Đường Thi Trích Dịch IV - Anh Nguyên
LÂU DĨNH TÂY THI THẠCH
西 施 石
西 施 昔 日 洗 紗 津
石 上 青 苔 思 殺 人
一 去 姑 蘇 不 復 返
岸 旁 棑 李 為 誰 春
樓 穎 Tây thi tích nhật tẩy sa tân, Thạch thượng thanh đài tứ sát nhân. Nhất khứ cô tô bất phục phản, Ngạn bàng đào lý vị thùy xuân. Lâu-Dĩnh Dịch: Đá Tây-Thi Tây-Thi xưa giặt bến này, Rêu xanh mặt đá, người nay não nề. Cô-Tô, đã đến, chẳng về, Vì ai, đào lý tràn trề nét Xuân?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.05.2022 11:20:49 bởi Anh Nguyên >
LỆNH HỒ SỞ TƯ QUÂN ÂN 思 君 恩 小 苑 鶯 歌 歇, 長 門 蝶 舞 多。 眼 看 春 又 去, 翠 輦 不 曾 過。 令 狐 楚 Tiểu uyển oanh ca yết, Trường môn điệp vũ đa. Nhãn khan xuân hựu khứ, Thúy liễn bất tằng qua. Lệnh-Hồ-Sở Dịch: Mong ơn vua Tiếng oanh, Tiểu-Uyển, ngừng rồi, Trường-Môn, cung cấm rợp trời bướm bay. Mắt nhìn, Xuân lại qua ngay, Mà xe vua vẫn nơi này chưa qua!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.05.2022 11:22:12 bởi Anh Nguyên >
TÒNG QUÂN HÀNH 從 军 行
朔 風 惊 里 驚
漢 月 五 更 青
縱 有 還 家 夢
猶 聞 出 塞 聲
令 狐 楚
Sóc phong thiên lý kinh, Hán nguyệt ngũ canh thanh. Túng hữu hoàn gia mộng, Do văn xuất tái thanh. Lệnh-Hồ-Sở Dịch: Tòng quân Gió nghìn dặm bắc ào ào, Năm canh, trăng Hán vẫn cao lưng trời. Mộng về nhà, ví được rồi, Lại nghe tiếng giục ra nơi ải đầu... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.06.2022 19:37:44 bởi Anh Nguyên >
LIỄU TÔNG NGUYÊN GIANG TUYẾT
江 雪
千 山 鳥 飛 絕,
萬 徑 人 蹤 滅。
孤 舟 簑 笠 翁,
獨 釣 寒 江 雪。
柳 宗 元
Thiên sơn điểu phi tuyệt, Vạn kính nhân tung diệt. Cô chu toa lạp ông, Độc điếu hàn giang tuyết. Liễu-Tông-Nguyên Dịch: Sông tuyết Đường chim dẫy núi chắn rồi, Cả muôn nghin lối dấu người cũng không. Áo tơi, nón lá, ngư ông, Một mình câu tuyết trên dòng Hàn-Giang. Đỗ-Bằng-Đoàn & Bùi-Khánh-Đản Nghìn non, vắng bóng chim rồi, Đường đi vạn nẻo, bóng người cũng không. Thuyền con, tơi, nón, một ông, Một mình câu cá trên sông tuyết đầy!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.05.2022 19:28:09 bởi Anh Nguyên >
TẠ HẠO SƠ THƯỢNG NHÂN DỤC ĐĂNG TIÊN NHÂN SƠN 謝 浩 初 上 人 欲 登 仙 人 山
珠 樹 玲 瓏 隔 翠 微
病 來 方 外 事 多 違
仙 山 不 屬 分 符 客
一 任 凌 空 錫 杖 飛
柳 宗 元
Châu thụ linh lung cách thúy vi, Bệnh lai phương ngoại sự đa vi. Tiên sơn bất thuộc phân phù khách, Nhất nhiệm lăng không tích trượng phi. Liễu-Tông-Nguyên Dịch: Chối từ sư Hạo-Sơ mời lên chơi núi Tiên-Nhân Cây châu xa cách núi xanh, Việc ngoài, đau ốm thôi đành trái nhau. Non tiên, giới hoạn quen đâu, Cõi không, tích trượng phép mầu cứ bay... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.05.2022 19:29:15 bởi Anh Nguyên >
DỮ HẠO SƠ THƯỢNG NHÂN ĐỒNG KHÁN SƠN 與 浩 初 上 人 同 看 山
海 畔 尖 山 似 劍 芒
秋 來 處 處 割 愁 腸
若 為 化 作 身 千 億
散 向 峰 頭 望 故 鄉 柳 宗 元 Hải bạn tiêm sơn tự kiếm mang, Thu lai xứ xứ cát sầu trường. Nhược vi hóa đắc thân thiên ức, Tán tác phong đầu vọng cố hương. Liễu-Tông-Nguyên Dịch: Đi xem núi với sư Hạo-Sơ Bên bờ biển, núi như gươm, Thu về, chốn chốn buồn thương đứt lòng. Ức nghìn thân, ví hóa xong, Khắp trên đầu núi, đứng trông quê nhà... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.05.2022 19:30:04 bởi Anh Nguyên >
KHÊ CƯ 溪 居
久 為 簪 組 累
幸 此 南 夷 謫
閑 依 農 圃 鄰
偶 似 山 林 客
曉 耕 翻 露 草
夜 榜 響 溪 石
來 往 不 逢 人
長 歌 楚 山 碧
柳 宗 元
Cửu vi trâm tổ thúc, Hạnh thử nam di trích. Nhàn y nông phố lân, Ngẫu tự sơn lâm khách. Hiểu canh phiên lộ thảo, Dạ bảng hưởng khê thạch. Lai vãng bất phùng nhân, Trường ca sở sơn bích. Liễu-Tông-Nguyên Dịch: Ở nơi khe núi Mũ quan ràng buộc từ lâu, Cõi nam mọi rợ, may đâu được đày. Láng giềng làm ruộng xưa nay, Núi rừng, như khách, nơi này náu nương. Sớm, cày đám cỏ ướt sương, Đêm về, khe đá thuyền thường chèo ra, Đi về chẳng gặp ai qua, Núi xanh đất Sở hát ca vang lừng... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.05.2022 19:31:30 bởi Anh Nguyên >
ĐĂNG LIỄU CHÂU THÀNH LÂU 登 柳 州 城 樓 寄 漳 汀 封 連 四 州 刺 史
城 上 高 樓 接 大 荒
海 天 愁 思 正 茫 茫
驚 風 亂 颭 芙 蓉 水
密 雨 斜 侵 薜 荔 牆
嶺 樹 重 遮 千 里 目
江 流 曲 似 九 迴 腸
共 來 百 越 文 身 地
猶 是 音 書 滯 一 方 柳 宗 元 Thành thượng cao lâu tiếp đại hoang, Hải thiên sầu tứ chính mang mang. Khinh phong loạn chiểm phù dung thủy, Mật vũ tà xâm bệ lệ tường. Lĩnh thụ trùng già thiên lý mục, Giang lưu khúc tự cửu hồi trường. Cộng lai bách việt văn thân địa, Do thị âm thư trệ nhất phương. Liễu-Tông-Nguyên Dịch: Lên lầu thành Liễu-Châu Lầu cao tiếp đất mờ xa, Lòng buồn, trời biển bao la mịt mờ. Phù dung, gió thổi dật dờ, Mưa dầy trút xuống trên bờ tường rêu. Núi, cây, chặn chẳng thấy nhiều, Sông quanh chín khúc tiêu điều êm xuôi. Đến miền Bách-Việt vẽ người, Thư từ chậm trễ ở nơi nào rồi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.06.2022 19:49:32 bởi Anh Nguyên >
THẦN CHỈ SIÊU SƯ VIỆN ĐỘC THIỀN KINH 晨 謁 超 師 院 讀 禪 經
汲 井 漱 寒 齒, 清 心 拂 塵 服.
閒 持 貝 葉 書, 步 出 東 齋 讀.
真 源 了 無 取, 妄 跡 世 所 逐.
遺 言 冀 可 冥, 繕 性 何 由 熟.
道 人 庭 宇 淨, 苔 色 連 深 竹.
日 出 霧 露 餘, 青 松 如 膏 沐.
澹 然 離 言 說, 悟 悅 心 自 足. 柳 宗 元 Cấp tỉnh thấu hàn sỉ, Thanh tâm phất trần phục. Nhàn trì bối diệp thư, Bộ xuất đông trai độc. Chân nguyên liễu vô thủ, Vọng tích thế sở trục. Di ngôn ký khả minh, Thiện tính hà do thục. Đạo nhân đình vũ tĩnh, Đài sắc liên thâm trúc. Nhật xuất vụ lộ dư, Thanh tùng như cao mộc. Đạm nhiên ly ngôn thuyết, Ngộ duyệt tâm tự túc. Liễu-Tông-Nguyên Dịch: Sáng sớm đọc sách thiền ở viện Siêu-Sư Nước nơi giếng, súc buốt răng, Giữ lòng trong sạch, rũ phăng áo trẩn. Sách kinh lá bối, mở lần, Ra nơi phòng sách, đọc dần dần thôi. Nguồn chân chẳng giữ, người đời, Chỉ theo mê hoặc ở nơi cõi trần. Lời xưa để lại thâm trầm, Nếu không rèn luyện thiện tâm kể gì? Sân nhà đạo sĩ vắng đi, Mầu rêu lẫn với xanh rì mầu tre. Sương còn, mặt nhật đỏ hoe, Hàng thông xanh biếc như khoe thoa dầu. Lặng im chẳng nói một câu, Nơi lòng tự biết phép mầu, đủ vui... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.06.2022 19:52:56 bởi Anh Nguyên >
NGƯ ÔNG
漁 翁
漁 翁 夜 傍 西 巖 宿,
曉 汲 清 湘 燃 楚 燭。
煙 銷 日 出 不 見 人,
欸 乃 一 聲 山 水 綠。
迴 看 天 際 下 中 流,
巖 上 無 心 雲 相 逐。
柳 宗 元 Ngư ông dạ bạng tây nham túc, Hiểu cấp thanh tương nhiên sở trúc. Yên tiêu nhật xuất bất kiến nhân, Ái nãi nhất thanh sơn thủy lục. Hồi khan thiên tế há trung lưu, Nham thượng vô tâm vân tương trục. Liễu-Tông-Nguyên Dịch: Ông chài Ông chài ngủ phía núi tây, Nước Tương, tre Sở, đun ngay sớm rồi. Sương tan, trời mọc, vắng người, Nước non xanh biếc, cất lời hò khoan. Bầu trời in nước trường giang, Hững hờ, trên núi mây ngàn đuổi nhau... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.05.2022 19:36:16 bởi Anh Nguyên >
BIỆT XÁ ĐỆ TÔNG NHẤT 別 舍 弟 宗 一
零 落 殘 魂 倍 黯 然,
雙 垂 別 淚 越 江 邊.
一 身 去 國 六 千 里,
萬 死 投 荒 十 二 年.
桂 領 瘴 來 雲 似 墨,
洞 庭 春 盡 水 如 灰.
欲 知 此 後 相 思 夢,
長 在 荊 門 郢 樹 煙. 柳 宗 元 Linh lạc tàn hồn bội ảm nhiên, Song thùy biệt lệ việt giang biên. Nhất thân khứ quốc lục thiên lý, Vạn tử đầu hoang thập nhị niên. Quế lĩnh chướng lai vân tự mặc, Động đình xuân tận thủy như hiên. Dục tri thử hậu tương tư mộng, Trường tại kinh môn sính thụ yên. Liễu-Tông-Nguyên Dịch: Từ biệt em Hồn tàn trôi nổi buồn thêm, Chia ly sông Việt, đôi bên lệ trào. Sáu nghìn dặm cách, buồn sao! Mười hai năm, tưởng chết nào sống đâu? Mây mù Quế-Lĩnh đen mầu, Động-Đình Xuân hết, nước hầu như tro. Nhớ nhau trong giấc mộng mơ, Kinh-Môn và Sính, khói mờ ngọn cây... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.05.2022 19:37:05 bởi Anh Nguyên >
LIỄU TRUNG DUNG CHINH NHÂN OÁN 征 人 怨
歲 歲 金 河 復 玉 關
朝 朝 馬 策 與 刀 環
三 春 白 雪 歸 青 冢
萬 里 黃 河 繞 黑 山 柳 中 庸 Tuế tuế kim hà phục ngọc quan, Triêu triêu mã sách dữ đao hoàn. Tam xuân bạch tuyết quy thanh trũng, Vạn lý hoàng hà nhiễu hắc san. Liễu-Trung-Dung Dịch: Nỗi oán của chinh nhân Năm năm ải Ngọc, sông Kim, Ngày ngày roi ngựa lại thêm gươm đàn. Mộ Xuân ba tháng tuyết tràn, Hoàng-Hà vạn dặm, Hắc-San, chảy vòng... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.05.2022 19:37:52 bởi Anh Nguyên >
LINH NHẤT
HẠNG VƯƠNG MIẾU 項 王 廟
緬 想 咸 陽 事 可 嗟
楚 歌 哀 怨 思 無 涯
八 千 弟 子 歸 何 處
萬 里 鴻 溝 屬 漢 家
弓 斷 陣 前 爭 日 月
血 流 垓 下 定 龍 蛇
拔 山 力 盡 烏 江 水
今 古 悠 悠 空 浪 花
靈 一 Miến tưởng hàm dương sự khả ta, Sở ca ai oán tứ vô nha. Bát thiên đệ tử quy hà xứ, Vạn lý hồng câu thuộc hán gia. Cung đoạn trận tiền tranh nhật nguyệt, Huyết lưu cai hạ định long xà. Bạt sơn lực tận ô giang thủy, Kim cổ du du không lãng hoa. Linh-Nhất Dịch: Miếu Hạng-Vương Chuyện Hàm-Dương đáng thở than, Tiếng ca Sở vẫn đầy tràn thương đau. Tám nghìn đệ tử về đâu, Hán gia, muôn dặm Hồng-Câu thuộc rồi. Mệnh trời, cung gẫy tên rơi, Máu tuôn Cai-Hạ, định ngôi rắn rồng. Ô-Giang, sức đã tận cùng, Xưa nay, hoa sóng chập chùng nối nhau... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.06.2022 21:08:02 bởi Anh Nguyên >
LÝ BẠCH
THU PHỐ CA
秋 浦 歌
白 髮 三 千 丈
離 愁 似 個 長
不 知 明 鏡 裏
何 處 得 秋 霜
李 白 Bạch phát tam thiên trượng, Ly sầu tự cá trường. Bất tri minh kính lý, Hà xứ đắc thu sương. Lý-Bạch Dịch: Bài ca bến Thu Tóc trắng ba nghìn trượng, Sầu này dài bấy nhiêu. Không biết trong gương sáng, Được sương thu nơi nào? Trần-Trọng-San Ba nghìn trượng tóc bạc dài, Mối sầu ly biệt cùng ai cũng bằng. Trong gương sáng, chẳng biết rằng: Sương Thu lọt được vào trong, nơi nào?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.06.2022 21:09:58 bởi Anh Nguyên >
ĐỘC TỌA KÍNH ĐÌNH SƠN
獨 坐 敬 亭 山
眾 鳥 高 飛 盡。
孤 云 獨 去 閑。
相 看 兩 不 厭。
只 有 敬 亭 山。 李 白
Chúng điểu cao phi tận, Cô vân độc khứ nhàn. Tương khan lưỡng bất yếm, Duy hữu kính đình sơn. Lý-Bạch Dịch: Ngồi một mình trên núi Kính-Đình Đàn chim thăm thẳm cao bay, Giữa trời lơ lửng đám mây đi mình. Trông nhau ra vẻ hữu tình, Có chăng hòn núi Kính-Đình với ta... Ngô-Tất-Tố Đàn chim bay hết cả rồi, Chòm mây lững thững chân trời trôi đi. Nhìn nhau chẳng thấy chán gì, Kính-Đình, ngắm mãi, có chi thú bằng!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.05.2022 19:41:34 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 7 bạn đọc.
Kiểu: