Đường Thi Trích Dịch III - Anh Nguyên
THU HỨNG (Kỳ nhất)
秋 興 其 一
玉 露 凋 傷 楓 樹 林,
巫 山 巫 峽 氣 蕭 森。
江 間 波 浪 兼 天 湧,
塞 上 風 雲 接 地 陰。
叢 菊 兩 開 他 日 淚,
孤 舟 一 繫 故 園 心。
寒 衣 處 處 催 刀 尺,
白 帝 城 高 急 暮 砧。
杜 甫 Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, Vu sơn vu giáp khí tiêu sâm. Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng, Tái thượng phong vân tiếp địa âm. Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ, Cô chu nhất hệ cố viên tâm. Hàn y xứ xứ thôi đao xích, Bạch đế thành cao cấp mộ châm. Đỗ-Phủ Dịch: Cảm hứng mùa Thu (Bài một) Lác đác rừng phong hạt móc sa, Ngàn lau hiu hắt khí thu mờ. Lưng trời sóng gợn dòng sông thẳm, Mặt đất mây đùn cửa ải xa. Khóm cúc tuôn rơi dòng lệ cũ, Con thuyền buộc chặt mối tình nhà. Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước, Thành quách dồn chân, bóng ác tà. Phan-Huy-Vịnh Rừng phong bát ngát hạt sương bay, Mờ mịt non Vu khói tỏa dầy. Sóng gợn lòng sông trời nối nước, Mây đùn ngọn ải đất liền mây. Hai lần cúc nở vườn xưa vắng, Một chiếc thuyền mơ lệ thảm đầy! Rộn rã lạnh về, người kéo thước, Vang chiều chầy đập bóng thành lay! Nhất-Anh Sương rơi lác đác rừng phong, Vu-Sơn, Vu-Giáp khuất trong mây mù. Sông, trời, ào ạt sóng sô, Mây và khí đất che mờ lũy xa. Hai lần cúc nở, lệ sa, Con thuyền cột chặt tình nhà vườn xưa. Nơi nơi áo lạnh may chưa? Chiều, thành Bạch-Đế, chầy vừa đập mau... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.04.2022 22:31:26 bởi Anh Nguyên >
THU HỨNG (Kỳ nhị)
秋 興 其 二
夔 府 孤 城 落 日 斜
每 依 北 斗 望 京 華
聽 猿 實 下 三 聲 淚
奉 使 虛 隨 八 月 槎
畫 省 香 爐 違 伏 枕
山 樓 粉 堞 隱 悲 笳
請 看 石 上 藤 蘿 月
已 映 洲 前 蘆 荻 花
杜 甫 Qùy phủ cô thành lạc nhật tà, Mỗi y nam đẩu vọng kinh hoa. Thính viên thực hạ tam thanh lệ, Phụng sứ hư tùy bát nguyệt tra. Họa tỉnh hương lô vi phục chẩm, Sơn lâu phấn điệp ẩn bi già. Thỉnh khan thạch thượng đằng la nguyệt, Dĩ ánh châu tiền lô địch hoa. Đỗ-Phủ Dịch: Cảm hứng mùa Thu (Bài hai) Thành Qùy trơ trọi nắng tà, Thường nương Nam-đẩu, kinh-hoa trông vời. Vượn kêu ba tiếng lệ rơi, Hững hờ tám tháng bè trôi lỡ làng. Gối nằm nay vắng lò hương, Tường lầu ẩn giấu đau thương tiếng kèn. Hãy xem mặt đá trăng lên, Đã soi lau nở hoa trên bãi bờ. Trần-Trọng-San Phủ Qùy thành vắng chiều tà, Thường nương Nam Đẩu kinh hoa hướng về. Vượn kêu, nước mắt tràn trề, Bè đi tám tháng mới về uổng không! Lò hương dinh vẽ mơ mòng, Tù và eo óc lầu vùng núi xa. Bóng dây, xem biết trăng ngà, Ngoài kia lấp lánh bãi hoa lau rồi... Phủ Qùy thành lẻ chiều tà, Nương sao Nam Đẩu hướng ra kinh thành. Vượn kêu giọt lệ tuôn nhanh, Theo bè phụng sứ chẳng thành ước mong. Lò hương, dinh vẽ, mơ mòng, Tù và tiếng ẩn lầu trong núi đồi. Bóng dây, xem biết trăng rồi, Bãi sông, trăng chiếu sáng ngời bông lau... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.04.2022 22:44:29 bởi Anh Nguyên >
THU HỨNG (Kỳ tam)
秋 興 其 三
千 家 山 郭 靜 朝 暉
日 日 江 樓 坐 翠 微
信 宿 漁 人 還 汎 汎
清 秋 燕 子 故 飛 飛
匡 衡 抗 疏 功 名 薄
劉 向 傅 經 心 事 違
同 學 少 年 多 不 賤
五 陵 裘 馬 自 輕 肥
杜 甫 Thiên gia sơn quách tĩnh triêu huy, Nhật nhật giang lâu tọa thúy vi. Tín túc ngư nhân hoàn phiếm phiếm, Thanh thu yến tử cố phi phi. Khuông hành kháng sớ công danh bạc, Lưu hướng truyền kinh tâm sự vi. Đồng học thiếu niên đa bất tiện, Ngũ lăng cừu mã tự kinh phì. Đỗ-Phủ Dịch: Cảm hứng mùa Thu (Bài ba) Nắng mai, vách núi ngàn nhà, Ngồi lầu ngắm khói bay là trên sông. Chài về, đêm, nước, mênh mông, Trời trong, chim én bay không có ngừng. Khuông-Hành, dẫu sớ đã dâng, Giảng kinh, Lưu-Hướng tâm từng trái nhau. Bạn cùng học có nghèo đâu, Áo cừu, ngựa béo, phong hầu Ngũ-Lăng!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.04.2022 22:46:15 bởi Anh Nguyên >
THU HỨNG (Kỳ tứ) 秋 興 其 四
聞 道 長 安 似 奕 棋
百 年 世 事 不 勝 悲
公 侯 第 宒 皆 新 主
文 武 衣 冠 異 昔 時
直 北 關 山 金 鼓 震
征 西 車 馬 羽 書 馳
魚 龍 寂 寞 秋 江 冷
故 國 平 安 有 所 思
杜 甫 Văn đạo trường an tự dịch kỳ, Bách niên thế sự bất thăng bi. Công hầu đệ trạch giai tân chủ, Văn vũ y quan dị tích thì. Trực bắc quan san kim cổ chấn, Chinh tây xa mã vũ thư trì. Ngư long tịch mịch thu giang lãnh, Cố quốc bình cư hữu sở tư. Đỗ-Phủ Dịch: Cảm hứng mùa Thu (Bài bốn) Trường-An nghe tựa cuộc cờ, Trăm năm thế sự sầu giờ còn đây. Nhà công hầu, chủ mới thay, Áo quan văn võ, khác ngày xa xưa. Trống đồng ải bắc vang đưa, Miền tây, thư trận, ngựa vừa ruổi rong. Sông Thu lạnh vắng cá rồng, Bình yên quê cũ chạnh lòng nhớ thương... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.04.2022 22:48:35 bởi Anh Nguyên >
THU HỨNG (Kỳ ngũ) 秋 興 其 五 蓬 萊 宮 闕 對 南 山, 承 露 金 莖 霄 漢 間。 西 望 瑤 池 降 王 母, 東 來 紫 氣 漢 函 關。 雲 移 雉 尾 開 宮 扇, 日 繞 龍 鱗 識 聖 顏。 一 臥 滄 江 驚 歲 晚, 幾 回 青 瑣 點 朝 班。 杜 甫 Bồng lai cung khuyết đối nam sơn, Thừa lộ kim hành tiêu hán gian. Tây vọng giao trì giáng vương mẫu, Đông lai tử khí mãn hàm quan. Vân di trĩ vỹ khai cung phiến, Nhật nhiễu long lân thức thánh nhan. Nhất ngọa thương giang kinh tuế vãn, Kỷ hồi thanh tỏa điểm triều ban. Đỗ-Phủ Dịch: Cảm hứng mùa Thu (Bài năm) Cung Bồng-Lai hướng Nam-Sơn, Cột đồng hứng móc chờn vờn trong mây. Tây, Dao-Trì, Mẫu xuống đây, Đông, luồng hơi đỏ đến đầy Hàm-Quan. Mây trôi, quạt trĩ an nhàn, Vảy rồng lóng lánh, Long nhan, biết liền. Thương Giang, năm hết, nằm bên, Bao lần Thanh-Tỏa trước thềm điểm quan... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.04.2022 22:49:49 bởi Anh Nguyên >
THU HỨNG (Kỳ lục) 秋 興 其 六 瞿 塘 峽 口 曲 江 頭, 萬 里 風 煙 接 素 秋。 花 萼 夾 城 通 御 氣, 芙 蓉 小 苑 入 邊 愁。 珠 幕 繡 柱 圍 黃 鶴, 錦 纜 牙 檣 起 白 鷗。 回 首 可 憐 歌 舞 地, 秦 中 自 古 帝 王 州。 杜 甫 Cồ đường giáp khẩu khúc giang đầu, Vạn lý phong yên tiếp tố thu. Hoa ngạc giáp thành thông ngự khí, Phù dung tiểu uyển nhập biên sầu. Châu liêm tú trụ vi hoàng hộc, Cẩm lãm nha tường khởi bạch âu. Hồi thủ khả liên ca vũ địa, Tần trung tự cổ đế vương châu. Đỗ-Phủ Dịch: Cảm hứng mùa Thu (Bài sáu) Cồ-Đường đầu Khúc-Giang đây, Trời Thu gió nối và mây khói mờ. Giáp-Thành, Hoa-Ngạc chơ vơ, Phù Dung, Tiểu Uyển bơ thờ sầu chung. Mành châu, cột, hạc vây cùng, Cột buồm, dây gấm, bay từng cánh âu. Thương nơi ca múa từ lâu, Tần-Trung khởi dựng từ đầu đế đô... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.04.2022 22:51:43 bởi Anh Nguyên >
THU HỨNG (Kỳ thất) 秋 興 其 七 昆 明 池 水 漢 時 功, 武 帝 旌 旗 在 眼 中。 織 女 機 絲 虛 夜 月, 石 鯨 鱗 甲 動 秋 風。 波 漂 菰 米 沉 雲 黑, 露 冷 蓮 房 墮 粉 紅。 關 塞 極 天 惟 鳥 道, 江 湖 滿 地 一 漁 翁。 杜 甫 Côn minh trì thủy hán thời công, Vũ đế tinh kỳ tại nhãn trung. Chức nữ cơ ty hư dạ nguyệt, Thạch kình lân giáp động thu phong. Ba phiêu cô mễ trầm vân hắc, Lộ lãnh liên phòng trụy phấn hồng. Quan tái cực thiên duy điểu đạo, Giang hồ mãn địa nhất ngư ông. Đỗ-Phủ Dịch: Cảm hứng mùa Thu (Bài bẩy) Ao Côn-Minh gợi Hán công, Cờ vua Vũ-Đế còn trong mắt người. Khung tơ, Chức-Nữ bỏ lơi, Vẩy kình đá động dưới trời gió Thu. Sóng đưa từng đám hạt cô, Sương rơi, phấn rụng, bơ phờ cánh sen. Ải cao, chim mới bay lên, Sông hồ đầy đất, chỉ riêng ông chài... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:15:40 bởi Anh Nguyên >
THU HỨNG (Kỳ bát) 秋 興 其 八 昆 吾 御 宿 自 逶 迤, 紫 閣 峰 陰 入 渼 陂。 香 稻 啄 余 鸚 鵡 粒, 碧 梧 栖 老 鳳 凰 枝。 佳 人 捨 翠 春 相 問, 仙 侶 同 舟 晚 更 移。 彩 筆 昔 曾 干 氣 象, 白 頭 吟 望 苦 低 垂。 杜 甫 Côn Ngô ngự túc tự uy trì, Tử các phong âm nhập Mỹ bi. Hương đạo trác dư anh vũ lạp, Bích ngô thê lão phụng hoàng chi. Giai nhân thập thúy xuân tương vấn, Tiên lữ đồng chu vãn cánh di. Thái bút tích tằng can khí tượng, Bạch đầu ngâm vọng khổ đê thùy. Đỗ-Phủ Dịch: Cảm hứng mùa Thu (Bài tám) Côn-Ngô còn dấu vua đi, Lần theo Tử-Các, Mỹ-Bi ta vào. Lúa còn, anh-vũ chốn nào, Ngô-đồng, phượng đậu cành cao đã già. Vui Xuân, người đẹp như hoa, Các tiên, thuyền nhỏ, chiều tà ra đi. Đã từng vung bút đề thi, Ngâm nga, đầu bạc, nhớ khi xưa...buồn!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:16:25 bởi Anh Nguyên >
VỊNH HOÀI CỔ TÍCH
(Kỳ nhất)
詠 懷 古 跡 之 一
支 離 東 北 風 塵 際,
漂 泊 西 南 天 地 間。
三 峽 樓 臺 淹 日 月,
五 溪 衣 服 共 雲 山。
羯 胡 事 主 終 無 賴,
詞 客 哀 時 且 未 還。
庾 信 平 生 最 蕭 瑟,
暮 年 詩 賦 動 江 關。
杜 甫 Chi li đông bắc phong trần tế, Phiêu bạc tây nam thiên địa gian. Tam hiệp lâu đài yêm nhật nguyệt, Ngũ khê y phục cộng vân san. Yết hồ sự chủ chung vô lại, Từ khách ai thời thả vị hoàn. Dữu tín bình sinh tối tiêu sắt, Mộ niên thi phú động giang quan. Đỗ-Phủ Dịch: Nhớ dấu vết xưa (Nhà Dửu-Tín) Lạc loài, đông bắc chiến tranh, Đất trời trôi nổi, lại đành tây nam. Đêm ngày, Tam-Hiệp lầu tàn, Ngũ-Khê, xiêm áo lẫn ngàn mây xanh. Yết-Hồ thờ chúa chẳng thành, Khách thơ thương nước, có danh, chưa về. Ngày xưa Dữu-Tín ủ ê, Tuổi già, thơ phú tràn trề ải, sông... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:18:41 bởi Anh Nguyên >
VỊNH HOÀI CỔ TÍCH (Kỳ nhị)
詠 懷 古 跡 之 二
搖 落 深 知 宋 玉 悲,
風 流 儒 雅 亦 吾 師。
悵 望 千 秋 一 灑 淚,
蕭 條 異 代 不 同 時。
江 山 故 宅 空 文 藻,
雲 雨 荒 臺 豈 夢 思。
最 是 楚 宮 俱 泯 滅,
舟 人 指 點 到 今 疑。
杜 甫
Dao lạc thâm tri tống ngọc bi, Phong lưu nho nhã diệc ngô sư.(si) Trướng vọng thiên thu nhất sái lệ, Tiêu điều dị đại bất đồng thì. Giang sơn cố trạch không văn tảo, Vân vũ hoang đài khởi mộng tư.(ti) Tối thị sở cung câu dẫn diệt, Chu nhân chỉ điểm đáo kim nghi. Đỗ-Phủ Dịch: Nhớ dấu vết xưa (Nhà Tống-Ngọc) Nỗi buồn Tống-Ngọc, tôi hay, Phong lưu, nho nhã, bậc thầy của tôi. Nghìn Thu, nhớ lại lệ rơi, Buồn cho đời khác lẫn thời xa xôi. Rong rêu nhà cũ phủ rồi, Mây mưa đài vắng đâu thời mộng mơ! Nhất là cung Sở dấu mờ, Chủ thuyền chỉ dấu vẫn ngờ: phải đây?!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:20:46 bởi Anh Nguyên >
VỊNH HOÀI CỔ TÍCH (Kỳ tam) 詠 懷 古 跡 之 三
群 山 萬 壑 赴 荊 門,
生 長 明 妃 尚 有 村。
一 去 紫 臺 連 朔 漠,
獨 留 青 塚 向 黃 昏。
畫 圖 省 識 春 風 面,
環 珮 空 歸 月 下 魂。
千 載 琵 琶 作 胡 語,
分 明 怨 恨 曲 中 論。 杜 甫 Quần sơn vạn hác phó kinh môn, Sinh trưởng minh phi thượng hữu thôn. Nhất khứ tử đài liên sóc mạc, Độc lưu thanh trủng hướng hoàng hôn. Họa đồ tỉnh thức xuân phong diện, Hoàn bội không quy nguyệt hạ hồn. Thiên tải tỳ bà tác hồ ngữ, Phân minh oán hận khúc trung luân. Đỗ-Phủ Dịch: Nhớ dấu vết xưa (Quê Chiêu-Quân) Núi, khe, vượt đến Kinh-Môn, Minh-Phi sinh trưởng, xóm thôn vẫn còn. Rời cung, sa mạc, gót son, Nắng chiều, nay mộ cỏ còn xanh xanh. Nét xuân giảm bớt trong tranh, Người đeo ngọc ấy, trăng thanh đi, về. Tiếng Hồ, phổ khúc đàn Tỳ, Rõ ràng oán hận còn ghi cung đàn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:26:25 bởi Anh Nguyên >
VỊNH HOÀI CỔ TÍCH (Kỳ tứ) 詠 懷 古 跡 之 四
蜀 主 征 吳 幸 三 峽,
崩 年 亦 在 永 安 宮。
翠 華 想 像 空 山 裡,
玉 殿 虛 無 野 寺 中。
古 廟 杉 松 巢 水 鶴,
歲 時 伏 臘 走 村 翁。
武 侯 祠 屋 常 鄰 近,
一 體 君 臣 祭 祀 同。
杜 甫 Thục chúa khuy Ngô hạnh tam hiệp Băng niên diệc tại Vĩnh An cung Thúy hoa tưởng tượng không sơn lý Ngọc điện hư vô dã tự trung Cổ miếu sam tùng sào thủy hạc Tuế thời phục lạp tẩu thôn ông Vũ Hầu từ ốc thường lân cận Nhất thể quân thần tế tự đồng Đõ Phủ Dịch: Nhớ dấu vết xưa (Miếu Lưu-Bị)
Thục vào Tam-Hiệp đánh Ngô,
Vĩnh-An, ngài mất, cũng đô chốn này.
Thúy-Hoa, cờ tưởng còn bay,
Trống không, điện ngọc ở ngay chùa làng.
Miếu xưa, tổ hạc tùng sam,
Hàng năm, tế lễ vẫn làm nơi dân.
Vũ-Hầu, miếu cũng ở gần,
Vua tôi cùng hưởng lễ phần như nhau... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:28:28 bởi Anh Nguyên >
VỊNH HOÀI CỔ TÍCH (Kỳ ngũ)
詠 懷 古 跡 之 五
諸 葛 大 名 垂 宇 宙,
宗 臣 遺 像 肅 清 高。
三 分 割 據 紆 籌 策,
萬 古 雲 霄 一 羽 毛。
伯 仲 之 間 見 伊 呂,
指 揮 若 定 失 蕭 曹。
運 移 漢 祚 終 難 復,
志 決 身 殲 軍 務 勞。
杜 甫 Gia-Cát đại danh thuỳ vũ trụ, Tông thần di tượng túc thanh cao. Tam phần cát cứ vũ trù sách, Vạn cổ vân tiêu nhất vũ mao. Bá trọng chi gian kiến y lã, Chỉ huy nhược định thất tiêu tào. Văn di hán tộ chung nan phục, Chí quyết thân tiêm quân vụ lao. Đỗ-Phủ Dịch: Nhớ dấu vết xưa (Đền Vũ-Hầu) Lừng danh Gia-Cát trên đời, Bề tôi hình tượng tuyệt vời thanh cao. Chia ba thiên hạ, hay sao! Như lông, mây đỡ bay cao muôn đời. Lã, Y, sánh cũng thế thôi, Tiêu, Tào lãnh đạo chẳng đời nào hơn. Vận suy, triều Hán đương cơn, Nhưng lòng quyết giúp chẳng sờn gian lao... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:30:18 bởi Anh Nguyên >
GIANG NGUYỆT 江 月
江 月 光 於 水,
高 樓 思 殺 人。
天 邊 長 作 客,
老 去 一 沾 巾。
玉 露 團 清 影,
銀 河 沒 半 輪。
誰 家 挑 錦 字,
滅 燭 翠 眉 顰。 杜 甫 Giang nguyệt quang ư thủy, Cao lâu tứ sát nhân. Thiên biên trường tác khách, Lão khứ nhất triêm cân. Ngọc lộ phổ thanh ảnh, Ngân hà một bán luân. Thùy gia thiêu cẩm tự, Chúc diệt thúy mi tần. Đỗ-Phủ Dịch: Trăng trên sông Vầng trăng tỏa sáng mặt sông, Lầu cao đứng ngắm đau lòng chết thôi! Chân trời, thân khách lâu rồi, Già đi, nước mắt bồi hồi ướt khăn. Giọt sương ngọc, ảnh hiện trong, Mặt trăng một nửa nằm sông Ngân-Hà. Nhà ai thêu chữ gấm hoa, Đuốc tàn, mắt biếc người ta chau mày... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:31:33 bởi Anh Nguyên >
VƯƠNG LÃNG CHÂU DIÊN PHỤNG THÙ THẬP NHẤT CỮU TÍCH BIỆT CHI TÁC 王 閬 州 筵 奉 酬 十 一 舅 惜 別 之 作 萬 壑 樹 聲 滿, 千 崖 秋 氣 高。 浮 舟 出 郡 郭, 別 酒 寄 江 濤。 良 會 不 復 久, 此 生 何 太 勞。 窮 愁 但 有 骨, 群 盜 尚 如 毛。 吾 舅 惜 分 手, 使 君 寒 贈 袍。 沙 頭 暮 黃 鵠, 失 侶 自 哀 號。 杜 甫 Vạn hác thụ thanh mãn, Thiên nhai thu khí cao. Phù chu xuất quận quách, Biệt tửu ký giang đào. Lương hội bất phục cửu, Thử sinh hà thái lao. Cùng sầu đản hữu cốt, Quần đạo thượng như mao. Ngô cữu tích phân thủ, Sứ quân hàn tặng bào. Sa đầu mộ hoàng hạc, Thất lữ diệc ai hào. Đỗ-Phủ Dịch: Trong tiệc Vương Lãng Châu kính đáp thơ "Lưu luyến chia tay" của cậu Mười Một Vạn khe đầy tiếng cây reo, Khí Thu nghìn núi cheo leo phủ mờ. Con thuyền rời quận dật dờ, Sóng cồn gửi rượu trước giờ biệt nhau. Họp vui chẳng được bao lâu, Kiếp này sao chỉ thấy đâu nhọc nhằn. Buồn nghèo xương thịt khô cằn, Như lông, giặc cướp tung tăng, yên nào! Chia tay dễ dứt được sao, Sợ trời lạnh lẽo, áo bào tặng nhau. Hạc vàng bãi vắng về đâu, Lạc nhau, cũng tiếng âu sầu thảm thương... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:34:39 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
Kiểu: