Đường Thi Trích Dịch IV - Anh Nguyên
TẢO PHÁT TRUNG NHAM TỰ, ĐỘ QUANG LĨNH, THỨ THIÊN MỤ SẦM 早 發 中 岩 寺 度 關 嶺 次 天 姥 岑 來 往 天 台 天 姥 間, 欲 求 真 訣 駐 衰 顏。 星 河 半 落 岩 前 寺, 雲 霧 初 開 嶺 上 關。 丹 壑 樹 多 風 浩 浩, 碧 溪 苔 淺 水 潺 潺。 可 知 劉 阮 逢 人 處, 行 盡 深 山 又 是 山。 许 浑 Lai vãng thiên thai thiên mụ gian, Dục cầu chân quyết thứ suy nhan. Tinh hà bán lạc nham tiền tự, Vân vụ sơ khai lĩnh thượng quan. Đan hác thụ đa phong hạo hạo, Bích khê đài thiển thủy sàn sàn. Khả tri lưu nguyễn phùng nhân xứ, Hành tận thâm sơn hựu thị sơn. Hứa-Hồn Dịch: Sớm đi từ chùa Trung-Nham đến nghỉ ở núi Thiên-Mụ Thiên-Thai, Thiên-Mụ, lại qua, Pháp mầu, cầu để mặt ta khỏi già. Trung-Nham, xuống nửa Ngân-Hà, Mù tan, Quan-Lĩnh hiện ra cổng chùa. Như son, hang núi, gió lùa, Khe xanh róc rách, nước vừa chảy ra. Nguyễn, Lưu, xưa gặp tiên nga, Đi vào núi thẳm, vẫn là núi thôi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.06.2022 19:32:52 bởi Anh Nguyên >
KIM LĂNG HOÀI CỔ
金 陵 怀 古
玉 树 歌 残 王 气 终,
景 阳 兵 合 戍 楼 空。
松 楸 远 近 千 官 冢,
禾 黍 高 低 六 代 宫。
石 燕 拂 云 晴 亦 雨,
江 豚 吹 浪 夜 还 风。
英 雄 一 去 豪 华 尽,
唯 有 青 山 似 洛 中。
许 浑 Ngọc thụ ca tàn vương khí chung, Cảnh dương binh hợp thú lâu không. Thu ngô viễn cận thiên quan trũng, Hòa thử cao đê lục đại cung. Thạch yến phất vân tình diệc vũ, Giang đồn xuy lãng dạ hoàn phong. Anh hùng nhất khứ hào hoa tận, Duy hữu thanh sơn tự lạc trung. Hứa-Hồn Dịch: Nhớ chuyện xưa ở Kim-Lăng Ngừng ca Ngọc-Thụ, hết vua, Cảnh-Dương họp lính, gió lùa chòi không. Mộ quan quanh dẫy ngô đồng, Lô nhô trong lúa, là cung sáu triều. Tạnh, mưa, én vẫn liệng đều, Cá heo phun sóng, gió nhiều về đêm. Hào hoa, khi mất, cũng quên, Núi xanh còn mãi, giống miền Lạc-Trung... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.06.2022 17:16:21 bởi Anh Nguyên >
BIỆN HÀ ĐÌNH 汴 河 亭
廣 陵 花 盛 帝 東 游,
先 劈 昆 侖 一 派 流。
百 二 禁 兵 辭 象 闕,
三 千 宮 女 下 龍 舟。
凝 雲 鼓 震 星 辰 動,
拂 浪 旗 開 日 月 浮。
四 海 義 師 歸 有 道,
迷 樓 還 似 景 陽 樓。
許 渾 Quảng lăng hoa thịnh đế đông du, Tiên phách côn luân nhất phái lưu. Bách nhị cấm binh từ tượng khuyết, Tam thiên cung nữ há long chu. Ngưng vân cổ chấn tinh thần động, Phất lãng tinh khai nhật nguyệt phù. Giang hải nghĩa sư quy hữu đạo, Mê lâu hà dị cảnh dương lâu. Hứa-Hồn Dịch: Đình bên sông Biện-Hà Quảng-Lăng, vua đến xem hoa, Côn-Luân, trước phải tạo ra kinh rồi. Kinh, trăm lính cấm đã rời, Ba nghìn cung nữ xuống nơi thuyền rồng. Mây ngừng, trống dội, sao rung, Cờ bay chạm sóng, che cùng trời, trăng. Khắp sông biển, nghĩa quân tăng, Mê Lâu há chẳng sánh bằng Cảnh Dương?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.06.2022 17:19:38 bởi Anh Nguyên >
HÀM DƯƠNG THÀNH TÂY MÔN VÃN THIỀU 咸 陽 城 西 門 晚 眺
獨 上 高 城 萬 里 愁
蒹 荷 楊 柳 似 汀 洲
溪 雲 初 起 日 沈 閣
山 雨 欲 來 風 滿 樓
鳥 下 綠 蕪 秦 茆 夕
蟬 嗚 黃 葉 漢 宮 秋
行 人 莫 問 前 朝 事
渭 水 寒 聲 晝 夜 流
許 渾 Độc thướng cao thành vạn lý sầu, Kiêm hà dương liễu tự đinh châu. Khê vân sơ khởi nhật trầm các, Sơn vũ dục lai phong mãn lâu. Điểu há lục vu tần uyển tịch, Thiền minh hoàng diệp hán cung thu. Hành nhân mạc vấn tiền triều sự, Vị thủy hàn thanh trú dạ lưu. Hứa-Hồn Dịch: Cảnh chiều ở cửa tây thành Hàm-Dương Lên thành, vạn dặm mối sầu, Cỏ và dương liễu tận đầu bãi sông. Mặt trời xế, suối mây hồng, Núi, mưa đổ tới, gió lồng gác cao. Vườn Tần cỏ biếc chim vào, Lá vàng cung Hán nơi nào ve kêu. Chuyện trong triều trước đừng nêu, Ngày đêm, sông Vị sóng kêu lạnh lùng... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.06.2022 17:21:26 bởi Anh Nguyên >
THÔN XÁ 村 舍 自 翦 青 莎 織 雨 衣, 南 峰 煙 火 是 柴 扉。 萊 妻 早 起 蒸 藜 熟, 童 子 遙 迎 種 豆 歸。 魚 下 碧 潭 當 鏡 躍, 鳥 還 青 嶂 拂 屏 飛。 花 時 未 免 人 來 往, 欲 買 嚴 光 舊 釣 磯。 許 渾 Tự tiển xuân sa chức vũ y, Nam thôn yên hỏa thị sài phi. Sơn thê tảo khởi chưng lê thục, Đồng tử dao nghênh chủng đậu quy. Ngư há bích đàm đương kính dược, Điểu hoàn thanh chướng phất bình phi. Hoa thì vị miễn nhân lai vãng, Dục mãi nghiêm quang cựu điếu ki. Hứa-Hồn Dịch: Nhà trong xóm Lá sa, cắt bện áo tơi, Thôn Nam, khói, lửa ở nơi cửa rào. Canh lê vợ nấu hồi nào, Đón ta trồng đậu gò cao về rồi. Đáy đầm cá nhẩy gương trời, Chim bay đầu núi về nơi xanh rì. Mùa hoa kẻ đến người đi, Nghiêm-Quang, đá ấy ngại gì không mua... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.06.2022 17:27:19 bởi Anh Nguyên >
LY SƠN 驪 山
聞 說 先 皇 醉 碧 桃﹐
日 華 浮 動 鬱 金 袍。
風 隨 玉 輦 笙 歌 迥,
雲 捲 珠 簾 劍 佩 高。
鳳 駕 北 歸 山 寂 寂,
龍 輿 西 幸 水 淊 淊。
蛾 眉 沒 後 巡 遊 少,
瓦 落 空 牆 見 野 蒿。 許 渾 Văn thuyết tiên hoàng túy bich đào, Nhật hoa phù động uất kim bào. Phong tùy ngọc liễn sinh ca qušnh, Vân quyển châu liêm kiếm bội cao. Phụng giá bắc quy sơn tịch tịch, Long dư tây hạnh thủy thao thao. Nga mi một hậu tuần du thiểu, Ngõa lạc không tường kiến dã cao. Hứa-Hồn Dịch: Ly-Sơn Tiên-Hoàng say đắm Bích-Đào, Nắng lên lóng lánh áo bào đầy hoa. Gió theo xe ngọc, sênh ca, Rèm châu, mây cuốn, sáng lòa gươm treo. Xe loan về bắc vắng teo, Kiệu rồng tây tiến, nước reo ào ào. Mày ngài mất, ít đi sao, Ngói rơi, tường trống, cỏ cao phủ đầy... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.06.2022 20:41:36 bởi Anh Nguyên >
KHÂU VI
TẢ DỊCH LÊ HOA 左 掖 梨 花
冷 艷 全 欺 雪
餘 香 乍 入 衣
春 風 且 莫 定
吹 向 玉 階 飛
丘 為
Lãnh diệm toàn khi tuyết, Dư hương sạ nhập y. Xuân phong thả mạc định, Xuy hướng ngọc giai phi. Khâu-Vi Dịch: Hoa lê ở vườn Tả-Dịch Lạnh lùng, đẹp, tuyết coi thường, Mùi thơm phảng phất như vương áo quần. Và không định trước, gió Xuân, Thổi về thềm ngọc ở gần cung vua... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.06.2022 17:30:25 bởi Anh Nguyên >
ĐĂNG NHUẬN CHÂU THÀNH 登 潤 州 城
天 末 江 城 晚,
登 臨 客 望 迷.
春 湖 平 島 嶼,
殘 雨 隔 虹 蜺.
鳥 與 孤 帆 遠,
煙 和 獨 樹 低.
鄉 山 何 處 是,
目 斷 廣 陵 西. 丘 為 Thiên mạt giang thành vãn, Đăng lâm khách vọng mê. Xuân triều bình đảo dữ, Tàn vũ cách hồng nghê. Điểu dữ cô phàm viễn, Yên hòa độc thụ đê. Hương sơn hà xứ thị, Mục đoạn quảng lăng tê. Khâu-Vi Dịch: Lên thành Nhuận-Châu Cuối trời, thành ở bên sông, Lên lầu, khách mải mê trông cảnh chiều. Triều Xuân, cồn, đảo, cô liêu, Cầu vồng, mưa tạnh, nắng chiều, hiện ra. Chim cùng buồm lẻ xa xa, Tàng cây đơn lẻ nhạt nhòa khói sương. Nơi nào là núi quê hương? Quảng-Lăng xa tít dễ thường thấy đâu!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.05.2022 11:02:59 bởi Anh Nguyên >
TẦM TÂY SƠN ẨN GIA BẤT NGỘ 尋 西 山 隱 者 不 遇 絕 頂 一 茅 茨, 直 上 三 十 里。 扣 關 無 僮 僕, 窺 室 唯 案 幾。 若 非 巾 柴 車, 應 是 釣 秋 水。 差 池 不 相 見, 黽 勉 空 仰 止。 草 色 新 雨 中, 松 聲 晚 窗 裏。 及 茲 契 幽 絕, 自 足 蕩 心 耳。 雖 無 賓 主 意, 頗 得 清 淨 理。 興 盡 方 下 山, 何 必 待 之 子。 丘 為 Tuyệt đính nhất mao tì, Trực thướng tam thập lý. Khấu quan vô đồng bộc, Khuy thất duy án kỷ. Nhược phi cân sài xa, Ưng thị điếu thu thủy. Si trì bất tương kiến, Mẫn miễn không ngưỡng chỉ. Thảo sắc tân vũ trung, Tùng thanh vãn song lý. Cập tư khế u tuyệt, Tự túc đãng tâm nhĩ. Tuy vô tân chủ ý, Phả đắc thanh tĩnh lý. Hứng tận phương há sơn, Hà tất đãi chi tử. Khâu-Vi Dịch: Tìm ẩn sĩ ở Tây-Sơn Đỉnh cao ngất, một mái tranh, Thẳng ba chục dặm, đi nhanh một hồi. Cửa, kêu không trẻ trả lời, Ghé nhìn, bàn ghế không người, vắng tanh. Nếu không xe gỗ dạo quanh, Cũng đang câu cá bên gành nước sâu. Lỡ làng không gặp được nhau, Thì đành gắng gượng ngẩng đầu nhìn xa. Cỏ mầu tươi dưới mưa sa, Gió thông chiều thổi vào qua song nhà. Vắng, nhàn, thực hợp người ta, Tâm an, tai thoáng, thật là đủ thay. Khách chưa hỏi chủ ý này, Lẽ đời trong sạch hiểu ngay được rồi. Hứng tàn, xuống núi đi thôi, Cần chi phải đợi xa xôi ông về... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.05.2022 11:08:29 bởi Anh Nguyên >
LA ẨN
ĐÀO HOA 桃 花
暖 觸 衣 襟 漠 漠 香,
間 梅 遮 柳 不 勝 芳。
數 枝 豔 拂 文 君 酒,
半 裏 紅 欹 宋 玉 牆。
盡 日 無 人 疑 悵 望,
有 時 經 雨 乍 淒 涼。
舊 山 山 下 還 如 此,
回 首 東 風 一 斷 腸。 羅 隱 Noãn xúc y khâm mạc mạc hương, Gián mai già liễu bất thăng phương. Sổ chi diễm phú văn quân tửu, Bán lý hồng y tống ngọc tường. Tận nhật vô nhân nghi trướng vọng, Hữu thì khinh vũ sạ thê lương. Cựu sơn sơn hạ hoàn như thử, Hồi thủ đông phong nhất đoạn trường. La-Ẩn Dịch: Hoa đào Hương thơm thấm áo ấm êm, Ngăn mai, cản liễu, hương thêm ngạt ngào. Rượu Văn-Quân, phủ đẹp sao! Bên tường Tống-Ngọc, sắc đào hồng tươi! Suốt ngày vắng vẻ, ngóng người, Mưa rơi từng lúc, đầy trời thê lương. Ở chân núi cũ vẫn thường, Gió đông, ngoảnh lại xót thương đứt lòng... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.06.2022 20:51:03 bởi Anh Nguyên >
MAI HOA 梅 花
吳 王 醉 處 十 餘 里
照 夜 拂 衣 今 正 繁
經 雨 不 隨 山 鳥 散
倚 風 如 共 路 人 言
因 憐 粉 艷 飄 歌 席
特 愛 寒 香 撲 酒 樽
欲 寄 所 思 無 好 信
為 君 惆 悵 又 黃 昏 羅 隱 Ngô vương túy xứ thập dư lý, Chiếu dạ phất y kim chính phồn. Kinh vũ bất tùy sơn điểu tán, Ý phong như cộng lộ nhân ngôn. Nhân liên phấn diễm phiêu ca tịch, Đặc ái hàn hương phác tửu tôn. Dục ký sở tư vô hảo tín, Vị quân trù trướng hựu hoàng hôn. La-Ẩn Dịch: Hoa mai Vua Ngô mười dặm ngoài say, Đêm, hoa nở rộ níu ngay áo ngoài. Mưa, không tan tác, tươi hoài, Gió lay, như chuyện cùng ai bên đường. Phấn bay vào tiệc vì thương, Đụng vào chén rượu ưa hương lạnh này. Gửi niềm nhớ, chẳng tin hay, Vì ai buồn bã, chiều nay xuống rồi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.06.2022 17:41:33 bởi Anh Nguyên >
KHÚC GIANG XUÂN CẢM
曲 江 春 感
江 頭 日 煖 花 又 開
江 東 行 客 心 悠 哉
高 陽 酒 徒 半 凋 落
終 南 山 色 空 崔 嵬
聖 代 也 知 無 棄 物
侯 門 未 必 用 非 才
滿 般 明 月 一 竿 竹
家 在 五 湖 歸 去 來
羅 隱
Giang đầu nhật noãn hoa hựu khai, Giang đông hành khách tâm du tai. Cao dương tửu đồ bán điêu lạc, Chung nam sơn sắc không thôi ngôi. Thánh đại dã tri vô khí vật, Hầu môn vị tất dụng phi tài. Mãn thuyền minh nguyệt nhất can trúc, Gia tại ngũ hồ quy khứ lai. La-Ẩn Dịch: Xuân ở Khúc-Giang Đầu sông hoa nở, nắng êm, Về đông lòng khách càng thêm âu sầu. Cao-Dương, bạn rượu còn đâu, Chung-Nam, vẫn núi trên đầu ngất cao. Thánh triều chẳng bỏ bậc nào, Không tài chưa chắc được vào cửa quan. Trăng vàng, cần trúc, thuyền nan, Ngũ-Hồ, đi, lại, an nhàn mái tranh... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.06.2022 17:55:11 bởi Anh Nguyên >
LA NGHIỆP BỘC DỊCH PHA VÃN VỌNG 僕 射 陂 晚 望
離 人 到 此 倍 堪 傷,
陂 水 蘆 花 似 故 鄉.
身 事 未 知 何 日 了,
馬 蹄 惟 覺 到 秋 忙.
田 園 牢 落 東 歸 晚,
道 路 辛 勤 北 去 長.
卻 羡 無 愁 是 沙 鳥,
雙 雙 相 趁 入 斜 陽. 羅 鄴 Ly nhân đáo thử bội kham thương, Pha thủy lô hoa tự cố hương. Thân sự vị tri hà nhật liễu, Mã đề duy giác đáo thu mang. Điền viên lao lạc đông quy vãn, Đạo lộ tân cần bắc khứ trường. Khước tiện vô sầu thị sa điểu, Song song tương sấn nhập tà dương. La-Nghiệp Dịch: Chiều trên bờ đầm Bộc-Dịch Xa nhà, đau xót đến đây, Hoa lau, đầm nước, cảnh đầy giống quê. Thân này chưa biết ngày về, Vó câu, chỉ biết não nề Thu sang. Về đông, vườn ruộng muộn màng, Đường lên phía bắc muôn vàn xa xôi. Thảnh thơi, bãi cát chim chơi, Nắng chiều, từng cặp sóng đôi lưng trời... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.06.2022 17:58:50 bởi Anh Nguyên >
LẠC TÂN VƯƠNG TẠI NGỤC VỊNH THIỀN
在 獄 詠 蟬
西 陸 蟬 聲 唱,
南 冠 客 思 深。
不 堪 玄 鬢 影,
來 對 白 頭 吟。
露 重 飛 難 進,
風 多 響 易 沉。
無 人 信 高 潔,
誰 為 表 予 心。
駱 賓 王 Tây lục thiền thanh xướng, Nam quan khách tứ thâm. Bất kham huyền mấn ảnh Lai đối bạch đầu ngâm. Lộ trọng phi nan tiến, Phong đa hưởng dị trầm. Vô nhân tín cao khiết, Thùy vị biểu dư tâm. Lạc-Tân-Vương Dịch: Trong ngục vịnh ve sầu Mùa Thu vang tiếng ve kêu, Trong tù, khách nghĩ bao nhiêu chuyện đời. Cánh đen này há bỏ lơi, Tìm ông đầu bạc hiểu đời ngâm nga. Sương rơi nặng, khó bay xa, Gió nhiều, nên khiến âm ba dễ chìm. Thanh cao, trong sạch ai tin, Dãi bày tâm sự, biết tìm ai đây?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.05.2022 11:18:16 bởi Anh Nguyên >
DỊCH THUỶ TỐNG BIỆT 易 水 送 別
此 地 別 燕 丹,
壯 士 髮 衝 冠。
昔 時 人 已 沒,
今 日 水 猶 寒。
駱 賓 王 Thử địa biệt yên đan, Tráng sĩ phát xung quan. Tích thì nhân dĩ một, Kim nhật thủy do hàn. Lạc-Tân-Vương Dịch: Tiễn đưa trên sông Dịch Đất này giã cậu hoàng Yên, Tóc người tráng sĩ dựng trên mái đầu. Người xưa khuất bóng đã lâu, Ngày nay còn thấy nước sâu lạnh lùng. Ngô-Tất-Tố Chốn này từ biệt, Yên-Đan, Tóc người chiến sĩ can tràng dựng lên, Thời xưa, người đã nằm yên, Ngày nay, nước chảy triền miên lạnh lùng... Nơi này, biệt Thái-tử Yên, Tóc người tráng sĩ dựng lên, căm thù. Người xưa chết đã ngàn thu, Nay nhìn dòng nước còn như lạnh lùng... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.05.2022 11:19:29 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: