬT GIANG THÔN (Kỳ tam) 春 日 江 村 其 三 種 竹 交 加 翠, 栽 桃 爛 熳 紅。 經 心 石 鏡 月, 到 面 雪 山 風。 赤 管 隨 王 命, 銀 章 付 老 翁。 豈 知 牙 齒 落, 名 玷 薦 賢 中。 杜 甫 Chủng trúc giao gia thúy, Tài đào lạn mạn hồng. Kinh tâm thạch kính nguyệt, Đáo diện tuyết sơn phong. Xích quản tùy công mệnh, Ngân chương phó lão ông. Khởi tri nha xỉ lạc, Danh điếm tiến hiền trung. Đỗ-Phủ Dịch: Xóm sông vào ngày Xuân (Bài ba) Trúc trồng cho được xanh thêm, Đào ươm, Xuân đến rực lên ánh hồng. Trăng gò Thạch-Kính, tỏ lòng, Tuyết-Sơn, giáp mặt, gió trong núi về. Bút son theo lệnh công phê, Bao văn thư bạc, trao về lão ông. Biết chăng, răng rụng, hàm không, Tiến hiền, vẫn có tên trong tờ trình... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 21:11:08 bởi Anh Nguyên >
XUÂN NHẬT GIANG THÔN (Kỳ tứ) 春 日 江 村 其 四 扶 病 垂 朱 紱, 歸 休 步 紫 苔。 郊 扉 存 晚 計, 幕 府 愧 群 材。 燕 外 晴 絲 卷, 鷗 邊 水 葉 開。 鄰 家 送 魚 鱉, 問 我 數 能 來。 杜 甫 Phù bệnh thùy chu phất, Quy hưu bộ tử đài. Giao phi tồn vãn kế, Mạc phủ quý quần tài. Yến ngoại tinh ti quyển, Âu biên thủy diệp khai. Lân gia tống ngư miết, Vấn ngã số năng lai. Đỗ-Phủ Dịch: Xóm sông vào mùa Xuân (Bài bốn) Tua màu đỏ, chữa bệnh người, Trên rêu xanh thẫm, nghỉ ngơi ra về. Ngoài thành, già đã gần kề, Ngượng nơi mạc phủ lắm bề tài cao. Yến làm tổ, quện rãi vào, Âu bên bờ nước lao xao lá cành. Ba ba, hàng xóm phóng sanh, Mời ta mấy bận nên rành đó thôi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 21:14:56 bởi Anh Nguyên >
XUÂN NHẬT GIANG THÔN (Kỳ ngũ) 春 日 江 村 其 五 群 盜 哀 王 粲, 中 年 召 賈 生。 登 樓 初 有 作, 前 席 竟 為 榮。 宅 入 先 賢 傳, 才 高 處 士 名。 異 時 懷 二 子, 春 日 複 含 情。 杜 甫 Quần đạo ai vương xán, Trung niên triệu giả sinh. Đăng lâu sơ hữu tác, Tiền tịch cánh vi vinh. Trạch nhập tiên hiền truyện, Tài cao xử sĩ danh, Dị thì hoài nhị tử, Xuân nhật phục hàm tình. Đỗ-Phủ Dịch: Xóm sông vào ngày Xuân (Bài năm) Nhiễu nhương, Vương Xán thương thay, Giá còn trẻ, được triệu ngay vào chầu. Lên lầu, làm phú bắt đầu, Chiếu ngồi phía trước dễ đâu vinh này! Tiên Hiền truyện chọn lâu nay, Tài cao, kẻ sĩ xứng thay hai người. Mến thương, dầu sống khác thời, Ngày Xuân lại thấy ngậm ngùi xót thương... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 21:23:33 bởi Anh Nguyên >
ĐỀ ĐÀO THỤ 題 桃 樹
小 徑 升 堂 舊 不 斜,
五 株 桃 樹 亦 從 遮.
高 秋 總 餽 貪 人 實,
來 歲 還 舒 滿 眼 花.
簾 戶 每 宜 通 乳 燕,
兒 童 莫 信 打 慈 烏.
寡 妻 群 盜 非 今 日,
天 下 車 書 正 一 家. 杜甫 Tiểu kính thăng đường cựu bất tà, Ngũ chu đào thụ diệc trùng già. Cao thu tổng quý bần nhân thực, Lai tuế hoàn thư mãn nhãn hoa. Liêm hộ mỗi nghi thông nhũ tước, Nhi đồng mạc tín đả từ ô. Quả thê quần đạo phi kim nhật, Thiên hạ xa thư chính nhất gia. Đỗ-Phủ Dịch: Viết về cây đào Xưa lên nhà, lối không cong, Nay năm đào lớn, đi vòng chẳng ngay. Thu, nghèo, quả chín, cơm thay, Xuân, giàu, hoa nở ngày ngày đứng trông. Sẻ con, mành hé, vào trong, Quạ lành, trẻ đuổi vì lòng chẳng tin. Góa chồng, giặc cướp đã yên, Xe cùng một lối, sách in một nhà... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 21:26:46 bởi Anh Nguyên >
THÍCH MUỘN 釋 悶
四 海 十 年 不 解 兵, 犬 戎 也 復 臨 咸 京。
失 道 非 關 出 襄 野, 揚 鞭 忽 是 過 湖 城。
豺 狼 塞 路 人 斷 絕, 烽 火 照 夜 尸 縱 橫。
天 子 亦 應 厭 奔 走, 群 公 固 合 思 昇 平。
但 恐 誅 求 不 改 轍, 聞 道 嬖 孽 能 全 生。
江 邊 老 翁 錯 料 事, 眼 暗 不 見 風 塵 清。 杜甫 Tứ hải thập niên bất giải binh, Khuyển nhung dã phục lâm hàm kinh. Thất đạo phi quan xuất tương dã, Dương tiên hốt thị quá hồ thành. Sài lang tái lộ nhân đoạn tuyệt, Phong hỏa chiếu dạ thi tung hoành. Thiên tử diệc ưng yếm bôn tẩu, Quần công cố hợp tư thăng bình. Đãn khủng tru cầu bất cải triệt, Văn đạo bế nghiệt năng toàn sinh. Giang biên lão ông thố liệu sự, Nhãn ám bất kiến phong trần thanh. Đỗ-Phủ Dịch: Giải nỗi phiền muộn Mười năm chửa hết chiến tranh, Giặc nay đã tới kinh thành Hàm-Dương. Lạc đường nên đến đồng Tương, Vung roi thoắt đã qua luôn Hồ-Thành. Sói lang chặn, cách ngăn đành, Hỏa đài rực sáng, tan tành thây phơi. Chạy dài, vua cũng chán rồi: ‘‘Thanh bình cố gắng phục hồi, các ông!’’ Sợ vơ vét tránh được không? Nghe yêu quái được sống trong yên lành. Lão bên sông tính không rành, Mắt mờ chẳng thấy chiến tranh yên rồi!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 21:30:58 bởi Anh Nguyên >
TUYỆT CÚ (Kỳ nhất)
絕 句 其 一
兩 個 黃 鸝 鳴 翠 柳,
一 行 白 鷺 上 青 天。
窗 含 西 嶺 千 秋 雪,
門 泊 東 吳 萬 里 船
杜 甫 Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu, Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên. Song hàm tây lĩnh thiên thu tuyết, Môn bạc đông ngô vạn lý thuyền. Đỗ-Phủ Dịch: Câu tuyệt (Bài một) Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc, Một hàng hạc trắng vút trời xanh. Nghìn năm tuyết núi, song in sắc, Vạn dặm thuyền Ngô, cửa rập rình. Tản-Đà Liễu xanh oanh hót cành cao, Một hàng cò trắng bay vào không trung. Nghìn năm gió tuyết dòm song, Thuyền Đông-Ngô đậu cửa Đông ngút ngàn. Chi-Điền Liễu xanh vi vút oanh vàng, Trời xanh điểm trắng một hàng cò bay, Bên song dấu tuyết non Tây, Thuyền Ngô viễn xứ đậu ngay cửa ngoài. Phạm-Doanh Hai oanh vàng hót liễu xanh, Một hàng cò trắng bay nhanh lên trời. Nghìn năm Tây-Lĩnh tuyết phơi, Thuyền Ngô vạn dặm đậu nơi cổng nhà... Liễu xanh, oanh hót líu lo, Bầu trời xanh biếc, đàn cò trắng bay. Núi Tây, tuyết vẫn phủ đầy, Thuyền Ngô vạn dặm đậu ngay cửa nhà... Liễu xanh, hót cặp oanh vàng, Trời xanh, cò trắng một hàng vút bay. Nghìn năm Tây-Lĩnh tuyết đầy, Thuyền Ngô vạn dặm đậu ngay cổng vào... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 21:36:08 bởi Anh Nguyên >
TUYỆT CÚ (Kỳ nhị) 絕 句 其 二 二 十 一 家 同 入 蜀 惟 殘 一 人 出 駱 谷 自 說 二 女 嚙 臂 時 回 頭 卻 向 秦 雲 哭 杜 甫 Nhị thập nhất gia đồng nhập thục, Duy tàn nhất nhân xuất lạc cốc. Tự thuyết nhi nữ khiết tý thì, Hồi đầu khước vọng tần vân khốc. Đỗ-Phủ Dịch: Câu tuyệt (Bài hai) Mọi nhà, đất Thục, muốn vào, Một người, Lạc-Cốc, đi sao hết đường. Cắn tay, kẻ bỏ quê hương, Quay đầu nhìn lại khóc thương mây Tần... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 21:41:31 bởi Anh Nguyên >
TUYỆT CÚ (Kỳ tam) 絕 句 其 三 殿 前 兵 馬 雖 驍 雄 縱 暴 略 與 羌 渾 同 聞 道 殺 人 漢 水 上 婦 女 多 在 官 軍 中 杜甫 Điện tiền binh mã tuy kiêu hùng, Túng bạo lược dữ khương hỗn đồng. Văn đạo sát nhân hán thủy thương, Phụ nữ đa tại quan quân trung. Đỗ-Phủ Dịch: Câu tuyệt (Bài ba) Trước cung, quân lính oai hùng, Đi xa, hung bạo, cũng cùng với Khương. Giết người sông Hán, thảm thương, Đàn bà, con gái, thấy thường trong quân... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 21:43:57 bởi Anh Nguyên >
TUYỆT CÚ (Kỳ tứ) 絕 句 其 四 聞 道 巴 山 裏, 春 船 正 好 行。 都 將 百 年 興, 一 望 九 江 城。 杜 甫 Văn đạo ba sơn lý, Xuân thuyền chính hảo hành. Đô tương bách niên hứng, Nhất vọng cửu giang thành. Đỗ-Phủ Dịch: Câu tuyệt (Bài bốn) Nghe trong vùng dẫy núi Ba, Thuyền Xuân có thể đi qua dễ dàng. Trăm năm cũng chỉ một đàng, Lòng này vẫn một Cửu-Giang hướng về... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 21:47:15 bởi Anh Nguyên >
TUYỆT CÚ (Kỳ ngũ) 絕 句 其 五 水 檻 溫 江 口, 草 堂 石 筍 西。 移 船 先 主 廟, 洗 藥 浣 花 溪。 杜 甫 Thủy hạm ôn giang khẩu, Mao đường thạch duẫn tây. Di thuyền tiên chủ miếu, Tẩy dược cán hoa khê. Đỗ-Phủ Dịch: Câu tuyệt (Bài năm) Cột thuyền nơi cửa Ôn-Giang, Tây đường Thạch-Duẫn mơ màng mái tranh. Qua Tiên-Chủ miếu rêu xanh, Cán-Hoa rửa thuốc, nước lành trong veo... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 21:50:40 bởi Anh Nguyên >
TUYỆT CÚ (Kỳ lục) 絕 句 其 六 謾 道 春 來 好,
狂 風 太 放 顛。
吹 花 隨 水 去,
翻 卻 釣 魚 船。 杜 甫
Mạn đạo xuân lai hảo,
Cuồng phong thái phóng điên.
Xuy hoa tùy thủy khứ,
Phiên khước điếu ngư thuyền.
Đỗ-Phủ
Dịch:
Câu tuyệt
(Bài sáu)
Xuân về, nghe nói tốt sao!..
Cuồng phong thổi đến ào ào như điên.
Hoa rơi nước cuốn đi liền,
Lại làm quay ngược mũi thuyền đi câu...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 21:52:42 bởi Anh Nguyên >
TUYỆT CÚ (Kỳ thất) 絕 句 其 七 楸 樹 馨 香 倚 釣 磯, 斬 新 花 蕊 未 應 飛。 不 如 醉 里 風 吹 盡, 可 忍 醒 時 雨 打 稀。 杜 甫 Thu thụ hinh hương ỷ điếu ky, Tiệm tân hoa nhị vị ưng phi. Bất như túy lý phong xuy tận, Hà nhẫn tỉnh thì vũ đả hy. Đỗ-Phủ Dịch: Câu tuyệt (Bài bảy) Ghềnh, câu, thơm ngát cây Thu, Nhụy hoa vừa nở từ từ, chưa bay. Gió thà thổi nát khi say, Còn hơn lúc tỉnh mưa lay hoa tàn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 21:54:35 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu: