Đường Thi Trích Dịch V - Anh Nguyên
LƯ ĐỒNG
HỮU SỞ TƯ 有 所 思
當 時 我 醉 美 人 家,
美 人 顏 色 嬌 如 花。
今 日 美 人 棄 我 去,
青 樓 珠 箔 天 之 涯。
天 涯 娟 娟 常 娥 月,
三 五 二 八 盈 又 缺。
翠 眉 蟬 鬢 生 別 離,
一 望 不 見 心 斷 絕。
心 斷 絕 幾 千 裡。
夢 中 醉 臥 巫 山 雲,
覺 來 淚 滴 湘 江 水。
湘 江 兩 岸 花 木 深,
美 人 不 見 愁 人 心。
含 愁 更 奏 綠 綺 琴,
調 高 弦 絕 無 知 音。
美 人 兮 美 人,
不 知 為 暮 雨 兮 為 朝 雲。
相 思 一 夜 梅 花 發,
忽 到 窗 前 疑 是 君。
盧 仝 Đương thì ngã túy mỹ nhân gia, Mỹ nhân nhan sắc kiều như hoa. Kim nhật mỹ nhân khí ngã khứ, Thanh lâu châu bạc thiên chi nha. Quyên quyên thường nga nguyệt, Tam ngũ nhị bát doanh hựu khuyết. Thúy mi thiền phát sinh biệt ly, Nhất vọng bất kiến tâm đoạn tuyệt. Tâm đoạn tuyệt kỷ thiên lý, Mộng trung túy ngọa vu sơn vân. Giác lai lệ trích tương giang thủy, Tương giang lưỡng ngạn hoa mộc thâm. Mỹ nhân bất kiến sầu nhân tâm, Hàm sầu cánh tấu lục ỷ cầm. Điệu cao huyền tuyệt vô tri âm, Mỹ nhân hề mỹ nhân! Bất tri vi mộ vũ hề vi triêu vân. Tương tư nhất dạ mai hoa phát, Hốt đáo song tiền nghi thị quân. Lư-Đồng Dịch: Nhớ ai Ở nhà người đẹp, ta say, Người sao xinh quá, mặt mày như hoa. Bỏ ta, người đẹp đi xa, Chân trời, lầu biếc, thật là xa xôi. Bóng Hằng-Nga lững lờ trôi, Mười lăm, mười sáu, đầy rồi lại vơi. Tóc xanh, mày biếc, khuất rồi, Ngóng trông chẳng thấy, đứng ngồi lòng đau. Xót ngàn dặm chẳng thấy nhau, Mơ say nằm ở mây đầu Vu-Sơn. Tỉnh ra, lệ nhỏ dòng Tương, Sông Tương, cây cối hoa vương đôi bờ. Buồn thay, người đẹp mãi chờ Ngậm sầu, gượng gẩy thẫn thờ một chương. Tiếng đàn Lục-ý sầu vương, Điệu cao, dây đứt, ai thường tri âm! Mỹ nhân, hừ...lại mỹ nhân! Mưa chiều mây sớm, hừ...cần hay chi. Nhớ, nhìn mai nở đêm khuya, Trước song vội đến, cứ nghi ai về... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 11:30:17 bởi Anh Nguyên >
LƯ LUÂN
TỐNG LÝ ĐOAN 送 李 端
故 關 衰 草 遍
離 別 正 堪 悲
路 出 寒 雲 外
人 歸 暮 雪 時
少 孤 為 客 早
多 難 識 君 遲
掩 泣 空 相 向
風 塵 何 所 期
盧 綸 Cố quan suy thảo biến, Ly biệt chính kham bi. Lộ xuất hàn vân ngoại, Nhân quy mộ tuyết thì. Thiếu cô vi khách tảo, Đa nạn thức quân trì. Yểm khấp không tương hướng, Phong trần hà sở kỳ. Lư-Luân Dịch: Tiễn Lý-Đoan Cỏ tàn khắp cửa ải xưa, Biệt ly, cảnh ấy ai chưa từng buồn. Đường đi, mây lạnh giăng buông, Người về, chiều xuống, tuyết đương đổ nhiều. Mồ côi từ nhỏ, bạt phiêu, Nạn nhiều, chẳng biết những điều về ông. Nhìn nhau, thổn thức trong lòng, Trong cơn gió bụi còn mong hẹn gì!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 11:33:05 bởi Anh Nguyên >
TRƯỜNG AN XUÂN VỌNG
長 安 春 望
東 風 吹 雨 過 青 山
卻 望 千 門 草 色 閒
家 在 夢 中 何 日 到
春 來 江 上 幾 人 還
川 原 繚 繞 浮 雲 外
宮 闕 參 差 落 照 間
誰 念 為 儒 逢 世 難
獨 將 衰 鬢 客 秦 門 盧 綸 Đông phong xuy vũ quá thanh san, Khước vọng thiên môn thảo sắc nhàn. Gia tại mộng trung hà nhật đáo, Xuân lai giang thượng kỷ nhân hoàn. Xuyên nguyên liệu nhiễu phù vân ngoại, Cung khuyết sâm si lạc chiếu gian. Thùy niệm vi nho phùng thế nạn, Độc tương suy mấn khách tần quan. Lư-Luân Dịch: Ngắm cảnh Xuân ở Trường-An Núi xanh, gió thổi mưa qua, Kinh thành nghìn cửa, cỏ hoa yên lành. Ngày nào nhà mộng mới thành, Trên sông, Xuân tới an lành, về... ai? Đồng, sông uốn khúc, mây bay, Nhấp nhô cung điện đứng say nắng tàn. Nhà Nho, ai nghĩ gian nan, Một mình làm khách Tần-Quan tóc cằn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 11:34:14 bởi Anh Nguyên >
VĂN THỨ NGẠC CHÂU
晚 次 鄂 州
雲 開 遠 見 漢 陽 城,
猶 是 孤 帆 一 日 程。
估 客 晝 眠 知 浪 靜,
舟 人 夜 語 覺 潮 生。
三 湘 愁 鬢 逢 秋 色,
萬 里 歸 心 對 月 明。
舊 業 已 隨 征 戰 盡,
更 堪 江 上 鼓 鼙 聲。 盧 綸
Vân khai viễn kiến hán dương thành, Do thị cô phàm nhất nhật trình Cô khách trú miên tri lãng tĩnh, Chu nhân dạ ngữ giác triều sinh. Tam tương sầu mấn phùng thu sắc, Vạn lý quy tâm đối nguyệt minh. Cựu nghiệp dĩ tùy chinh chiến tận, Cánh kham giang thượng cổ bề thanh. Lư-Luân Dịch: Chiều đến Ngạc-Châu Mây quang nhìn được Hán-Dương, Buồm đơn chỉ một ngày đường tới ngay. Khách buôn, sóng lặng ngủ ngày, Người trên thuyền nói, biết nay nước triều. Tam-Tương, Thu, tóc sầu khêu, Sáng trăng vạn dặm, gợi nhiều tình quê. Chiến tranh, sự nghiệp còn chi, Lại nghe trống trận vọng về trên sông... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.06.2022 13:00:55 bởi Anh Nguyên >
LƯƠNG-HOÀNG DIỄM NỮ TỪ 艳 女 词
露 井 桃 花 發
双 双 燕 静 飛
美 人 姿 态 里
春 色 上 罗 衣
自 爱 频 窥 镜
时 羞 欲 掩 扉
不 知 行 路 客
遥 惹 五 香 歸
梁 簧 Lộ tỉnh đào hoa phát, Song song yến tịnh phi. Mỹ nhân tư thái lý, Xuân sắc thướng la y. Tự ái tần khuy kính, Thì tu dục yểm phi. Bất tri hành lộ khách, Dao nhạ ngũ hương quy. Lương-Hoàng Dịch: Cô gái đẹp Sương, đào bên giếng nở hoa, Song song, đôi én bay hòa cùng nhau. Mỹ nhân tha thướt rèm châu, Thân mang áo lụa vương mầu sắc Xuân. Soi gương ngắm nghía mấy lần, Bỗng dưng e thẹn khép dần cửa song. Trên đường, mặc khách ruổi rong, Xa, mùi son phấn còn mong đem về... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 11:40:11 bởi Anh Nguyên >
LƯU-ĐÌNH-KỲ ĐỒNG TƯỚC ĐÀI 銅 雀 臺
銅 臺 宮 觀 委 灰 塵
魏 主 園 林 漳 水 津
即 今 西 望 猶 堪 思
況 復 當 時 歌 舞 人
劉 庭 琦 Đồng đài cung quán ủy hôi trần, Ngụy chủ viên lâm chương thủy tân. Tức kim tây vọng do kham tứ, Huống phục đương thì ca vũ nhân. Lưu-Đình-Kỳ Dịch: Đài Đồng-Tước Đồng Tước, đài bụi phủ đầy, Vườn, rừng, vua Ngụy bên này sông Chương. Nay trông còn thấy xót thương, Huống người ca múa thời đương bấy giờ... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 11:42:09 bởi Anh Nguyên >
LƯU-HY-DI BẠCH ĐẦU ÔNG VỊNH 白 頭 翁 詠
洛 陽 城 東 桃 李 花,
飛 來 飛 去 落 誰 家。
洛 陽 兒 女 好 顏 色,
行 逢 落 花 長 嘆 息。
今 年 花 落 顏 色 改,
明 年 花 開 復 誰 在。
已 見 鬆 柏 摧 為 薪,
更 聞 桑 田 變 成 海。
古 人 無 復 洛 城 東,
今 人 還 對 落 花 風。
年 年 歲 歲 花 相 似,
歲 歲 年 年 人 不 同。
寄 言 全 盛 紅 顏 子,
應 憐 半 死 白 頭 翁。
此 翁 白 頭 真 可 憐,
伊 昔 紅 顏 美 少 年。
公 子 王 孫 芳 樹 下,
清 歌 妙 舞 落 花 前。
光 祿 池 台 開 錦 繡,
將 軍 樓 閣 畫 神 仙。
一 朝 臥 病 無 相 識,
三 春 行 樂 在 誰 邊。
婉 轉 蛾 眉 能 幾 時,
須 臾 鶴 發 亂 如 絲。
但 看 古 來 歌 舞 地, 劉 希 夷
Lạc dương thành đông đào lý hoa, Phi lai phi khứ lạc thùy gia. Lạc dương nữ nhi hảo nhan sắc, Hành phùng lạc hoa trường thán tức. Kim niên hoa lạc nhan sắc cải, Minh niên hoa khai phục thùy tại. Đản kiến tùng bách tồi vi vân, Cánh văn tang điền biến thành hải. Cổ nhân vô phục lạc thành đông, Kim nhân hoàn đối lạc hoa phong. Niên niên tuế tuế hoa tương tự, Tuế tuế niên niên nhân bất đồng. Ký ngôn toàn thịnh hồng nhan tử, Tu liên bán tử bạch đầu ông. Thử ông bạch đầu chân khả liên, Y tích hồng nhan mỹ thiếu niên. Công tử vương tôn phương thụ hạ, Thanh ca diệu vũ lạc hoa tiền. Quang lộc trì đài giao cẩm tú, Tướng công lâu các họa thần tiên. Nhất triêu ngọa bệnh vô tương thức, Tam xuân hành lạc tại thùy biên. Uyển chuyển nga my năng kỷ thì, Tu du hạc phát loạn như ty. Đản khán cổ lai ca vũ địa, Duy hữu hoàng hôn điểu tước phi. Lưu-Hy-Di Dịch: Vịnh ông đầu bạc Lạc-Dương, đào, mận đầy hoa, Bay qua bay lại, rơi nhà ai đây. Lạc-Dương, gái đẹp cũng đầy, Gặp hoa rơi rụng, đêm ngày thở than. Năm nay, sắc đổi, hoa tàn, Sang năm hoa nở, lại đang nơi nào? Bách, tùng, thành đống củi cao, Ruộng dâu hóa biển lúc nào ai hay! Người xưa không lại thành này, Người nay đứng ngó gió lay hoa tàn. Năm năm hoa thắm trên dàn, Năm nay người khác dung nhan năm rồi. Nhắn ai nhan sắc đương thời, Thương ông đầu bạc sắp rời cõi dương. Nghĩ ông quả thật đáng thương, Xưa kia tuấn tú dễ thường kém ai. Con quan, cháu chúa, chẳng sai, Hát trong, múa dẻo, trước đài hoa tung. Đài ao, gấm vóc xen lồng, Tướng công, lầu gác vẽ rồng, thần, tiên. Sớm kia mắc bệnh, người quên, Vui Xuân ba tháng, ai bên bây giờ! Mày ngài mềm mại bơ thờ, Tóc xanh bỗng chốc như tơ rối nhầu. Những nơi múa hát, từ lâu, Chỉ còn chim lượn trong mầu hoàng hôn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.06.2022 13:10:51 bởi Anh Nguyên >
LƯU-PHƯƠNG-BÌNH XUÂN OÁN 春 怨
紗 窗 日 落 漸 黃 昏,
金 屋 無 人 見 淚 痕。
寂 寞 空 庭 春 欲 晚,
梨 花 滿 地 不 開 門。 劉 方 平 Sa song nhật lạc tiệm hoàng hôn, Kim ốc vô nhân kiến lệ ngân. Tịch mịch không đình xuân dục vãn, Lê hoa mãn địa bất khai môn. Lưu-Phương-Bình Dịch: Oán hận trong ngày Xuân Song sa lần xế bóng dâu, Nhà vàng ai thấy giọt sầu thấm khăn. Sân không vắng vẻ tàn xuân, Hoa lê đầy đất, mấy lần cửa sâu. Khuyết danh Song the, trời ngả chiều dần, Nhà vàng, ai thấy lệ gần tràn mi! Trước sân, lặng lẽ Xuân đi, Hoa lê đầy đất, cổng thì rêu phong... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 11:48:38 bởi Anh Nguyên >
NGUYỆT DẠ
月 夜
更 深 月 色 半 人 家
北 斗 闌 干 南 斗 鈄
今 夜 偏 知 春 氣 暖
蟲 聲 新 透 綠 窗 紗
劉 方 平 Canh thâm nguyệt sắc bán nhân gia, Bắc đẩu lan can nam đẩu tà. Kim dạ biến tri xuân khí noãn, Trùng thanh tân thấu lục song sa. Lưu-Phương-Bình Dịch: Đêm trăng Nửa nhà trăng sáng rọi vào, Ngang hiên: Bắc-đẩu, Nam-tào: xế nam. Khí Xuân mát mẻ tràn lan, Tiếng trùng vọng đến qua màn song xanh... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 11:49:27 bởi Anh Nguyên >
LƯU THẬN HƯ (LƯU TÍCH HƯ) KHUYẾT ĐỀ
缺 題
道 由 白 雲 盡
春 與 清 溪 長
時 有 落 花 至
遠 隨 流 水 香
閑 門 向 山 路
深 柳 讀 書 堂
幽 映 每 白 日
清 煇 照 衣 裳 劉 脊 虛 Đạo do bạch vân tận, Xuân dữ thanh khê trường. Thời hữu lạc hoa chí, Viễn tùy lưu thủy hương. Nhàn môn hướng sơn lộ, Thâm liễu độc thư đường. U ánh mỗi bạch nhật, Thanh huy chiếu y thường. Lưu-Thận-Hư Dịch: Thiếu đề Đường đi mây trắng bít rồi, Suối trong cùng với Xuân tươi còn dài. Hoa rơi chốc chốc rơi hoài, Trôi theo dòng suối vì ai thơm nồng. Cửa nhàn đường núi xa trông, Căn phòng đọc sách, dày thông khó tìm. Chốn thâm u, mặt trời lên, Ánh dương lọt vách in trên áo người... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.06.2022 13:17:45 bởi Anh Nguyên >
LƯU-THƯƠNG HÀM DƯƠNG HOÀI CỔ
咸 陽 懷 古
經 過 此 地 無 窮 事
一 望 深 秋 感 廢 興
渭 水 故 都 秦 二 世
咸 陽 衰 草 漢 諸 陵
天 空 絕 塞 聞 邊 雁
葉 盡 孤 村 見 水 燈
風 景 蒼 蒼 多 少 恨
寒 山 高 出 白 雲 層
劉 滄 Kinh qua thử địa vô cùng sự, Nhất vọng thâm thu cảm phế hưng. Vị thủy cố đô tần nhị thế, Hàm dương suy thảo hán chư lăng. Thiên không tuyệt tái văn biên nhạn, Diệp tận cô thôn kiến thủy đăng. Phong cảnh thương thương đa thiểu hận, Hàn sơn cao xuất bạch vân tằng. Lưu-Thương Dịch: Nhớ chuyện xưa ở Hàm-Dương Nơi đây nhiều chuyện sảy ra, Phế hưng, Thu đến, thấy mà cảm thương. Kinh đô Vị-Thủy, Tần vương, Lăng vua Hán ở Hàm-Dương, cỏ đầy. Ải cao biên giới, nhạn bay, Đèn chài xóm vắng, cây bày trơ xương. Cảnh nhìn, oán hận còn vương, Núi cao vượt khỏi mây đương phủ đầy... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 11:52:22 bởi Anh Nguyên >
LƯU TRƯỜNG KHANH ĐÀN CẦM
彈 琴
泠 泠 七 絃 上,
靜 聽 松 風 寒。
古 調 雖 自 愛,
今 人 多 不 彈。
劉 長 卿 Lãnh lãnh thất huyền thượng, Tĩnh thính tùng phong hàn. Cổ điệu tuy tự ái, Kim nhân đa bất đàn. Lưu-Trường-Khanh Dịch: Gẩy đàn Trên đàn thánh thót bẩy dây, ‘‘Gió thông lạnh lẽo’’, khúc này lắng nghe. Điệu xưa ta vẫn say mê, Người nay, phần lớn lại chê, không đàn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.06.2022 13:20:13 bởi Anh Nguyên >
TỐNG THƯỢNG NHÂN 送 上 人 孤 雲 將 野 鶴, 豈 向 人 間 住。 莫 買 沃 洲 山, 時 人 已 知 處。 劉 長 卿 Cô vân tương dã hạc, Khởi hướng nhân gian trú. Mạc mại ốc châu sơn, Thì nhân dĩ tri xứ. Lưu-Trường-Khanh Dịch: Tiễn đưa Thượng nhân Mây côi cùng hạc đồng quê, Cõi người há lại trở về ở sao? Chớ mua núi Ốc-Châu vào, Nơi này, người đã biết bao lâu rồi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 16:38:10 bởi Anh Nguyên >
TÚC PHÙ DUNG QUÁN CHỦ NHÂN 宿 芙 蓉 館 主 人
日 暮 苍 山 远,
天 寒 白 屋 贫。
柴 門 闻 犬 吠,
風 雪 夜 歸 人。 刘 長 卿 Túc Phù-Dung quán chủ nhân Nhật mộ thương sơn viễn, Thiên hàn bạch ốc bần. Sài môn văn khuyển phệ, Phong tuyết dạ quy nhân. Lưu-Trường-Khanh Dịch: Trọ nhà chủ quán Phù-Dung Về chiều, núi biếc mờ xa, Lạnh trời, nhà trống bày ra nghèo nàn. Cửa rào, nghe chó sủa ran, Người về đêm gió tuyết tràn lối đi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 16:39:17 bởi Anh Nguyên >
QUÁ TRỊNH SƠN NHÂN SỞ CƯ 過 鄭 山 人 所 居
寂 寂 孤 鶯 啼 杏 園,
寥 寥 一 犬 吠 桃 源。
落 花 芳 草 無 尋 處,
萬 壑 千 峰 獨 閉 門。
劉 長 卿 Tịch tịch cô oanh đề hạnh viên, Liêu liêu nhất khuyển phệ đào nguyên. Lạc hoa phương thảo vô tầm xứ, Vạn hác thiên phong độc bế môn. Lưu-Trường-Khanh Dịch: Qua chỗ ở của ông họ Trịnh Hắt hiu vườn hạnh tiếng oanh ca, Chó sủa nguồn đào vẳng tiếng ra. Hoa rụng cỏ thơm đâu đó nhỉ, Cổng cài, đèo suối cách bao xa... Lê-Nguyễn-Lưu Vắng tanh, vườn hạnh oanh kêu, Suối đào, chó sủa đều đều không thôi. Cỏ thơm hoa rụng ẩn rồi, Vạn khe, nghìn núi, cửa thời đóng im... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 21:46:44 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: