Đường Thi Trích Dịch III - Anh Nguyên
ĐĂNG CAO
登 高
風 急 天 高 猿 嘯 哀,
渚 清 沙 白 鳥 飛 迴。
無 邊 落 木 蕭 蕭 下,
不 盡 長 江 滾 滾 來。
萬 里 悲 秋 常 作 客,
百 年 多 病 獨 登 臺。
艱 難 苦 恨 繁 霜 鬢,
潦 倒 新 停 濁 酒 杯。
杜 甫 Phong cấp thiên cao viên khiếu ai, Chử thanh sa bạch điểu phi hồi. Vô biên lạc diệp tiêu tiêu hạ, Bất tận trường giang cổn cổn lai. Vạn lý bi thu thường tác khách, Bách niên đa bệnh độc đăng đài. Gian nan khổ hận phồn sương mấn, Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi. Đỗ-Phủ Dịch: Lên cao Gió lộng trời cao vượn dãi bày, Bến trong cát trắng cánh chim bay. Sông dài không dứt cơn sầu đến, Vô số lá vàng gió lắt lay. Muôn dặm thu buồn thân lãng tử, Trăm năm bệnh hoạn có ai hay. Gian nan khổ hận sương pha tóc, Chén rượu đục ngầu thử vận may. Trường-Xuân Phạm-Liễu Trời cao, gió lộng vượn kêu, Vụng trong, cát trắng, chim chiều liệng quanh. Rào rào lá rụng lìa cành, Sông dài cuộn cuộn nước xanh một mầu. Thu sầu, làm khách từ lâu, Trăm năm nhiều bệnh, trước sau một mình. Khổ đau, mái tóc trắng tinh, Nâng ly rượu đục Tân-Đình, ngả nghiêng... Vượn kêu, gió lộng trời cao, Vụng trong, cát trắng, lao xao chim về. Bao nhiêu lá rụng ê chề , Trường giang chẳng tận, tràn trề nước tuôn. Thu sầu, vạn dặm khách buồn, Trăm năm nhiều bệnh, lại luôn thân già. Gian nan tóc đã sương pha, Tân-Đình rượu đục, nốc, ta say mèm!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 17:12:10 bởi Anh Nguyên >
TÍCH DU 昔 遊
昔 謁 華 蓋 君,深 求 洞 宮 腳。
玉 棺 已 上 天,白 日 亦 寂寞 。
暮 升 艮 岑 頂,巾 几 猶 未 卻。
弟 子 四 五 人,入 來 淚 俱 落。
余 時 遊 名 山,發 軔 在 遠 壑。
良 覿 違 夙 願,含 淒 向 寥 廓。
林 昏 罷 幽 磬,竟 夜 伏 石 閣。
王 喬 下 天 壇,微 月 映 皓 鶴。
晨 溪 響 虛 駃,歸 徑 行 已 昨。
豈 辭 青 鞋 胝,悵 望 金 匕 藥。
東 蒙 赴 舊 隱,尚 憶 同 志 樂。
休 事 董 先 生,於 今 獨 蕭 索。
胡 為 客 關 塞,道 意 久 衰 薄。
妻 子 亦 何 人,丹 砂 負 前 諾。
雖 悲 鬒 髮 變,未 憂 筋 力 弱。
扶 藜 望 清 秋,有 興 入 廬 霍。 杜 甫 Tích giả dữ cao lý, Vãn đăng đơn phụ đài. Hàn vu tế kiệt thạch, Vạn lý phong vân lai. Tang trá diệp như vũ, Phi hoắc khứ bồi hồi. Thanh sương đại trạch đống, Cầm thú hữu dư ai. Thị thì thương lẫm thực, Đỗng đạt hoàn khu khai. Mãnh sĩ tư diệt hồ, Tướng súy vọng tam đài. Quân vương vô sở tích, Giá ngự anh hùng tài. U yên thịnh dụng vũ, Cung cấp diệc lao tai. Ngô môn chuyển túc bạch, Phiếm hải lăng bồng lai. Nhục thực tam thập vạn, Liệp xạ khởi hoàng ai. Cách hà ức trường diểu, Thanh tuế dĩ thôi đồi. Bất cập thiếu niên nhật, Vô phục cố nhân bôi. Phú thi độc lưu thế, Loạn thế tưởng hiền tài. Hữu năng thị tuấn cốt, Mạc hận thiếu long môi. Thương sơn hận đắc thất, Thục chủ thoát hiềm sai. Lã thượng phong quốc ấp, Phó duyệt dĩ diêm môi. Cảnh yến sở sơn thâm, Thủy hạc khứ đê hồi. Bàng công nhiệm bản tính, Huề tử ngọa thương đài. Đỗ-Phủ Dịch: Cuộc rong chơi xưa Xưa cùng Cao, Lý, hai ngài, Chiều về, Đơn-Phụ lên đài đứng chơi. Cỏ vu phủ Kiết-Thạch rồi, Gió mây vạn dặm tới nơi lúc nào. Như mưa, dâu lá ào ào, Gió đưa rau hoắc lao xao, vật vờ. Váng sương đầm lớn phủ mờ, Chim muông, thú vật, thẫn thờ đau thương. Bấy giờ kho chứa đầy lương, Hang sâu, khắp chốn, mọi đường đều thông. Diệt Hồ, chiến sĩ chờ trông, Lập công, các tướng những mong Tam-Đài. Nhà vua nào có tiếc ai, Luôn luôn tìm kiếm người tài khắp nơi. U-Yên dùng vũ lực thôi, Cho nên tiếp tế ôi thời khó khăn. Ngô-Môn chở vải, lúa ăn, Bồng-Lai chỉ đến được bằng biển khơi. Thịt ba chục vạn cân thôi, Bụi vàng, săn bắn khắp nơi, tung trời. Cách sông, nhớ lúc xa xôi, Tuổi xanh lận đận bao hồi khổ đau. Những ngày thơ ấu còn đâu, Cạn ly bạn cũ, nay hầu được sao! Làm thơ, nước mắt tuôn trào, Loạn ly, lại nhớ biết bao người tài. Mua xương ngựa tốt được ngay, Long-môi, đừng sợ giống này kiếm đâu. Thương-Sơn, được mất bàn nhau, Bị ngờ, vua Thục thoát mau được rồi. Đất phong, Lã-Thượng thảnh thơi, Lại xem Phó-Duyệt giống ơi muối hành. Cảnh nơi núi Sở đổi nhanh, Loài chim hạc nước bay quanh lại về. Ông Bàng tính vẫn một bề. Giắt con vào núi, nằm kề rêu xanh... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 17:15:29 bởi Anh Nguyên >
TỨC SỰ 即 事 暮 春 三 月 巫 峽 長, 皛 皛 行 雲 浮 日 光。 雷 聲 忽 送 千 峰 雨, 花 氣 渾 如 百 和 香。 黃 鶯 過 水 翻 迴 去, 燕 子 銜 泥 濕 不 妨。 飛 閣 卷 簾 圖 畫 裏, 虛 無 只 少 對 瀟 湘。 杜 甫 Mộ xuân tam nguyệt vu giáp trường, Liểu liểu hành vân phù nhật quang. Lôi thanh hốt tống thiên phong vũ, Hoa khí hỗn như bách họa hương. Hoàng oanh quá thủy phiên hồi khứ, Yến tử xung nê thấp bất phương. Phi các quyển liêm đồ họa lý Hư vô chỉ thiếu đối tiêu tương.
Đỗ-Phủ
Dịch:
Thấy cảnh mà tả
Cuối Xuân, Vu-Giáp tháng ba,
Mây bay lững thững ló ra mặt trời.
Sấm đưa mưa khắp núi đồi,
Khí đâu như trộn trăm mùi hoa thơm.
Hoàng oanh mặt nước chập chờn,
Yến xà xuống bãi đất bùn chẳng dơ.
Vén rèm, cảnh đẹp như mơ,
Bầu trời chỉ thiếu đôi bờ Tiêu, Tương...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 17:16:11 bởi Anh Nguyên >
SẦU 愁 江 草 日 日 喚 愁 生, 巫 峽 泠 泠 非 世 情。 盤 渦 鷺 浴 底 心 性, 獨 樹 花 發 自 分 明。 十 年 戎 馬 暗 萬 國, 異 域 賓 客 老 孤 城。 渭 水 秦 山 得 見 否, 人 經 罷 病 虎 縱 橫。 杜 甫 Giang thảo nhật nhật hoán sầu sinh, Vu giáp linh linh phi thế tình. Bàn oa lộ dục để tâm tính, Độc thụ hoa phát tự phân minh. Thập niên nhung mã ám vạn quốc, Dị vực tân khách lão cô thành. Vị thủy tần sơn đắc kiến phủ, Nhân kim bãi bệnh hổ tung hoành. Đỗ-Phủ Dịch: Sầu Ngày ngày, sông, cỏ, gợi sầu, Ào ào Vu-Giáp biết đâu tình đời. Nước trong cò tắm thảnh thơi, Một cây hoa nở bên trời thắm tươi. Mười năm chinh chiến khổ ơi, Khách già, đất lạ, đến nơi cô thành. Liệu còn thấy Vị, Tần, xanh? Người nay đã bệnh, tung hoành cọp beo!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 18:11:58 bởi Anh Nguyên >
ĐÔNG CHÍ 冬 至
年 年 至 日 長 為 客,
忽 忽 窮 愁 泥 殺 人.
江 上 形 容 吾 獨 老.
天 邊 風 俗 自 相 親.
杖 藜 雪 後 臨 丹 壑,
鳴 玉 朝 來 散 紫 宸.
心 折 此 時 無 一 寸,
路 迷 何 處 見 三 秦. 杜 甫 Niên niên chí nhật trường vi khách, Hốt hốt cùng sầu nê sát nhân. Giang thượng hình dung ngô độc lão, Thiên biên phong tục tự tương thân. Trượng lê tuyết hậu lâm đan hác, Minh ngọc triêu lai tán tử thần. Tâm chiết thử thì vô nhất thốn, Lộ mê hà xứ kiến tam tần. Đỗ-Phủ Dịch: Ngày đông chí Năm năm, đông chí xa nhà, Buồn như muốn giết người ta lúc nào. Trên sông thấy bóng già sao, Chân trời phong tục đâu nào khác nhau. Tuyết, hang chống gậy vào mau, Sớm xưa, rung ngọc đến hầu nhà vua. Nay lòng tan nát khổ chưa, Lạc đường, sao thấy đất xưa tam Tần?!... Anh Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 18:12:56 bởi Anh Nguyên >
ĐÔNG ĐỒN BẮC YÊM 東 屯 北 崦
盜 賊 浮 生 困 .
誅 求 異 俗 貧。
空 村 唯 見 鳥﹐
落 日 未 歸 人。
步 壑 風 吹 面﹐
看 松 露 滴 身。
遠 山 回 白 首﹐
戰 地 有 黃 塵。 杜 甫 Đạo tặc phù sinh khốn, Thù cầu dị tục bần. Không thôn duy kiến điểu, Lạc nhật vị phùng nhân. Bộ hác phong xuy diện, Khan tùng lộ trích thân. Viễn sơn hồi bạch thủ, Chiến địa hữu hoàng trần. Đỗ-Phủ Dịch: Xóm bắc Đông-Đồn Giặc còn, cuộc sống khổ thay, Sưu cao thuế nặng khiến nay thêm nghèo. Chim kêu, làng xóm vắng teo, Mặt trời sắp lặn, dân nghèo, gặp ai! Vào hang, gió tạt mặt hoài, Ngắm thông, sương nhỏ dài dài trên thân. Ngoảnh đầu bạc, núi xa dần, Khói vàng chiến địa lần lần bốc cao... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 18:14:17 bởi Anh Nguyên >
VÃN TÌNH 晚 晴
村 晚 驚 風 度,
庭 幽 過 雨 沾。
夕 陽 薰 細 草,
江 色 映 疏 簾。
書 亂 誰 能 帙,
杯 乾 可 自 添。
時 聞 有 餘 論,
未 怪 老 夫 潛。 杜 甫 Cao đường mộ đông tuyết tráng tai, Cựu chướng vô phục tự trần ai. Nhai trầm cốc một bạch ngai ngai, Giang thạch khuyết liệt thanh phong thôi. Nam thiên tam tuần khổ vụ khai, Xích nhật vô diệu tòng tây lai, Lục long hàn cấp quang bồi hồi. Chiếu ngã suy nhan hốt lạc địa, Khẩu tuy ngâm vịnh tâm trung ai. Vị quái cập thì thiếu niên tử, Dương mi kết nghĩa hoàng kim đài. Mịch hồ ngô sinh hà phiêu linh, Chi ly ủy tuyệt đồng tử khôi. Đỗ-Phủ Dịch: Chiều tạnh ráo Cao-Đường, chiều tuyết phủ đầy, Chưa tan, khí độc còn đây mịt mờ. Trắng phau, hang ngập lấp bờ, Phong xanh nghiêng ngả, dập dờ đá sông. Trời nam sương mịt mờ trông, Mặt trời đỏ rực ở vùng núi tây. Sáu rồng chiếu sáng nơi đây, Bóng ta tiều tụy in ngay đất này. Miệng ngâm, nhưng dạ buồn thay, Chưa quen người trẻ ngày nay đương thời. Đài vàng tìm kết nghĩa chơi, Ôi sao ta gặp cuộc đời nổi trôi, Như tro, lòng nát cả rồi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 18:15:51 bởi Anh Nguyên >
ĐẠI LỊCH NHỊ NIÊN CỬU NGUYỆT TAM THẬP NHẬT 大 曆 二 年 九 月 三 十 日
為 客 無 時 了,
悲 秋 向 多 終.
瘴 餘 夔 子 國,
霜 薄 楚 王 宮.
草 敵 虛 嵐 翠,
花 禁 冷 葉 紅.
年 年 小 搖 落,
不 與 故 園 同. 杜 甫 Vi khách vô thì liễu, Bi thu hướng đa chung. Chướng dư quỳ tử quốc, Sương bạc sở vương cung. Thảo địch hư lam thúy, Hoa cấm lãnh diệp hồng. Niên niên tiểu dao lạc, Bất dữ cố viên đồng. Đỗ-Phủ Dịch: Ngày 30 tháng 9 năm Đại-Lịch thứ hai Làm thân khách mãi không ngừng, Thu đau thương đến lúc cùng chưa thôi. Châu Qùy hơi độc bời bời, Cung vua Sở chút sương rơi lúc này. Cỏ xanh, hơi núi phủ đầy, Hoa, bao lá lạnh đang vây đỏ hồng. Năm năm còn vẫn bềnh bồng, Thân già chẳng được sống cùng quê xưa!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 18:16:50 bởi Anh Nguyên >
DẠ QUY 夜 歸
夜 半 歸 來 衝 虎 過,
山 黑 家 中 已 眠 臥.
傍 見 北 斗 向 江 低,
仰 看 明 星 當 空 大.
庭 前 把 燭 嗔 兩 炬,
峽 口 驚 猿 聞 一 箇.
白 頭 老 罷 舞 復 歌,
杖 藜 不 睡 誰 能 那?
杜 甫 Dạ bán quy lai xung hổ quá, Sơn hắc gia trung dĩ miên ngọa. Bàng kiến bắc đẩu hướng giang đê, Ngưỡng khan minh tinh đương không đại. Đình tiền bả chúc sân lưỡng cự, Giáp khẩu kinh viên văn nhất cá. Bạch đầu lão bãi vũ phục ca, Trượng lê bất thụy thùy năng nả. Đỗ-Phủ Dịch: Về lúc đêm tối Nửa đêm, miệng cọp đi qua, Núi non tối mịt, cả nhà ngủ say. Hướng sông, Bắc-Đẩu còn đây, Ngửa nhìn, sao sáng vẫn đầy trời đêm. Trước sân cặp đuốc hừng thêm, Vượn nơi cửa kẽm kêu lên hãi hùng. Lão già ca múa lung tung, Gây lê, chẳng ngủ, đi cùng sợ ai... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.06.2022 18:09:37 bởi Anh Nguyên >
PHỤC SẦU (Kỳ nhất) 復 愁 首 其 一
人 煙 生 處 僻
虎 跡 過 新 蹄
野 鶻 翻 窺 草
村 船 逆 上 溪 杜 甫 Nhân yên sinh xứ tịch, Hổ tích quá tân đề. Dã cốt phi khuy thảo, Thôn thuyền nghịch thượng khê. Đỗ-Phủ Dịch: Lại buồn (Bài một) Khói, người, chỗ ở vắng tanh, Hổ qua, chân để rành rành dấu đây. Cánh đồng cỏ, cắt lượn bay, Con thuyền trong xóm ra tay ngược dòng... Anh Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 18:23:22 bởi Anh Nguyên >
PHỤC SẦU (Kỳ nhị)
復 愁 其 二
萬 國 尚 戎 馬
故 園 今 若 何
昔 歸 相 識 少
早 以 戰 場 多 杜 甫 Vạn quốc thượng nhung mã, Cố viên kim nhược hà. Tích quy tương thức thiểu, Tảo dĩ chiến trường đa. Đỗ-Phủ Dịch: Lại buồn (Bài hai) Các nơi, giặc giã chưa qua, Vườn xưa, không biết nay ra thế nào? Trước về, quen biết còn bao! Bởi vì đã sớm có bao chiến trường!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 18:24:26 bởi Anh Nguyên >
PHỤC SẦU (Kỳ lục) 復 愁 其 六
胡 虜 何 曾 盛
干 戈 不 肯 休
閭 閻 聽 小 子
談 笑 覓 封 侯 杜 甫 Hồ lỗ hà tằng thịnh, Can qua bất khẳng hưu. Lư diêm thính tiểu tử, Đàm tiếu mịch phong hầu. Đỗ-Phủ Dịch: Lại buồn (Bài sáu) Giặc Hồ sao mãi hung hăng, Chiến tranh lâu quá, chẳng bằng lòng thôi. Xóm thôn nghe trẻ nhỏ cười, Chê bai người thích tìm nơi phong hầu... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 18:25:53 bởi Anh Nguyên >
PHỤC SẦU (Kỳ cửu) 復 愁 其 九
任 轉 江 淮 粟
休 添 苑 囿 兵
由 來 貔 虎 士
不 滿 鳳 凰 城 杜 甫 Nhiệm truyền giang hồi mễ, Hưu thiêm uyển hựu binh. Do lai tỳ hổ sĩ, Bất mãn phượng hồng thành. Đỗ-Phû Dịch: Lại buồn (Bài chín) Giang-Hồi, lệnh chở gạo đi, Ngưng ngay lấy lính thêm về vườn vua. Đồn quân hùng mạnh thấy thưa, Phượng hồng, chẳng thấy như xưa đầy thành... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 18:35:23 bởi Anh Nguyên >
PHỤC SẦU (Kỳ thập) 復 愁 其 十
貞 觀 銅 牙 弩
開 元 錦 獸 張
花 門 小 箭 好
此 物 棄 沙 場 杜 甫 Trinh quán đồng nha nỗ, Khai nguyên cẩm thú trường. Hoa môn tiểu tiễn hảo, Thử vật khí sa trường. Đỗ-Phủ Dịch: Lại buồn (Bài mười) Nỏ đồng Trinh-Quán còn đây, Cung dài, bọc gấm, loại này Khai-Nguyên. Hoa-Môn, nhỏ, tốt: các tên, Nay còn vương vãi khắp trên sa trường... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 18:36:03 bởi Anh Nguyên >
QUYỂN DẠ 倦 夜 竹 涼 侵 臥 內, 野 月 滿 庭 隅。 重 露 成 涓 滴, 稀 星 乍 有 無。 暗 飛 螢 自 照, 水 宿 鳥 相 呼。 萬 事 干 戈 裏, 空 悲 清 夜 徂。 杜 甫 Trúc lương xâm ngọa nội, Dã nguyệt mãn đình ngu. Trọng lộ thành quyên trích, Hy tinh tạc hữu vô. Ám phi huỳnh tự chiếu, Thủy túc điểu tương hô. Vạn sự can qua lý, Không bi thanh dạ tồ. Đỗ-Phủ Dịch: Đêm mệt mỏi Trúc đưa gió mát vào phòng, Góc sân đầy ánh trăng đồng lả lơi. Sương gom thành giọt nhẹ rơi, Đêm sao ít ỏi như trời trống không. Đóm bay trong tối mênh mông, Loài chim ở nước, bên sông kêu hoài. Chiến tranh, vạn sự chẳng ngoài, Đêm không thanh vắng giết ai vì buồn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 18:37:42 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu: