Đường Thi Trích Dịch III - Anh Nguyên
ĐỀ TRUNG CHÂU LONG HƯNG TỰ SỞ CƯ VIỆN BÍCH 題 忠 州 龍 興 寺 所 居 院 壁
忠 州 三 峽 內,
井 邑 聚 雲 根.
小 市 常 爭 米,
孤 城 早 閉 門.
空 看 過 客 淚,
莫 覓 主 人 恩.
淹 泊 仍 愁 虎,
深 居 賴 獨 園. 杜 甫 Trung châu tam giáp nội, Tỉnh ấp tụ vân căn. Tiểu thị thường tranh mễ, Cô thành tảo bế môn. Không khan quá khách lệ, Mạc mịch chủ nhân ân. Yêm bạc nhưng sầu hổ, Thâm cư lại độc viên. Đỗ-Phủ Dịch: Viết trên vách phòng ở chùa Long-Hưng tại Trung-Châu Trong vùng Tam-Giáp, Trung-Châu, Xóm thôn, mây vẫn từ lâu tụ đầy. Tranh mua gạo chợ nhỏ này, Nơi thành vắng vẻ, cửa nay đóng rồi. Khách trông, gạt lệ qua thôi, Không tìm ân huệ ở nơi người nào. Đậu thuyền những sợ hổ sao! Nơi vườn vắng vẻ, ở vào chốn sâu... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.06.2022 17:31:57 bởi Anh Nguyên >
NAM CHINH 南 征
春 岸 桃 花 水,
雲 帆 楓 樹 林。
偷 生 長 避 地,
适 遠 更 沾襟。
老 病 南 征 日,
君 恩 北 望 心。
百 年 歌 自 苦,
未 見 有 知 音。 杜 甫 Xuân ngạn đào hoa thủy, Vân phàm phong thụ lâm. Thâu sinh trường tỵ địa, Thích viễn cánh triêm khâm. Lão bệnh nam chinh nhật, Quân ân bắc vọng tâm. Bách niên ca tự khổ, Vị kiến hữu tri âm. Đỗ-Phủ Dịch: Đi về phương nam Sông xuân cuốn cánh hoa đào, Buồm mây lững thững lẫn vào rừng phong. Sống nơi tỵ nạn mãi chăng, Đi xa lệ đã ướt đằm áo đây. Xuôi nam, già, bệnh, lúc này, Ơn vua, hướng bắc, lòng nay hướng về. ‘‘Trăm năm’’ khúc hát khổ ghê, Chưa từng thấy có người nghe hiểu mình... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.06.2022 17:33:44 bởi Anh Nguyên >
XUY ĐỊCH 吹 笛 吹 笛 秋 風 山 月 清, 誰 家 巧 作 斷 腸 聲。 風 飄 律 呂 相 和 切, 月 傍 關 山 幾 處 明。 胡 騎 中 宵 堪 北 走, 武 陵 一 曲 想 南 征。 故 園 楊 柳 今 搖 落, 何 得 愁 中 曲 盡 生。 杜 甫 Xuy địch thu phong sơn nguyệt thanh, Thùy gia xảo tác đoạn trường thanh. Phong phiêu luật lữ tương hoà thiết, Nguyệt bạng quan sơn kỷ xứ minh. Hồ kỵ trung tiêu kham bắc tẩu, Vũ lăng nhất khúc tưởng nam chinh. Cố viên dương liễu kim dao lạc, Hà đắc sầu trung khước tận sinh. Đỗ-Phủ Dịch: Thổi sáo Gió Thu, thổi sáo, trăng trong, Nhà ai khéo soạn đứt lòng khúc ca? Gió đưa, hòa nhịp thiết tha, Trăng lên ải núi, chiếu xa mấy miền. Ngựa Hồ hướng bắc chạy liền, Vũ-Lăng một khúc, nhớ miền nam đi. Vườn xưa, dương liễu còn chi, Sao nghe các khúc sầu thì chẳng sinh?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.06.2022 17:36:11 bởi Anh Nguyên >
BẠC TÙNG TƯ GIANG ĐÌNH 泊 松 滋 江 亭
紗 帽 隨 鷗 鳥,
扁 舟 繫 此 亭.
江 湖 深 更 白,
松 竹 遠 微 青.
一 柱 全 應 近,
高 唐 莫 再 經.
今 宵 南 極 外,
甘 作 老 人 星. 杜 甫 Sa mạo tùy âu điểu, Biên chu hệ thử đình. Giang hồ thâm cánh bạc, Tùng trúc viễn vi thanh. Nhất trụ toàn ưng cận, Cao đường mạc tái kinh. Kim tiêu nam cực ngoại, Cam tác lão nhân tình. Đỗ-Phủ Dịch: Neo thuyền ở đình sông Tùng-Tư Theo âu, đội mũ the này, Cột con thuyền nhỏ ở ngay trước đình. Sông hồ trắng xoá lung linh, Trúc tùng xanh biếc đượm tình xa xa. Toàn-Ưng Nhất-Trụ mở ra, Cao-Đường, chớ có lại qua làm gì. Miền nam điểm cuối cứ đi, Cam tâm làm lão già chi chẳng cần... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.06.2022 17:37:42 bởi Anh Nguyên >
BÁT TRẬN ĐỒ
八 陣 圖
功 蓋 三 分 國,
名 成 八 陣 圖。
江 流 石 不 轉,
遺 恨 失 吞 吳。
杜 甫 Công cái tam phân quốc, Danh thành bát trận đồ. Giang lưu thạch bất chuyển, Di hận thất thôn ngô. Đỗ-Phủ Dịch: Kế hoạch tám trận Công trùm lợp phần ba đất nước, Danh lập nên nhờ bát trận đồ. Sông trôi đá vẫn đứng trơ, Hận còn để mãi nuốt Ngô sai lầm. Trần-Trọng-San Công trùm khắp nước chia ba, Nhờ ‘‘Mưu tám trận’’ ấy mà nổi danh. Sông trôi, đá vững như thành, Đánh Ngô bỏ lỡ, hận đành nghìn thu... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.10.2016 00:08:17 bởi Anh Nguyên >
KHÔNG NANG 空 囊
翠 柏 苦 猶 食,
明 霞 高 可 餐。
世 人 共 鹵 莽,
吾 道 屬 艱 難。
不 爨 井 晨 凍,
無 衣 床 夜 寒。
囊 空 恐 羞 澀,
留 得 一 錢 看。 杜 甫 Thúy bá khổ do thực Minh hà cao khả xan. Thế nhân cộng lỗ mãng, Ngô đạo thuộc gian nan. Bất thoán tỉnh thần đống, Vô y sàng dạ hàn. Nang không khủng tu sáp, Lưu đắc nhất tiền khan. Đỗ-Phủ Dịch: Túi rỗng Bá xanh, chát dễ nuốt sao? Ráng cao buổi sớm, nuốt vào được đâu! Người đời thô lỗ cùng nhau, Khiến ta giảng dạy đạo mầu khó khăn. Giếng đông vì chẳng nấu ăn, Giường đêm, không áo, đi nằm lạnh thay. Túi không, sợ mốc có ngày, Mong sao còn lại dẫu ngay một đồng... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.04.2022 22:18:05 bởi Anh Nguyên >
PHỤNG TẾ DỊCH TRÙNG TỐNG NGHIÊM CÔNG TỨ VẬN
奉 濟 驛 重 送 嚴 公 四 韻
遠 送 從 此 別,
青 山 空 復 情。
幾 時 杯 重 把,
昨 夜 月 同 行。
列 郡 謳 歌 惜,
三 朝 出 入 榮。
將 村 獨 歸 處,
寂 寞 養 殘 生。
杜 甫
Viễn tống tòng thử biệt, Thanh sơn không phục tình. Kỷ thì bôi trùng bả, Tạc dạ nguyệt đồng hành. Liệt quận âu ca tích, Tam triều xuất nhập vinh. Giang thôn độc quy xứ, Tịch mịch dưỡng tàn sinh. Đỗ-Phủ Dịch: Tại trạm Phụng-Tế lại tiễn ông Nghiêm bài thơ bốn vần Từ đây tiễn biệt cách xa, Núi trời xanh biếc lòng ta bùi ngùi. Chừng nào lại cất chén mời?!... Đêm qua cùng dạo dưới trời trăng thanh. Quận, dân hát tiếc người lành, Ba triều lui tới nổi danh đến giờ... Xóm sông trở lại bên bờ, Lặng im để sống đợi chờ tàn hơi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.04.2022 22:20:02 bởi Anh Nguyên >
MẠN HỨNG (Kỳ nhất) 漫 興 其 一 眼 看 客 愁 愁 不 醒, 無 賴 春 色 到 江 亭。 即 遣 花 開 深 造 次, 便 覺 鶯 語 太 丁 寧。 Nhãn khán khách sầu, sầu bất tỉnh, Vô lại xuân sắc đáo giang đình. Tức khiển hoa khai thâm tạo thứ, Tiện giác oanh ngữ thái đinh ninh. Đỗ-Phủ Dịch: Hứng vặt (Bài một) Khách sầu, sầu chẳng tỉnh ra, Sắc xuân vội đến với nhà bên sông. Khiến hoa đua nở thơm nồng, Và chim oanh hót vang lừng khắp nơi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.10.2016 10:01:51 bởi Anh Nguyên >
MẠN HỨNG (Kỳ nhị) 漫 興 其 二
熟 知 芧 齋 絕 低 小
江 上 燕 子 故 來 頻
銜 泥 點 污 琴 書 內
更 接 飛 蟲 打 著 人
杜 甫 Thục tri mao trai tuyệt đê tiểu, Giang thượng yến tử cố lai tần. Hàm nê điểm ố cầm thư nội, Cánh tiếp phi trùng đả trước nhân. Đỗ-Phủ Dịch: Hứng vặt (Bài hai) Nhà tranh thấp, nhỏ, biết rồi, Trên sông, én cứ lại nơi chốn này. Sách, đàn, bùn vẩy lấm đầy, Lại thêm sâu tới bay ngay vào người... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.10.2016 08:11:58 bởi Anh Nguyên >
MẠN HỨNG (Kÿ tam)
漫 興 其 三
二 月 已 破 三 月 來
漸 老 逢 春 能 幾 回
莫 思 身 外 無 窮 事
且 盡 生 前 有 限 杯
杜 甫 Nhị nguyệt dĩ phá tam nguyệt lai, Tiệm lão phùng xuân năng kỷ hồi. Mạc tư thân ngoại vô cùng sự, Thả tận sinh tiền hữu hạn bôi. Đỗ-Phủ Dịch: Hứng vặt (Bài ba) Tháng hai hết, tháng ba rồi, Già dần, còn được mấy thời gặp Xuân. Đừng nên nghĩ chuyện ngoài thân, Chén, đời hữu hạn, cạn dần đi thôi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.10.2016 08:12:53 bởi Anh Nguyên >
MẠN HỨNG (Kỳ tứ)
漫 興 其 四
懶 慢 無 堪 不 出 村
呼 兒 自 在 掩 柴 門
蒼 苔 濁 酒 林 中 靜
碧 水 春 風 野 外 昏
杜 甫 Lãn mạn vô kham bất xuất thôn, Hô nhi tự tại yểm sài môn. Thương đài trọc tửu lâm trung tĩnh, Bích thủy xuân phong dã ngoại hôn. Đỗ-Phủ Dịch: Hứn)g vặt (Bài bốn) Tuy lười, ra khỏi thôn chơi, Gọi con đóng cửa cho rồi, mới yên. Rêu xanh, rượu đục, rừng êm, Gió Xuân, nước biếc, đồng đêm xuống dần... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.04.2022 22:21:44 bởi Anh Nguyên >
MẠN HỨNG (Kỳ ngũ)
漫 興 其 五
糝 徑 楊 花 鋪 白 氈
點 溪 荷 葉 疊 青 錢
筍 根 稚 子 無 人 見
沙 上 鳧 雛 傍 母 眠
杜 甫 Tảm kính dương hoa phô bạch chiên, Điểm khê hà diệp điệp thanh tiền. Duẩn căn trĩ tử vô nhân kiến, Sa thượng phù sồ bạng mẫu miên. Đỗ-Phủ Dịch: Hứng vặt (Bài năm) Hoa dương trải thảm lối về, Lá sen trên suối: tràn trề tiền xanh. Gốc tre, ai thấy măng sanh, Cát kia, vịt nhỏ ngủ quanh mẹ hiền... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.04.2022 22:23:50 bởi Anh Nguyên >
MẠN HỨNG (Kỳ lục)
漫 興 其 六
舍 西 柔 桑 葉 可 拈
江 上 細 麥 復 纖 纖
人 生 幾 何 春 已 夏
不 放 香 醪 如 蜜 甜
杜 甫 Xá tây nhu tang diệp khả niêm, Giang thượng tế mạch phục tiêm tiêm. Nhân sinh kỷ hà xuân dĩ hạ, Bất phóng hương lao như mật điềm. Đỗ-Phủ Dịch: Hứng vặt (Bài sáu) Tây nhà, dâu hái đi nào, Bên sông, lúa mạch đã cao dần dần. Đời người Xuân, Hạ, mấy lần, Chớ nên bỏ rượu đầy phần ngọt, thơm... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.04.2022 22:24:42 bởi Anh Nguyên >
MẠN HỨNG (Kỳ thất)
漫 興 其 七
隔 戶 楊 柳 弱 嫋 嫋
恰 似 十 五 女 兒 腰
誰 謂 朝 來 不 作 意
狂 風 挽 斷 最 長 條
杜 甫 Cách hộ dương liễu nhược niệu niệu, Kháp tự thập ngũ nữ nhi yêu. Thùy vị triêu lai bất tác š, Cuồng phong vãn đoạn tố trường điều. Đỗ-Phủ Dịch: Hứng vặt (Bài bẩy) Gần nhà, dương liễu mảnh mai, Giống lưng cô gái chưa ngoài mười lăm. Sáng ra, ai có ngờ rằng, Gió to kéo lại bẻ phăng cành dài... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.04.2022 22:25:32 bởi Anh Nguyên >
CÁC DẠ
閣 夜
歲 暮 陰 陽 催 短 景,
天 涯 霜 雪 霽 寒 霄。
五 更 鼓 角 聲 悲 壯,
三 峽 星 河 影 動 搖。
野 哭 千 家 聞 戰 伐,
夷 歌 數 處 起 漁 樵。
臥 龍 躍 馬 終 黃 土,
人 事 音 書 漫 寂 寥。
杜 甫 Tuế mộ âm dương thôi đoản cảnh, Thiên nhai sương tuyết tế hàn tiêu. Ngũ canh cổ giác thanh bi tráng, Tam giáp tinh hà ảnh động diêu. Dã khốc kỷ gia văn chiến phạt, Di ca sổ xứ khởi ngư tiều, Ngọa long dược mã chung hoàng thổ, Nhân sự âm thư mạn tịch liêu. Đỗ-Phủ Dịch: Đêm trên gác Năm tàn, ngày tháng qua mau, Chân trời sương tuyết đêm thâu lạnh lùng. Tù và, tiếng trống bi hùng, Ngân-Hà, Tam-Giáp rung rung nền trời. Nhà ai tiếng khóc ỉ ôi, Ngư tiều, ca rợ vài nơi hát hò. Anh tài rồi cũng nấm mồ, Tình người, thư vắng, mong chờ uổng công!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.04.2022 22:26:30 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu: