Đường Thi Trích Dịch IV - Anh Nguyên
LÝ ĐOAN BÁI TÂN NGUYỆT 拜 新 月 開 帘 見 新 月,
便 即 下 階 拜。
細 語 人 不 聞,
北 風 吹 裙 帶 李 端 Khai liêm kiến tân nguyệt, Tức tiện hạ giai bái. Tế ngữ nhân bất tri, Bắc phong xuy quần đái. Lý-Đoan Dịch: Lạy trăng non Ánh trăng vừa lọt trước rèm, Thấy trăng liền xuống dưới thềm chắp tay. Lâm râm nói chẳng ai hay, Một luồng gió bắc thổi bay giải quần. Ngô-Tất-Tố Vén rèm thấy mảnh trăng non, Xuống thềm lễ lạy, đang còn chắp tay. Lâm râm, khấn chẳng ai hay, Một cơn gió bắc thổi bay giải quần... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.05.2022 22:23:56 bởi Anh Nguyên >
KHÊ HÀNH NGỘ VŨ 谿 行 遇 雨
日 落 眾 山 昏
蕭 蕭 暮 雨 繁
那 堪 兩 處 宿
共 聽 一 聲 猿
李 端 Nhật lạc chúng sơn hôn, Tiêu tiêu mộ vũ phồn. Na kham lưỡng xứ túc, Cộng thính nhất thanh viên. Lý-Đoan Dịch: Đi dạo theo suối, gặp mưa Mặt trời lặn, núi tối sầm, Mưa chiều mờ mịt, ầm ầm tuôn rơi. Sao đành ở trọ đôi nơi, Cùng nghe tiếng vượn bên trời kêu than... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.05.2022 22:21:21 bởi Anh Nguyên >
MINH TRANH
鳴 箏 鳴 箏 金 粟 柱
素 手 玉 房 前
欲 得 周 郎 顧
時 時 誤 拂 絃
李 端 Minh tranh kim túc trụ, Tố thủ ngọc phòng tiền. Dục đắc chu lang cố, Thì thì ngộ phất huyền. Lý-Đoan Dịch: Gảy đàn tranh Cần vàng, đàn nẩy tiếng tơ, Tay ngà, thùng ngọc chỉ chờ lướt nhanh. Muốn chàng Chu chú ý mình, Đôi khi vờ để thình lình lỡ dây... Cần vàng, trong vắt tiếng đàn, Lướt trên thùng ngọc, nhẹ bàn tay xinh. Muốn chàng Chu biết đến mình, Đôi khi vờ để vô tình lỗi dây... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.05.2022 22:26:17 bởi Anh Nguyên >
LÝ ĐÔNG TỆ LƯ 斃 驢
蹇 驢 秋 斃 瘞 荒 田
忍 把 敲 吟 舊 竹 鞭
三 尺 桐 輕 背 殘 月
一 條 藤 瘦 卓 寒 煙
通 吳 白 浪 寬 圍 國
倚 蜀 青 山 峭 到 天
如 畫 海 門 搘 肘 望
阿 誰 教 買 釣 漁 船
李 洞 Kiến lư thu tệ ế hoang điền,
Nhẫn bả xao ngâm cựu trúc tiên.
Tam xích đồng khinh bối tàn nguyệt,
Nhất điều đằng sấu trác hàn yên.
Thông ngô bạch lãng khoan vi quốc,
Ý thục thanh sơn tiễu đáo thiên.
Như họa, hải môn chi trửu vọng,
A thùy giao mãi điếu ngư thuyền?... Lý-Động
Dịch:
Con lừa chết
Lừa què, thu, chết đồng hoang,
Sao cầm roi gõ hát vang được nào!
Gỗ đồng nhẹ trước trăng sao,
Sợi mây gầy, lạnh, vút vào khói sương.
Xứ Ngô sóng trắng mọi phương,
Núi xanh đất Thục toan vươn đến trời.
Như tranh, cửa bể tuyệt vời,
Thuyền câu một chiếc, ai thời khuyên mua?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.05.2022 22:51:52 bởi Anh Nguyên >
LÝ GIA HỰU TRÚC LÂU 竹 樓
傲 吏 身 閒 笑 五 侯
西 江 取 竹 起 高 樓
南 風 不 用 蒲 葵 扇
紗 帽 閒 眠 對 水 鷗
李 嘉 祐 Ngạo lại thân nhàn tiếu ngũ hầu, Tây giang thủ trúc khởi cao lâu. Nam phong bất dụng bồ qùy phiến, Sa mạo nhàn miên đối thủy âu. Lý-Gia-Hựu Dịch: Lầu trúc Lại, nhàn, cao ngạo ngũ hầu, Sông Tây, lấy trúc cất lầu thật cao. Gió nam, cần đến quạt sao! Ngủ nằm mũ lụa lẫn vào đàn âu... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.05.2022 22:53:58 bởi Anh Nguyên >
TẢO THU KINH KHẨU LỮ BẠC 早 秋 京 口 旅 泊
移 家 避 寇 逐 行 舟
厭 見 南 徐 江 水 流
吳 地 征 徭 非 舊 日
秣 陵 凋 弊 不 勝 秋
千 家 閉 戶 無 砧 杵
七 夕 何 人 望 斗 午
只 有 同 時 驄 馬 客
偏 題 尺 牘 問 窮 愁
李 嘉 祐 Di gia tỵ khấu trục hành châu, Yếm kiến nam từ giang thủy lưu. Ngô địa chinh dao phi cựu nhật, Muội lăng điêu tệ bất thăng thâu. Thiên gia bế hộ vô châm chử, Thất tịch hà nhân vọng đẩu ngưu. Chỉ hữu đồng thời thông mã khách, Thiên đề xích độc vấn cùng sầu. Lý-Gia-Hựu Dịch: Đầu thu đậu thuyền tại Kinh-Khẩu Rời nhà lánh giặc, thuyền đi, Nam-Từ, nước chảy, trông thì chán sao. Ngô: phu, thuế, giống trước nào, Muội-Lăng: buồn bã, tả sao thu về. Nhà nhà, chầy giặt chẳng nghe, Trong đêm Thất-Tịch, ai về ngắm sao! Nguời cùng cưỡi ngựa ngày nào, Còn biên thư hỏi thăm nhau nỗi buồn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.05.2022 22:56:55 bởi Anh Nguyên >
LÝ HẠ NAM VIÊN 南 園 其 三
花 枝 草 蔓 眼 中 開
小 白 長 紅 越 女 腮
可 憐 日 暮 嫣 香 落
嫁 與 春 風 不 用 媒 李 賀 Hoa chi thảo mạn nhãn trung khai, Tiểu bạch trường hồng việt nữ lai. Khả liên nhật mộ yên hương lạc, Giá dữ xuân phong bất dụng mai. Lý-Hạ Dịch: Vườn nam Mắt nhìn cây cỏ nở hoa, Như cô gái Việt má da trắng hồng. Về chiều, hương sắc kém nồng, Gió Xuân, đem gả chẳng dùng mối mai... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.05.2022 23:02:19 bởi Anh Nguyên >
MỘNG THIÊN 夢 天
老 兔 寒 蟾 泣 天 色,
雲 樓 半 開 壁 斜 白。
玉 輪 軋 露 濕 團 光,
鸞 佩 相 逢 桂 香 陌。
黃 塵 清 水 三 山 下,
更 變 千 年 如 走 馬。
遙 望 齊 州 九 點 煙,
一 泓 海 水 杯 中 瀉。 李 賀 Lão thố hàn thiềm khấp thiên sắc, Vân lâu bán khai bích tà bạch. Ngọc luân trát lộ thấp đoàn quang, Loan bội tương phùng quế hương mạch. Hoàng trần thanh thủy tam sơn hạ, Canh biến thiên niên như tẩu mã. Dao vọng tề châu cửu điểm yên, Nhất hoằng hải thủy bôi trung tả. Lý-Hạ Dịch: Mơ lên trời Thỏ già, cóc lạnh, lệ rơi, Lầu mây hé mở, tường hơi trắng ngà. Bánh xe ngọc ướt móc sa, Đeo loan, lối quế, tiên nga xuống trần. Dưới ba núi, nước trong ngần, Nghìn năm thay đổi nhanh gần ngựa phi. Châu Tề, chín chấm nhỏ ti, Nước trong Hoàng Hải khác gì trong ly... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.05.2022 23:10:58 bởi Anh Nguyên >
TƯƠNG TIẾN TỬU 將 進 酒 琉 璃 鐘,琥 珀 濃, 小 槽 酒 滴 真 珠 紅。 烹 龍 炮 鳳 玉 脂 泣, 羅 幃 繡 幕 圍 香 風。 吹 龍 笛,擊 鼉 鼓, 皓 齒 歌,細 腰 舞。 況 是 青 春 日 將 暮, 桃 花 亂 落 如 紅 雨。 勸 君 終 日 酩 酊 醉, 酒 不 到 劉 伶 墳 上 土。 李 賀 Lưu ly chung, hổ phách nùng, Tiểu tao tửu tích chân châu hồng Phanh long, bào phượng ngọc chi khấp La vi tú mạc vi xuân phong Xuy long địch, kích đà cổ Hạo xỉ ca, tế yêu vũ Huống thị thanh xuân nhật tương mộ Đào hoa loạn lạc như hồng vũ Khuyến quân chung nhật mính đính túy Tửu bất đáo Lưu Linh phần thượng thổ. Lý-Hạ Dịch: Sắp mời rượu Chén lưu ly, rượu đậm đà, Rượu còn, từng giọt, nhìn ra châu hồng. Nướng chim phụng, xả thịt rồng, Rèm thêu, màn lụa, vây luồng gió xuân. Trống da sấu, sáo xương rồng, Răng con hát trắng, vũ công eo tròn. Ngày xuân chiều xuống đầu non, Hoa đào lả tả rơi còn tiếc thân. Khuyên anh say khướt, chẳng cần, Rượu đâu đến được mộ phần Lưu-Linh... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.05.2022 23:14:47 bởi Anh Nguyên >
THƯƠNG TÂM HÀNH 傷 心 行 咽 咽 學 楚 吟, 病 骨 傷 幽 素。 秋 姿 白 髮 生, 木 葉 啼 風 雨。 燈 青 蘭 膏 歇, 落 照 飛 蛾 舞。 古 壁 生 凝 塵, 羈 魂 夢 中 語。 李 賀
Yết yết học Sở ngâm,
Bệnh cốt thương u tố.
Thu tư bạch phát sinh,
Mộc diệp đề phong vũ.
Đăng thanh lan cao yết,
Lạc chiếu phi nga vũ.
Cổ bích sinh ngưng trần,
Ky hồn mộng trung ngữ.
Lý-Hạ
Dịch:
Bài ca đau lòng
Nghẹn lời, thơ Sở học ngâm,
Thân mang bệnh tật, thương tâm vô cùng.
Thu về, thấy tóc bạc hung,
Lá cây than khóc, lạnh lùng gió mưa.
Đèn tàn, dầu cạn, buồn chưa,
Ánh đèn mờ chiếu vui đùa thiêu thân.
Bức tường cũ bám bụi dần,
Để cho vào mộng lầm bầm trong mơ...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2022 19:41:23 bởi Anh Nguyên >
TÔ TIỂU TIÊU MỘ 蘇 小 小 墓 幽 蘭 露 如 啼 眼, 無 物 結 同 心。 煙 花 不 堪 剪, 草 如 茵 松 如 蓋。 風 為 裳 水 為 佩, 油 壁 車 夕 相 待。 冷 翠 燭 勞 光 彩, 西 陵 下 風 吹 雨。 李 賀 U lan lộ như đề nhãn, Vô vật kết đồng tâm. Yên hoa bất kham tiễn, Thảo như nhân, tùng như cái. Phong vi thường, thuỷ vi bội, Du bích xa, tịch tương đãi. Lãnh thuý chúc, lao quang thái, Tây lăng hạ, phong xuy vũ. Lý-Hạ Dịch: Mộ Tô-Tiểu-Tiểu Sương như giọt lệ nhành lan, Không dây có thể kết làm đồng tâm. Những hoa khói chẳng tỉa dần, Cỏ làm thảm biếc, thông cầm dù che. Nước trang điểm, gió áo the, Xe Du Bích, tối đi về cùng nhau. Đuốc xanh cánh trả lạt màu, Tây lăng mưa gió đuổi nhau sụt sùi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.06.2022 20:57:29 bởi Anh Nguyên >
LÝ HÀM DỤNG
ĐỀ VƯƠNG XỬ SĨ SƠN CƯ 題 王 處 士 山 居 雲 木 沉 沉 夏 亦 寒, 此 中 幽 隱 幾 經 年。 無 多 別 業 供 王 稅, 大 半 生 涯 在 釣 般。 蜀 魄 叫 迴 芳 草 色, 鷺 鶿 飛 破 夕 陽 煙。 干 戈 蝟 起 能 高 臥, 真 箇 逍 遙 是 謫 仙。 李 咸 用 Vân mộc trầm trầm hạ diệc hàn, Thử trung u ẩn kỷ kinh niên. Vô đa biệt nghiệp cung vương thuế, Đại bán sinh nhai tại điếu thuyền. Thục phách khiếu hồi phương thảo sắc, Lộ tư phi phá tịch dương yên. Can qua vị khởi năng cao ngọa, Chân cá tiêu dao thị trích tiên. Lý-Hàm-Dụng Dịch: Đề chỗ ở của Vương-Xử-Sĩ Dưới mây, cây lạnh dẫu hè, Bao năm ở ẩn chẳng dè nhanh ghê. Thuế, vua không có thu về, Sinh nhai, nửa đã chiếm nghề thuyền câu. Cuốc kêu cho cỏ thắm mầu, Cánh cò bay rẽ khói bầu trời hôm. Loạn ly nằm ở đỉnh non, Chính là Tiên đọa phải còn rong chơi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2022 19:45:39 bởi Anh Nguyên >
BIỆT HỮU 別 友 北 吹 微 微 動 旅 情, 不 堪 分 手 在 平 明。 寒 雞 不 待 東 方 曙, 喚 起 征 人 踏 月 行。 李 咸 用 Bắc xuý vi vi động lữ tình, Bất kham phân thủ tại bình minh. Hàn kê bất đãi đông phương thự, Hoán khởi chinh nhân đạp nguyệt hành. Lý-Hàm-Dụng Dịch: Từ biệt ban bè, Gió Bắc thổi, Thích đi xa, Đợi sao tới sáng để mà chia tay? Gà lạnh gáy quấy sáng nay, Trời còn trăng vẫn đi ngay chẳng chờ... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2022 19:47:40 bởi Anh Nguyên >
LÝ HOÀN CUNG TRUNG ĐỀ 宮 中 題 輦 路 生 秋 草
上 林 花 滿 枝
憑 高 何 限 意
無 復 侍 臣 知
李 昂
Liễn lộ sinh thu thảo, Thượng lâm hoa mãn chi. Bằng cao hà hạn ý, Vô phục thị thần tri. Lý-Hoàn Dịch: Đề thơ trong cung Lối xe, Thu, cỏ mọc đầy, Thượng-Lâm, hoa nở đó đây khắp cành. Ý không giới hạn, bay nhanh, Quan hầu sao biết được rành ý kia?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2022 19:49:09 bởi Anh Nguyên >
LÝ ÍCH GIANG NAM
江 南 曲
嫁 得 瞿 塘 賈, 朝 朝 誤 妾 期。
早 知 潮 有 信, 嫁 與 弄 潮 兒。 李 益 Giá đắc Cù-Đường cổ, Triêu triêu ngộ thiếp kỳ. Tảo tri triều hữu tín, Giá dữ lộng triều nhi. Lý-Ích: Dịch: Khúc hát Giang Nam Cù-Đường, thiếp lấy lái buôn, Sớm ra lỡ hẹn luôn luôn mỗi ngày. Triều có giờ giấc... Nếu hay, Thà rằng thiếp lấy ngay tay chèo thuyền... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2022 19:50:56 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: