chương năm
GIẢI PHÓNG QUẢNG TRỊ 1972 Những thắng lợi của nhân dân ba nước Đông Dương trong hai năm 1970-1971 đã tạo tình thế thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta. Đặc biệt, thắng lợi to lớn trên Mặt trận Đường 9 - Nam Lào mùa Xuân năm 1971 đã làm rung chuyển cả bộ máy chiến tranh của Mỹ ở Sài Gòn, tác động rất mạnh đến ngụy quân, ngụy quyền miền Nam.
Đối với Mỹ, chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" đã triển khai thực hiện được 3 năm (từ năm 1969 đến năm 1971), tuy gặp thất bại liên tiếp nhưng chúng vẫn chủ quan cho rằng chương trình "bình định nông thôn" đã giành được "thắng lợi quyết định", ta đã bị hãm vào tình thế bị động, nên chúng dự đoán hoạt động của ta trong năm 1972 cũng chỉ tương tự như năm 1971. Mỹ chủ trương cố giữ cục diện chiến trường Đông Dương khỏi xấu hơn nhằm phục vụ yêu cầu chính trị và ý đồ chiến lược của chúng. Đồng thời chúng tiếp tục thực hiện mục tiêu chiến lược đẩy mạnh "Việt Nam hóa chiến tranh" rút dần quân Mỹ còn lại ở miền Nam để tạo điều kiện mặc cả với ta trên thế mạnh trong đàm phán tại Hội nghị Pa-ri nhằm xoa dịu phong trào đấu tranh trong nước Mỹ, trên cơ sở đó tạo điều kiện cho Ních-xơn tái cử tổng thống cuối năm 1972.
Mục tiêu và ý đồ chiến lược của Mỹ trong "Việt Nam hóa chiến tranh", nhằm chuyển vai trò quân Mỹ sang cho quân ngụy, các cuộc phản kích ra vòng ngoài do quân ngụy Sài Gòn giữ vai trò nòng cốt...
đã thất bại nặng nề. Cuộc chiến tranh "bóp nghẹt" của Mỹ đã không cô lập được cách mạng ở miền Nam vì chúng không bịt được đường biên giới Cam- pu chia, không phá được hành lang vận chuyển chiến lược Bắc - Nam của ta. Mỹ không làm thay đổi được so sánh lực lượng đang ngày càng không có lợi cho chúng.
Lực lượng chiến lược của chiến tranh "Việt Nam hóa" và các biện pháp chiến lược quân sự của địch trên chiến trường đã tỏ ra bất lực và suy yếu thêm một bước qua những thất bại liên tiếp trên chiến trường ba nước Đông Dương. Quân ngụy chưa làm được việc thay cho quân Mỹ, như Mỹ từng hy vọng.
Các thủ đoạn tác chiến chiến lược hảo đảm cho chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" do ngụy Sài Gòn, ngụy Cam-pu-chia, ngụy Lào thực thi đều bị thất bại và hạn chế tác dụng trước cách đánh mưu trí, sáng tạo của quân dân ba nước Đông Dương trong các chiến dịch quy mô lớn năm 1971.
Thất bại chiến lược đó làm cho tình hình chính trị của Mỹ - ngụy càng rối ren. Những mâu thuẫn vốn có trong chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và "học thuyết Ních-xơn" ở Đông Dương càng mâu thuẫn sâu sắc.
Sau gần ba năm thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", với những cố gắng rất lớn cả về quân sự và chính trị, Mỹ - ngụy chẳng những không mạnh lên như kế hoạch dự định mà ngược lại chúng càng bị suy yếu cả về lực và thế, bị lún sâu hơn vào thế bị động chiến lược, khó phương tháo gỡ.
Về phía ta, trên chiến trường miền Nam, tuy kế hoạch "bình định" của địch đã bị chặn lại và đẩy lùi một bước, nhưng ta vẫn chưa tạo được chuyển biến có ý nghĩa chiến lược. Phần lớn các sư đoàn chủ lực vừa từ ngoài biên giới trở về chiến trường miền Nam, trình độ tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng chưa theo kịp yêu cầu phát triển chiến tranh. Bộ đội địa phương, dân quân du kích số lượng còn ít và chất lượng chiến đấu chưa cao. Công tác thiết bị chiến trường, bảo đảm vật chất cho tác chiến lớn còn nhiều trở ngại. Chúng ta cần có sự nỗ lực vượt bậc mới khắc phục được những khó khăn trên để tiến lên giành thắng lợi lớn hơn. Cuộc chạy đua giữa ta và địch trong năm 1972 sẽ là một cuộc đọ sức có ý nghĩa quyết định để đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đến một bước ngoặt mới. Trên mặt trận đấu tranh quân sự, ta phải có những đòn tiến công mạnh, tiêu diệt lớn để làm chuyển biến cục diện chiến tranh.
Ngay từ tháng 5 năm 1971, Bộ Chính trị đã họp để đánh giá tình hình, xác định thời cơ chiến lược và đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân dân ta: "Kịp thời nắm lấy thời cơ lớn, trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự chính trị và ngoại giao, phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và trên cả chiến trường Đông Dương, đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch xâm lược của chúng ở Cam-pu'chia và Lào, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời sẵn sàng chuẩn bị, kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài".
Đầu tháng 6 năm 1971, Hội nghị Quân ủy trung ương nhấn mạnh: Tình hình đang chuyển biến mau lẹ đòi hỏi ta phải có sự cố gắng cao hơn, tranh thủ thời gian, khắc phục nhược điểm khó khăn, xây dựng thế và lực của ta trên chiến trường nhanh hơn nữa, kịp nắm lấy thời cơ, hành động bất ngờ, giành lấy thắng lợi cao nhất, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút lui quân Mỹ, đánh cho ngụy quyền tan rã, sụp đổ một bước nghiêm trọng.
Trung ương dự kiến ba hướng tiến công chiến lược trong năm 1972: "Hướng chủ yếu số 1 là chiến trường Đông Nam Bộ; hướng chủ yếu số 2 là chiến trường Bắc Tây Nguyên; hướng phối hợp quan trọng là Trị - Thiên. Trị - Thiên tuy là hướng phối hợp quan trọng nhưng lại gần miền Bắc, có điều kiện bảo đảm hậu cần, vì vậy phải gấp rút chuẩn bị để có thể đánh lớn khi cần thiết hoặc có lợi" (1).
Như vậy, phương hướng chung mà Bộ Chính trị đề ra cho cả năm 1972 là mở nhiều chiến dịch lớn trên toàn chiến trường miền Nam, tạo chuyển biến cơ bản, tiến lên thay đổi hẳn cục diện chiến trường ở miền Nam.
Trên phương hướng đó, tháng 8 năm 1971, Bộ Chính trị ra Nghị quyết mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên các hướng Đông Nam Bộ, Trị
------------------------
1. Nghị quyết Quân ủy Trung ương tháng 6 năm 1971 - số 263 lưu trữ tại Viện lịch sử quân sự Việt Nam.
----------------------------------
Thiên, Tây Nguyên và hình thành một cuộc tổng tiến công toàn Miền để tiêu diệt lớn quân địch và mở rộng vùng giải phóng. Đến lúc này, miền Đông Nam Bộ được Bộ Chính trị xác định là hướng chủ yếu vì đánh trúng vào đây sẽ có tác động rất mạnh tới Sài Gòn.
Ở miền Nam, Trung ương Cục, Quân ủy Miền vạch kế hoạch quân sự năm 1972 và chỉ đạo công tác chuẩn bị chiến trường, tổ chức lực lượng, dự trữ vật chất. Thường vụ Khu ủy Khu 5, Trị Thiên, Mặt trận Tây Nguyên cũng lần lượt xây dựng kế hoạch tác chiến và chỉ đạo công tác chuẩn bị chiến trường.
Bộ Tư lệnh 559, xác định nhiệm vụ trọng yếu nhất là bảo đảm thông suốt mọi đường vận chuyển chiến lược chuyển đủ và kịp thời khối lượng vật chất cho các chiến trường trước ngày chiến dịch mở màn.
Đoàn 559 vừa củng cố, mở rộng tuyến đường Trường Sơn, vừa xây dựng con "đường kín" Tây Trường Sơn để vận tải ban ngày dưới những cánh rừng đại ngàn.
Các đơn vị pháo binh, xe tăng và binh khí kỹ thuật nặng khác vào mặt trận đã có đường dành riêng. Từ Quân khu 5, Mặt trận Tây Nguyên đến miền Đông Nam Bộ đều dồn nỗ lực tập trung mở đường chiến lược và chiến dịch cho chiến trường mình.
Trong Hội nghị cuối tháng 2 năm 1972, Quân ủy Trung ương đã xác định nhiệm vụ quan trọng bậc nhất là tập trung chỉ đạo chiến tranh và tăng cường lực lượng mọi mặt cho chiến trường, chủ yếu là chiến trường miền Nam. Ta đánh giá Mỹ khó có khả năng đưa lục quân trở lại tham chiến, nhưng có thể sử dụng không quân, hải quân trong tình huống chiến lược cần thiết. Nắm bắt thời cơ Mỹ - ngụy vừa thua to trên cả chiến trường ba nước Đông Dương, quân chiến đấu Mỹ còn lại ở miền Nam đã kết thúc nhiệm vụ chiến đấu, nước Mỹ đang trong thời điểm vận động tranh cử tổng thống... ta chủ trương đánh bại địch ở miền Nam.
Ngày 11 tháng 3 năm 1972, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp ra nghị quyết chính thức khẳng định phương hướng tiến hành cuộc tiến công chiến lược năm 1972 với sự điều chỉnh như sau: Trị - Thiên, hướng phối hợp quan trọng nay chuyển thành hướng chiến lược chủ yếu: Đông Nam Bộ và Bắc Tây Nguyên, hướng chủ yếu số 1, số 2 nay chuyển thành hướng phối hợp quan trọng, cùng với Khu 5 đẩy mạnh tác chiến quy mô vừa và lớn để thành một cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam.
Có sự thay đổi như vậy là vì chiến trường Trị - Thiên sát miền Bắc, ta có điều kiện tập trung lực lượng, tập trung chỉ đạo và bảo đảm hậu cần cho một chiến dịch quy mô lớn, dài ngày. Thứ hai, cho đến lúc này, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ - ngụy vẫn cho rằng hướng tiến công chiến lược chính của ta vẫn là chiến trường Tây Nguyên, nên đã điều phần lớn sư đoàn dù (lực lượng tổng dự bị chiến lược) và các lực lượng dự bị của quân khu 2 lên hướng này. Trung tuần tháng 3 năm 1972, các đơn vị tham gia các chiến dịch tiến công trên ba hướng Trị - Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ đã vào vị trí tập kết. Ngày 23 tháng 3 năm 1972, Bộ Chính trị thông qua lần cuối và phê chuẩn kế hoạch tiến công chiến lược năm 1972.
Trên hướng tiến công chiến lược chủ yếu Trị - Thiên, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh và Đảng ủy chiến dịch: Tướng Lê Trọng Tấn - Phó Tổng tham mưu trưởng làm Tư lệnh, Tướng Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy. Các đồng chí Cao Văn Khánh, Giáp Văn Cương, Doãn Tuế, Hồng Sơn, Lương Nhân, Anh Đệ làm Phó Tư lệnh. Các đồng chí Hoàng Minh Thi, Lê Tự Đồng - Phó Chính ủy. Đồng chí Hồ Sỹ Thản - Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị tham gia Đảng ủy - Bộ Tư lệnh chiến dịch.
Thượng tướng Văn Tiến Dũng - ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng được cử làm đại diện của Quân ủy Trung ương ở hướng chiến lược này.
Đó là bối cảnh chiến lược, những chủ trương biện pháp chiến lược trực tiếp quyết định quá trình chuẩn bị các chiến dịch, đặc biệt là chiến dịch Trị - Thiên năm 1972.
Quân ủy Trung ương xác định chiến dịch tiến công ở Trị - Thiên có nhiệm vụ chủ yếu như sau: Tiêu diệt phần lớn lực lượng quân sự địch ở Trị - Thiên, cơ bản tiêu diệt hai sư đoàn và đánh thiệt hại nặng một sư đoàn khác.
Phối hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự và nổi dậy của quẩn chúng ở nông thôn, đồng bằng, đẩy mạnh phong trào đô thị và công tác binh vận; tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng bảo an, dân vệ, phòng vệ dân sự, đánh bại kế hoạch bình định của địch.
Giải phóng phần lớn địa bàn Trị - Thiên, có điều kiện thì kiên quyết giải phóng toàn bộ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Tiêu diệt, phân tán, giam chân, thu hút lực lượng địch, phối hợp với các chiến trường khác giành thắng lợi chung cho cuộc tiến công chiến lược năm 1972.
Trong hai nhiệm vụ trên thì nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch và hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy là quan trọng nhất. Bởi vì, muốn phong trào quần chúng nổi dậy mạnh mẽ thì phải có những đòn tiêu diệt sinh lực địch, phá thế kìm kẹp của địch. Mặt khác, muốn tiêu diệt nhanh gọn sinh lực địch mở rộng địa bàn hoạt động nhất thiết phải có sự đấu tranh hỗ trợ của quần chúng.
Ngày 15 tháng 3 năm 1972, tại Bãi Hà, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch họp triển khai kế hoạch tác chiến. Trước tấm bản đồ chiến dịch, Tướng Lê Trọng Tấn - Tư lệnh chiến dịch nhấn mạnh: Trị - Thiên (nhất là Quảng Trị) là một địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng trong hệ thống phòng ngư chiến lược của địch. Trong thời gian qua, mặc dù bị đánh đau, nhưng địch vẫn ngoan cố, không chịu bỏ điểm nào. Ngay từ cuối năm 1971, Mỹ - ngụy đã Phán đoán hướng tiến công chiến lược năm 1972 của ta, tuy không phải là Trị - Thiên nhưng chúng vẫn tăng cường phòng vệ, ráo riết hành quân, tung biệt kích, thám báo thăm dò, phát hiện lực lượng và sự chuẩn bị của ta.
Tới trung tuần tháng 2 năm 1972, lực lượng địch ở Trị - Thiên gồm có. hai sư đoàn bộ binh số 1 và 3; hai lữ đoàn thủy quân lục chiến số 147 và 258; bốn tiểu đoàn và 94 đại đội bảo an; 302 trung đội dân vệ; 5.100 cảnh sát; 14 tiểu đoàn pháo binh gồm 258 khẩu; ba thiết đoàn gồm 184 xe tăng, thiết giáp.
Với lực lượng trên, địch bố phòng trên hai hướng Quảng Trị và Thừa Thiên, lấy Quảng Trị làm trọng điểm.
Lực lượng địch bố trí thành ba tuyến: Tuyến ngoài cùng (tiếp giáp với ta), bố trí tương đối chặt chẽ, liên hoàn, có không gian rất rộng kéo dài từ biển Đông đến sát biên giới Việt - Lào. Tuyến này có nhiệm vụ phát hiện, ngăn chặn, phá hoại sự chuẩn bị của ta từ xa. Lực lượng tiên phong bảo vệ tuyến này là không quân, pháo binh, biệt kích, khi cần thiết thì dùng một bộ phận nhỏ bộ binh hành quân càn quét. Tuyến giữa, tuyến phòng thủ cơ bản, tuyến quan trọng nhất, quyết định nhất trong hệ thống phòng thủ của chúng. Đó là các điểm cao, các căn cứ mà từ lâu Mỹ - ngụy đã từng tuyên bố "bất khả xâm phạm" như: Động ông Do, điểm cao 52, 365, 548, 544, 597, 241... kéo tới Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang, Cửa Việt. Nhiệm vụ của tuyến giữa là ngăn chặn các cuộc tiến công của ta, bảo vệ các thị xã, thị trấn, các căn cứ, đường giao thông quan trọng và các vùng đã "bình định" của chúng.
Trên tuyến này, chúng tổ chức thành từng khu vực phòng thủ cấp trung đoàn, tiểu đoàn hoặc tương đương vừa có thể liên kết phòng giữ, vừa có thể độc lập tác chiến. Tuyến trong cùng, còn gọi là tuyến phòng thủ dự bị, từ đường số 1 kéo ra biển Đông gồm các thị trấn, thị xã đông dân như Đông Hà, ái Tử, Quảng Trị. Binh sĩ ở đây có nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với bảo an, dân vệ kìm kẹp đánh phá các phong trào đấu tranh hoặc nổi dậy của quần chúng.
Dựa trên cơ sở phân tuyến như nói ở trên sư đoàn 3 và các lữ đoàn phối thuộc tổ chức phòng thủ ở Quảng Trị thành năm khu vực cấp trung đoàn.
Trung đoàn 57 bố trí từ Quán Ngang đến Dốc Miếu.
Trung đoàn 2, từ Bái Sơn đến Cồn Tiên, trung đoàn 56 từ điểm cao 241 đến nam Tân Lâm, lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến từ Mai Lộc đến Động Toàn, lữ đoàn 258, từ Tân Điềm đến điểm cao 367. Sở chỉ huy sư đoàn 3 đặt ở ái Tử... Nhìn chung chỗ mạnh cơ bản của địch là hệ thống phòng ngư kiên cố, vững chắc được xây dựng và hoàn chỉnh từng bước trong gần hai mươi năm nay. Đây là những điểm cao lợi hại có hệ thống hỏa lực mạnh, đã được tính toán cho pháo binh, pháo hạm và không quân Mỹ có thể khống chế được một vùng rộng lớn hai bên nam bắc sông Bến Hải. Nhưng, chỗ yếu cơ bản của địch là bên ngoài mạnh, bên trong sơ hở. Từ khi bộ binh Mỹ rút, tinh thần binh lính ngụy hoang mang, lại thiếu lực lượng dự bị chi viện.
Đồng chí Tư lệnh nói tiếp: - Căn cứ tình hình địch triển khai trên chiến trường, chiến dịch tổ chức thành bốn cánh quân và sử dụng các lực lượng tác chiến trên từng cánh như sau: Cánh phía bắc, cánh chủ yếu, sử dụng Sư đoàn 320b (thiếu) gồm hai trung đoàn bộ binh và Trung đoàn 27, (Mặt trận B5), Tiểu đoàn 15 độc lập, hai trung đoàn pháo mặt đất (164 và 84), Trung đoàn 284 pháo cao xạ, hai tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp, hai tiểu đoàn công binh, Tiểu đoàn 33 đặc công, một trung đội hóa học, một trung đội trinh sát, một trung đội súng phun lửa do anh Hồng Sơn - Phó Tư lệnh chiến dịch và anh Hoàng Minh Thi - Phó Chính ủy chiến dịch trực tiếp chỉ huy, phối hợp với các lực lượng địa phương tiêu diệt trung đoàn 57 và trung đoàn 2 bộ binh thuộc sư đoàn 3 ở điểm cao 544 (Phu-lơ), Đồi Tròn, Động-mã, Cồn Tiên, thừa thắng bao vây tiêu diệt địch ở Miếu Bái Sơn, Quán Ngang, sẵn sàng chi viện cho Hồ Khê, Đá Bạc, Thiện Xuân, Lăng Cô, Gia Bình... Sau khi đã tiêu diệt toàn bộ các mục tiêu nói trên, nhanh chóng chuyển bao vây tiến công cụm cứ điểm Đông Hà, kiên quyết không cho địch co cụm đối phó.
Ở cánh tây sử dụng Sư đoàn 304, Trung đoàn 38 pháo binh, bốn trung đoàn cao xạ (230, 232, 24~ 280), hai tiểu đoàn tên lửa, một tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn công binh, do anh Hoàng Đan, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304 chỉ huy. Có nhiệm vụ tiến công tuyến phòng ngự phía tây của địch ở Động Toàn, Ba Tum, vây ép Ba Hồ nếu địch phản kích tổ chức diệt ngay. Sau đó phối hợp với cánh bắc chiếm Núi Kiếm, bao vây, tiêu diệt các cứ điểm 241, Mai Lộc, Đầu Mầu sẵn sàng tiến công tiêu diệt ái Tử.
ở cánh nam, cánh thứ yếu nhưng rất quan trọng, do Sư đoàn 324 (thiếu), cùng các lực lượng binh chủng phối thuộc, phối hợp chặt chẽ với ba tiểu đoàn địa phương tỉnh Quảng Trị, do anh Giáp Văn Cương - Phó Tư lệnh và anh Lê Tự Đồng - Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ huy ở nam và bắc sông Thạch Hãn, chủ yếu là khu vực Phượng Hoàng, Động ông Do và một đoạn đường số 1 bắc sông Mỹ Chánh, thực hiện chia cắt chiến dịch, hỗ trợ cho nhân dân Triệu Phong, Hải Lăng nổi dậy diệt ác, phá kìm giành quyền làm chủ.
Địa hình cánh nam là một dải đất hẹp từ Hoàng Hà, Mai Xá lên ngã ba Gia Độ với những doi cát trắng và những cánh đồng chiêm trũng quanh năm ngập nước. Ở đây tuy cơ sở cách mạng vững, bộ đội địa phương và du kích có nhiều kinh nghiệm chiến đấu đa số nhân dân theo cách mạng, nhưng đường cơ động của bộ đội chủ lực khó, nhất là việc triển khai binh khí, kỹ thuật cơ giới. Mặt khác, địch ở đây từ lâu đã có hệ thống phòng thủ vững chắc, thông thạo địa hình, phản ứng nhanh, pháo hạm và giang thuyền nhiều... Căn cứ vào tình hình đó, Bộ Tư lệnh quyết định sử dụng Tiểu đoàn 47 bộ đội Vĩnh Linh, hai tiểu đoàn đặc công 31, 25, một tiểu đoàn pháo mang vác, bốn đại đội địa phương và Đoàn 126 đặc công hải quân, do anh Bùi Thúc Dưỡng - Trưởng phòng đặc công chiến dịch chỉ huy. Các lực lượng này có nhiệm vụ bao vây Dốc Miếu, Quán Ngang từ phía đông, tiêu diệt căn cứ hải thuyền nam Cửa Việt, phối hợp Với Các lực lượng kìm kẹp của địch, phát động hỗ trợ quần chúng ở Gio Linh nổi dậy giành quyền làm chủ.
Sau khi Tướng Lê Trọng Tấn thông báo tình hình địch, phương án sử dụng lực lượng chiến dịch trên các cánh quân của ta, Tướng Lê Quang Đạo, Chính ủy chiến dịch nhấn mạnh: - Cần tranh thủ đánh địch ngoài công sự để tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh, tạo thời cơ đánh những trận quyết định tiêu diệt từng trung đoàn, lữ đoàn địch, phá vỡ tuyến phòng thủ, nhanh chóng đột phá tung thâm, kiên quyết không cho chúng đối phó. Đồng thời phát huy cao độ uy lực của mọi binh khí kỹ thuật hiện có, đánh tập trung hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, coi trọng đánh vừa và nhỏ, đánh sâu và hiểm bằng các lực lượng tinh nhuệ, hỗ trợ cho nhân dân tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên nổi dậy giành quyền làm chủ. Đó vừa là ý chí quyết tâm, vừa là tình cảm thiêng liêng của cán bộ, chiến sĩ trên Mặt trận Trị ' Thiên. Khẩu hiệu của chúng ta là: "Tất cả vì Quảng Trị thân yêu!" "Tất cả vì miền Nam ruột thịt". Trong chiến đấu dù gặp phải khó khăn, gian khổ, ác liệt hy sinh đến mấy cũng kiên quyết đập tan hệ thống phòng ngự mà một thời Mỹ - ngụy đã rêu rao là "kiên cố nhất chiến trường Đông Dương", là "bất khả xâm phạm".
Trong thời gian này, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 27 Phạm Minh Tâm, Chính ủy Nguyễn Võ Hiển, Trung đoàn phó Cao Uy, Phó Chính ủy Ngô Thanh Tùng suốt ngày đêm cùng với các trợ lý cơ quan theo dõi việc triển khai nhiệm vụ chiến đấu.
Nhiệm vụ của Trung đoàn 27, Mặt trận B5 trong chiến dịch này là: Tiêu diệt địch, giải phóng hoàn toàn khu vực 544 (Phu-lơ) và Đồi Tròn, mở cửa ở hướng tây bắc để các đơn vị chủ lực tiến công giải phóng tỉnh Quảng Trị. Đây là lần thứ ba trung đoàn nhận nhiệm vụ tiêu diệt căn cứ Phu-lơ.
Cũng cần phải nhắc lại, căn cứ Phu-lơ và Đồi Tròn là "con mắt thần" trên tuyến hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra, là cứ điểm cao nhất nằm phía tây bắc tỉnh Quảng Trị, án ngữ như một lá chắn cho căn cứ 241 và Đầu Mầu. Đặc biệt, ngoài ba giàn ra- đa trên đỉnh Phu-lơ luôn kiểm soát mọi chuyển động lớn nhỏ của ta, các trận địa pháo cối của địch trên cứ điểm hoàn toàn có thể phát huy lợi thế để bắn phá các trận địa trong toàn tuyến hành lang, bất kể ngày đêm. Ngoài ra, Mỹ - ngụy còn làm một con đường nối căn cứ Phu-lơ với Đồi Tròn và Đường 9 đoạn Đầu Mầu và một con đường cho xe tăng lên căn cứ Phu-lơ từ Cam Lộ qua điểm cao 322 và điểm cao 288. Vì vậy trong phương án tác chiến chiến dịch, việc tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Phu-lơ, Đồi Tròn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Phương án tác chiến của Trung đoàn 27 do Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm báo cáo với Bộ chỉ huy chiến dịch là. Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 tiến công căn cứ Phu-lơ và Đồi Tròn từ phía tây và tây bắc. Tiểu đoàn 3 luồn sâu vào phía đông nam khu vực điểm cao 322 và điểm cao 288, hình thành thế bao vây căn cứ trước khi có lệnh nổ súng của chiến dịch. Các trận địa pháo của chiến dịch tăng cường và của trung đoàn đặt ở điểm cao 425 và đồi Đ4 (phía bắc căn cứ Phu-lơ) đánh dồn dập xuống căn cứ địch. Tiểu đoàn 2, tổ chức phá rào bằng vũ khí mới FR kết hợp với mìn, bộc phá mở cửa ở phía tây bắc. Sau khi pháo chuyển làn về phía nam, các mũi bộ binh tiến công lên trung tâm căn cứ. Tiểu đoàn 1 tiếp tục chi viện cho Tiểu đoàn 2 trong quá trình chiến đấu và để một đại đội tăng cường làm lực lượng dự bị của trung đoàn.
Tiểu đoàn 3 chủ công, được tăng cường hai đại đội bí mật luồn sâu vào phía đông nam căn cứ Phu-lơ, chốt giữ điểm cao 322 và 288, chia cắt, cô lập căn cứ Phu-lơ không cho địch ứng cứu, giải tỏa từ phía nam lên và chặn không cho địch khi bị tấn công từ căn cứ Phu-lơ chạy về. Khi được lệnh thì chiếm cầu Thiện Xuân. Sẵn sàng cơ động theo hướng phát triển của trung đoàn.
Sau khi nghe Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm báo cáo, Tướng Lê Trọng Tấn căn dặn thêm: "Đưa Tiểu đoàn 3 của Nguyễn Huy Hiệu vào điểm cao 322 và điểm cao 288 là tạo nên sự bất ngờ rất lớn cho địch. Các anh phải chú ý chỉ đạo mũi thọc sâu chia cắt này, chiến đấu đạt hiệu suất cao". Địa hình khu vực tác chiến trong chiến dịch cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 đã quen thuộc. Anh em có thể kể tên từng điểm cao, từng con suối nhỏ và những tọa độ mà bom pháo địch thường xuyên bắn ngăn chặn quân ta hành quân ở xung quanh căn cứ Phu-lơ và Đồi Tròn. Trong những năm tháng trước đây ta và địch giành đi giật lại các điểm cao này.
Mỗi lần kẻ thù giành được, chúng lại huênh hoang, nào là "Phu-lơ là tấm lá chắn vững chắc ở phía tây bắc Quảng Trị", là "con mắt thần điện tử của hàng rào Mác Na-ma-ra". Khắp các ngọn đồi, khe suối xung quanh căn cứ Phu-lơ, Đồi Tròn... đều đã thấm máu của biết bao đồng chí, đồng đội tôi. Các anh vĩnh viễn nằm lại sau những trận chiến đấu quyết liệt với kẻ thù, giữ vững trận địa, tạo thuận lợi cho đơn vị bạn thọc sâu vào phía trong tiêu diệt địch.
Quảng Trị vào những ngày cuối xuân, bầu trời xanh thẳm. Những ai đã từng chiến đấu ở đây đều cảm nhận nỗi gian khổ, ác liệt và căng thẳng hơn bất cứ chiến trường nào. Cán bộ, chiến sĩ trong các đoàn trinh sát địa hình, chuẩn bị hiệp đồng theo phương án trên thực địa, ngày ẩn nấp vào các hầm hố bụi rậm, khe rãnh tránh địch, đêm lần bám vượt qua các tổ chốt của chúng, hoặc cắt đường mà đi, sình lầy, sông suối cũng mặc. Nhưng, có lẽ gian khổ nhất, ác liệt nhất vẫn là các đơn vị đang âm thầm mở đường. Bởi, mọi chiến dịch đều xuất phát từ những con đường. Nhìn hướng đi của đường có thể phán đoán được hướng tiến công, ý đồ tiến công, quy mô tiến công và từ đó có thể phán đoán ra mục tiêu của cả chiến dịch. Bởi thế mỗi khi đã phát hiện ra dấu vết mở đường là lập tức địch đánh phá, ngăn chặn. Bên cạnh việc trinh sát hoàn thiện các mũi hướng tác chiến và mở gấp những mạng đường tiến công, Bộ Tư lệnh chiến dịch bắt đầu ra lệnh cho các cánh quân hành quân vào vị trí đứng chân, nhanh chóng bổ sung đầy đủ vật chất chiến đấu, mặt khác, tiếp tục thực hiện kế hoạch nghi binh chiến dịch. Trong chiến đấu, điều quan trọng hàng đầu là phải giữ được bí mật, tạo được bất ngờ. Đối với một chiến dịch huy động lực lượng lớn, giữ được bí mật, tạo được thế bất ngờ là điều hết sức khó Do quyết định chuyển hướng tiến công chiến lược rất khẩn trương, thời gian chuẩn bị chiến dịch không còn là bao mà phải bảo đảm một khối lượng vật chất hậu cần rất lớn, nên vấn đề có tính quyết định là tập trung chỉ đạo thật tốt lực lượng bảo đảm hậu cần. Đồng chí Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng đã làm việc cụ thể với đồng chí Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần đang công tác ở Đoàn 559 và đồng chí Đồng Sĩ Nguyên, Tư lệnh Đoàn 559 về kế hoạch bảo đảm hậu cần cho chiến dịch Trị - Thiên.
Đến ngày 26 tháng 3 năm 1972, công tác chuẩn bị cho chiến dịch đã cơ bản hoàn thành. Cục Vận tải Đoàn 559 và Đoàn vận tải Quân khu 4 cùng hàng nghìn thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến của tỉnh Quảng Bình, Vĩnh Linh đã có những cố gắng phi thường, vận tải được 16.020 tấn hàng.
Cho đến lúc các binh đoàn chủ lực của ta đã cài thế chiến dịch xong và sẵn sàng bước vào trận quyết chiến chiến lược, thì bộ chỉ huy quân sự Mỹ - ngụy vẫn chưa đoán định được hướng nào là hướng chính của cuộc tiến công chiến lược 1972 của ta. Tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu và những cộng sự sau Tết Nguyên đán Nhâm Tý đã liên tục bay đi thị sát các chiến trường. Ở đâu Thiệu cũng chỉ nhắc nhở: "Cộng quân Bắc Việt sẽ tiến công, nhưng khả năng không bằng Mậu Thân 1968".
Đại tá ngụy, tỉnh trưởng Quảng Trị Phan Bá Hòa tỏ ra lạc quan, tuyên bố thẳng thừng' "Quân đội Việt Nam cộng hòa đã quét sạch đối phương".
Còn chuẩn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh sư đoàn 3 ngụy trấn giữ Bắc Quảng Trị (mặc dù sư đoàn 3 nằm trong đội hình chiến đấu của vùng 1 chiến thuật nhưng vẫn được coi là đơn vị mạnh của quân chủ lực ngụy. Sư đoàn 3 được xếp ngang hàng với sư đoàn dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ) cũng tỏ ra lạc quan trước sự yên ổn của tỉnh Quảng Trị.
Tuy vậy, để đối phó với ta, tướng Hoàng Xuân Lãm - Tư lệnh quân khu 1 kiêm vùng 1 chiến thuật ngụy đã được Bộ chỉ huy quân đội Sài Gòn chi viện thêm pháo binh, xe tăng, thiết giáp. Cảng Cửa Việt, sân bay ái Tử cũng nhận thêm lực lượng và phương tiện chiến tranh để tăng cường cho các căn cứ ở Đường 9 và sư đoàn 3 ngụy.
Sau khi kiểm tra xong các đơn vị đã vào cài thế an toàn, đúng ý định tác chiến, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định giờ nổ súng tiến công trên toàn mặt trận, đó là 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 3 năm 1972.
Đêm 29 tháng 3, tôi và Chính trị viên Trần Xuân Gứng dẫn tiểu đoàn và hai đại đội tăng cường bí mật tiếp cận, chiếm lĩnh tuyến hành lang từ cầu Thiện Xuân đến điểm cao 322, sẵn sàng chặn đánh sư đoàn 3 ngụy. Mặc dù mục tiêu tác chiến vẫn là những địa hình, địa danh quen thuộc nhưng trước nhiệm vụ quan trọng của chiến dịch, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 3 càng xác định phải hết sức thận trọng, bằng mọi cách giữ bí mật đến cùng, bảo đảm phát súng đầu tiên của đơn vị phải là phát súng mở đầu chiến dịch.
Một đêm trắng hành quân, tảng sáng ngày 30 tháng 3, phân đội cuối cùng của tiểu đoàn tôi đã chiếm lĩnh vị trí mai phục chờ địch. Khoảng 7 giờ sáng, khi các chiến sĩ đã ổn định đội hình trong công sự chiến đấu vừa hoàn thành thì hai chiếc trực thăng xuất hiện quần đảo, bắn đạn khói xuống trận địa làm hai chiến sĩ bị thương Cùng lúc, từ phía thị trấn Cam Lộ, năm chiếc xe tăng địch xuất hiện, vừa chạy vừa bắn pháo vào trận địa Đại đội 3. Trước tình huống bất ngờ này, có ý kiến cho rằng trận địa đã bị lộ, đề nghị cho ĐKZ và đại liên nổ súng. Tôi chạy đến nơi đang xảy ra tình huống đó để xem xét cụ thể trước khi ra lệnh nổ súng. Kiểm tra xong, tôi trao đổi với Chính trị viên Trần Xuân Gứng: - Xe tăng địch bắn pháo để dọn đường và thăm dò lực lượng ta. Trận địa chưa bị lộ. Các đại đội tiếp tục chờ đội hình lớn của địch mới nổ súng. Bây giờ tôi xuống Đại đội 1, anh xuống Đại đội 2, tất cả chờ lệnh, không được nổ súng.
Trao đổi xong tôi và anh Gứng mỗi người đi một ngả đến các đại đội động viên, giữ vững quyết tâm cho bộ đội.
Chín giờ, bộ binh địch từ phía điểm cao 105 hành quân lên cách trận địa Đại đội 1 chừng 200 mét, chúng dừng lại. Tổ trinh sát tiểu đoàn bám sát mọi động thái của quân ngụy, bỗng anh em phát hiện có một tốp dân đang tiến thẳng vào trận địa của Đại đội 1 phần lớn là người già và trẻ con. Người chống gậy người cầm dao rựa, người bế con trên tay. Mấy tên lính ngụy đi sau chốc chốc lại chĩa súng vào lưng người dân hăm dọa. Đội hình phía sau của địch vẫn ngồi nghỉ, tốp dân phía trước vẫn đi. Họ càng đi, càng dồn lại tưởng như người nọ dìu người kia. Mỗi lần lính thúc súng vào lưng, trẻ con lại khóc thét lên, người già ngã sấp ngã ngửa. Gần đến trận địa phục kích của Đại đội 1, mấy tên lính dừng lại, thúc người dân đi.
Tình huống thật bất ngờ, tôi nói với Đại đội trưởng Đại đội 1 Nguyễn Phúc Sinh: - Địch bắt dân đi trước để thăm dò, phát hiện lực lượng ta. Nếu phát hiện được, chúng sẽ bất chấp mạng sống của dân cho phi pháo oanh tạc dọn đường rồi dùng người dân làm lá chắn để đánh chiếm trận địa ta. Do đó, anh lệnh cho bộ đội tiếp tục giữ bí mật trận địa. Nếu lộ, nổ súng vẫn phải bảo vệ tính mạng cho dân.
Tôi và Đại đội trưởng Nguyễn Phúc Sinh và anh em trong Đại đội 1 nín thở dõi theo những người dân mệt mỏi bước qua trước nòng súng thép đi về chân điểm cao 322.
Rất may, những người dân chỉ đi men trước trận địa của Đại đội 1. Tuy vậy, đây cũng là thời khắc căng thẳng. Tình thế bất ngờ đã qua, nhưng không thể để dân đi sâu hơn vào nơi sẽ diễn ra trận đánh.
Tôi nói Chính trị viên Trần Xuân Gứng dẫn mấy chiến sĩ bí mật luồn qua mấy vạt cây trực tiếp gặp những người dân. Sau thoáng ngỡ ngàng, khi nhận ra chiến sĩ giải phóng, người dân cho biết: "Lính tiểu đoàn 3, trung đoàn 56, sư đoàn 3 bắt dân đi trước làm lá chắn che đỡ cho nó lên thay tiểu đoàn 1 trên căn cứ Phu-lơ. Nếu phát hiện được Việt Cộng thì chạy về báo sẽ được tiền thưởng". Nhận rõ dã tâm của địch, Chính trị viên Trần Xuân Gứng bí mật cho bộ đội đưa những người dân rời khỏi trận địa về nơi an toàn. Tiểu đoàn 3 ngụy tưởng dân không gặp lực lượng của ta nên tiếp tục hành quân lên căn cứ Phu-lơ thay cho tiểu đoàn 1. Khi kim đồng hồ trên tay chỉ 10 giờ 30 phút, thì cũng là lúc đội hình tiểu đoàn 3 ngụy lọt vào trận địa phục kích của tiểu đoàn.
Theo mệnh lệnh hiệp đồng của Bộ Tư lệnh chiến dịch, giờ nổ súng toàn mặt trận vào lúc 11 giờ 30 phút. Như vậy còn một tiếng đồng hồ nữa mới được nổ súng. Nhưng thời cơ đến, địch hành quân rất chủ quan, bộ đội vẫn giữ được bí mật, bất ngờ. Nếu tiêu diệt lực lượng này thì lính ở căn cứ Phu-rơ sẽ hoang mang, mất tinh thần, tạo thuận lợi cho Tiểu đoàn 2 của ta nhanh chóng dứt điểm căn cứ Phu-lơ, cắt rời quân địch ở Phu-lơ và Đồi Tròn với căn cứ Cam Lộ. Sau khi cân nhắc. Tôi báo cáo trung đoàn trưởng qua hữu tuyến điện, xin mặt trận cho nổ súng trước giờ "G" đồng thời ra mệnh lệnh nổ súng.
Loạt mìn định hướng ở bộ phận khóa đuôi của Đại đội 1 vang lên. Cùng lúc, sáu khẩu cối 82 ly của tiểu đoàn và Đại đội 17 tăng cường bắn dồn dập vào đội hình quân địch. Tôi lệnh cho chiến sĩ liên lạc tiểu đoàn Lê Văn Dần thổi kèn đồng phát lệnh xung phong. Bọn địch vừa bị pháo ta bắn, giờ lại nghe tiếng kèn đồng càng hốt hoảng.
Đại đội 1 chia thành hai mũi đánh từ Yên Ngựa của dãy điểm cao 322 xuống và một mũi vòng sang phía nam điểm cao 288. Đại đội 2 đuổi địch ra tận mép sông Cam Lộ.
Cả tiểu đoàn đồng loạt nổ súng. Đại đội địch đi đầu bị bao vây và tiến công từ bốn phía. Những tên lính còn sống sót cố co cụm lại để chống đỡ, chờ hai đại đội ở phía sông Cam Lộ lên giải vây.
Trước tình hình đó, tôi cho lực lượng còn lại của Đại đội 3 xuất kích và điều một trung đội cối 82 của Đại đội 4 chiếm lĩnh đỉnh 288 bắn quân địch ở phía sông Cam Lộ, tạo thế cho Đại đội 1 dứt điểm toàn bộ các cụm địch đang nằm rải rác ở phía nam điểm cao 288. Quân địch bất ngờ khi thấy cối của ta từ đỉnh 288 đánh trúng đội hình đang hành quân, chúng càng hoảng sợ khi các chiến sĩ của Đại đội 2 xuất hiện đánh từ điểm cao 288 sang.
Tiếng nổ của súng B40, B41, cối 60 ly và súng AK cộng tiếng kèn đồng thôi thúc cứ lan dần xuống bờ sông Cam Lộ, nơi chỉ huy của tiểu đoàn 3 ngụy đang tập trung lực lượng còn lại để mở đường lên căn cứ Phu-lơ.
Tôi ra lệnh.
- Lúc này phải đánh nhanh, diệt gọn, cắt hẳn con đường tăng lên Phu-lơ, làm chủ hoàn toàn khu vực 322 và 288 để đưa lực lượng xuống đường 9.
Nếu để địch điều xe tăng lên thì sẽ gây khó khăn cho ta. Phải đẩy nhanh tốc độ trận đánh, kiên quyết xóa sổ tiểu đoàn 3 ngụy ở ngay khu vực này.
Chấp hành lệnh của tôi, các đại đội đưa bộ đội chặn địch đoạn bờ sông Cam Lộ nối với trục đường tăng ở chân dãy 288, để vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa đánh chiếm bàn đạp cho tiểu đoàn tiếp tục thọc sâu xuống phía nam.
Tôi lệnh cho hai khẩu cối 82 của Đại đội 17 đi cùng tiểu đoàn đánh thẳng vào ban chỉ huy tiểu đoàn địch ở nam dãy 288. Các mũi tiến công của Đại đội 1 Đại đội 2 và Đại đội 3 tiếp tục hình thành thế bao vây. Đại đội 4 và Đại đội 17 tăng cường chuẩn bị sẵn phần tử nhằm tiêu diệt gọn quân địch.
Trận chiến đấu bước vào giai đoạn quyết định là tiêu diệt hoàn toàn lực lượng còn lại của tiểu đoàn 3 ngụy đã chuẩn bị xong. Địch vừa lùi vừa chống trả chờ quân phía sau lên chi viện. Nhưng chúng không ngờ rằng vòng vây đang bị cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 3 chúng tôi xiết chặt. Tôi lệnh cho cối 821y bắn cấp tập vào đội hình quân địch. Khi đạn cối chuyển làn về phía nam sông Cam Lộ, cả tiểu đoàn được lệnh xung phong. Lê Văn Dần lại thổi kèn đồng, các loại hỏa lực B40, B41, đại liên bắn quyết liệt, dồn quân địch ra tận bờ sông Cam Lộ. Chiến sĩ Nguyễn Việt Mão, Đại đội 1 đã bắt được 12 tù binh, trong đó có tên thiếu tá Hà Thúc Mẫn, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 ngụy. Tiểu đoàn tôi đã làm chủ hoàn toàn khu vực phía đông nam căn cứ Phu-lơ và Đồi Tròn, chặn đứng lực lượng chi viện phía sau của địch, cắt rời thế liên hoàn của căn cứ Phu-lơ, Đồi Tròn với Cam Lộ và căn cứ 241. Cùng lúc đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch phát lệnh nổ súng chiến đấu hiệp đồng trên toàn Mặt trận, đó là 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 3 năm 1972.
Hàng chục trận địa pháo binh với hàng trăm khẩu pháo các loại cùng gầm lên một lúc như sấm rền chớp giật. Ngay từ phút đầu, pháo binh ta đã bắn trúng hàng loạt các múc tiêu quy định, dìm đầu quân địch tạo điều kiện cho bộ binh và xe tăng áp sát mục tiêu.
Giai đoạn một của chiến dịch đã bắt đầu. Tất cả các căn cứ địch nằm trong hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra đều rung lên trong tiếng nổ của các loại đạn pháo chiến dịch giáng xuống.
Sau này, tôi được Tư lệnh chiến dịch - Tướng Lê Trọng Tấn gặp, ông hỏi: - Theo quy định, chiến dịch mở màn vào lúc 11 giờ 30, tại sao tiểu đoàn của cậu lại nổ súng lúc 10 giờ 30 phút? Tôi trả lời: - Trong chiến đấu có những tình huống xảy ra không thể lường hết được. Cả tiểu đoàn địch hành quân từ Cam Lộ lên thay quân cho cứ điểm Phu-lơ lọt hẳn vào trận địa phục kích của tiểu đoàn. Lúc đó tôi suy nghĩ rất nhiều, đánh hay không? Đánh thì "phạm quy", mà không đánh thì bỏ lỡ thời cơ diệt địch. Hơn nữa nếu để tiểu đoàn 3 ngụy lên được căn cứ Phu-lơ thì gây khó khăn cho Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 của ta, nên tôi quyết định vừa báo cáo vừa ra lệnh cho nổ súng và sẵn sàng chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Tướng Lê Trọng Tấn vui vẻ: - Quyết định của cậu là chính xác, phù hợp với suy nghĩ của Bộ Tư lệnh chiến dịch. Khi được anh Kim Hùng, Trưởng phòng Quân báo chiến dịch báo cáo: "Trung đoàn 56 thay quân ở căn cứ Phu-lơ". Tôi cho rằng, đây là thời cơ nổ súng tốt nhất bảo đảm bất ngờ, vừa đạt hiệu suất chiến đấu cao vừa tạo điều kiện thuận lợi cho Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 tiến công căn cứ Phu-lơ và Đồi Tròn - một mục tiêu quan trọng mà Bộ Tư lệnh chiến dịch giao cho Trung đoàn 27. Hơn nữa, địch chưa biết kế hoạch tiến công lớn của ta...
Theo mệnh lệnh hiệp đồng, Tiểu đoàn 2 do Tiểu đoàn trưởng Bùi Xuân Các, Chính trị viên Lê Văn Dưỡng, Tiểu đoàn phó Hoàng Kỳ và Chính trị viên phó Nguyễn Xuân Kỳ chỉ huy lần lượt đánh chiếm các mỏm Đ1, Đ2, Đ3 và Đ4 ở phía bắc căn cứ Phu-lơ làm bàn đạp. Đại đội 5 đã chiếm xong đồi Đ2. Đại đội 6 đang tiến đánh đồi Đ1. Hướng tiến công chủ yếu của Tiểu đoàn 2 đang phát triển thuận lợi.
Quân địch trong căn cứ Phu-lơ và Đồi Tròn rất hoang mang khi biết tin tiểu đoàn 3 của chúng đã bị tiêu diệt ở điểm cao 322 và điểm cao 288. Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm ra lệnh cho pháo, cối bắn phá căn cứ Phu-lơ, và chỉ thị cho Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Bùi Xuân Các tranh thủ thời cơ mở cửa tiêu diệt căn cứ này. Tiểu đoàn 2 dùng một bộ vũ khí FR mở một cửa ở hướng tây bắc căn cứ và tập trung lực lượng đột kích mạnh vào hướng đó, giảm bớt thời gian vây lấn phía ngoài.
Cối 160 lắp ngòi nổ chậm và cối 1201y của ta tiếp tục bắn phá công sự, hầm ngầm của địch, tiêu diệt một phận sinh lực của chúng trên đỉnh căn cứ Phu-lơ. Trong khi đó ở hướng tây, ta thiết bị xong bộ vũ khí FR để phá rào và ở hướng bắc, Đại đội 5 chuẩn bị sẵn sàng hai khẩu súng phun lửa để đánh phối hợp.
22 giờ 30 phút ngày 30 tháng 3 năm 1972, trinh sát trung đoàn báo về cho chỉ huy Tiểu đoàn 2: Địch ở xung quanh căn cứ Phu-lơ đang rút chạy.
Tiểu đoàn trưởng Bùi Xuân Các ra lệnh cho Đại đội công binh mở cửa bằng vũ khí FR. Trời tối, thi thoảng pháo sáng địch bắn lên cháy le lói trên bầu trời căn cứ Phu-lơ. Cả Đại đội 6 sẵn sàng nằm trước cửa mở theo đội hình tiến công. Mỗi người giắt sau lưng một mẩu gỗ có chất lân tinh phát sáng để dễ nhận ra nhau.
Chiến sĩ công binh Nguyễn Văn Thành cho tổ vượt lên, anh kiểm tra lại nụ xòe lần cuối cùng rồi điểm hỏa vũ khí phá rào FR. Những khối bộc phá ống được liên kết, bay vùn vụt nổ ầm ầm trên mặt đất. Hàng rào địch bị phá bung. Toàn bộ đội hình của Đại đội 6 vượt qua cửa mở, tiến sâu vào căn cứ địch. Quân địch trong căn cứ Phu-lơ đang hoảng hốt trước "rồng lửa" của ta dùng mở cửa ở hướng tây lại càng hoảng hốt hơn khi hướng bắc, hai khẩu súng phun lửa của Đại đội 5 do Đại đội trưởng Phạm Xuân Ngạn chỉ huy, kết hợp với B40, B41 áp sát bắn xối xả vào căn cứ. Các chiến sĩ bộ binh luồn qua lớp rào đánh vào sở chỉ huy địch. Cả Đại đội 6 và Đại đội 5 xung phong đánh chiếm các mục tiêu trong căn cứ Phu-lơ. Một đại đội địch còn lại trong căn cứ bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh. Xác lính ngụy nằm rải rác khắp trận địa pháo, giàn ra-đa, hầm ngầm, lô cốt. Chỉ sau hơn 10 phút chiến đấu, một mũi của Đại đội 6, Tiểu đoàn 2 do Chính trị viên phó Nguyễn Xuân Kỳ (quê anh ở thôn Đông, Vinh Thịnh, Vinh Lộc, Thanh Hóa) chỉ huy đã cắm lá cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng lên nóc hầm chỉ huy của căn cứ địch.
Căn cứ Phu-lơ đã thuộc về ta, mắt xích quan trọng trong hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra bị chặt đứt hoàn toàn.
Trên hướng Tiểu đoàn 1, vẫn chưa thấy đánh Đồi Tròn, Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm nêu vấn đề với Chính ủy Nguyễn Võ Hiển: - Không đánh Đồi Tròn, địch sẽ chạy hết về Đầu Mầu hoặc tập trung lực lượng để phản kích chiếm lại căn cứ Phu-lơ. Lần trước, trung đoàn đã chiếm được Phu-lơ, nhưng cuối cùng lực lượng địch từ Đồi Tròn đã phản kích sang chiếm lại. Các trận chiến đấu diễn ra còn gay go, quyết liệt hơn lúc tiêu diệt lần đầu. Do vậy tôi quyết định cho Tiểu đoàn 2, chỉ để lại một bộ phận chất giữ Phu-lơ, còn đại bộ phận tiếp tục đánh sang Đồi Tròn. Đồng thời tăng cường cho Tiểu đoàn 2 một phân đội công binh và chuyển bộ FR từ đồi Đ1 sang Đồi Tròn mở cửa từ hướng bắc. Mặt khác, phái trinh sát bắt liên lạc với Tiểu đoàn 1 để đánh phối hợp với Tiểu đoàn 2 bao vây, đón lõng phía tây nam, cắt đứt Đồi Tròn với Đường 9.
Ý kiến của Trung đoàn trưởng được Chính ủy nhất trí, nhiệm vụ được triển khai, tất cả phải chuẩn bị xong trước 5 giờ sáng ngày 31 tháng 3 năm 1972.
Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, chưa kịp nghỉ ngơi đã được lệnh trở lại đồi Đ1 để chuyển bộ FR sang Đồi Tròn. Sau 3 giờ vận chuyển, Đại đội 6 và phân đội công binh trung đoàn do chủ nhiệm công binh Trần Hữu Mỹ trực tiếp chỉ huy đã đưa bộ FR triển khai chuẩn bị mở cửa Đồi Tròn.
5 giờ ngày 31 tháng 3, sau khi phân đội công binh điểm hỏa bộ "rồng lửa" thứ hai, mở cửa căn cứ Đồi Tròn, Đại đội 6 và Đại đội 5 chia làm hai mũi đánh thẳng vào căn cứ. Cùng lúc, các trận địa pháo, cối của trung đoàn được lệnh bắn phá căn cứ Đầu Mầu nằm trên Đường số 9, nhằm làm tê liệt căn cứ này, không cho chúng ra ứng cứu Đồi Tròn.
Nghe tiếng súng của ta nổ giòn giã trên căn cứ Đồi Tròn, tuy chưa liên lạc được với sở chỉ huy nhưng Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 Phạm Văn Đông đã nhanh chóng cho một đại đội đánh lên Đồi Tròn từ hướng tây nam và chỉ huy lực lượng chốt chặn, bao vây phía tây nam cắt đứt con đường độc nhất nối Đồi Tròn với Đầu Mầu. Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 1 ào ạt đánh lên, vừa truy kích vừa gọi hàng, vừa tiêu diệt những tên địch ngoan cố chống cự. Đến 10 giờ ngày 31 tháng 3, Trung đoàn 27 đã làm chủ hoàn toàn căn cứ Đồi Tròn.
Chỉ sau hai ngày đêm chiến đấu, với lối đánh táo bạo, đúng thời cơ, luồn sâu, vây chặt tiến công liên tục và mạnh mẽ, Trung đoàn 27 đã san bằng hai cứ điểm kiên cố của địch, diệt gọn hai tiểu đoàn và một đại đội của trung đoàn 2 và trung đoàn 56 thuộc sư đoàn 3 ngụy, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn và một đại đội khác, bắt sống 130 tên, trong đó có tên tiểu đoàn trưởng, phá hủy năm xe tăng, thu một xe tăng M41 và một xe GMC.
Trong những trận đánh của Tiểu đoàn 3 có hai chiến sĩ hy sinh đó là Tiêu Văn Bao thuộc Đại đội 3, anh hy sinh ngày 2 tháng 4 năm 1972, ở phía nam cầu Thiện Xuân và chiến sĩ Trần Văn Vạn thuộc tiểu đoàn bộ, anh hy sinh cùng ngày với Tiêu Văn Bao, cũng ở phía nam cầu Thiện Xuân. Các anh được an táng tại tây bắc điểm cao 166.
Trên các hướng của chiến dịch, Trung đoàn 48 Sư đoàn 320B, sau khi tiêu diệt địch ở khu vực Quất Xá, Cầu Đuồi đã nhanh chóng chuyển sang bao vây chi khu Cam Lộ. Ở hướng Cồn Tiên, Miếu Bái Sơn, Đoàn bộ binh 31 của ta đã nhanh chóng bao vây chia cắt, tiêu diệt quân địch vòng ngoài, sau đó cùng lực lượng vũ trang địa phương vây hãm Cồn Tiên. Ngay chiều hôm đó, quân địch ở Cồn Tiên bỏ căn cứ tháo chạy về Miếu Bái Sơn, mở đầu cuộc tháo chạy trên toàn tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch.
Ở hướng đông, ngay sau khi có lệnh tiến công, Trung đoàn 126 đặc công hải quân đã táo bạo đánh vào duyên đoàn 11 ở cảng và hai bên bờ sông Cửa Việt, khóa chặt quân cảng không cho địch ngoài biển vào và ở Đông Hà rút ra. Trong khi đó, căn cứ Dốc Miếu nằm bên trục đường 1 cũng bị pháo ta đánh phá thiệt hại nặng nề, lại bị bao vây từ ba phía. Sáng 1 tháng 4 năm 1972, trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân địch ở Dốc Miếu, Dốc Sỏi hoảng hốt bỏ chạy về Quán Ngang...
Trước tình thế thuận lợi đó, Tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh kết hợp chặt chẽ với bộ đội đặc công, du kích địa phương tiến công tiêu diệt các lực lượng địa phương quân ở thôn ấp, chi khu, đập tan hệ thống kìm kẹp của địch, giải phóng quận lỵ Gio Linh, khu tập trung Bến Ngư, Mai Xá Thị, Xuân Khánh, Hà Thương... tạo điều kiện cho nhân dân các xã Gio Hải, Gio Lễ, Gio Mỹ, khu tập trung Quán Ngang nổi dậy diệt ác ôn, bảo an, dân vệ, giành quyền làm chủ. Ở hướng tây, hướng trọng yếu của chiến dịch, 11 giờ 55 phút, hai trung đoàn pháo binh 68 và 38 trút đạn pháo hỏa tiễn xuống hàng chục căn cứ địch hai bên Đường 9. Những chớp lửa, những đụn khói xám xịt như những cái nấm khổng lồ thi nhau trùm lên căn cứ Động Toàn, Ba Hồ, Mai Lộc, căn cứ 241. Chớp thời cơ địch đang hoang mang về đòn pháo kích, Trung đoàn 9, Sư đoàn 304 tiến công căn cứ Đầu Mầu. Sau 2 giờ chiến đấu quân ta làm chủ căn cứ.
Đầu Mầu bị diệt tạo điều kiện tốt để Trung đoàn 24 và Trung đoàn 9 của ta đưa lực lượng vào bao vây tiêu diệt quân địch ở Núi Kiếm và căn cứ 241.
Trận đánh của Trung đoàn 66, Sư đoàn 304 kéo dài tới ngày thứ ba. Tiểu đoàn 4, lữ đoàn 147 ngụy (lính thủy đánh bộ) đã lợi dụng địa hình hiểm trở, vách đá và dốc đứng của Động Toàn chống trả quân ta rất quyết liệt. Rạng sáng ngày 2 tháng 4 năm 1972, Trung đoàn 66 mới làm chủ được Động Toàn.
Sáng ngày 2 tháng 4, Trung đoàn 48 được lệnh tiến công cụm quân ngụy hỗn hợp của thiết đoàn 20 không cho chúng vượt Cầu Đưồi vào giải tỏa Cam Lộ. Đồng thời phối hợp với đơn vị bạn tiêu diệt quân địch ở đông bắc chi khu Cam Lộ. Bị đánh từ nhiều phía, thiết đoàn 20 bị thiệt hại nặng, số còn lại tháo chạy về Đông Hà. Thấy quân cứu viện bị đánh tan, tên quận trưởng Cam Lộ và tùy tùng của hắn bỏ chạy, không kịp mang theo con dấu và tài liệu.
Phối hợp với các mũi tiến công của bộ đội chủ lực ở vòng ngoài, dưới sự lãnh đạo của huyện ủy Cam Lộ, Gio Linh, bộ đội địa phương, du kích và cán bộ chia thành nhiều cụm, nhiều khu bám sát các mục tiêu đã được phân công. Khoảng 2 giờ sáng ngày 31 tháng 3 các lực lượng đồng loạt nổ súng vào các mục tiêu, đồng thời phát động quần chúng nổi dậy diệt ác phá kìm, phá các khu tập trung, bung dân về làng cũ. Các xã có lực lượng tại chỗ mạnh như Gio Hải, Gio Hà, Cùa, Ba Lòng, khi bộ đội chủ lực tiến công áp đảo kẻ địch thì quần chúng đã kịp thời phối hợp nổi dậy. Đặc biệt xã Gio Hà, tuy chưa có đòn tiến công của chủ lực ta nhưng du kích ở đây khi có lệnh cũng kịp chớp thời cơ nổi dậy diệt địch, giải phóng quê hương.
Ở vùng Cùa, trước giờ nổ súng, huyện ủy Cam Lộ do anh Nguyễn Minh Kỳ, Tỉnh ủy viên, Bí thư huyện ủy đã phát động trên 2.000 quần chúng, tự trang bị mọi mặt sẵn sàng nổi dậy. Trong khu tập trung, đồng bào các dân tộc (phần lớn là dân tộc Vân Kiều, Pa Cô) nổi lên làm binh biến khởi nghĩa cướp xe ôtô của địch, cắm cờ Mặt trận dân tộc giải phóng, kêu gọi đồng bào các dân tộc phá ấp chiến lược trở về bản làng cũ.
Đến ngày 4 tháng 4 năm 1972, toàn bộ các vị trí địch trên bốn cánh cung đông, tây, nam, bắc được coi là "lá chắn thép", "pháo đài bất khả xâm phạm", "hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra" đã bị ta xóa sổ.
Ba huyện Hướng Hóa, Cam Lộ, Gio Linh với hơn mười vạn dân được giải phóng.
Từ nay, giới tuyến quân sự tạm thời được xóa bỏ, sông Bến Hải, cầu Hiền Lương không còn phải chịu nỗi đau chia cắt.
Thay mặt Bộ Tư lệnh chiến dịch, Tướng Lê Quang Đạo điện biểu dương Trung đoàn 27: "Đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong thời gian ngắn đã tiêu diệt nhiều địch, chiếm giữ được địa bàn, mở cánh cửa phía bắc chiến dịch đúng thời gian".
Đêm mồng 5 tháng 4 năm 1972, Trung đoàn 27 nhận được lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch: "Trung đoàn để lại 1 đại đội của Tiểu đoàn 1 chốt giữ bàn đạp, lực lượng còn lại chuẩn bị hành quân về hướng đông". Nhận lệnh xong, Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm điện cho tôi: "Anh Hiệu nhanh chóng xốc lại đội hình đưa tiểu đoàn về đứng chân ở huyện Gio Linh, nhiệm vụ cụ thể trung đoàn sẽ thông báo sau".
Nhận được điện của trung đoàn trưởng, tôi tranh thủ hội ý Ban chỉ huy tiểu đoàn, triển khai kế hoạch hành quân. Tôi và trinh sát cùng Đại đội 1 hành quân đầu, sau đó là Đại đội 3, Đại đội 2, Đại đội 4 và lực lượng hỏa lực của Đại đội 17 Trên đường về hướng đông Quảng Trị, nơi trước đây chúng tôi phải luồn sâu từng bộ phận nhỏ để phục kích đánh địch trên từng ngọn đồi, đoạn đường, khúc sông, hôm nay, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 hùng dũng, tự hào trở lại vùng đất này khi chiến dịch đang phát triển thắng lợi. Cờ giải phóng phấp phới tung bay trên các căn cứ địch đã bị diệt dọc hai bên Đường 9 từ Động Toàn, căn cứ 241 đến Cồn Tiên, Dốc Miếu...
Bị mất tuyến phòng thủ vòng ngoài, địch vội vã tăng cường lực lượng đối phó. Ngày 2 tháng 4 năm 1972, Tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu từ Sài Gòn bay ra Huế thị sát tình hình và vội mở cuộc họp với các tư lệnh quân khu, sư đoàn, lữ đoàn để bàn cách "ngăn chặn hữu hiệu sự xâm lăng của cộng quân Bắc Việt". Nguyễn Văn Thiệu một mặt khích lệ "tinh thần quả cảm vô song" của binh lính đồn trú ở biên ải, mặt khác ra lệnh cho quân khu 1 và sư đoàn 3 bộ binh tổ chức cụm phòng ngự Đông Hà - ái Tử - La Vang và quyết tâm "tử thử" tại đó.
Đồng thời Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị cho Bộ tổng tham mưu ngụy cấp tốc tăng viện cho chiến trường Quảng Trị.
Ngày 4 tháng 4, Mỹ - ngụy điều lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ từ Sài Gòn ra Mỹ Chánh. Ngày 5 tháng 4, Bộ tổng tham mưu ngụy điều tiếp ba liên đoàn biệt động quân số 4, 5, 6 từ quân khu 2, quân khu 4 ra tăng cường cho Đông Hà, Quảng Trị. Như vậy chỉ trong hai ngày, bằng sự nỗ lực cao nhất, Bộ tổng tham mưu ngụy đã điều 9 tiểu đoàn tới chiến trường nóng bỏng Quảng Trị. Cùng với việc tăng cường lực lượng phòng thủ, lợi dụng các điểm cao còn lại ở phía tây, địch tổ chức thành tuyến phòng thủ liên hoàn, hỗn hợp bộ binh, xe tăng. Chúng sử dụng lối đánh phân tán nhỏ, cơ động nhanh để tránh hỏa lực và bị ta tiêu diệt gọn. Bộ chỉ huy quân đội Mỹ ở Sài Gòn còn ra lệnh cho các lực lượng không quân (kể cả máy bay chiến lược B.52) và pháo hạm đánh phá dữ dội vào các cánh quân của ta.
Trước diễn biến phức tạp của tình hình, ngày 6 tháng 4, Bộ Tư lệnh chiến dịch nhận định: Địch tuy đã tăng cường lực lượng nhưng chưa được củng cố, tinh thần đang hoang mang dao động, nếu ta đánh nhanh, đánh mạnh thì chúng sẽ tan vỡ nhanh. Bộ Tư lệnh quyết tâm tiến công vào ngay tung thâm phòng ngư của địch, không cho chúng kịp củng cố hoặc tháo chạy.
Sau hai ngày chuẩn bị gấp cơ sở vật chất và điều chỉnh các đơn vị hành quân vào khu vực tác chiến, đúng 15 giờ ngày 8 tháng 4 năm 1972, giai đoạn hai của chiến dịch bắt đầu.
Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho các đơn vị pháo binh bắn phá mãnh liệt cụm căn cứ địch ở Đông Hà, ái Tử, La Vang. Tiếp đó, các mũi bộ binh cơ giới lợi dụng pháo bắn và đêm tối đưa đội hình vào chiếm lĩnh trận địa.
5 giờ sáng ngày 9 tháng 4 năm 1972, trên hướng Đông Hà do Sư đoàn 308 đảm nhiệm, Trung đoàn 36, Trung đoàn 102 được xe tăng thiết giáp yểm trợ đã đột phá mãnh liệt quân địch trên một cánh cung dài khoảng 8 ki-lô-mét từ chùa Tám Mái tây bắc Đông Hà đến điểm cao 32, qua dãy Động Quai Vạc.
Sau 2 giờ chiến đấu, bộ binh và xe tăng ta đã chiếm được một số mỏm đồi phía bắc và phía tây, tiêu diệt một loạt tổ chốt hỗn hợp bộ binh và xe tăng địch. Nhưng sau đó, địch phản kích nhiều lần quyết liệt hòng đánh bật ta khỏi những vị trí mới chiếm được. Trận đánh trở nên giằng co, Trung đoàn 36 phải điều phân đội xe tăng dự bị từ phía sau lên tổ chức đột phá. Nhưng, các chiến sĩ xe tăng có phần chủ quan nên bị xe tăng và súng chống tăng của địch bí mật mai phục trong công sự bắn cháy ba xe tăng của ta.
Ở phía tây ái Tử, 5 giờ sáng ngày 9 tháng 4, Trung đoàn 24, Sư đoàn 304 được xe tăng yểm trợ đánh chiếm căn cứ Phượng Hoàng. Chiều hôm đó, địch phản kích, đánh bật ta khỏi căn cứ.
Như vậy qua hai ngày chiến đấu, tiến công quân địch trên tuyến phòng thủ Đông Hà, ái Tử, Quảng Trị, các đơn vị của ta không những không làm chủ được các mục tiêu được giao, ngược lại còn bị tổn thất về sinh lực và phương tiện chiến đấu.
Nguyên nhân chủ yếu là chúng ta không nắm được sự thay đổi về chiến thuật phòng ngư của địch, một chiến thuật phòng ngư di động mà chúng gọi là "chiến thuật di tản". Tư tưởng chủ yếu của chiến thuật này là tận dụng khả năng chống đỡ của vỏ thép và sức cơ động lớn của xe tăng, thiết giáp trên địa hình đồi bằng, kết hợp với bộ binh thành từng cụm gồm một tiểu đoàn bộ binh và một chi đoàn thiết giáp. Trong từng cụm chúng chia thành từng tốp nhỏ. Các cụm liên hoàn yểm trợ cho nhau thành tuyến phòng ngư. Ở vòng ngoài chúng luôn luôn thay đổi vị trí, ngày ở chỗ này, đêm ở chỗ khác. Xe tăng được nguy trang nằm trong công sự nhô tháp pháo lên thành một hỏa điểm mạnh. Khi chưa phát hiện được ta, chúng bí mật nằm yên, nếu phát hiện được chúng sẽ thông báo cho nhau để hợp đồng chống cự hay phản công. Ở vòng trong, chúng dựa vào hệ thống công sự xi măng cốt thép, dựa vào cấu trúc nhà cửa của thị trấn, thị xã và địa hình phức tạp của đồi trống, làng xóm để tạo cho các tuyến phòng ngự có chiều sâu. Ngoài ra, địch còn dựa vào hỏa lực không quân chiến lược, chiến thuật, hệ thống pháo hạm từ ngoài biển và những trận địa pháo mặt đất để vừa ngăn chặn ta từ xa, vừa yểm trợ trực tiếp cho các trận đánh.
Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ đạo các đơn vị rút kinh nghiệm, đặc biệt là khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội, không nắm chắc địch. Có một vấn đề là làm thế nào để tiêu diệt một lực lượng quân địch lớn đang tập trung cố thủ với chiến thuật "phòng ngư cứng"? Chưa tìm ra câu trả lời, thì chưa thể nói đánh thắng quân địch ở Đông Hà, ái Tử, La Vang và Quảng Trị được.
Tôi được biết, sau một vài ngày suy nghĩ, với kinh nghiệm chỉ huy tác chiến dày dạn, Tướng Lê Trọng Tấn đã đưa ra được cách giải quyết. Đối với các cụm Đông Hà, ái Tử không thể dùng lối đánh ồ ạt chớp nhoáng để đập tan các cụm phòng ngư bằng một đòn, mà phải đánh nhiều đòn liên tục, làm rạn vỡ từng đoạn, tiến tới đập tan nó bằng một đòn quyết định.
Thực hiện chủ trương của Tư lệnh chiến dịch, từ ngày 10 đến ngày 25 tháng 4, trên các cánh quân của ta, một mặt vừa chuẩn bị cơ sở vật chất cho một đợt chiến đấu lớn, mặt khác, tổ chức những trận đánh nhỏ và vừa nhằm tiêu hao sinh lực địch, giữ vững vị trí đứng chân.
Tại Đông Hà, Sư đoàn 308 chỉ thị cho Trung đoàn 36 đang giữ bàn đạp tại làng Tây Trị (phía bắc Đông Hà), tổ chức các bộ phận đánh phục kích tiêu hao, tiêu diệt lực lượng bộ binh và xe tăng địch.
Trung đoàn 102, khẩn trương chấn chỉnh lực lượng để cơ động tới cầu Lai Phước. Trung đoàn 48 (đơn vị tăng cường), nhanh chóng củng cố đội hình, tích cực hoạt động ở tây và nam Tân Vinh. Tại ái Tử, Sư đoàn 304, dùng Trung đoàn 9 đánh một số trận vào An Đôn, Nham Biều áp sát cầu Quảng Trị, vừa kéo địch ra ngoài để diệt, vừa thực hiện ý đồ chia cắt chiến dịch.
Đến ngày 26 tháng 4 năm 1972, lực lượng địch bố trí ở chiến trường Quảng Trị như sau: Ở hướng chủ yếu Đông Hà - Lai Phước, địch vẫn giữ nguyên trung đoàn 57 (sư đoàn 3) mới thất bại ở Cồn Tiên, Miếu Bái Sơn trở về giữ vai trò trọng yếu trong phòng ngự thị trấn Đông Hà. Đồng thời tăng viện hai liên đoàn biệt động quân số 4 và số 5 ở Trung Trung Bộ, hai thiết đoàn 17 và 20 được coi là thiện chiến, có nhiệm vụ ngăn chặn tiến tới đẩy lùi ta khỏi Đông Hà, sông Hiếu thu hồi những phần đất đã mất. Cả khu vực Đông Hà, Lai Phước, ái Tử được tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh quân khu 1 ngụy giao cho đại tá Nguyễn Trọng Luật (người đã "nướng" thiết đoàn 17 ở Bản Đông trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào xuân 1971) chỉ huy.
Ở nam sông Thạch Hãn, cụm La Vang, Long .Hưng, địch bố trí tiểu đoàn 1 biệt động quân, lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến và hai chi đoàn thiết giáp, có nhiệm vụ ngăn chặn, đẩy lùi các đợt tiến công vào các điểm cao phía tây thị xã Quảng Trị, và bằng mọi giá phải bảo vệ bằng được trục đường số 1. Ngoài ra lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ còn giữ trọng trách nặng nề làm lực lượng cơ động cho toàn mặt trận. Tất cả các lực lượng ở mặt trận Quảng Trị được giao cho chuẩn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh sư đoàn 3 ngụy chỉ huy.
Thông qua việc bài binh bố trận, ta thấy được chỗ mạnh cơ bản của địch lúc này là đã tăng cường được lực lượng, tổ chức được các cụm phòng ngự lớn, liên hoàn, có chiều sâu, chiều rộng thích hợp. Khi xảy ra tác chiến, địch có thể hỗ trợ cho nhau bảo vệ khu vực phòng thủ. Thêm nữa, cường độ và số lượng hoạt động của không quân và pháo hạm của địch gia tăng, đáp ứng yêu cầu tối đa của các đơn vị tham chiến phía trước. Nhưng, chỗ yếu cơ bản của địch là tinh thần hoang mang dao động, lực lượng lại bị thu hẹp trên một khu vực dọc đường số 1, nhiều sông lạch, đầm lầy, khi tác chiến dễ bị chia cắt tiêu diệt.
Về phía ta, sau đợt hoạt động tạo thế ta đã tìm ra được bí quyết sống còn của chiến thuật "phòng thủ cứng" hỗn hợp của. địch. Khí thế các đơn vị đang lên, lực lượng ta sung sức, chiếm ưu thế hơn hẳn quân địch về quân số, hỏa lực pháo binh. Những bàn đạp quan trọng có lợi cho ta vẫn được giữ vững.
Căn cứ tình hình đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương tác chiến và sử dụng lực lượng như sau: Tập trung lực lượng tiến công tiêu diệt các cụm quân địch ở Đông Hà, ái Tử, La Vang hỗ trợ cho nhân dân hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng nổi dậy diệt ác phá kìm giành quyền làm chủ, giải phóng hoàn toàn thị xã Quảng Trị, nắm thời cơ phát triển giải phóng Thừa Thiên.
Hướng tiến công chủ yếu là Đông Hà, Lai Phước, hướng phối hợp quan trọng là ái Tử, đoạn cầu Nhùng đi Mỹ Chánh là hướng chia cắt chiến dịch.
Sư đoàn 308 được tăng cường Trung đoàn 48 và ba tiểu đoàn thiết giáp, đặc công, công binh tiến công địch ở Đông Hà, Lai Phước. Sư đoàn 304 được tăng cường hai tiểu đoàn thiết giáp và công binh tiến công cụm cứ điểm ái Tử, đồng thời chia cắt địch ở cầu Quảng Trị, đập tan các đợt phản kích, ứng cứu của quân địch ở Quảng Trị - La Vang sang. Sư đoàn 324 (thiếu) chia cắt địch ở đường số 1, đoạn Quảng Trị - Mỹ Chánh, sẵn sàng đánh bại các đợt giải tỏa ứng cứu của địch từ Huế đánh ra, Quảng Trị đánh vào.
Trung đoàn 27 cùng với Tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh được tăng cường một tiểu đoàn thiết giáp, một tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn đặc công, có nhiệm vụ thọc sâu vào đồng bằng ven biển Triệu Phong, Hai Lăng, với nhiệm vụ bao vây vu hồi, chia cắt chiến dịch, khóa đường rút về hướng đông của địch và hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ.
Phương thức tác chiến chiến dịch là hiệp đồng binh chủng chặt chẽ, phát huy sức mạnh của binh khí kỹ thuật, vừa bắn phá trên toàn tuyến vừa tập trung diệt từng điểm, từng cụm, kiên quyết bao vây chia cắt chiến dịch, kết hợp đánh vỡ từng mảng, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn 25 tiểu đoàn bộ binh, ba trung đoàn thiết giáp cùng các lực lượng bảo an và phòng vệ dân sự. Trong quá trình phát triển chiến dịch hết sức chú trọng tiến công quân sự với phát động phong trào nổi dậy của nhân dân.
Vào những ngày cuối tháng 4, thời tiết ở Quảng Trị bắt đầu oi ả. Trên dọc chiến tuyến từ tây bắc Đông Hà, Lai Phước đến những dải đồi ở phía tây ái Tử, La Vang, bộ binh, xe tăng ta nối tiếp nhau vào vị trí xuất phát tiến công. Trong khi đó, máy bay đủ loại của địch vẫn quần đảo trên không. Những chiếc C.130 bay nặng nề, dai dẳng suốt đêm, bắn như đổ đạn xuống vùng ngoại vi các cụm căn cứ Đông Hà, ái Tử, La Vang. Đèn dù, pháo sáng địch sáng rực, không lúc nào tắt Những loạt bom B.52, những loạt bom tọa độ của máy bay B.57 nổ dậy đất. Pháo từ các trận địa, hạm tàu ngoài khơi bắn lúc cầm canh, lúc cấp tập. Nhưng, đạn bom địch không cản được những đơn vị chủ lực ta vào chiếm lĩnh các khu vực theo kế hoạch và thời gian quy định.
Hướng Sư đoàn 308 Ở Đông Hà, Lai Phước, Trung đoàn 102 lặng lẽ tiến dọc theo sông Vinh Phước luồn tránh các điểm chốt của địch, hình thành thế bao vây điểm cao 26, điểm cao 23, Đồi Vuông (tây đường 1). Trung đoàn 88 chia thành hai cánh bí mật luồn sâu vào bên trong bao vây điểm cao 24 (điểm cao được mệnh danh là cánh cửa thép Đông Hà). Trung đoàn 36 từ hướng Tây Trì tiếp cận điểm cao 19 và điểm cao 28. Trung đoàn 48 (tăng cường) đã tiến vào Tân Vinh. Ở phía sau, từng tốp xe tăng, thiết giáp của ta vượt qua những dãy đồi rồi dừng lại cách bộ binh khoảng một đến hai cây số, sẵn sàng đợi lệnh xung trận.
Hướng Sư đoàn 304 ở ái Tử, Trung đoàn 9 và trung đoàn 24 đã tiến vào điểm cao 22, điểm cao 23, điểm cao 42.
Hướng Sư đoàn 324, các đơn vị đã tiến ra đường số 1 thực hiện chia cắt chiến dịch. Cán bộ, chiến sĩ sư đoàn đã chiến đấu quyết liệt với liên đoàn 1 biệt động quân và lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ.
5 giờ sáng ngày 27 tháng 4 năm 1972, các đơn vị trinh sát của bộ binh, các đài quan sát pháo binh được sự giúp đỡ của các tổ công tác địa phương đã xác định lại các mục tiêu lần cuối thật chính xác.
Hệ thống vô tuyến vẫn duy trì phát như thường lệ, không để địch nghi ngờ. Mạng điện thoại đường dây đã thông suốt từ Bộ Tư lệnh chiến dịch đến các trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh, có chỗ xuống tận đại đội làm nhiệm vụ đặc biệt.
5 giờ 30 phút, Tư lệnh chiến dịch Tướng Lê Trọng Tấn, sau khi kiểm tra toàn bộ công tác chuẩn bị chiến đấu của các cánh quân lần cuối cùng đã ra lệnh tiến công.
Mở màn đợt hai chiến dịch là các trận địa pháo hạng nặng 130 ly, Đ74, lựu pháo 155 ly, 122 ly, 105 ly, 100 ly súng cối 160 ly, 120 ly, đạn hỏa tiễn BM14, A12, H12, ĐKB trút bão lửa lên những vị trí quân địch nằm trên suốt chiều dài hàng chục cây số.
Sau 30 phút bắn phá bằng hỏa lực, Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho bộ binh các hướng xung phong.
Ở hướng Sư đoàn 308, Trung đoàn 88 sau khi cùng xe tăng thiết giáp vượt qua điểm cao 37, chia làm hai mũi: Mũi thứ nhất tiến xuống thung lũng tiếp giáp với điểm cao 24 và điểm cao 26. Tại đây, một trận đánh diễn ra ác liệt trên đồi Mâm Xôi.
Trước sự tiến công của ta, bộ binh và xe tăng địch vừa chống đỡ vừa rút về điểm cao 24 gần sân bay Đông Hà. Mũi thứ hai, luồn sâu chốt giữ Làng Mới, tiến công tiểu đoàn 30 biệt động quân, đẩy chúng vào tình thế bị uy hiếp từ nhiều phía. Trước tình thế nguy khốn địch ở Đông Hà liền cho một chi đoàn thiết giáp lên tăng cường và cho không quân, pháo binh yểm trợ tối đa, quyết đánh bật ta ra khỏi vị trí lợi hại này.
Được tăng viện, tiểu đoàn 30 biệt động quân cùng xe tăng dàn hàng ngang, hò hét xông lên. Các chiến sĩ Trung đoàn 88 chờ cho bộ binh và xe tăng địch vào thật gần mới nổ súng. Tên lửa chống tăng B72 điều khiển bằng hữu tuyến lẩn đầu xuất hiện ở chiến trường đã không cho một chiếc xe tăng, xe thiết giáp nào của địch chạy thoát. Kết hợp với.
Tên lửa B72 là súng ĐKZ, B40, B41 nhằm xe tăng địch nổ súng. Mười chiếc xe tăng, xe thiết giáp địch trúng đạn bốc cháy ngùn ngụt. Lính của tiểu đoàn biệt động không còn chỗ dựa là xe tăng, thiết giáp, bất chấp lệnh của chỉ huy chạy tháo thân. Đến 9 giờ, Trung đoàn 88 đã làm chủ các điểm cao 35, điểm cao 24 và điểm cao 37. Đồng thời đưa lực lượng bộ binh cơ giới thọc sâu bao vây sở chỉ huy trung đoàn 57 sư đoàn 3 nguy ở Đại áng, Trung Chỉ.
Trên hướng Trung đoàn 102, hướng tiến công chủ yếu của Sư đoàn 308, cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt. Sau khi pháo bắn yểm trợ, Trung đoàn 102 cho một lực lượng áp sát tiêu diệt địch ở Đồi Vuông, rồi nhanh chóng chuyển sang bao vây quân địch ở điểm cao 26 và điểm cao 23. Địch dựa vào thế cao, hào sâu có xe tăng chống trả ta quyết liệt Trung đoàn 102 đã ba lần tổ chức bộ đội xung phong chiếm các điểm cao nhưng đều bị địch đẩy lùi Trước tình hình đó, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 102 một mặt kiên quyết bám trụ giữ vững trận địa, mặt khác cho người quan sát hỏa lực địch. Sau chốc lát anh em phát hiện hỏa lực của hai xe tăng địch chôn ngầm. Chỉ huy trung đoàn ra lệnh phải tập trung tiêu diệt hai chiếc xe tăng lợi hại nàyt Các loại hỏa lực tập trung vào chiếc xe tăng nhả đạn. Hai chiếc xe tăng địch bị diệt, bộ binh ta tiến lên đánh chiếm và làm chủ các điểm cao 26, 23, 32.
Máy bay địch thi nhau gầm rú bắn phá. Hàng chục trận địa pháo cao xạ và tên lửa tầm thấp cửa ta đã khống chế bầu trời Đông Hà. Gần chục máy bay địch trúng đạn bốc cháy.
Trung đoàn 102 cho Tiểu đoàn 9 tràn xuống đường 1 chặn địch ở cầu Lai Phước. Trên đường tiến công địch ở Trung Chỉ, Trung đoàn 88 bị máy bay, pháo binh địch đánh trúng đội hình gây một số tổn thất nên phải tạm thời đừng lại giải quyết.
Đến 17 giờ, Trung đoàn 88 mới triển khai bao vây quân địch ở điểm cao 28 và tiến công diệt gọn một tiểu đoàn bộ binh và một chi đoàn thiết giáp. Trận đánh vừa kết thúc thì trời cũng đã tối, Trung đoàn 88 phải dừng lại củng cố chờ sáng hôm sau đánh tiếp.
Suốt đêm 27 tháng 4 năm 1972, bầu trời Quảng Trị luôn sáng rực bởi đèn dù và pháo sáng. Pháo binh ta tiếp tục bắn phá căn cứ địch ở Đông Hà, ái Tử, La Vang, thị xã Quảng Trị. Kho xăng địch bốc cháy, kho đạn địch nổ tung, tạo ra những vụ nổ dây chuyền kéo dài suốt đêm. Tại Bộ Tư lệnh chiến dịch đêm 27 tháng 4, nét mặt ai cũng rạng rỡ vì thấy bộ đội ta trên các hướng phát triển nhịp nhàng, ăn ý, hoàn thành các mục tiêu được giao. Để chỉ đạo cuộc chiến đấu ngày 28 tháng 4, Tư lệnh chiến dịch Lê Trọng Tấn chỉ thị: Ngay trong đêm, và ngay lúc này Sư đoàn 308 phải trinh sát thật kỹ, luôn bám sát địch, không để một hoạt động nào của chúng thoát khỏi mắt ta. Phải tổ chức lại và tổ chức thật tốt mũi bộ binh cơ giới yểm trợ đột phá ra đường 1, chất giữ và phá sập cầu Lai Phước. Bọn địch xem cầu Lai Phước là mục tiêu rất quan trọng. Chúng cho rằng cầu Lai Phước còn, Đông Hà còn. Vì vậy, ta phải kiên quyết đánh chiếm được cầu Lai Phước.
Tư lệnh chiến dịch nhắc: Sư đoàn 304 khẩn trương chiếm các điểm cao 22, điểm cao 23, điểm cao 42 và điểm cao 46 ở phía tây để lấy đường vào đánh ái Tử và cầu Quảng Trị. Sư đoàn 324, phải đánh thật tốt ở cầu Nhùng, cầu Bến Đá, chốt giữ chặt đường số 1, kiên quyết thực hiện tốt chia cắt chiến dịch.
5 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4 năm 1972, cuộc tiến công quy mô toàn diện của bốn cánh quân vào sào huyệt cuối cùng của địch ở Quảng Trị bắt đầu.
Mở màn chiến dịch, pháo của ta nã đạn vào căn cứ địch ở Đông Hà, ái Tử, La Vang, thị xã Quảng Trị. Căn cứ địch chìm ngập trong chớp lửa của đạn pháo ta.
Tại Đông Hà, Lai Phước, hướng chủ yếu của chiến dịch do Sư đoàn 308 đảm nhiệm. Khi đạn pháo chiến dịch chuyển làn, Trung đoàn 102 chia làm hai mũi đánh thẳng ra đường số 1, quyết chiếm cầu Lai Phước. Quân địch quyết giữ cầu, chứng tập trung hàng chục xe tăng thiết giáp yểm trợ cho bộ binh, bắn như đổ đạn vào đội hình quân ta. Trung đoàn tập trung súng chống tăng các loại cũng chỉ diệt được ba xe tăng và hai ổ đại liên. Số xe tăng, thiết giáp còn lại lợi dụng độ cao của đường sắt làm vật che khuất và che đỡ, nhô tháp pháo lên khống chế xe tăng và bộ binh ta. Trung đoàn 102 buộc phải dừng lại chiếm lĩnh địa hình có lợi, nên tốc độ phát triển chậm.
Trung đoàn 88 được xe tăng chi viện tổ chức thành nhiều mũi đánh chiếm Trung Chỉ thuộc xã Triệu Lương, phía đông đường số 1. Quân địch ở đây khiếp đảm trước sự tiến công của ta nên tháo chạy về Đại áng. Quân ta truy kích theo.
Cùng lúc đó, Trung đoàn 36 ở hướng bắc, thọc thẳng theo đường số 1 tiến vào Đông Hà. Trước sức tiến công của bộ binh và xe tăng ta, quân địch ở Đông Hà tháo chạy thục mạng.
8 giờ 30 phút, Tướng Lê Trọng Tấn ra lệnh cho Sư đoàn 308: nhanh chóng cắt đứt cầu Lai Phước; đồng thời lưu ý các hướng cần chú ý về sự đột biến tan vỡ của địch.
10 giờ pháo binh chiến dịch bắn phá khu vực cầu Lai Phước. Pháo vừa dứt, mũi bộ binh và cơ giới của Trung đoàn 102 ào ạt xung phong qua đường sắt Ta bắn cháy một lúc ba xe tăng địch, khống chế hai đầu cầu. Quân địch thấy nguy cơ mất cầu Lai Phước - một chiếc cầu sinh tử với quân địch ở Đông Hà, đã dồn sức phản kích điên cuồng, bắn như đổ đạn vào hai đầu cầu.
Các chiến sĩ bộ binh và công binh tràn lên cầu.
Chỉ trong vài phút, 120 ki-lô-gam thuốc nổ đặt giữa mặt cầu đã được liên kết xong. Anh em điểm hỏa.
Khối bộc phá không nổ do nụ xòe gẫy núm và dây truyền lửa bị ẩm, mất tác dụng. Một chiến sĩ mưu trí cặp hai trái lựu đạn vào khối thuốc nổ, giật nụ xòe rồi chạy về đầu cầu. Một tiếng nổ dậy đất, phá huỷ hoàn toàn cầu Lai Phước.
Cầu Lai Phước bị cắt đứt như một tiếng sét làm rung chuyển quân ngụy ở Đông Hà. Cùng lúc, trung đoàn 36 ở phía bắc, Trung đoàn 102 ở phía nam theo đường số 1 đánh ngược lên, Trung đoàn 88 ở phía tây đánh ép xuống. Toàn bộ cụm quân địch ở Đông Hà hoang mang cực độ, bỏ xe cộ khí giới chạy thoát thân. Chúng xông vào các xóm làng ven đường, ven sông tranh cướp quần áo của dân để mặc làm dân sự. Chúng lao bừa ra sông Thạch Hãn, tranh cướp thuyền ghe để vượt sang bờ nam. Hàng trăm tên đắm thuyền ghe bỏ mạng giữa sông.
15 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4 năm 1972, toàn bộ Đông Hà, Lai Phước được giải phóng. Trên hướng Sư đoàn 304, lúc 5 giờ sáng, khi Trung đoàn 24 đang triển khai đội hình đánh vào ái Tử thì một cụm quân địch hỗn hợp cả bộ binh và xe tăng chết chặn sẵn ở vòng ngoài phát hiện được.
Như phương án đã định, Trung đoàn 24 cho một phân đội theo bình độ khuất vòng trái tiến lên nổ súng thu hút địch. Quân địch bị đánh bất ngờ nên bộc lộ lực lượng phản công lại ta. 12 xe tăng địch có rất nhiều bộ binh bám theo dàn hàng ngang hùng hổ xông thẳng vào đội hình tiến công của ta. Hai tiểu đội tên lửa chống tăng B72 được lệnh bắn.
Ngay từ những quả đạn đầu, sáu chiếc xe tăng M.48 kềnh càng của địch bị bốc cháy. Những chiếc xe tăng còn lại khiếp sợ những "quả đạn có mắt" vội vàng quay đầu tháo chạy. Nhưng không kịp, bộ binh và xe tăng ta xung phong truy diệt toàn bộ số xe tăng và bộ binh lữ đoàn 258.
Trung đoàn 48, sau khi diệt xong căn cứ Tân Vinh đã nhanh chóng xốc lại đội hình phối hợp cùng Sư đoàn 304 tiến công địch ở ái Tử.
12 giờ ngày 28 tháng 4 năm 1972, trung đoàn 24 và Trung đoàn 48 được sự yểm trợ của xe tăng, thiết giáp mở cuộc tiến công quân địch cố thủ ở sân bay ái Tử. Địch chống trả quyết liệt, nhiều trận đánh đẫm máu để giành giật từng đoạn hào, từng lô cốt đã diễn ra. Đến 17 giờ 30 phút, ta mới chiếm được hơn nửa sân bay, vì quân số bị hao hụt, đạn dược cạn dần, quân ta phải tạm dừng củng cố, bổ sung rồi mới đánh tiếp.
ở mũi thọc sâu của Trung đoàn 66, tình hình còn phức tạp hơn. Sau một đêm hành quân mệt mỏi căng thẳng, trung đoàn đã đến nam cầu Quảng Trị, triển khai trận địa chết chặn chia cắt đường 1.
Nhưng, quân địch ở đây tổ chức phòng ngự rất chặt chẽ. Ngay từ phút đầu chúng đã phát hiện lực lượng ta và gọi phi pháo đánh chặn rồi cho quân phản kích, quyết đánh bật trung đoàn ra khỏi khu vực cầu Tình huống trở nên phức tạp, chỉ huy Trung đoàn 66 một mặt chỉ huy đơn vị lợi dụng địa hình địa vật tổ chức bám trụ, đánh trả những đợt phản kích của địch, mặt khác gọi pháo chiến dịch bắn mạnh vào hai khu vực đầu cầu phía bắc và phía nam yểm trợ cho trung đoàn xoay chuyển tình thế phát triển tiến công.
Đến 8 giờ sáng, mũi ở phía nam đã đột phá cụm quân địch chốt giữ ga Quảng Trị. Bị đánh tạt sườn bất ngờ, địch lùi ra đường 1. Lợi dụng tình thế thuận lợi, mũi đột phá phía bắc ào lên đánh chiếm chốt giữ đầu cẩu Quảng Trị.
12 giờ trưa, Trung đoàn 66 cơ bản làm chủ mục tiêu phía nam cầu Quảng Trị, rồi chuyển sang đánh địch giải tỏa đường 1.
Việc đưa Trung đoàn 66 vượt sông Thạch Hãn đánh vào hậu phương địch chiếm giữ phía tây thị xã Quảng Trị là một quyết tâm của Sư đoàn 304.
Không những tạo thế chốt chặn đường rút chạy của quân địch từ hướng ái Tử mà còn trực tiếp uy hiếp sở chỉ huy của sư đoàn 3 ngụy trong Thành Cổ Quảng Trị.
Phối hợp với cánh tây, ở cánh đông, đội hình thọc sâu vu hồi chiến dịch do Trung đoàn 27 đảm nhiệm, được tăng cường Tiểu đoàn 66 Lữ đoàn xe tăng 202, Tiểu đoàn 75 pháo binh, Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 47 bộ đội Vĩnh Linh. Ngày 24 tháng 4, sau khi được nhân dân huyện Gio Linh và một số xã phía bắc Triệu Phong giúp đỡ, Trung đoàn 27 và các đơn vị tăng cường đã nhanh chóng vượt sông Cửa Việt và sông Thạch Hãn vào đứng chân ở đồng bằng Quảng Trị. Ngày 25 tháng 4, Tiểu đoàn 2 đứng chân ở Thạch Hội, Long Quang, Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 3 cùng với xe tăng, thiết giáp đã vào Vĩnh Huề, Cầm Phố.
Phương án chiến đấu được Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm phổ biến như sau: Toàn bộ Trung đoàn 27 sẽ chia làm ba mũi.
Mũi thứ nhất, gồm Tiểu đoàn 3 cùng một đại đội xe tăng, thiết giáp đánh vào quận ly Hải Lăng.
Mũi thứ hai, gồm Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh đánh vào quận ly Triệu Phong.
Mũi thứ ba, gồm Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 3 (Quảng Trị), một phân đội xe tăng, xe thiết giáp vòng về phía biển đánh vào Gia Đẳng.
Sau khi dứt điểm mục tiêu chủ yếu, các mũi tiếp tục tiến sâu vào phía nam đồng bằng Quảng Trị.
Ngày 28 tháng 4 năm 1972, toàn bộ hướng đông được lệnh bước vào chiến đấu. Mũi đánh vào Gia Đẳng cửa Tiểu đoàn 2 rung đoàn 27 và Tiểu đoàn 3 (Quảng Trị) đánh chiếm và mở rộng bàn đạp ở Long Quang, Linh An, giữ cho địa bàn đứng chân để các đơn vị triển khai chiến đấu.
Gia Đẳng nằm sát bờ biển, là khu tập trung gần một vạn dân ở giữa vùng cát trắng. Phía đông nam Gia Đẳng có điểm cao 8, địch đã xây dựng thành căn cứ để khống chế khu tập trung, xung quanh là các trận địa pháo cối. Theo tin của cơ sở ta cho biết, những ngày qua địch bắt dân trong khu tập trung chuẩn bị bè mảng để di tản vào Thừa Thiên - Huế bằng đường biển. Tàu quân sự ở cảng Mỹ Thủy sẵn sàng chở lính và chở "dân cốt cán" đi nếu vùng đồng bằng tình hình không bình thường và trong trường hợp lâm nguy, chúng có thể triệt hạ hoàn toàn khu tập trung gần một vạn dân này.
Phương án đánh địch ở Gia Đẳng được ban chỉ huy trung đoàn cân nhắc rất kỹ, khi nổ súng các loại hỏa lực không được bắn vào khu tập trung, phải bảo đảm tính mạng và tài sản của gần một vạn đồng bào. Trung đoàn quyết định dùng xe tăng, thiết giáp đột kích vào điểm cao 8 và các trận địa pháo, các đơn vị bộ binh nhanh chóng bao vây khu tập trung kết hợp với nhân dân nổi dậy từ bên trong. Các đơn vị đánh vào Gia Đẳng phải làm tốt công tác binh vận trong quá trình chiến đấu.
Tiểu đoàn 2 sử dụng Đại đội 5 cùng phân đội xe tăng, thiết giáp được lệnh đột kích mở đường vào điểm cao 8. Pháo, cối của ta được lệnh bắn phá điểm cao 8 và các trận pháo của địch ở phía tây Gia Đẳng làm cả khu vực mịt mù trong khói đạn và cát trắng. Sau những đợt bắn mãnh liệt của pháo binh, xe tăng, thiết giáp cùng bộ binh ào ạt xông lên.
Địch ở điểm cao 8 không kịp chống trả, đứa chết, đứa bỏ chạy, đứa xin hàng.
Cùng lúc đó, Tiểu đoàn 2 và bộ đội địa phương huyện Triệu Phong áp sát vào khu tập trung. Chiến sĩ ta dùng loa kêu gọi binh lính địch ra hàng và kêu gọi nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ. Tiếng loa địch vận dõng dạc vang lên khắp các ấp. Du kích, bộ đội địa phương dẫn từng tổ chiến đấu của Tiểu đoàn 2 vào truy lùng lính nguy và tề điệp ẩn náu trong các ấp. Nhân dân đổ ra đường đón chào bộ đội mỗi lúc một đông. Cả khu tập trung Gia Đẳng tưởng như vỡ ra bởi tiếng reo hò của gần một vạn con người. Cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được bà con cất giữ từ lâu, nay được tung bay trên bầu trời tự do. Ai cũng tìm chỗ cao nhất để treo lá cờ cách mạng.
Khu tập trung Gia Đẳng đã được giải phóng, đồng bào trở về quê cũ làm ăn.
Ban chỉ huy Trung đoàn 27 chủ trương đẩy mạnh tốc độ tiến công để dứt điểm các mục tiêu chủ yếu đưa lực lượng tiến sâu vào phía nam thực hiện thọc sâu, vu hồi, tạo bàn đạp mới cho chiến dịch phát triển. Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1972, quận lỵ Hải Lăng là cứ điểm cuối cùng của địch vào loại mạnh nhất còn lại trên đồng bằng Quảng Trị.
Tại đây, lính nguy từ Thừa Thiên ra ứng cứu cho Quảng Trị, lính từ thị xã Quảng Trị chạy về, chưa kể lính địa phương ở các nơi dắt díu cả gia đình vợ con đi di tản tắc nghẽn ở quận lỵ Hải Lăng.
Bộ chỉ huy vùng 1 chiến thuật vội vã dựng thêm hàng loạt căn cứ mới dọc quốc lộ 1 và hai bên bờ sông ổ Khê để ngăn chặn và "tử thử".
Sáng ngày 1 tháng 5 năm 1972, toàn bộ đội hình của Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 27 do tôi chỉ huy đã triển khai xong lực lượng đánh quân địch trong quận ly Hải Lăng. Bên trong quận ly lúc này dân và lính đều đông. Một vấn đề được đặt ra là phải đánh thắng quân địch nhưng cũng phải bảo vệ được tính mạng người dân.
Tôi trao đổi với đại đội phó đại đội xe tăng Hoàng Thọ Mạc, quê Xuân Hùng, Xuân Thuỷ, Nam Định: - Để bảo vệ được dân khi nổ súng đánh vào quận lỵ ta cho xe tăng đột kích từ hướng bắc theo đường số 1 vào các cụm quân lớn của địch. Mục tiêu là chi khu quân sự Hải Lăng, uy hiếp tinh thần binh lính địch ngay từ đầu. Khi phát hiện được dân thì không được nổ súng mà dùng loa kêu gọi quân địch đầu hàng, kêu gọi người dân hãy vận động chồng con quay súng trở về với cách mạng.
Hoàng Thọ Mạc nói: - Tôi sẽ cho xe tăng tiến nhanh, dùng tiếng nổ động cơ và xích sắt uy hiếp tinh thần chúng, nếu nó chạy cùng với dân thì súng 121y7 trên xe bắn cao làm cho chúng khiếp sợ. Kết hợp làm công tác binh vận và dân vận để đánh địch.
Phương án tiến công quận ly Hải Lăng đã được thống nhất cao giữa bộ binh và xe tăng.
8 giờ ngày 1 tháng 5 năm 1972, tôi phát lệnh tiến công địch trong quận ly Hải Lăng.
Đại đội 1 Đại đội 2 cùng xe tăng theo đường số 1 tiến vào quận ly Hải Lăng. Tôi và Hoàng Thọ Mạc mỗi người chỉ huy một xe tăng T54 dẫn đầu đội hình ầm ầm tiến thẳng vào quận ly.
Đại đội 3 đánh chia cắt địch ở phía cầu Nhi.
Cuộc chiến đấu của Đại đội 3 diễn ra ác liệt. Quân địch cố giữ chiếc cầu sinh tử đối với chúng. Năm chiến sĩ của đại đội đã hy sinh tại đây là: Phạm Văn Lân, quê Đội 20, Bắc Thuận, Vĩnh Thành, Yên Thành, Nghệ An; Hồ Văn Tuyền, quê Đội 8, Hợp tác xã Đồng Tâm, Quỳnh Hậu, Quỳnh Lưu, Nghệ An; Nguyễn Như Tư, quê Đội 8, Thanh Văn, Thanh Chương, Nghệ An; Trần Văn Vỵ, quê Đội 7, Thanh Văn, Thanh Chương, Nghệ An và Nguyễn Xuân Lam, quê Đội 6, Thanh Văn, Thanh Chương, Nghệ An.
Khi thấy xe tăng và bộ binh ta xuất hiện giữa quận lỵ Hải Lăng, lính ngụy trong các vị trí chống trả quyết liệt. Chúng tôi lệnh cho xe tăng hạ nòng pháo bắn vào các ổ đề kháng. Đạn pháo l00 ly của xe tăng ta bắn thẳng làm quân địch kinh hoàng, bỏ chạy về phía Diêm Thanh. Nhiều tên bơi dọc con sông nhỏ Cửa Sát chạy qua quận lỵ để thoát thân.
10 giờ ngày 1 tháng 5 năm 1972, quận ly Hải Lăng hoàn toàn giải phóng. Chúng tôi đã thực hiện được kế hoạch đánh tiêu diệt địch, không một người dân nào bị thiệt mạng. Mũi tiến công bằng bộ binh cơ giới này Đại đội 1 có một chiến sĩ hy sinh là: Vi Văn Quang, quê Bản Thịnh, Châu Đình, Quỳ Hợp, Nghệ An, Đại đội 2 có một chiến sĩ hy sinh là Phạm Đức Trừ, quê Nghĩa Quang, Nghĩa Đàn, Nghệ An.
Chiều cùng ngày Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 27 từ phía thị xã Quảng Trị tiến thẳng theo quốc lộ 1 vào phía tây quận ly Hải Lăng.
Ngay từ ngày 28 tháng 4 năm 1972, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 324 đã bí mật vào chiếm lĩnh những vị trí trọng yếu nhất trên đường 1 nam Quảng Trị.
Hàng chục trận đánh đã diễn ra ở cầu Nhùng, cầu Dùi, bến Đá, Thượng Xá, Mai Động...
10 giờ ngày 28, một loạt bom B.52 cắt qua đội hình Trung đoàn 1, hai chiến sĩ hy sinh. Một trong ba nữ du kích dẫn đường cũng bị hy sinh. Ngày 29 tháng 4, địch đã phát hiện chủ lực ta chia cắt đường số 1 nên đã cho một tiểu đoàn thuộc liên đoàn biệt động quân số 1 cùng một chi đội xe bọc thép từ Long Hưng vào quyết đè bẹp quân ta.
Pháo binh địch bắn phá dữ dội hai bên cầu Nhùng và đầu làng Mai Động. 9 giờ 30 phút, khi các chiến sĩ của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 1 đã vào vị trí chiến đấu phát hiện một đoàn 30 xe GMC chở đầy lính biệt động quân và công binh bắc cầu dã chiến để thông đường. Ngay từ loạt đạn đầu, Tiểu đoàn 3 đã diệt bốn xe GMC, hai xe M113, số còn lại quay đầu tháo chạy.
Cùng thời gian đó, Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 2 Sư đoàn 324 đánh bật tiểu đoàn 8 thuộc lữ đoàn 869 lính thủy đánh bộ ngụy ở khu vực Tường Phước, Tân Điền mở đường cho Tiểu đoàn 4 cơ động xuống đánh địch ở cầu Bến Đá.
Bị mất ái Tử và quận ly Hải Lăng đường số 1 phía nam bị cắt đứt, đến 11 giờ ngày 1 tháng 5 năm 1972, quân địch ở La Vang và thị xã Quảng Trị bắt đầu rút chạy. Quân ta tiến vào thị xã Quảng Trị.
Đó là một ngày chiến đấu dữ dội, ác liệt nhất và cũng gây cho quân đội tay sai ở Quảng Trị nỗi kinh hoàng nhất. Suốt cả ngày chúng mở hàng chục đợt tiến công, tập trung tất cả những gì chúng có thể tập trung được để khai thông đường. Nhưng chúng đi đến đâu cũng bị đánh, chạy đến đâu cũng bị chặn. Cả đoạn đường gần 30 ki-lô-mét từ thị xã Quảng Trị đến Mỹ Chánh trở thành đoạn đường máu, trở thành "đại lộ kinh hoàng" đối với quân ngụy.
Quân địch vô cùng hoảng sợ, vội vã vứt bỏ xe pháo, lột quẩn áo lính, cải trang thành thường dân vượt tắt qua đường, lội ngang sông tháo chạy thục mạng về phía nam, khiến cho địch đóng ở căn cứ Tân Điền, Mỹ Chánh hoảng loạn, bỏ đồn chạy qua Thừa Thiên.
Du kích và nhân dân các xã Triệu Thượng, Triệu Lễ, Triệu ái sát cánh với bộ đội trong những trận chiến đấu ác liệt với địch ở xã Triệu ái và thị xã Quảng Trị. Nhân dân xã Triệu Trạch tự dỡ nhà mình làm công sự cho bộ đội, tham gia tiếp tế đạn, thức ăn, nước uống cho cán bộ, chiến sĩ ta. Ngư dân ven biển, ven sông đưa hết thuyền bè, chặt tre, chuối kết mảng giúp bộ đội vượt sông. Nhân dân và du kích ở xã Hải Vĩnh chủ động chiếm đồn Thi ông.
Du kích xã Hải Quế đánh chiếm đồn Đa Nghi.
Nhân dân và du kích xã Hải Thượng do chị Lê Thị Tám chỉ huy đã gọi hàng và bắt hàng chục tên địch.
Du kích xã Hải An phối hợp cùng bộ đội chiếm cảng Mỹ Thủy. Chị Bích La, Thị ủy viên thị xã Quảng Trị dẫn đường cho Sư đoàn 304 đánh chiếm thị xã.
Sáng ngày 2 tháng 5 năm 1972, cả Trung đoàn 27 đã có mặt ở bờ bắc sông Mỹ Chánh, cùng các đơn vị bạn giữ vững vùng đồng bằng, phối hợp các hướng khác của chiến dịch tiến vào phía bắc tỉnh Thừa Thiên - Huế, trực tiếp uy hiếp quân địch ở đây.
Cũng vào thời gian này, trên các hướng chiến lược ta mở hàng loạt cuộc tiến công quy mô lớn đánh vào các trung tâm phòng ngự của địch. ở Đông Nam Bộ, quân dân ta phá vỡ tuyến phòng ngự biên giới của địch, tiêu diệt ba chiến đoàn bộ binh và hai trung đoàn thiết giáp, giải phóng ba huyện Lộc Ninh, Bù Đốp, Thiện Ngôn và thị xã An Lộc, giải phóng một khu vực rộng lớn ở các tỉnh Tây Ninh, Bình Long và Phước Long. Khối chủ lực của ta đã phá vỡ được các khu vực phòng ngự mạnh nhất của địch, đã chiếm và đứng vững trên các địa bàn cơ động vùng rừng núi, giáp ranh và một số vùng quan trọng ở đồng bằng.
ở Tây Nguyên, lần đầu tiên ta mở chiến dịch tiến công quy mô lớn vào tuyến phòng thủ cơ bản mạnh nhất của địch ở Bắc Tây Nguyên, tiêu diệt một sư đoàn địch, nhiều trung đoàn, thiết đoàn trong một cụm phòng ngự kiên cố và dày đặc. Và, cũng là lần đầu tiên ta giải phóng một khu vực rộng lớn, gần hết tỉnh Kon Tum và đã đánh bại liên tiếp các đợt phản kích, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng.
ở đồng bằng Khu 5, ta đánh chiếm Hiệp Đức, tiến công địch và làm chủ Bồng Sơn, Tam Quan, bắc Bình Định. Quần chúng nổi dậy hình thành sự phối hợp giữa đòn tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng.
Trước tình hình nguy khốn của quân ngụy Sài Gòn, chính quyền Ních-xơn đã phải tiến hành chủ trương có ý nghĩa chiến lược vượt ra khỏi khuôn khổ "Việt Nam hóa chiến tranh", tức là "Mỹ hóa" trở lại cuộc chiến. Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã huy động một lực lượng lớn không quân, hải quân để chi viện cho quân nguy phản kích và cho hệ thống cố vấn Mỹ trở lại hoạt động đến cấp trung đoàn, nắm quyền chỉ huy trực tiếp cuộc chiến tranh.
Đối với miền Bắc, ngày 6 tháng 4 năm 1972, tổng thống Mỹ Ních-xơn huy động một lực lượng không quân và hải quân cao nhất từ trước đến lúc bấy giờ đánh phá trở lại để trả đũa các cuộc tiến công của ta ở miền Nam. Theo số liệu tôi nắm được, máy bay chiến thuật lúc cao nhất là 1.400 chiếc, chiếm tới 40% lúc lượng không quân chiến thuật Mỹ. Máy bay chiến lược B.52 lúc cao nhất 193 chiếc, chiếm 45% B.52 của cả nước Mỹ. Tàu chiến 14 chiếc, chiếm 3/4 tàu chiến của Hạm đội 7, trong đó có sáu tàu sân bay, chiếm 50% số tàu sân bay của Mỹ. Chỉ tính riêng lực lượng không quân đánh Việt Nam của Mỹ đã bằng lực lượng không quân ba nước mạnh nhất Tây âu lúc đó cộng lại là: Anh 600 chiếc, Pháp 475 chiếc, Tây Đức 500 chiếc (số lượng năm 1972).
Ngày 9 tháng 5 năm 1972; Ních-xơn ra lệnh phong tỏa các cảng và vùng biển miền Bắc Việt Nam, tăng cường ném bom hệ thống giao thông trên bộ và đánh phá tất cả các cơ sở kinh tế và quốc phòng của ta. Ních-xơn tuyên bố: "Thà thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống còn hơn thua trong cuộc chiến tranh này". Âm mưu của Mỹ là bóp nghẹt miền Bắc, cắt đứt nguồn tiếp tế từ ngoài vào nước ta và từ miền Bắc vào miền Nam. Với thủ đoạn thâm độc này, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc tính toán rằng, chậm nhất trong vòng 3 tháng ta sẽ kiệt quệ và buộc phải thương lượng với Mỹ trên thế yếu.
Cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ ác hệt hơn, quy mô lớn hơn lần trước.
Trở lại chiến trường Trị - Thiên, sau hai đợt tiến công và nổi dậy từ 30 tháng 3 đến 1 tháng 5 năm 1972, quân và dân Quảng Trị đã quét sạch hệ thống phòng ngự kiên cố nhất và đập tan bộ máy kìm kẹp của Mỹ - nguy từ sông Bến Hải đến sông Mỹ Chánh, từ Lao Bảo đến Cửa Việt.
Trong bài xã luận đăng trên báo Quảng Trị giải phóng có đoạn: "Ngày 1 tháng 5 năm 1972, Quảng Trị hoàn toàn giải phóng, đánh dấu cái mốc vẻ vang trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của tỉnh"...
"Quảng Trị là tỉnh đầu tiên của miền Nam được giải phóng. Đó là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng, thắng lợi này tỏ rõ sự trưởng thành vượt bậc, sức mạnh to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, làm cho thế ta càng thắng, lực ta càng mạnh. Ta đang thuận lợi, địch đang khó khăn. Thế và lực của địch đã suy yếu lại càng suy yếu thêm và không tránh khỏi ngày thất bại hoàn toàn".
Ngày 12 tháng 5 năm 1972, ủy ban mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Quảng Trị ra thông cáo Mười chính sách đối với vùng giải phóng, nội dung như sau: - Chính quyền cách mạng tuyên bố xóa bỏ chế độ thống trị của đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu, kiên quyết cùng đồng bào đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
- Chính quyền cách mạng thi hành chính sách đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc, không phân biệt đối xử giàu nghèo, tôn giáo, xu hướng chính trị và những người trong quá khứ có sai lầm mà nay đã hối cải trở về cùng toàn dân kháng chiến.
- Cương quyết trừng trị mọi âm mưu phá hoại những thành quả cách mạng, phá hoại khối đoàn kết toàn dân để bảo vệ cách mạng và giữ gìn trật tự - an ninh.
- Bảo vệ tài sản và chăm lo việc làm ăn sinh sống của nhân dân, khuyến khích và giúp đỡ nhân dân đẩy mạnh sản xuất.
- Bảo vệ cơ sở văn hóa giáo dục, y tế xã hội và các cơ sở phục vụ công tác khác.
- Bảo đảm quyền tự do dân chủ, tôn trọng tự do tín ngưỡng, thực hiện đoàn kết và bình đẳng giữa các tôn giáo.
- Thực hiện quyền bình đẳng, đoàn kết và tương trợ giữa các dân tộc.
- Sẵn sàng tha thứ và sử dụng những viên chức trước đây làm việc trong bộ máy ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu nay tự nguyện trở về với cách mạng.
- Sẵn sàng khoan hồng cho các sĩ quan và binh lính trong quân đội ngụy nay đã thực sự hối cải trở về với chính nghĩa, cùng toàn dân tiếp tục kháng chiến.
- Bảo vệ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều, kể cả kiều dân Mỹ làm ăn lương thiện trên đất nước Việt Nam.
Bằng những chính sách cụ thể, rõ ràng, bản thông cáo đã có tác dụng to lớn, kịp thời cổ vũ các tầng lớp nhân dân tự giác tham gia công cuộc bảo vệ, xây dựng thực lực cách mạng, sẵn sàng đối phó với âm mưu thủ đoạn mới của Mỹ - nguy, huy động đông đảo nhân dân, nhất là thanh niên, phụ nữ và dân quân du kích, xây dựng chính quyền cách mạng.
Ngày 5 tháng 6 năm 1972, ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Quảng Trị được thành lập gồm 13 người do ông Lê Bổ (Lê San) làm chủ tịch, ông Nguyễn Thư (Nguyễn Sanh) làm Phó Chủ tịch.
Mười một ủy viên gồm các ông, bà: Nguyễn Tập, Phan Văn Khánh, Hùng Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Phố, Lê Ngọc Uynh, Trần Quang Huy, Hồ Văn Côi, Nguyễn Hoành, Hồ Văn Xinh, Nguyễn Thị Bảo.
Ngày 9 tháng 6 năm 1972, ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Quảng Trị làm lễ ra mắt tại thị xã.
Các cấp chính quyền từ huyện đến xã cũng được thành lập.
ủy ban nhân dân cách mạng các cấp tỉnh Quảng Trị được thành lập là một thắng lợi có ý nghĩa to lớn trong đời sống chính trị của Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị.. Khắp vùng giải phóng từ Hướng Hóa, Cam Lộ đến Triệu Phong, Hải Lăng đâu đâu cũng phấp phới cờ sao, tưng bừng không khí chiến thắng.
Giữa tháng 5 năm 1972, quân dân Mặt trận Trị - Thiên đã được lệnh mở tiếp những cuộc tiến công xuống huyện Phong Điền, Thừa Thiên - Huế, chọc thủng tuyến phòng thủ của địch ở nam sông Mỹ Chánh bắt liên lạc với lực lượng vũ trang Thừa Thiên nhằm thọc sâu vào tuyến sông Bồ.
Phong Điền là huyện cửa ngõ phía bắc của Thừa Thiên tiếp giáp với tỉnh Quảng Trị. Nhân dân Phong Điền thuần phác, có lòng yêu nước nồng nàn, ý chí căm thù giặc sâu sắc. Thời Mỹ - Diệm, Ngô Đình Cẩn tàn ác, bắt các chiến sĩ cách mạng ở đây cho vào bao tải quăng xuống sông Bồ. Nhưng nhân dân Phong Điền vẫn hướng về cách mạng, che giấu cán bộ, bộ đội. Dẫu khó khăn đến nhường nào nhân dân cũng mua lương thực, giấu dưới các trảng cát, đêm đêm giao cho bộ đội đưa lên chiến khu. Nhiều nhà tự đào hầm bí mật trong vườn nuôi giấu cán bộ.
Tháng 5 năm 1972, sau khi Quảng Trị giải phóng trên có lệnh đưa lực lượng đánh địch vào Thừa Thiên. ở phía tây sông Mỹ Chánh, Sư đoàn 304 và Trung đoàn 48 đã chiếm giữ khu vực núi Cái Mương.
ở phía đông, Trung đoàn 27 và Tiểu đoàn 66 xe tăng tiếp tục tiến công địch ở Thanh Hương, Đại Lộc Thời gian này, anh Võ Nguyên Quảng, quê Hải Thủy, Hương Thủy, Thừa Thiên làm Huyện đội trưởng kiêm Chính trị viên huyện đội Phong Điền, được lệnh đưa một đại đội bộ đội địa phương và một trung đội đu kích ra bắt liên lạc và dẫn đường cho Trung đoàn 27.
Anh Quảng cho tôi biết: "Tối 19 tháng 5, chúng tôi đến Diên Khánh, gặp dân Quảng Trị chạy vào Thừa Thiên, tưởng chúng tôi là lính ngụy, họ bảo: Lo mà quay lại Thừa Thiên đi, quân Việt cộng nhiều lắm ở ngoài đó". Thông tin này rất cần cho chứng tôi, chúng tôi biết đại quân ta đã tiến vào Thừa Thiên rồi.
Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 27 do tôi làm tiểu đoàn trưởng gặp lực lượng do anh Quảng chỉ huy. Mới lần đầu gặp nhau nhưng sao mà thân thiết đến thế.
Anh tự giới thiệu tên và giới thiệu mấy anh chị em du kích: Nguyễn Thị Nghệ, Nguyễn Thị Dung, Lê Thị Duyên, Hoàng Ngọc Hồng, Huỳnh Văn Phận, Lê Thị Nhân, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Lực, Nguyễn Thị Yến, Lê Viết Huy, Nguyễn Thị Bốn, Trương Văn Truyền...
Chúng tôi thống nhất phương án: bộ binh và xe tăng sẽ đi dọc bờ biển về Thuận An rồi đánh thốc ra đường số 1.
Đêm 20 rạng 21 tháng 5 năm 1972, chúng tôi bắt đầu xuất kích.
Được lực lượng vũ trang huyện Phong Điền dẫn đường và phối hợp chiến đấu, chúng tôi lần lượt phá các ổ co cụm của lính ngụy dọc sông Ô Lâu để tiến sang khu vực Thanh Hương, Kế Môn. Chúng tôi đánh địch trong hành tiến, gặp địch là đánh, đánh xong lại tiếp tục hành quân. Các trận đánh diễn ra ở khu vực này gần như không có thời gian chuẩn bị.
Sáng ngày 21 tháng 5, chúng tôi đến Thanh Hương, Kế Môn, Đại Lộc. Ba địa danh này nằm trên trục đường liên tỉnh nối Quảng Trị với Thừa Thiên ở hướng đông, chạy song song với đường quốc lộ 1 Trước đây địch đóng hàng chục đồn bốt dọc theo trục đường, nhưng sau khi Quảng Trị giải phóng, số lính nguy sống sót chạy về và số lính ngụy mới được điều từ Thừa Thiên ra để cố thủ vùng này, nên Thanh Hương, Kế Môn, Đại Lộc trở thành những căn cứ chứa đủ các sắc lính. Riêng Thanh Hương do tiểu đoàn 100 bảo an chiếm đóng, có thêm các loại xe pháo vừa đổ ra để lập tuyến phòng thủ mới.
Cuộc chiến đấu đánh vào căn cứ Thanh Hương lúc đầu diễn ra giằng co quyết liệt. Sau đó, chúng tôi đưa xe tăng vào đột kích. Thấy pháo 100 ly của xe tăng ta bắn thẳng, quân địch hốt hoảng giẫm đạp lên nhau tháo chạy. Lực lượng vũ trang địa phương đón lõng chặn đánh buộc chúng phải hạ vũ khí đầu hàng. Tiểu đoàn 100 bảo an bị diệt gọn. Thừa thắng, chúng tôi phát triển tiến công về Đại Lộc. Để ngăn chặn đường tiến quân của ta, địch đổ một tiểu đoàn và một đại đội thủy quân lục chiến xuống Kế Môn, Đại Lộc. Vừa chân ướt chân ráo xuống Kế Môn, Đại Lộc bọn địch đã bị bộ binh, xe tăng cùng lực lượng vũ trang địa phương chặn đánh tiêu diệt gần hết. Số sống sót tháo chạy về phía nam.
Các xã Phong Hòa, Phong Bình, Phong Chương, Phong Hiền được giải phóng.
Có một chuyện để lại ấn tượng sâu sắc trong tôi, đó là khi Phong Hòa được giải phóng, anh Đoàn Thúy Bí thư Đảng ủy xã bao năm bám trụ vùng địch, thấy bộ đội chủ lực vào đã hăng hái nhảy lên một chiếc xe tăng dẫn đầu một phân đội thọc sâu đánh vào quận lỵ Phong Điền. Xe tăng và bộ binh ta chiến đấu dũng cảm, nổ súng diệt được một số địch, bắn cháy một xe tăng địch. Nhưng, vì đơn thương độc mã, xe tăng ta bị địch tập trung súng chống tăng bắn, chiếc xe bốc cháy. Anh Đoàn Thúy và các chiến sĩ xe tăng đều hy sinh. Riêng Tiểu đoàn 3 và xe tăng cùng lực lượng vũ trang do anh Võ Nguyên Quảng chỉ huy vừa giải phóng xã Phong Hòa, Thanh Hương, Đại Lộc, Lương Mai đã đánh vào cụm thủy quân lục chiến chiếm đóng ở Kế Môn, Đại Lộc... và chốt giữ ở đây. Chúng tôi tiến thẳng về quận lỵ Phong Điền. Thấy bộ binh và xe tăng ta dũng mãnh tiến vào, quân địch bỏ chạy. Quận Phong Điền được giải phóng.
Kết thúc đợt hoạt động, anh Võ Nguyên Quảng được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì.
Tiểu đoàn 3 của tôi có bốn cán bộ, chiến sĩ hy sinh khi đánh vào ấp Lương Mai ngày 22 tháng 5 năm 1972, đó là: Trung đội phó Bùi Văn Lợi, quê Kỳ Giang, Kỳ Anh, Hà Tĩnh; Trung đội phó Đặng Xuân Ninh, quê Tân Sơn, Thạch Lâm, Thạch Hà, Hà Tĩnh; Tiểu đội phó Trần Văn Kỳ, quê Trung Tiến, Thạch Môn, Thạch Hà, Hà Tĩnh; Tiểu đội phó Lê Văn Lập, quê Thanh Lâm, Cẩm Quang, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh.
Lực lượng vũ trang địa phương huyện Phong Điền có 10 anh chị em hy sinh, có người tôi chỉ nhớ tên, còn quê thì tôi không nhớ. Đó là: Chị Nguyễn Thị Xoa, anh Nguyễn Văn Luật, anh Trần Văn Trường, chị Quế, o Yến, o Con, o Gái, anh Trai, anh Luật, anh Sang (ở Quảng Ninh).
Một dải đất chạy dọc sông Ô Lâu phía bắc tỉnh Thừa Thiên đã được giải phóng. Trung đoàn 27 đã thực hiện thắng lợi nhiệm vụ thọc sâu trong giai đoạn hai của chiến dịch Quảng Trị.
Cuối tháng 5, tôi được bổ nhiệm chức vụ Trung đoàn phó Trung đoàn 27.
Trước tình hình cả tỉnh Quảng Trị về tay cách mạng, ngày 4 tháng 5, Nguyễn Văn Thiệu - tổng thống ngụy quyền Sài Gòn và đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng quân ngụy vội vã bay ra căn cứ quân sự Mang Cá (Huê) họp bàn với các cố vấn quân sự Mỹ và các tướng tá chỉ huy quân đội ngụy để cứu xét tình hình Trị - Thiên. Nguyễn Văn Thiệu cho rằng: Sở dĩ Quảng Trị rơi vào tay cộng quân quá nhanh như vậy là do hạ cấp quá chủ quan không tiên lượng được lực lượng của đối phương. Cái quan trọng hơn là quân sĩ ngoài chiến trường thiếu tinh thần dũng cảm hy sinh... ông ta chỉ trích thẳng thừng Vũ Văn Giai, tư lệnh sư đoàn 3 vì đã tự động cho lui quân phòng tuyến phía bắc và đến khi được tăng quân thì không chịu "tử thủ" vì danh dự quốc gia; bỏ Đông Hà, ái Tử mà chạy.
Trước thảm bại Quảng Trị thất thủ, Thừa Thiên bị uy hiếp nặng nề, Nguyễn Văn Thiệu cách chức Hoàng Xuân Lãm, đưa tướng Ngô Quang Trưởng lên làm tư lệnh quân khu 1, bỏ tù tướng Vũ Văn Giai sư đoàn trưởng sư đoàn 3 và giải thể luôn sư đoàn này.
Ngày 13 tháng 6 năm 1972, sau khi được Mỹ hứa tăng viện trợ, Nguyễn Văn Thiệu quyết định mở cuộc hành quân "Tái chiếm Quảng Trị" lấy tên là "Lam Sơn 72". Để ăn chắc, Thiệu huy động 4 sư đoàn mạnh nhất trong quân đội ngụy, trong đó có sư đoàn dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ thuộc lực lượng tổng dự bị quốc gia với lực lượng tương đương 13 trung đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 thiết đoàn được nhiều đơn vị không quân, pháo hạm Mỹ hỗ trợ cho cuộc hành quân tái chiếm này.
Bộ chỉ huy quân đội ngụy chia cuộc hành quân làm ba giai đoạn: Giai đoạn 1, từ cuối tháng 5 đến trung tuần tháng 6: nhanh chóng điều động lực lượng từ các nơi ra nam sông Mỹ Chánh lập tuyến phòng thủ ngăn chặn cuộc tiến công của ta.
Giai đoạn 2, từ cuối tháng 6 đến giữa tháng 7: thực thi tái chiếm huyện Hải Lăng, Triệu Phong và thị xã Quảng Trị. Quân ngụy xem đây là giai đoạn quan trọng nhất của cuộc hành quân. Muốn chiếm lại phần đất còn lại ở phía bắc nhất thiết phải chiếm bằng được bàn đạp phía nam sông Thạch Hãn, trong đó có Thành Cổ - thủ phủ tỉnh Quảng Trị để tạo sức nặng mặc cả với ta tại Hội nghị Pa-ri.
Giai đoạn 3, từ cuối tháng 7 đến giữa tháng 8: chiếm lại toàn bộ ái Tử, Đông Hà, Cam Lộ, Gio Linh.
Về phía ta, sau khi giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị, khí thế bộ đội rất cao. Bộ Tư lệnh chiến dịch đã điều động lực lượng, chuẩn bị vật chất, làm đường cơ giới xuống Cái Mương (tây Mỹ Chánh) để triển khai lực lượng, kết hợp với lực lượng Quân khu Trị - Thiên tiến công từ đường 12 xuống giải phóng Thừa Thiên - Huế. Nhưng do công tác bổ sung quân số, bảo đảm vật chất, tiếp tế hậu cần gặp nhiều khó khăn (chỉ thực hiện được 30% kế hoạch) nên sức chiến đấu của ta giảm sút. Trong khi địch tăng thêm lực lượng và tăng cường phòng thủ, chuẩn bị tiến hành phản kích trên quy mô lớn, ta vẫn tiếp tục thực hiện quyết tâm mở đợt tiến công mới vào tuyến nam sông Mỹ Chánh. Lực lượng ta bị tổn thất lớn hơn hai đợt tiến công trước.
Sau khi nắm được ý đồ tập trung lực lượng phản công tái chiếm tỉnh Quảng Trị của địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch một mặt tổ chức lực lượng, điều động các đơn vị chặn đánh địch bảo vệ vùng giải phóng, một mặt thông báo cho Tỉnh ủy và lệnh cho tỉnh đội Quảng Trị tổ chức các lực lượng vũ trang, các tổ chức quân, dân, chính, Đảng ở địa phương khẩn trương sơ tán dân, chuẩn bị chiến đấu, phối hợp với bô đội chủ lực đánh bại cuộc tiến công lớn của địch nhằm chiếm lại toàn bộ tỉnh Quảng Trị, trong đó có âm mưu chiếm cho được Thành Cổ và thị xã làm con bài chính trị phục vụ cho Hội nghị Pa-ri.
Thực hiện chủ trương của. Bộ Tư lệnh chiến dịch và nhiệm vụ của Tỉnh ủy, Tỉnh đội Quảng Trị giao, trong một thời gian ngắn, các cấp ủy, cán bộ, bộ đội đã khẩn trương đưa được tám vạn dân của thị xã và của hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng (những địa bàn địch đánh phá ác liệt nhất) đến các nơi an toàn sau đó đưa phần lớn đồng bào ra Vĩnh Linh.
Quán triệt quyết tâm của Quân ủy Trung ương: "Chỉ có một khả năng giữ vững Quảng Trị là đánh bại cuộc hành quân của địch", Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương tăng cường và chi viện cho lực lượng giữ thị xã, đồng thời liên tục tổ chức những trận phản kích hai bên sườn, chủ yếu là từ hướng tây từng bước đánh bại ý đồ của địch nhằm chiếm thị xã nhanh chóng.
Quyết tâm và chủ trương của trên được quân và dân Quảng Trị nghiêm túc thực hiện.
Hướng chủ yếu là Thành Cổ và thị xã Quảng Trị. Thành Cổ nằm phía đông thị xã Quảng Trị, còn gọi là Thành Đinh Công Tráng. Thành xây bằng gạch từ năm 1827 có hình gần vuông mỗi cạnh 500 mét, phía ngoài có hào rộng 15 mét bao quanh. ở đây, dưới thời ngụy có nhà tỉnh trưởng, tòa thị chính, khu cố vấn Mỹ và một số cơ quan dân sự ngụy.
Tại khu vực thị xã, ngoài lực lượng nòng cốt là Trung đoàn 48, tỉnh đã biên chế đầy đủ cho Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn 3 và Đại đội 32 của thị xã Quảng Trị cùng một số du kích tập trung, cán bộ các ngành để phối hợp chiến đấu với bộ đội chủ l.ực.
Cuộc chiến đấu, chốt giữ thành Quảng Trị thực sự diễn ra gay go, quyết liệt từ ngày 3 tháng 7 trở đi Sư đoàn dù. sau khi tiến ra đường số 1 đã ra sức đánh phá các chốt nhỏ lẻ của ta, hòng tái chiếm thị xã Quảng Trị.
Tiểu đoàn 7 lữ dù 3 vượt qua làng An Thái, định vượt ngã ba Long Hưng thì gặp bức tường lửa của Đại đội 1 Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 buộc phải chùn lại. Địch cho máy bay giội bom và pháo binh bắn nát những vườn cây trái ở ngã ba Long Hưng.
Sau đợt bắn phá dữ dội, tiểu đoàn 7 lại xông lên.
Nhưng chúng lại vấp phải sự chống trả quyết liệt của quân ta. Cứ thế, suất 3 ngày tiểu đoàn 7 dù cạn quân phải lùi về phía sau, để liên đội biệt kích thế chân đánh tiếp. Sự vững chắc của các chốt thép kiên cường ở đây không thể tính bằng ngày bằng giờ mà tính bằng tuần bằng tháng. Thực tế chiến đấu của chốt thép Đại đội 11 Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 đã chứng minh một đại đội chốt, tổ chức chỉ huy chặt chẽ, có công sự vững chắc sẽ đánh bại một tiểu đoàn địch.
ở hướng thị xã, Thành Cổ, Trung đoàn 48, Tiểu đoàn 8 và Tiểu đoàn 3 tỉnh đội Quảng Trị đã chặn đứng hàng chục đợt tiến công của quân dù vào khu vực La Vang, Long Hưng, ngã ba làng Thạch Hãn.
Địch phải điều lữ đoàn 369 từ Gia Đẳng đánh lên Trâm Lý, Quy Thiện, Tri Bưu... Nhưng tất cả các đơn vị chúng tung ra đều bị thiệt hại nặng, phải dừng lại củng cố.
Trên hướng đông, các Trung đoàn 27, Trung đoàn 64 và Trung đoàn 18, Tiểu đoàn 47, sau khi đã đề ra quyết tâm và chủ trương chiến đấu là: "Kiên quyết giữ vững tuyến trận địa ở hướng đông Quảng Trị. Tổ chức chặn đánh địch ở phía trước, luồn sâu đánh mạnh vào sau lưng địch, bắt chúng lui về đối phó với ta. Sử dụng đơn vị cỡ tiểu đoàn, trung đoàn thiếu hiệp đồng cùng xe tăng và pháo binh tiến công vào những điểm quân địch co cụm, lấy tiêu diệt sinh lực địch làm chính".
Thực hiện kế hoạch tác chiến của Mặt trận cánh đông, Trung đoàn 27 cùng một đại đội xe tăng được lệnh luồn sâu vào làng Ngô Xá, với nhiệm vụ giữ vững và mở rộng địa bàn Thanh Lê. Ban chỉ huy trung đoàn phân công anh Cao Uy - Trung đoàn phó Tham mưu trưởng đi sát, theo dõi và cùng ban chỉ huy Tiểu đoàn 1 triển khai kế hoạch chiến đấu.
Làng Ngô Xá và Thanh Lê nằm bên đường số 4, nếu địch vượt qua được Ngô Xá và Thanh Lê, chúng sẽ đánh vào thị xã phía đông bắc qua Quy Thiện, Tri Bưu và đánh dọc theo trục đường số 4 ra quận ly Triệu Phong. Ban chỉ huy Trung đoàn 27 điều Tiểu đoàn 1 vào khu vực Ngô Xá, Thanh Lê mở ra một địa bàn và một cụm chốt ở phía đông bắc thị xã Quảng Trị.
Tiểu đoàn 1 triển khai đội hình chiến đấu xong thì trời vừa sáng. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Viết Giáp đến trận địa Đại đội 1 nằm ngoài làng Ngô Xá. Đây là hướng chủ yếu khống chế toàn bộ đoạn đường số 4 chạy qua làng. Tiểu đoàn trưởng Giáp hài lòng về kế hoạch hiệp đồng giữa Đại đội 1 và phân đội xe tăng mà anh vừa nghe đại đội trưởng báo cáo. Đến với tổ chiến đấu nào tiểu đoàn trưởng cũng thấy anh em đang khẩn trương chuẩn bị chiến đấu Họ hành động với một tinh thần chu đáo và tự giác. Hơn hai trăm con người cùng xe tăng luồn vào đây mà vẫn giữ được bí mật an toàn.
Tôi được anh em Tiểu đoàn 1 kể lại, sáng ngày 17 tháng 7, sau khi dùng bom pháo dọn đường, địch cho xe tăng, thiết giáp cùng bộ binh tiến vào làng Ngô Xá, Thanh Lê. Chúng tiến quân chậm chạp, xe và lính tưởng như quấn lấy nhau. Ngay lúc đó, các chiến sĩ trận địa chốt Đại đội 1 phát hiện gần hai trăm người dân. Một số người đi trước đội hình xe và lính, một số ngồi cả lên xe bọc thép. Lại thêm một thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, bắt những người dân vô tội đi trước làm bia đỡ đạn.
Vào gần làng Ngô Xá, địch dồn dân đi trước, lính ngụy bám phía sau. Trung đội trưởng Trung đội 1 Đại đội 1 Hoàng Trọng Bảo len lỏi giữa chiến hào, đến từng tổ chiến đấu nhắc nhở anh em: - Trong bất cứ tình huống nào cũng phải bảo vệ dân. Tất cả giương lê sẵn sàng đánh gần! Trận địa vẫn im lặng.
Bỗng từ trong đoàn người, một phụ nữ chạy vụt lên phía trước, nói như ra lệnh: - Giải phóng ơi! Bắn đi, không cho chúng vô làng.
Một tràng súng AR15 của địch. Tiếng chị bị dìm đi đột ngột. Chị lảo đảo rồi khụy xuống. Một chiến sĩ nằm cạnh Trung đội trưởng Bảo nhổm dậy, Bảo vội lấy tay ấn anh xuống và bảo: - Còn bao nhiêu đồng bào! Cán bộ, chiến sĩ Đại đội 1 môi mím chặt, người khom xuống chực bật dậy khỏi chiến hào, các chiến sĩ ghì chặt súng trong tay, máu họ như sôi lên.
Cả đoàn người dừng lại bên người phụ nữ vừa ngã xuống. Bà con quây lấy đám lính rồi xô đẩy chúng, chạy dạt sáng hai bên đường. Hành động đó của bà con như mách bảo anh em Đại đội 1. Cả đơn vị xuất kích như một mũi dao cắt rời bọn lính đang ẩn phía sau dân. Bà con nằm rạp cả xuống. Chiến sĩ ta xông lên phía trước đánh địch và che chở cho dân. Khi bà con cô bác đã ở phía sau đội hình chiến đấu của Đại đội 1, các chiến sĩ mới yên tâm nổ súng.
Hơn 1 giờ đồng hồ, lính thủy đánh bộ đã bốn lần phản kích vào trận địa, nhưng cả bốn lần chúng đều bị chặn lại trước ý chí chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ Đại đội 1. Họ vẫn gan góc chờ đợi quân địch dẫn xác tới.
xe tăng, xe thiết giáp địch vào cách chốt ta 50 mét, tổ trưởng tổ ba người Nguyễn Thanh Hải nổ súng. Quả đạn B40 vạch một đường lửa màu da cam bay là là mặt đất cắm vào chiếc xe bọc thép M113.
Chiếc xe bốc cháy. Quân địch ở phía sau tháo chạy.
Pháo hạm Mỹ từ biển bắn vào. Trận địa của Đại đội 1 bị cày xới. Chờ cho pháo địch ngừng anh em sửa lại công sự, lắp thêm đạn vào băng rồi lại xách súng lên vị trí sẵn sàng đón đánh quân địch. Cuộc chiến đấu kéo dài đến tối thì kết thúc. Quân địch không sao vào được làng Ngô Xá và Thanh Lê.
Chiến công của Đại đội 1 có phần đóng góp xương máu của người phụ nữ kiên trung. Hình ảnh người phụ nữ ngã xuống trước mũi súng của kẻ thù hôm ấy trên trận địa làng Ngô Xá mãi mãi khắc sâu trong ký ức của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27.
âm mưu đánh chiếm Ngô Xá và Thanh Lê làm bàn đạp tiến đánh thị xã của địch bị thất bại.
Trong đợt chặn đánh quân địch gay go, ác liệt và gian khổ này, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 không bao giờ quên gương chiến đấu kiên cường, chỉ huy dũng cảm, táo bạo của chị Trần Thị Tâm, quê Hải Khê, Hải Lăng, Quảng Trị. Chị là huyện đội phó huyện Hải Lăng. Suốt buổi sáng, một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ được pháo binh và thiết giáp yểm trợ tiến công vào xã Hải Quế hòng đánh bật bộ đội và du kích ra khỏi xã này (một ngã ba trọng yếu lên thị xã Quảng Trị). Nhưng tất cả các đợt tiến công của địch đều bị ta đánh bại. Đơn vị chiến đấu của Tâm đã diệt 30 tên, phá hủy hai xe GMC, bắn rơi một trực thăng. Đến chiều, sau nhiều lần dùng pháo binh và máy bay phản lực đánh phá, chúng cho ba chiếc trực thăng "rắn hổ mang" săm soi phát hiện ra hầm của Tâm và một số hầm khác. Chúng đã dùng rốc-két từ trực thăng bắn vào hầm. Tâm anh dũng hy sinhl.
Cùng với các Trung đoàn 64, Trung đoàn 18, Trung đoàn 27 đã đứng vững trên địa bàn, góp phần chặn địch từ hướng đông đánh vào Thành Cổ.
Cuộc chiến của Trung đoàn 27 lúc này với lính thủy đánh bộ đã hình thành ranh giới rõ rệt, do vậy địch dùng máy bay B.52 ném bom rải thảm, hòng hủy diệt mọi sự sống ở đây. Có ngày, trong vòng 2 giờ, chúng huy động 16 lần chiếc đánh vào vùng đất rất hẹp Nại Cửu và Bích La. Chúng còn dùng pháo hạm bắn hàng nghìn quả đạn trong một ngày vào đoạn đường 4 nối Chợ Sải với Nại Cửu.
Lợi dụng trời mưa, có hỏa lực yểm trợ tối đa, chỉ huy lữ đoàn 147 lính thủy đánh bộ thúc ép binh lính ra sức lấn dũi ra vùng giải phóng của ta.
----------------
1. Trần Thị Tâm được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
------------------
Tại làng Đầu Kênh, nơi đặt sở chỉ huy Trung đoàn 27. Thường vụ Đảng ủy và ban chỉ huy trung đoàn gồm anh Cao Uy (1) - Trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Võ Hiển - Chính ủy, anh Nguyễn Quân và tôi trung đoàn phó, anh Trịnh Văn Thư - Chủ nhiệm chính trị họp và nhất trí đề ra tư tưởng chỉ đạo cho trung đoàn giai đoạn này là: "Giữ chắc, đánh mạnh" và phát động phong trào thi đua: "Kiên cường bám trụ; Chủ động tiến công; Đoàn kết hiệp đồng; Lập công tập thể".
Sau cuộc họp, các đơn vị trong toàn trung đoàn tổ chức một đợt sinh hoạt chính trị ngay trên trận địa chiến đấu của mình. Mặc dù trong hoàn cảnh chiến đấu liên tục khẩn trương, nhưng cán bộ chủ trì từ tiểu đoàn, đại đội đến trung đội và tiểu đội đã đề ra yêu cầu cụ thể cho đơn vị mình thực hiện.
Sau khi chiếm được một khu vực rộng lớn của tỉnh Quảng Trị, địch tăng cường củng cố vị trí đứng chân, hình thành thế bao vây thị xã, đánh chiếm các điểm cao phía tây, tiếp tục đánh chiếm từng thôn xã phía đông và tập trung lực lượng đánh chiếm thị xã với mục tiêu cắm cờ lên Thành Cổ trước ngày 10
------------------------
1. Lúc này anh Phạm Minh Tâm được trên điều về Sư đoàn 325. Anh Cao Uy lên thay anh Tâm làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 27 - Mặt trận B5.
----------------------
tháng 7 để phục vụ ý đồ ép ta ở Hội nghị Pa-ri dự định họp lại vào ngày 13 tháng 7 năm 1972 sau nhiều lần trì hoãn.
Trước yêu cầu cấp bách của cuộc chiến đấu, ngày 2 tháng 7, Thường vụ Đảng ủy chiến dịch họp dưới sự chủ trì của Chính ủy, Bí thư đảng ủy Lê Quang Đạo. Hội nghị đã đề ra chủ trương tác chiến trong giai đoạn mới là: "Kết hợp phản công tiêu diệt địch với tiến công để làm thất bại cuộc phản công của chúng. Cụ thể: ở hướng đông quốc lộ 1, lấy tiến công làm chính, hướng đường 12 (tây Huê) cũng lấy tiến công làm chính, các hướng khác kết hợp phản công và tiến công. Có như vậy mới làm cho địch phải căng mỏng lực lượng, ta đánh liên tục dài ngày, vừa tiêu diệt địch, bảo vệ vùng giải phóng, vừa chuẩn bị vật chất, điều chỉnh lực lượng và sử dụng lực lượng hợp lý".
Thực hiện quyết tâm của Thường vụ Đảng ủy chiến dịch, kiên quyết bảo vệ thị xã và Thành Cổ, ta đã sử dụng các đơn vị ở vòng ngoài phản kích mạnh vào cạnh sườn và phía sau đội hình của địch, chốt giữ bằng được các khu vực La Vang, Tích Tường, ngã ba Long Hưng, nhà ga Quảng Trị, Tri Bưu và tuyến sông Vĩnh Định.
Ngày 9 tháng 7 năm 1972, Tiểu đoàn 3 (mang mật danh K3) tỉnh đội Quảng Trị được lệnh vào Thành Cổ Quảng Trị chiến đấu. Tiểu đoàn 3 đã nhiều năm sát cánh chiến đấu với Trung đoàn 27.
Riêng tôi biết rất rõ tác phong chỉ huy dứt khoát, mưu trí, sáng tạo của Tiểu đoàn trưởng Đỗ Văn Mến và Chính trị viên Lê Binh Chủng.
Mờ sáng ngày 10 tháng 7 năm 1972, với quân số hơn 300 cán bộ, chiến sĩ, Tiểu đoàn 3 đã vượt sông Thạch Hãn đoạn làng Nhan Biều qua cổng tây vào chốt giữ bảo vệ Thành Cổ. Sở chỉ huy tiểu đoàn đặt sát tường phía trong cổng tây. Các đại đội 9, 10, 11, 12 được giao nhiệm vụ cụ thể bảo vệ bốn cổng Thành: Nam, Bắc, Tây, Đông.
Sau hơn 10 ngày lấn chiếm với hơn 20 nghìn quân tinh nhuệ và trút hàng vạn tấn bom đạn nhưng không đạt được kết quả mong muốn, Bộ chỉ huy liên quân Mỹ - ngụy ở Sài Gòn chỉ thị cho cấp dưới bằng mọi giá phải cắm cờ lên Thành Cổ trước ngày 13 tháng 7, tức là trước khi có cuộc gặp giữa phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa và Mỹ ở Hội nghị Pa-ri sau nhiều tháng gián đoạn. Mỹ hứa sẽ tăng viện đột xuất cho quân ngụy. Tư lệnh quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam ra lệnh điều lực lượng hải quân và không quân Mỹ đến Quảng Trị, tăng hỏa lực pháo binh và không quân không hạn chế để cho quân ngụy tiến công. Chúng còn trao giải thưởng lớn cho quân ngụy nếu cắm được cờ lên Thành Cổ, dù chỉ một lúc để chụp ảnh. Với những biện pháp khích lệ tinh thần và chi viện hỏa lực mạnh mẽ của Mỹ, quân dù và lính thủy đánh bộ ráo riết chuẩn bị vào đợt tiến công mới.
Ngót nửa tháng liên tục tiến công với sự chi viện của không quân, hải quân, pháo binh, thiết giáp, sư đoàn dù vẫn không thực hiện được ý đồ tiến vào thị xã cắm cờ lên Thành Cổ trước ngày 13 tháng 7 năm 1972. Mỹ - ngụy tìm mọi cách đẩy lùi thời gian cuộc gặp ở Pa-ri, mặt khác chúng tăng cường mật độ hỏa lực phi pháo để cắt đứt các con đường tiếp tế của ta vào thị xã và hình thành mũi tiến công từ nhiều hướng để chiếm thị xã.
Nắm được âm mưu của địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương tăng cường lực lượng vào giữ thị xã.
Trung đoàn 36 Sư đoàn 308 đánh địch ở Tân Téo.
Sư đoàn 304 đánh địch ở Cầu Nhi, Bến Đá và núi Trường Phước. ở hướng đông, Trung đoàn 27 được tăng cường Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 64 và một đại đội thiết giáp đánh chặn địch không cho chúng chiếm An Tiêm, Nại Cửu ở phía đông sông Vĩnh Định cách Thành Cổ khoảng 1 ki-lô-mét. Để tăng cường lực lượng bảo vệ thị xã và Thành Cổ, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định đưa Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 95 và Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 64 vào phối thuộc với Trung đoàn 48. Bộ Tư lệnh chiến dịch còn tăng lượng vật chất chi viện cho thị xã từ 500 đến 600 ki-lô-gam lên 4 đến 6 tấn mỗi ngày. Hàng đêm, các đội vận tải trung đoàn, sư đoàn đã chuyển súng đạn, lương thực thuốc men, cả báo chí, thư từ hậu phương vào Thành Cổ, tiếp sức cho cán bộ, chiến sĩ ta và đưa thương binh ra phía sau điều trị.
Ngày 16 tháng 7, lữ đoàn 2 của địch, lực lượng tiên phong thực thi cắm cờ bắt đầu xung trận.
Chúng chia làm hai cánh: Cánh thứ nhất, từ ngã ba Long Hưng tiến đánh Tri Bưu, Quy Thiện, uy hiếp cổng đông Thành Cổ. Cánh thứ hai, đánh vào Tích Tường, Như Lệ hòng cắt đứt đường tiếp tế của ta cho thị xã từ hướng tây nam. ở cánh đông, sư đoàn lính thủy đánh bộ cũng mở nhiều đợt tiến công vào tuyến phòng thủ sông Vĩnh Định của Trung đoàn 27 gồm An Tiêm, Nại Cửu, Bích La Đông để phối hợp với quân dù bao vây Thành Cổ từ hướng đông và đông bắc.
Bộ tư lệnh chiến dịch chỉ thị cho các đơn vị trên toàn Mặt trận kiên quyết giữ vững thị xã và Thành Cổ, đập tan âm mưu "cắm cờ" của địch.
Ngày 19 tháng 7, lính dù và lính thủy đánh bộ từ hướng tây và hướng đông ồ ạt đánh chiếm các khu vực đã định. Các đơn vị của ta từ ba phía ở ngoại vi thị xã kiên cường bám trụ đánh địch.
Trong những ngày này, địch tăng cường không quân, pháo binh và hải quân, kể cả máy bay chiến lược B.52 đánh phá với cường độ rất lớn ở khắp các chiến tuyến. Không ai còn nhớ và cũng không thể nhớ được địch đã đánh phá bao nhiêu lần trong một ngày. Trên mỗi trận địa không thể biết bao nhiêu bom pháo đã rơi xuống. Chúng tôi chốt giữ Nại Cửu An Tiêm nhìn bom rơi pháo nổ ở Thành Cổ, La Vang mà lo cho đơn vị chốt giữ ở đó. Cứ sau mỗi đợt bom pháo rơi, khi nghe được tiếng súng bộ binh của ta nổ ran phía Thành Cổ là anh em chúng tôi vui mừng...
Càng ngày số trận đánh phá của địch càng nhiều hơn, mức độ càng gay go quyết liệt hơn. Trên khu vực ngã ba làng Thạch Hãn đến ngã ba Long Hưng, lữ dù 2 và lữ dù 3 liên tục tiến công vào thị xã và Thành Cổ. Có ngày quân dù đã chiếm được gần hết làng Tri Bưu, làng Cổ Thành, tiến sát góc đông nam Thành Cổ. Một tốp biệt kích bí mật luồn lách qua những mảng tường bị pháo bom khoan thủng, định leo lên tường thành cắm cờ, liền bị Đại đội 11 Tiểu đoàn 8 (tỉnh đội Quảng Trị) tiêu diệt. Chiến sĩ Nguyễn Văn Sĩ, quê Diễn Thái, Diễn Châu, Nghệ An đã lao lên cướp lá cờ ba que từ tay một tên lính biệt kích vừa bị anh em ta tiêu diệt.
Để tăng cường việc phòng ngự thị xã, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định đưa toàn bộ Trung đoàn 95 Sư đoàn 325 vào trong thị xã. Tôi được biết, lúc này Trung đoàn 95 đã có Tiểu đoàn 4 đang chốt giữ thị xã, Tiểu đoàn 6 đang giữ chốt ở khu vực An Tiêm, Nại Cửu, từ đêm 19 tháng 7 được đưa về giữ làng Cổ Thành và các trận địa trên hướng bắc thị xã thay thế Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 48 rút ra củng cố. Tiểu đoàn 5 chốt giữ khu vực Nhan Biều được lệnh sẵn sàng tiến công chi viện cho các đơn vị trong thị xã.
Do Trung đoàn 95 Sư đoàn 325 đã vào thị xã chiến đấu đầy đủ, ngày 22 tháng 7, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tổ chức Ban chỉ huy hỗn hợp và chỉ định Ban cán sự khu vực thị xã. Ban chỉ huy bảo vệ Thành Cổ vẫn bố trí ở dưới hầm nhà dinh tỉnh trưởng ngụy.
Ngày 26 tháng 7, khoảng 2 giờ sáng, Ban chỉ huy bảo vệ Thành Cổ nhận được điện của Chính ủy chiến dịch Lê Quang Đạo: "Trong cả ngày và đêm nay, các đơn vị không được để một tên địch nào lọt vào Thành".
Nhận được lệnh của trên, Ban chỉ huy bảo vệ Thành một mặt họp bàn hạ quyết tâm thực hiện nhiệm vụ, thông báo cho các đài quan sát tăng cường theo dõi mọi hoạt động của địch, mặt khác dự kiến nhiều phương án đánh địch, kể cả tình huống phức tạp nhất vẫn phải chủ động đối phó.
Chỉ huy quân đội ngụy cay cú vì đã gần một tháng với không biết bao nhiêu nỗ lực mà không sao cắm nổi lá cờ lên Thành Cổ. Chúng hy vọng hôm 27 tháng 7, ngày cuối cùng mà chúng ấn định sẽ "bằng mọi giá cắm được cờ". Vì vậy, mới sáng ra sự căng thẳng của một ngày đã lộ rõ. Hàng chục trận địa pháo từ phía nam bắn ra, từ biển bắn vào, cả thị xã Quảng Trị rung lên trong tiếng nổ rền.
Trên trời máy bay đủ loại quần đảo, đánh phá theo yêu cầu của bộ binh. Dưới đồng, trên đường phố, đường làng, ở các ngã ba, ngã tư vào thị xã, lính dù, lính thủy đánh bộ, lính biệt kích, lính địa phương tập trung dày đặc với xe tăng thiết giáp chuẩn bị vào trận.
Cuộc chiến đấu càng về trưa càng diễn ra ác liệt, nhất là hướng đông nam thị xã. Ta và địch giành nhau từng căn nhà, ụ đất. Bộ binh địch đột phá không được lùi ra gọi phi pháo. Mật độ bom pháo địch dày đặc tới mức không thể nhận ra từng tiếng nổ. Đứng ở Nại Cửu, An Tiêm, ái Tử, Nhan Biều chỉ nghe thấy tiếng nổ liên hồi dội sang ầm ầm. Trong thị xã, tường Thành Cổ đổ sụp từng mảng, mặt đất biến dạng. Gạch ngói, đất đá nóng cháy, khét lẹt. Nhà cửa không còn, tất cả những vật nhô cao hơn mặt đất đều bị bom đạn Mỹ san phẳng. Những chấn động và sức ép triền miên của bom Mỹ làm hầm hào sụt lở, lòng hầm hẹp lại.
Hầm hố, công sự chao đảo đu đưa, người bị nhồi lên, ép xuống. Không khí ngột ngạt. Mồ hôi dính quện với bụi cát, nhớp nháp vô cùng khó chịu.
Ngồi trong hầm, không trúng mảnh đạn mà máu vẫn trào ra ở tai, ở mũi. ở thị xã Quảng Trị và Thành Cổ nhỏ hẹp này Mỹ đã đổ xuống một khối lượng bom đạn có sức công phá còn lớn hơn quả bom nguyên tử chúng đã ném xuống nước Nhật gấp nhiều lần.
Cuối tháng 7, những trận mưa liên tục càng làm cho cả Thành Cổ ngập nước. Hầm hào chiến đấu của đơn vị sụt lở. Máu của thương binh trộn bùn đất...
Buổi chiều, cán bộ chiến sĩ mặt trận nhận được điện của Quân ủy Trung ương: "Vì Tổ quốc, các đồng chí bằng mọi giá phải giữ vững Thành Cổ, kiên quyết không cho địch cắm cờ lên tường Thành".
Bức điện được chuyền tay đến từng người.
Không khí trở nên trang nghiêm, ai cũng hiểu giá trị của mỗi trận đánh lúc này. Mỗi thước đất ở đây còn như một điểm sáng thu hút lương tri của toàn thể loài người tiến bộ đang hướng về Việt Nam.
Mấy tiếng đồng hồ nữa, ở Pa-ri sẽ diễn ra cuộc gặp tay đôi giữa Chính phủ ta và Mỹ. Nếu chúng ta để mất mảnh đất này thì kẻ thù sẽ lấy nó làm giá để "mặc cả" với chúng ta.
Cũng trong buổi hoàng hôn ấy, chúng tôi còn nhận được thư của Thường vụ tỉnh ủy Quảng Trị, rồi thư của các đồng chí lãnh đạo các địa phương cũng gửi vào mặt trận Thành Cổ. Những dòng tâm huyết của Thường vụ tỉnh ủy Quảng Trị và các địa phương đã tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ, chiến sĩ trên mặt trận Thành Cổ tiến lên làm thất bại những âm mưu thâm độc xảo quyệt của địch.
Cả đêm ngày 26 rạng ngày 27 tháng 7 năm 1972 bên ngoài máy bay B.52, pháo bầy liên tục dựng những bức tường lửa, nhưng bên trong nội thị và Thành Cổ nhiều lúc yên ắng, quân dù và lính biệt kích luồn lách rình rập cắm cờ. Hầu hết các đơn vị của ta phải tách rời, một nửa chốt giữ trận địa, một nửa bám địch, rà diệt những tên mò mẫm cắm cờ.
Cuối cùng cái đêm ấy đã đi qua, ước muốn "cắm cờ" của địch đã không thành.
Khi những nỗ lực cuối cùng để cắm cờ lên Thành Cổ không thực hiện được, sư đoàn dù kiệt sức trước khi rút ra củng cố, bọn địch đã nghĩ ra trò cực kỳ lừa bịp "cắm cờ lên Thành Cổ để chụp ảnh quay phim". Chúng chọn bức tường do bom pháo Mỹ đánh đổ nát ở nhà thờ Trầm Lý (cách thị xã 3 ki-lô'mét) về phía đông, rồi cắm cờ lên đó, lừa bịp dư luận.
9 giờ sáng, khi hai chiếc trực thăng chở cố vấn Mỹ, chỉ huy sư đoàn dù và các phóng viên đổ xuống sân vận động để sang Trầm Lý chứng kiến cảnh lính tiểu đoàn 5 dù trèo lên "tường thành đổ nát" giữa bốn bề mờ mịt khói lửa của xăng crếp và lựu đạn khói cho các phóng viên quay phim, chụp ảnh, thì các tổ đài quan sát của ta đã kịp báo về cho các cụm pháo binh chiến dịch bất thần trút đạn, đập tan trò hề bịp bợm của chúng.
Hãng AFP ngày 27 tháng 7 năm 1972 đưa tin: "Trong cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị, quân dù Nam Việt Nam đã bị đánh quy. Trong những ngày chiến đấu đẫm máu tại đây, mỗi ngày họ chết 150 người. Các cố vấn Mỹ cho rằng: Thật chẳng đáng bám lấy cái thị xã Quảng Trị nguy hiểm ấy làm gì, lính dù đã bị thương vong quá nặng. Họ cần có thời gian để tổ chức và hồi phục lại".
Sau khi sư đoàn dù rút ra củng cố, sư đoàn lính thủy đánh bộ vào thay thế vị trí "tiên phong" cho quân dù đánh chiếm thị xã, chúng liền mở một trận tập kích hỏa lực đánh phá ác liệt toàn bộ phòng tuyến của ta. Để hỗ trợ tinh thần cho quân ngụy, ngoài máy bay chiến thuật, chiến lược oanh tạc theo yêu cầu của lính thủy đánh bộ chúng còn cho pháo hạm và pháo mặt đất tầm xa bắn hàng vạn quả mỗi ngày.
Được sự chi viện tối đa bằng hỏa lực, lữ đoàn 258 lính thủy đánh bộ bắt đầu lấn dũi thị xã từng thước một. Chúng coi đây là chiến thuật "chậm chắc". Còn sư đoàn dù, tuy phải lùi về tuyến sau nhưng vẫn tung lữ đoàn 1 ra đánh vào La Vang, Tích Tường, Như Lệ, quyết ngăn chặn các đòn tiến công của ta từ hướng này.
Địch bắn hàng vạn quả đạn pháo trong một ngày, rải đều lên 4 ki-lô-mét vuông của thị xã Quảng Trị và Thành Cổ, vùng ngoại vi như Long Hưng, Thạch Hãn, nhà ga đến Tri Bưu, An Tiêm, Quang Thiện... hầu như trở thành bình địa chết. ở Thành Cổ, bốn bức tường cao dày hàng mét vỡ dần, không chỉ vỡ vì bom pháo địch mà còn vì sự chấn động của mặt đất. Từng mảng lớn dài hàng chục mét cứ rạn ra, nghiêng dần rồi đổ sụp xuống.
Các chiến sĩ chốt giữ Thành Cổ đã chứng kiến hàng chục loại bom pháo khác nhau như: Bom đào, bom phạt, bom bi, bom na ban, pháo khoan, pháo chụp, pháo càng. Đặc biệt lần đầu tiên trên chiến trường Quảng Trị, Mỹ - ngụy đã dùng loại bom dù - một loại bom mà khi thả xuống lưng chừng, một quả bom mẹ nổ thành hai quả bom con, những quả bom con ấy cũng được dù mang cứ lừ lừ rơi xuống, trông thấy hẳn hoi mà không có cách gì phá nổi.
Tôi được biết, một quả bom dù đã rơi trúng sở chỉ huy tiểu đoàn (Quảng Trị). Anh Lê Binh Chủng - Chính trị viên tiểu đoàn (người đã gắn bó chiến đấu với chúng tôi nhiều tháng) và anh em thông tin, vận tải, trinh sát của tiểu đoàn đã hy sinh. Tiểu đoàn trưởng Đỗ Văn Mến, chỉ với chiếc quần cộc.
khẩu súng AK báng gấp bên mình, mặt sạm đen, râu tóc lởm chởm đến từng tổ chiến đấu động viên bộ đội trả thù cho chính trị viên và anh em đã hy sinh.
Quyết phá tan từng bước âm mưu và hành động man rợ mới của địch, Tướng Lê Trọng Tấn chỉ thị cho các đơn vị trên toàn mặt trận: ở hướng tây nam thị xã Quảng Trị, Sư đoàn 308 tiến công lữ đoàn 1 dù đóng chốt ở các khu vực điểm cao l05B, Tích Tường, Như Lệ, Cầu Sắt, làng Thạch Hãn...
ở hướng đông, Trung đoàn 27 Mặt trận B5 và Trung đoàn 101 tập trung tiến công tiểu đoàn lính thủy đánh bộ chốt giữ Nại Cửu và An Tiêm là hai làng nằm kẹp giữa ngã ba sông Thạch Hãn và sông Vĩnh Định. Đường số 4 nối thị xã Quảng Trị với cảng Cửa Việt chạy qua An Tiêm và Nại Cửu. Tiêu diệt 2 tiểu đoàn địch chốt giữ ở đây sẽ đẩy địch ra xa Thành Cổ từ hướng đông bắc. Đồng thời ta cũng bảo vệ đường vận chuyển trên sông Thạch Hãn.
Cuộc chiến đấu lúc đầu ta phát triển thuận lợi, nhưng sau đó lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ tăng viện cố đẩy ta ra khỏi những vị trí đã mất, nên cuộc chiến đấu giữa Trung đoàn 27, Trung đoàn 101 với lữ đoàn 369 giằng co kéo dài. Địch cố sức đẩy ta ra khỏi làng An Tiêm. Ta kiên quyết giữ địa bàn để kéo địch ra, phá thế bao vây thị xã. Ta và địch xen kẽ nhau theo thế cài răng lược. Bốn ngày sau, bằng hai trận tập kích táo bạo, ta đã đánh thiệt hại nặng hai đại đội địch buộc chúng phải rút chạy.
Thời gian này, Trung đoàn 27 được bổ sung gần một trăm tân binh, quá nửa trong số này là sinh viên các trường đại học Tổng hợp, Bách khoa. Số còn lại là công nhân viên chức các cơ quan ở Hà Nội vừa được động viên. Khối tận binh này thể hiện rõ hai thái cực, một bên: chín chắn, từng trải; một bên: vô tư, hồn nhiên, thông minh và đầy sáng tạo.
Buổi chiều, tân binh được biên chế ngay về các đơn vị và bước vào trận địa chốt ngay.
Tôi được Phạm Quang Hùng, quê ở số 10 Hoàng Hoa Thám, Hà Nội là chiến sĩ Đại đội 16 - Súng 12 ly 7 trung đoàn kể lại: "Vừa chân ướt chân ráo đến đơn vị tôi được một người tự giới thiệu là Trần Đại Giảng người Quỳnh Lưu, Nghệ An, trung đội trưởng Trung đội 3 phân công tôi về khẩu đội 6, Trung đội 3 súng 12 ly 7. Khẩu đội phó tên là Ngoạn, người Nghi Lộc, Nghệ An nói rất khó nghe.
Khi anh nói phải phiên dịch thì các sinh viên chúng tôi mới hiểu được. Một lát sau, anh Giảng nói với đám tân binh: Ai xung phong lên chốt ngay bây giờ! Chẳng biết chốt là gì, tôi và mấy cậu thư sinh giơ tay. Anh Giảng dẫn chúng tôi đi khoảng vài trăm mét là tới. Chúng tôi ở cách trận địa bộ binh gần 200 mét. Mấy hôm trước các đơn vị của Sư 325 chốt ở đây cây cối còn xanh tốt, thế mà khi Trung đoàn 27 vào thay có mấy ngày bom pháo chém nát chẳng còn cây nào nguyên vẹn. Đêm đầu tiên lên chốt, vì trời mưa to ta và địch không nổ súng. Nhưng do mưa nhiều hầm hào ngập nước chẳng ai ngủ được Sáng ra, mở ba lô thấy cái gì cũng bị thấm nước, anh em sinh viên ai cũng buồn phát khóc.
Anh khẩu đội trưởng động viên an ủi và giúp chúng tôi phơi hong các thứ. Đây là kỷ niệm lần đầu ở chốt.
Mấy ngày sau, trời hửng nắng, địch liền mở nhiều đợt tiến công giành lại chốt bị mất hôm trước.
Được pháo binh, không quân, thiết giáp yểm trợ, có ngày địch chiếm được một vài vị trí của ta. Nhưng đến đêm ta lại tập kích giành lại. Cứ thế ngày qua ngày ta và địch giằng co với nhau. Phía ta là Trung đoàn 27 của Mặt trận B5, phía địch là lữ đoàn 147 lính thủy đánh bộ - lực lượng dự bị chiến lược của quân ngụy Sài Gòn. Trung đoàn 27 mới vào thay cho Sư đoàn 325 thì sáng hôm sau đã thấy lính thủy đánh bộ la lên: "Lại đụng thằng 27 rồi, ngán quá đi!" Phạm Quang Hùng kể tiếp: "Vào một buổi sáng trời quang mây, chỉ huy đơn vị cảnh báo hôm nay thế nào địch cũng lấn chốt, anh em phải sẵn sàng.
Tôi lúc đó là pháo thủ số 2. Pháo thủ số 1 là anh Bá người Nghĩa Đàn, Nghệ An. Nhận được lệnh, khẩu đội sẵn sàng, đạn đã lên nòng. Tôi tranh thủ lắp thêm một băng đạn nữa để ngoài thùng. Thường thì chúng tôi ở chốt hay hạ nòng súng xuống bắn khi địch liều lĩnh tràn lên lấn chốt bộ binh. Tiếng réo và tiếng va chạm của đạn 12 ly 7 vào thành xe thiết giáp nghe chát chúa nên địch rất ngán không dám xông lên. Nhưng ngay sau đó, thì cánh 12 ly 7 chúng tôi cũng phải hứng chịu những trận pháo, cối của địch.
Lại nói về cái buổi sáng hôm đó. Mọi lần sáng ra chúng cho máy bay, pháo binh bắn phá ác liệt rồi bộ binh xông lên lấn dũi, nhưng sáng đó pháo binh địch chưa bắn đã có hai chiếc trực thăng UH.1Aa bay vè vè sát ngọn tre. Cái trước, cái sau quần đi quần lại hình như chúng thị sát chứ không lượn sang phía chốt ta bắn phá. Trung đội trưởng Giảng hạ lệnh cho khẩu đội 5 hạ nòng ngắm bắn chiếc đi đầu và khẩu đội 6 của tôi hạ nòng ngang tầm chiếc trực thăng bay sau để ngắm bắn. Chờ đúng lúc hai chiếc trực thăng quần trở lại ngay sát tầm bắn hiệu quả nhất của hai khẩu đội, trung đội trưởng hô một tiếng to: Bắn! Hai khẩu 12 ly 7 xả một tràng đạn dài đinh tai. Vì cự ly quá gần so với tầm bắn của súng 12 ly 7 nên cả hai chiếc trực thăng đều trúng đạn. Chiếc thứ nhất bốc cháy rơi ngay tại chỗ, cách chốt bộ binh ta khoảng hơn 300 mét. Chiếc thứ hai cố gượng vọt lên, nhưng qua rặng tre bên trong chất địch cũng chao qua chao lại rơi xuống bốc lên một đụn khói đen đặc. Lập tức pháo các cỡ của địch bắn về phía trận địa chúng tôi. Nhưng lạ thay, sau trận pháo kích ấy bộ binh địch không nống lên phía trận địa của ta. Pháo, cối địch bắn cấp tập như vậy mà không ai việc gì, chỉ nòng súng khẩu đội 5 bị mảnh pháo làm cong sang một bên. Trung đội trưởng Giảng cho tháo nòng pháo đưa về tuyến sau xin thay nòng mới. Khi được báo cáo về trận đánh, ban chỉ huy đại đội ngay tối hôm đó cho trung đội khác lên thay trung đội tôi.
Đêm đến, nhân ban chỉ huy đại đội giao ban, rồi hội ý chi ủy, cậu liên lạc đã lén đưa cái đài Liđô của chính trị viên sang hầm tụi tôi dò đài BBC nghe tin tức. Cái trò này chỉ đám sinh viên Hà Nội mới dám làm. Đài BBC đưa tin: "Sáng nay quân Bắc Việt đã bắn hạ hai chiếc trực thăng chở bộ tham mưu sư đoàn thủy quân lục chiến (lính thủy đánh bộ) của quân lực Việt Nam cộng hòa đang thị sát vùng giáp ranh Mặt trận Quảng Trị". Bọn tôi mừng rú, nhưng chẳng ai dám hé răng vì đó là tin từ đài BBC. Rồi chúng tôi chẳng phải chờ lâu, một tuần sau trung đoàn báo về Trung đội 3 được khen thưởng. Trung đội trưởng và hai xạ thủ số 1 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba, còn tất cả anh em hai khẩu đội chúng tôi được tặng bằng khen của Bộ Tư lệnh Mặt trận B5".
Nhân đây tôi nói về các phóng viên chiến trường.
Báo Quân đội nhân dân có các anh Khánh Vân, Vương Sĩ Đình, Từ Liên, Tô Văn... Đặc biệt, anh Đoàn Công Tính (bí danh là Huỳnh Tấn Công) đã theo đơn vị của tôi từ chiến dịch Đường 9 - Nam Lào. Đầu tháng 5 năm 1972, Đoàn Công Tính còn chụp ảnh khi tôi còn là Đại đội trưởng và Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 27 đang bàn phương án bảo vệ Thành Cổ ở Thị Ông, cánh đông thị xã Quảng Trị. Hôm gặp tôi anh Tính bảo: - Tôi đã đưa được vào ống kính những hình ảnh của bộ đội ta đánh sụp hàng rào điện tử Mác Na- ma-ra, ghi được hình ảnh của anh sau khi diệt đoàn xe 28 chiếc. Giờ đây tôi phải có hình ảnh chiến sĩ ta chiến đấu ở Thành Cổ. Cả nước muốn nhìn thấy họ sống ra sao dưới pháo bầy, bom chùm và bom rải thảm của B.52 Mỹ. Tôi đã từng chụp lúc Thành Cổ mới giải phóng, dinh tỉnh trưởng còn nguyên vẹn.
Còn đây là Thành Cổ ngày 16 tháng 8 năm 1972, dinh tỉnh trưởng đã nát tan tành và Thành Cổ cũng sụp đổ. Chỉ còn nụ cười của những người chiến sĩ bảo vệ Thành Cổ là nguyên vẹn và rạng rỡ. Anh em nói khi tôi đưa ống kính lên: "Có thể mai đây một số anh em chúng tôi không còn nữa. Nhưng Thành Cổ sẽ sống mãi với lịch sử vinh quang của đất nước".
Anh Hiệu thấy không? Từ lời nói thiêng liêng như lời di chúc, tôi cũng cảm thấy trách nhiệm nặng nề. Trước khi rời Thành Cổ mang tài liệu, phim ảnh về Hà Nội, tôi đã viết một lời "'Di chúc", phỏng theo lời chiến sĩ: "Nếu chẳng may tôi hy sinh trên đường ra Hà Nội, xin nhờ mang hộ mười cuốn phim này về giao cho Tòa soạn Báo Quân đội nhân dân. Đây là hình ảnh của những người con quê hương Quảng Trị và cả nước, họ đã chiến đấu anh dũng bảo vệ Quảng Trị, những nụ cười bất diệt của họ sẽ sống mãi với Thành Cổ anh hùng".
Nghe anh Đoàn Công Tính kể, trong tôi trào dâng niềm cảm phục người phóng viên chiến trường của Báo Quân đội nhân dân đã theo bước chân của chiến sĩ bộ binh chúng tôi đến những nơi ác liệt nhất của cuộc chiến để ghi lại những khoảnh khắc sinh động của chiến tranh. Anh đã dành cho tôi nhiều tấm ảnh suốt mấy năm anh theo chúng tôi chiến đấu để ghi lại một thời Quảng Trị mà tôi còn giữ mãi đến tận bây giờ...
Cuộc chiến đấu vào những ngày cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 1972 càng diễn ra quyết liệt. Mỹ - ngụy dùng âm mưu phong tỏa thị xã Quảng Trị bằng hỏa lực để phá vỡ các tuyến chốt bảo vệ thị xã của ta, đồng thời cho sư đoàn lính thủy đánh bộ lấn dũi. Hành động ấy được lặp đi lặp lại nhiều lần.
Chúng hy vọng với ưu thế vượt trội về hỏa lực, lực lượng của ta trên các trận địa chốt sẽ bị tiêu hao dần và cuối cùng sẽ bị đẩy ra khỏi các trận địa và toàn bộ thị xã. Mật độ bom pháo địch dày đặc.
Đứng ở các mỏm đồi phía tây ái Tử nhìn sang thị xã chỉ nghe thấy tiếng động ầm ầm dội sang không ngớt, khói bụi bốc cao mù trời. Cả vùng thị xã kéo dài xuống tận biển đã trở thành một vùng bình địa đổ nát.
Cả nước hướng về Quảng Trị, hướng về Thành Cổ, dành cho chiến sĩ bảo vệ ở đây tất cả niềm tin yêu Từ hậu phương miền Bắc, mỗi chuyến hàng vào Quảng Trị bên cạnh gạo, đạn, thuốc men, còn có các sản phẩm của quê hương từ trăm miền gửi tới Trong đó có những lá thư của những người mẹ, người chị, người em và người yêu gửi vào tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ, chiến sĩ ta trụ vững trên vùng đất nóng bỏng này, xứng đáng với lòng tin yêu của Đảng và nhân dân dành cho.
Để đánh bại âm mưu nham hiểm của địch, phá thế bao vây thị xã Quảng Trị và Thành Cổ, Tư lệnh chiến dịch - Tướng Lê Trọng Tấn chỉ thị mở đợt phản kích mới nhằm chiếm lại một số vị trí chiến thuật quan trọng vừa bị mất. Cụ thể: Sư đoàn 308 giữ vững các vị trí La Vang, Tích Tường, Như Lệ, đồng thời đánh chiếm ngã ba Long Hưng, ngã tư Thạch Hãn, đánh bật địch ra khỏi phía nam thị xã.
Các Trung đoàn 95, 48 và các Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 8 (tỉnh đội Quảng Trị) tiếp tục giữ vững vị trí đứng chân tổ chức các phân đội đánh phản kích, quyết không cho địch lấn cài răng lược. Hai Trung đoàn 27 - Mặt trận B5 và 101 kiên quyết đánh địch ra khỏi chợ Sải, Nại Cửu, nếu có thời cơ đánh xuống Bích La.
Thực hiện quyết tâm của Tư lệnh chiến dịch, bộ đội ta trên từng hướng tích cực làm công tác chuẩn bị sẵn sàng đợi lệnh xuất kích. Sư đoàn 308 sau một đêm vượt qua nhiều tọa độ lửa của địch đã áp sát ngã ba Long Hưng và ngã tư Thạch Hãn. Mờ sáng, pháo chiến dịch của ta bất ngờ bắn phá vào các cụm quân của một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ ở ngã ba Long Hưng và ngã tư Thạch Hãn. Đợt bắn pháo vừa dừng, các chiến sĩ Sư đoàn 308 đồng loạt xung phong. Trước sức tiến công của ta, lính thủy đánh bộ ngụy chống trả yếu ớt rồi tháo chạy. Quân ta nhanh chóng củng cố trận địa vừa chiếm được.
Nhưng, mấy ngày sau đó địch cho máy bay, pháo binh đánh phá vôi cường độ cao và dùng 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ từ đường 1 đánh ra, từ An Thái đánh sang, bộ đội ta bị thương vong nhiều phải lui về tuyến sau.
Riêng ở hai làng Tích Tường và Như Lệ ta vẫn tổ chức đánh phản kích tốt, trận địa được giữ vững.
ở hướng đông, Trung đoàn 27 sử dụng Tiểu đoàn 2 tiến công cụm lính thủy đánh bộ chốt giữ ở thôn Bích La Trung, Nại Cửu Bắc và một phần Nại Cửu Nam. Sau nửa ngày chiến đấu, được pháo chiến dịch chi viện, Tiểu đoàn 2 đã đột phá liên tục làm chủ được trận địa. Nhưng đến khi chốt giữ, do quân số hao hụt nhiều, sức chiến đấu giảm, địch đã phản kích chiếm lại được.
Trong trận chiến đấu ở Nại Cửu xã Triệu Thành ngày 23 tháng 8 năm 1972, Tiểu đoàn 2 có 13 chiến sĩ hy sinh là Trần Anh Châu, quê Lạng Sơn, Đỉnh Sơn, Anh Sơn, Nghệ An; Phạm Đức Nhi, quê xóm 12 Thanh Hà, Thanh Chương, Nghệ An; Nguyễn Đình Nam, quê Thủy Phong, Thanh Thủy, Thanh Chương, Nghệ An; Nguyễn Đình Linh, quê Đội 12 Thanh Khai, Thanh Chương, Nghệ An; Nguyễn Hữu An; Nguyễn Văn Luyện, quê Diên Hồng, Hưng Đông, Hưng Nguyên, Nghệ An; Nguyễn Duy Hùng, quê Đội 15, Thanh Hương, Thanh Chương, Nghệ An; Bùi Văn Quế, quê Đội 13 Thanh Mai, Thanh Chương, Nghệ An; Lê Quang Hưng, quê Đội 7, Nghi Phú, Nghi Lộc, Nghệ An; Nguyễn Hữu Quê, quê Xóm 2, thị trấn Nam Đàn, Nghệ An; Nguyễn Quang Giáp, quê Đội 5, Thanh Lâm, Thanh Chương, Nghệ An; Lê Văn Hiền, quê Thanh Minh, Đức Sơn, Anh Sơn, Nghệ An; Bùi Văn Quế, quê Đội 3, Thanh Mai, Thanh Chương, Nghệ An.
Đến ngày 28 tháng 8 năm 1972, Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 27 - Mặt trận B5 giữ chốt ở Nại Cửu xã Triệu Thành, lại có bảy chiến sĩ nữa ngã xuống, đó là Nguyễn Hồng Sách, quê Quang Liên, Nghi Quang, Nghị Lộc, Nghệ An; Đinh Văn Hòe, quê Phú Hậu, Diễn Tân, Diễn Châu, Nghệ An; Phan Văn Đệ, quê Đội 4, Mậu Lâm, Nghi Lộc, Nghệ An; Thái Ngọc Cư, quê Tân Đức, Tiến Thủy, Quỳnh Lưu, Nghệ An; Trương Văn Thắng, quê Minh Lam, Nghĩa Minh, Nghĩa Đàn, Nghệ An; Lê Công Xứng, quê xóm Quang Liên, Nghi Quang, Nghi Lộc, Nghệ An và Nguyễn Đình Thi, quê Đội 12, Nghi Long, Nghi Lộc, Nghệ An.
Bước sang tháng 9 năm 1972, cuộc hành quân "tái chiếm Quảng Trị" của sư đoàn lính thủy đánh bộ và sư đoàn dù vẫn không cải thiện được tình hình. Nhưng với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, Mỹ - ngụy không từ bỏ ý định lấn chiếm mà ngày càng lấn sâu hơn vào cuộc chiến đẫm máu này.
Ngày 7 tháng 9, quân đoàn 1 ngụy quyết định tăng cường cho sư đoàn lính thủy đánh bộ và sư đoàn dù, liên đoàn biệt động quân số 1 và số 7, thiết đoàn xe bọc thép 17, một chi đội pháo binh và một số súng phun lửa M.125, quyết chiếm bằng được thị xã.
Về phía ta, Bộ Tư lệnh chiến dịch tăng thêm lực lượng chốt giữ thị xã, đồng thời chỉ đạo các đơn vị đánh phản kích, phản đột kích đẩy địch ra xa lấy lại Long Hưng, nam sông Nhùng. Công tác chuẩn bị cho đợt tiến công mới đang được khẩn trương thì mấy cơn bão rồi áp thấp nhiệt đới đổ vào miền Trung. Nước sông Thạch Hãn dâng lên tràn bờ, nước chảy cuồn cuộn, cả thị xã ngập chìm trong nước. Hầm hào nhão nhoét, ngập ngụa gây khó khăn cho các đơn vị bám trụ chiến đấu.
Lúc này, tình hình càng trở nên vô cùng khó khăn. Anh em hy sinh, đồng đội cũng chỉ biết lấy xẻng, lấy tay bới đất để lấp lên. Hôm sau, bom pháo địch lại đánh vào lật tung. Anh em lại thu gom các phần thi thể đồng đội rồi chôn lại. Thương binh nặng không thể đưa ra được qua sông Thạch Hãn.
Thương binh nhẹ mười người qua sông thì một nửa bị nước cuốn.
Lợi dụng thời tiết xấu, địch dốc sức mở đợt tiến công lớn vào hầu hết các hướng chốt giữ và các hướng phản kích của quân ta. Suốt 48 giờ liền chúng bắn phá dữ dội vào tất cả các trận địa của ta nhất là xung quanh Thành Cổ, cắt các tuyến đường vận chuyển, các bến vượt sông. Máy bay B.52 ném bom rải thảm, máy bay B.57 trút bom tọa độ hai bờ nam bắc sông Thạch Hãn, nhiều nhất là khu ái Tử, Nhan Biều và các trận địa hỏa lực của ta. Trời càng mưa to, nước lũ càng lớn, địch càng tập trung bom đạn đánh phá dữ dội. Để bám trụ giữ chất, chiến sĩ ta vừa thay nhau tát nước chống ngập, vừa đánh trả những đợt tiến công của địch. Tuy nhiên, do trận địa bị ngập lâu, bom đạn địch lại liên tục giội xuống, hầm hào bị hủy hoại nặng nề nên ta không duy trì được một số chốt quan trọng trên hướng đông nam và hướng tây bắc thị xã. Cuối cùng, quân địch đã nối liền được các khu vực với nhau, tạo ra áp lực với Thành Cổ.
Tình hình diễn ra vô cùng gay go, căng thẳng, ác liệt. Số thương vong của các đơn vị ngày một nhiều thêm (Tôi nắm được qua phòng quân lực mặt trận trung bình một ngày số thương vong lên tới hơn một trăm người). Tuy có tới 8 tiểu đoàn bộ binh bám trụ chiến đấu trong nội thị, nhưng thực tế nhiều tiểu đoàn lúc này số tay súng không quá 50.
Hỏa lực chi viện cho thị xã giảm dần. Các mạng đường tiếp tế qua sông bị địch chặn đánh quyết liệt, lại bị bão lũ nên gặp rất nhiều khó khăn.
Mặc dù gặp muôn vàn khó khăn, ác liệt và gian khổ như vậy, nhưng toàn thể cán bộ, chiến sĩ trên Mặt trận Quảng Trị vẫn bám trụ kiên cường bằng ý chí sắt đá, vượt lên bom đạn của quân thù và cả những vất vả do thời tiết gây nên, sẵn sàng chấp nhận hy sinh giữ vững vùng giải phóng Quảng Trị.
Tôi được biết, ngày 15 tháng 9 năm 1972, một ngày cận chiến cực kỳ quyết liệt của toàn bộ các chiến sĩ giữ Thành Cổ với sư đoàn lính thủy đánh bộ. Quân địch từ hai hướng đông nam và đông bắc Thành Cổ được sự chi viện của hỏa lực xe tăng, thiết giáp, xe phun lửa, pháo cối... ồ ạt xông lên đột phá vào hai cổng thành. Buổi sáng, một vài trung đội địch lọt được vào cổng thành, nhưng sau đó đã không trụ nổi với các loại vũ khí của ta là súng 12 ly 7, cối 82, ĐKZ 75... Các loại vũ khí này đặt từ góc tây tây bắc thành bắn mãnh liệt buộc chúng phải rút ra khỏi thành. Địch cho pháo binh bắn phá dữ dội vào trận địa hỏa lực của ta. Pháo địch đào đi, xới lại gây thương vong cho cán bộ, chiến sĩ các đơn vị giữ thành. Sức chiến đấu của ta giảm dần, chiều tối quân địch lại kiểm soát được hai cổng thành.
Xét thấy điều kiện chiến đấu bảo vệ Thành Cổ không thuận lợi, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho các đơn vị rút khỏi thị xã và Thành Cổ.
Từ 1 giờ đến 3 giờ sáng ngày 16 tháng 9 năm 1972 các đơn vị đã tổ chức rút khỏi thị xã và Thành Cổ an toàn.
Trải qua 81 ngày đêm chiến đấu ở thị xã và Thành Cổ Quảng Trị, quân và dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn ác liệt, bám trụ kiên cường, chiến đấu với lực lượng sừng sỏ, thiện chiến nhất của quân ngụy Sài Gòn được sự yểm trợ hỏa lực chưa từng có trong lịch sử chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Đông Dương. Để đứng vững và duy trì cuộc chiến đấu bảo vệ thị xã và Thành Cổ, quân và dân Quảng Trị đã nắm chắc tình hình địch, nhanh chóng khắc phục những lúng túng ban đầu, tổ chức đánh phản kích ngăn chặn quân địch từng bước, tiến tới việc xác định tổ chức hệ thống trận địa phòng ngự liên hoàn, giữ vững thế trận, tiến lên đánh lui các đợt tiến công của chúng. Các đơn vị đã kết hợp tốt giữa phòng ngự và tiến công, phối hợp chặt chẽ ba thứ quân đánh địch cả phía trước lẫn phía sau, cả cánh đông và cánh tây tạo nên sức mạnh tổng hợp phá tan ý đồ của chúng ngay từ đầu, nhất là vào những thời điểm mà cuộc đấu tranh ngoại giao giữa ta và Mỹ ở Hội nghị Pa-ri đang giẫm chân tại chỗ do sự ngoan cố của phía Mỹ.
Đối với Trung đoàn 27 - Mặt trận B5, lực lượng chủ yếu ở cánh đông, đã cùng với các đơn vị bạn thực hiện phương châm: Liên tục tiến công, liên tục phản kích, ngăn.chặn từng bước, chia cắt, giam chân, thu hút địch, tiến tới chặn đứng cuộc hành quân tái chiếm thị xã và Thành Cổ trong thời gian gần ba tháng trời.
Với thành tích đặc biệt xuất sắc, ngày 20 tháng 12 năm 1973, Trung đoàn 27 (Đoàn Triệu Hải) đã được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong lời tuyên dương Trung đoàn 27 có đoạn: 'Từ năm 1968 đến 1972 trung đoàn chiến đấu liên tục ở chiến trường Quảng Trị. Trung đoàn đã chiến đấu với nhiều đơn vị tinh nhuệ của Mỹ, ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu gần 2 vạn tên địch (có hàng nghìn tên Mỹ), diệt và đánh thiệt hại 20 tiểu đoàn, 31 đại đội (có sáu tiểu đoàn và năm đại đội Mỹ), bắn rơi 279 máy bay, phá hủy 440 xe quân sự (một phần ba là xe tăng, xe bọc thép), 41 khẩu pháo từ 105 đến 155 ly, ba giàn ra-đa, thu hơn 800 súng các loại...
Đặc biệt, trong chiến dịch giải phóng Quảng Trị từ ngày 30 tháng 3 đến tháng 12 năm 1972, Trung đoàn 27 là lực lượng nổ súng đầu tiên, mở màn chiến dịch và là lực lượng chủ yếu ở hướng đông.
Đơn vị đã vận dụng linh hoạt nhiều hình thức chiến thuật tiến công mãnh liệt, táo bạo thọc sâu, cơ động nhanh, trụ bám kiên cường, hiệp đồng chặt chẽ với đơn vị bạn chiến đấu đạt hiệu suất cao... góp phần vào thắng lợi chung trên Mặt trận Quảng Trị".
Tháng 10 năm 1972, Hội nghị Pa-ri về Việt Nam đang ở giai đoạn quyết định. Anh Trịnh Ngọc Thái là thành viên của Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Hội nghị từ đầu cho đến khi kết thúc.
Sau này anh tâm sự: Lịch sử của dân tộc ta qua hàng nghìn năm đấu tranh chống ngoại xâm đã. cho ta một bài học, đó là một nước nhỏ chống sự xâm lược của một nước lớn, về tương quan lực lượng không cho phép ta giành thắng lợi bằng cách tiêu diệt hoàn toàn lực lượng quân sự của đối phương.
Cách tốt nhất là làm sao đánh bại ý chí xâm lược của chúng, buộc chúng phải rút quân ra khỏi nước ta. Đây cũng là điều ông cha ta đã làm để chống lại sự xâm lược của phong kiến phương Bắc trong suốt nghìn năm. Chúng ta đã thắng thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ và ở Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954.
Ta phải biết phát huy thế mạnh của ta là chính nghĩa, khoét sâu thế yếu của địch là xâm lược, phi nghĩa thì mới tạo được thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta. Phát huy sức mạnh tổng hợp ở mức cao nhất để đánh thắng quân thù chính là điều thần kỳ trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng là những luận cứ khoa học của kế sách "vừa đánh vừa đàm".
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cho thấy, muốn buộc Mỹ ngồi vào bàn đàm phán phải giáng cho chúng những đòn thật đau ở chiến trường. Cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 là đòn giáng mạnh vào ý chí xâm lược của chúng, làm đảo lộn thế chiến lược, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, tạo nên bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh. Chính trong hoàn cảnh bối rối, khó khăn, thất bại ấy lại là lúc bầu cử tổng thống Mỹ, nên ngày 31 tháng 3 năm 1968 tổng thống Mỹ Giôn-xơn phải tuyên bố.
- Một là, Mỹ đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra.
- Hai là, Mỹ nhận nói chuyện với Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa để tìm giải pháp cho vấn đề Việt Nam.
- Ba là, không ra tranh cử nhiệm kỳ 2 tổng thống nước Mỹ.
Đây là lời thừa nhận đầy đủ nhất về sự phá sản của chiến lược "chiến tranh cục bộ của Mỹ". Rõ ràng, chiến thắng Mậu Thân đã làm cho ý chí xâm lược của Mỹ lung lay nghiêm trọng, khởi đầu cho một quá trình đi xuống về chiến lược của Mỹ.
Anh Trịnh Ngọc Thái nói tiếp: Hội nghị Pa-ri gồm hai giai đoạn: Giai đoạn một, là cuộc đàm phán hai bên giữa Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Mỹ kéo dài từ 13 tháng 5 đến 31 tháng 10 năm 1968. Giai đoạn hai, là cuộc đàm phán bốn bên gồm Mỹ, Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và chính quyền Sài Gòn từ ngày 25 tháng 1 năm 1969 đến ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Năm 1972, là năm căng thẳng nhất trên chiến trường cũng như trên bàn đàm phán. Bộ Chính trị theo dõi rất sát tình hình chiến trường cũng như Hội nghị Pa-ri để chỉ đạo phối hợp giữa đánh và đàm, cân nhắc thế trận lúc này giữa ta và địch ở Quảng Trị.
Do vậy, mối quan hệ giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao, giữa chiến trường và bàn đàm phán càng khiến cho trận chiến Quảng Trị trở nên khốc liệt và đẫm máu.
Sau chiến dịch Trị Thiên năm 1972, tại Pa-ri, Kít-sinh-giơ có nói với đồng chí Lê Đức Thọ, đại ý: Nếu chỉ đứng về mặt quân sự mà xét thì không ai đánh nhau để giữ một cái thành cổ như vậy. Trả lời Kít-sinh-giơ, đồng chí Lê Đức Thọ cho rằng: Đó là vấn đề chính trị, đánh để giành thế mạnh chính trị trong đàm phán.
Vấn đề gay cấn chủ yếu đang giằng co trên bàn đàm phán là vấn đề chính trị ở miền Nam Việt Nam và vấn đề quân đội miền Bắc ở miền Nam Việt Nam. Cuộc đàm phán đang ở thời điểm cuối cùng của cuộc vận động bầu cử tổng thống ở Mỹ. Bộ Chính trị chủ trương muốn đẩy nhanh cuộc đàm phán Pa-ri đi đến ký kết được trước tháng 11 năm 1972 (tức là trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ), ta cần tập trung quyết đạt cho được mục tiêu thứ nhất lúc này là "đánh cho Mỹ cút". Đạt được mục tiêu thứ nhất sẽ tạo điều kiện để hoàn thành mục tiêu thứ hai "đánh cho ngụy nhào". Để đạt được mục tiêu thứ nhất phải làm cho được hai yêu cầu: - Buộc quân Mỹ và quân chư hầu rút ra khỏi miền Nam Việt Nam, chấm dứt chiến tranh của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. - Lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam Việt Nam đóng nguyên tại chỗ. Dứt khoát quân đội miền Bắc không rút đi đâu hết. Tuyệt đối không có vấn đề tập kết rút quân như Hiệp định Giơ-ne vơ năm 1954.
Đạt được mục tiêu này sẽ tạo điều kiện thực hiện mục tiêu thứ hai. Ta tạm thời hạ thấp yêu cầu về chính trị ở miền Nam Việt Nam, không đòi lật đổ ngụy quyền Sài Gòn.
Đây là sự chỉ đạo chiến lược hết sức nhạy bén của Bộ Chính trị, kết hợp tài tình giữa đánh và đàm, giữa chiến trường và bàn đàm phán. Một nghệ thuật chiến thuật phù hợp với tình hình thực tế trên chiến trường, nới lỏng vấn đề chính trị để đạt mục tiêu chiến lược và thắng lợi cuối cùng.
Từ ngày 9 đến ngày 13 tháng 10 năm 1972 cuộc đàm phán đi vào thực chất các điều khoản cụ thể của hiệp định. Mỹ chấp nhận rút hết quân, thừa nhận trên thực tế ở miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị. 2 giờ sáng ngày 12 tháng 10 năm 1972, cuộc họp tạm ngừng với thỏa thuận coi như Hiệp định cơ bản đã hoàn thành. Hai bên dự kiến ngày 18 tháng 10 năm 1972, Kít-sinh-giơ gặp đồng chí Xuân Thủy để giải quyết nết các vấn đề còn lại và rà soát văn bản. Ngày 24 tháng 10 năm 1972, Kít-sinh-giơ gặp đồng chí Lê Đức Thọ ở Hà Nội và ngày 31 tháng 10 năm 1972, ký Hiệp định ở Pa-ri.
Ngày 20 tháng 10 năm 1972, tổng thống Mỹ Ních-xơn đã gửi công hàm cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng xác nhận văn bản hiệp định đã hoàn thành. Nhưng đột nhiên 15 giờ ngày 23 tháng 10 năm 1972, tổng thống Mỹ Ních-xơn lại thông báo cho ta là có việc khẩn cấp và Mỹ "đang gặp khó khăn", đề nghị có một cuộc gặp riêng nữa và hoãn chuyến đi Hà Nội của Kít-sinh-giơ. Phía Mỹ giải thích rằng tình hình đó là do Nguyễn Văn Thiệu - tổng thống Việt Nam cộng hòa (chính quyền ngụy) không đồng ý và yêu cầu sửa lại 69 điểm trong dự thảo Hiệp định đã thỏa thuận.
Ta lên án sự lật lọng của Mỹ và kiên quyết bác bỏ thông báo đó. Sự thật, đó chỉ là cái cớ để Mỹ che giấu thái độ lật lọng của mình. Trong hồi ký của Kít-sinh-giơ, ông ta kể rằng Ních-xơn nói với ông ta như sau: Nếu Thiệu không biết điều thì... không phải cái đuôi chó lại có thể quẫy được con chó.
Đây chẳng qua là cái cớ nhằm thực hiện âm mưu kéo dài đàm phán để vượt qua bầu cử Tổng thống ở Mỹ. Cũng vào thời điểm này, chính quyền Ních-xơn lập cầu hàng không, tiếp tế ồ ạt vũ khí, thiết bị chiến tranh cho chính quyền và quân đội Sài Gòn.
Đúng 19 giờ 40 phút ngày 18 tháng 12 năm 1972, Mỹ mở cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B.52 xuống Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác. Đợt tập kích kéo dài đến ngày 29 tháng 12 năm 1972. Suốt 12 ngày đêm, không quân Mỹ huy động hàng trăm máy bay B.52, hàng nghìn máy bay chiến đấu ném bom bừa bãi, đánh phá ồ ạt gây nhiều thiệt hại về người và của cho nhân dân ta.
Quân và dân ta đã đánh bại cuộc tập kích đường không của Mỹ, lập nên một "Điện Biên Phủ trên không" oai hùng, bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 pháo đài bay B.52, bắt sống giặc lái Mỹ. Cuộc tập kích chiến lược đường không đánh vào Hà Nội, Hải Phòng nhằm gây sức ép mạnh mẽ với ta trên bàn đàm phán bị thất bại. Mỹ không dám ngẩng mặt nhìn thẳng chúng ta. Bị thất bại nặng nề trên cả hai chiến trường miền Nam và miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là thất bại trong cuộc tập kích chiến lược bằng không quân 12 ngày cuối năm 1972, chính quyền Mỹ bị sức ép rất mạnh của nhân dân Mỹ và dư luận thế giới.
Ngày 30 tháng 12 năm 1972, Ních xơn buộc phải tuyên bố trở lại tình trạng trước ngày 18 tháng 12 năm 1972, (nghĩa là ngừng ném bom bắn phá từ vĩ tuyến 20 trở ra) từ 7 giờ ngày 30 tháng 12 năm 1972, để có thể tiếp tục trở lại nói chuyện ở. Hội nghị Pa-ri.
Cuộc gặp riêng giữa đồng chí Lê Đức Thọ và Kít- sinh-giơ được nối lại từ ngày 8 tháng 1 năm 1973.
Đứng trên thế thắng, ta kiên trì đấu tranh giữ vững nội dung cơ bản của dự thảo hiệp định đã được thỏa thuận ngày 20 tháng 10 năm 1972.
Lần gặp này, Kít-sinh-giơ đã phải hạ giọng, thừa nhận một sự thật là ở miền Nam có hai vùng kiểm soát, hai chính quyền, hai quân đội và ba lực lượng chính trị.
Ngày 12 và 13 tháng 1 năm 1973, Hiệp định được ký tắt giữa đồng chí Lê Đức Thọ và Kít-sinh- giơ. Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định được ký chính thức giữa các bộ trưởng ngoại giao của các bên tham dự Hội nghị Pa-ri. Hiệp định bắt đầu có hiệu lực từ 7 giờ ngày 28 tháng 1 năm 1973.
Nội dung của Hiệp định đạt đủ bốn yêu cầu cơ bản mà ta đã đề ra từ trước: - Mỹ phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
- Mỹ phải rút hết quân Mỹ và chư hầu, phá hủy các căn cứ quân sự của Mỹ, cam kết sẽ không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam, để cho nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình.
- Chính phủ Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, thừa nhận sự tồn tại và địa vị hợp pháp của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
- Mỹ phải bồi thường chiến tranh.
Điều Mỹ cay cú nhất là họ phải thừa nhận quân đội miền Bắc không rút khỏi miền Nam, thừa nhận sự tồn tại và địa vị hợp pháp của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Ngày 2 tháng 3 năm 1973, mười hai đoàn đại biểu các chính phủ: Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, ngụy quyền Sài Gòn và bốn nước trong ủy ban kiểm soát và giám sát việc thi hành Hiệp định Pa-ri đã họp một hội nghị quốc tế về vấn đề Việt Nam. Hội nghị đã đề ra một bản Định ước (Ba Lan) ghi nhận và bảo đảm Hiệp định và các nghị định thư về Việt Nam được thi hành nghiêm chỉnh và triệt để. Định ước này đánh dấu một bước thụt lùi nữa của Mỹ, vì không phải chỉ có Mỹ mà cả quốc tế cũng công nhận có chính quyền cách mạng ở miền Nam Việt Nam và việc kết thúc chiến tranh ở Việt Nam không chỉ là yêu cầu của Việt Nam mà còn là yêu cầu của cả thế giới.
Từ xưa tới nay, chưa bao giờ việc ký kết một văn kiện về quyền dân tộc cơ bản của nhân dân một nước lại được các dân tộc và nhân dân thế giới theo dõi chăm chú, trang trọng như Hiệp định Pa-ri "về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam".
Đây cũng là kết quả của một cuộc đàm phán kéo dài nhất trong thế kỷ 20, với 4 năm 9 tháng, trong đó có 202 phiên họp công khai, 24 cuộc tiếp xúc riêng.
Hiệp định Pa-ri được ký kết là thắng lợi của cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào và chiến sĩ cả nước. Sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đầy gian khổ hy sinh và vô cùng vẻ vang của nhân dân ta đã thu được những kết quả cơ bản có ý nghĩa rất sâu sắc và rộng lớn.
Với thắng lợi ký kết Hiệp đinh Pa-ri về Việt Nam, cách mạng miền Nam nước ta bước vào một giai đoạn mới, một cục diện mới đã xuất hiện ở miền Nam, một sự thay đổi hết sức quan trọng về so sánh lực lượng, thế và lực của cách mạng đã hơn hẳn thế và lực của địch. Cục diện này tạo ra những điều kiện rất thuận lợi để nhân dân ta ở miền Nam tiếp tục tiến lên hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc và dân chủ.
Thắng lợi này cũng chứng minh một chân lý là thắng lợi trên chiến trường quyết định thắng lợi trên bàn đàm phán, và thắng lợi trên bàn đàm phán cổ vũ và phát huy thắng lợi trên chiến trường.
Ngày 29 tháng 3 năm 1973, đất nước ta sạch bóng quân Mỹ. Bộ chỉ huy quân viễn chinh Mỹ phải cuốn cờ các đơn vị cuối cùng của Mỹ và các nước chư hầu rút hết khỏi miền Nam Việt Nam.
Việc quân đội viễn chinh Mỹ và quân đội các nước chư hầu của Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam đã chấm dứt sự có mặt của quân đội xâm lược trên đất nước ta sau 115 năm kể từ năm 1858 khi quân đội thực dân Pháp bắt đầu xâm lược nước ta. So sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam ngày càng thay đổi có lợi cho ta, ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn thêm hoang mang. Đó là điều kiện hết sức thuận lợi cho ta tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Giữa năm 1973, hầu hết tỉnh Quảng Trị được giải phóng, nối liền với hậu phương lớn miền Bắc.
Tĩnh hình cách mạng miền Nam phát triển hết sức thuận lợi. Việc xây dựng một trụ sở làm việc của Chính phủ Cách mạng lâm thời ở một vùng giải phóng để làm trung tâm đầu não của cách mạng miền Nam, thực hiện thuận lợi các hoạt động ngoại giao, đồng thời để các Đại sứ bên cạnh Chính phủ Cách mạng lâm thời đến trình quốc thư hoặc làm việc đã được đặt ra cấp thiết. Chính vì thế, ngay sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, ta chọn thị trấn Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị để xây dựng một trụ sở làm việc của Chính phủ Cách mạng lâm thời.
Mặc dầu Cam Lộ lúc đó vẫn còn nằm trong tầm pháo của địch, nhưng ngược lại địch cũng nằm trong tầm pháo của ta. Điều đó nói lên thế của ta trên chiến trường đã hoàn toàn chủ động.
Khu trụ sở Chính phủ Cách mạng lâm thời được khởi công xây dựng từ ngày 6 tháng 5 năm 1973 đến ngày 30 tháng 5 năm 1973 thì hoàn thành. Tôi được biết, toàn bộ thiết kế nguyên vật liệu, thợ lắp ráp cộng trình đều được đưa từ Hà Nội vào. Khu trụ sở Chính phủ quay về hướng đông chia làm hai khu: Khu A và Khu B.
Khu A, gồm ba dãy nhà làm thành một cụm, nhà làm việc của Chính phủ, nhà khách, nơi trình quốc thư của các đại sứ.
Khu B, có ba dãy nhà nằm song song có kết cấu giống nhau nằm đối diện với cổng phụ B, là nơi làm việc của các nhân viên, cán bộ của Chính phủ, nơi ở và làm việc của các phóng viên báo chí.
Kết cấu của các khu nhà trụ sở Chính phủ theo kiểu nhà lắp ghép, mái nhọn, vì kèo bằng sắt, lợp tôn, trần và vách bằng gỗ. Mặc dù được xây dựng khẩn trương trong một thời gian ngắn, điều kiện thi công khó khăn nhưng khu trụ sở vẫn mang dáng vẻ bề thế khang trang với đầy đủ tiện nghi sinh hoạt thiết yếu: điện, nước máy, vườn hoa, cây cảnh... Đặc biệt khu nhà tiếp khách của Chính phủ rất trang nhã và lịch sự, được phân bố hài hòa giữa các dãy nhà thoáng đẹp, trong khuôn viên có nhiều loại cây cổ thụ và cây cảnh, đặc biệt là hàng dừa biểu tượng sức sống quật cường của nhân dân miền Nam.
Tại đây ngày 6 tháng 6 năm 1973, Chính phủ Cách mạng lâm thời đã làm lễ ra mắt nhân dân trong buổi lễ mít tinh trọng thể, trước sự chứng kiến của đông đảo phóng viên báo chí trong nước và nước ngoài. Đại biểu của 19 nước anh em bầu bạn khắp năm châu đã tới dự. Đại sứ của các nước đã làm lễ trình quốc thư...
Khu trụ sở Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được xây dựng tại Cam Lộ tỉnh Quảng Trị trở thành biểu tượng cho tình cảm, khát vọng và lòng quyết tâm của nhân dân miền Nam đấu tranh thống nhất nước nhà. Lần đầu tiên trong vùng giải phóng, Chính phủ Cách mạng lâm thời đã có trụ sở chính thức để làm việc, đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước trên thế giới, đại diện cho nhân dân miền Nam nói lên tiếng nói của mình.
Chính phủ Cách mạng lâm thời đã đón hàng chục đoàn khách quốc tế. Đặc biệt ngày 15 tháng 9 năm 1973, Chủ tịch Phi-đen Ca-xtơ-rô đã đến thăm vùng giải phóng Quảng Trị. Thay mặt ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, ông Trần Nam Trung, Phó Chủ tịch Đoàn chủ tịch ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã nồng nhiệt đón Chủ tịch Phi-đen. Dự buổi tiếp còn có ông Hoàng Bích Sơn - Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ông Lê Xích - Chủ tịch ủy ban Mặt trận giải phóng tỉnh Quảng Trị, ông Lê San - Chủ tịch ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Quảng Trị, ông Võ Anh Tuấn, Đại sứ Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Cu Ba và nhiều cán bộ cao cấp của Mặt trận Dân tộc giải phóng, Chính phủ và các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam.
Chủ tịch Phi-đen cùng các vị trong đoàn đã đến thăm thị trấn Đông Hà, một số nơi đã ghi đậm chiến công oanh liệt của quân và dân ta trong năm 1972. Chủ tịch và các vị cùng đi đã tham dự cuộc mít tinh của hàng nghìn người dân Quảng Trị. Tại cuộc mít tinh ông Trần Nam Trung đã đọc lời chào mừng Chủ tịch Phi-đen Ca-xtơ-rô và các vị khách quý Cu Ba. Sau khi nhắc lại quá trình chiến đấu chống Mỹ, cứu nước vô cùng oanh liệt của nhân dân miền Nam và nhân dân cả nước Việt Nam đưa đến việc ký kết Hiệp định Pa-ri, buộc Mỹ phải chấm dứt vũ trang xâm lược, phải rút hết quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, ông Trần Nam Trung nói lên sự kính phục của nhân dân miền Nam Việt Nam đối với tinh thần cách mạng chống Mỹ của nhân dân Cu Ba anh hùng. ông ca ngợi tinh thần lao động hăng say của nhân dân Cu Ba, đã đạt được những thành tích to lớn trong công cuộc xây dựng nước Cu Ba xã hội chủ nghĩa. ông Trần Nam Trung nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết chiến đấu và sự giúp đỡ hết lòng của Chính phủ và nhân dân Cu Ba đối với cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân miền Nam Việt Nam. ông cũng nói lên sự biết ơn của Chính phủ và nhân dân miền Nam Việt Nam với sự kiện Cu Ba là nước đầu tiên công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam...
Trong lời đáp, Chủ tịch Phi-đen Ca-xtơ-rô ca ngợi lịch sử đấu tranh oanh liệt chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Chủ tịch đánh giá cao thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam và nhấn mạnh rằng: "Nhân dân miền Nam Việt Nam đã nêu một tấm gương tuyệt vời cho cả nhân loại, cho tất cả các dân tộc đang đấu tranh để tự giải phóng". Chủ tịch Phi đen Ca-xtơ-rô tỏ ý tin tưởng rằng nhân dân miền Nam Việt Nam sẽ phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng nhất định sẽ hoàn thành những nhiệm vụ to lớn của mình trong giai đoạn đấu tranh mới.
Chủ tịch nói tiếp: "Thắng lợi của các bạn ở Quảng Trị và ở trên toàn miền Nam thật là tuyệt vời Thắng lợi đó đã buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt ném bom miền Bắc, rút hết quân Mỹ khỏi miền Nam, ký Hiệp định Pa-ri. Người đánh bại Mỹ chính là những người Việt Nam bình thường mà chúng tôi đã gặp trên đường. Chính những con người bình dị đó không hề chịu khuất phục trước bất cứ một loại vũ khí nào, một sức mạnh nào. Đó là những con người tiêu biểu cho một dân tộc được giáo dục về lòng yêu nước trong tinh thần cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đào tạo rèn luyện... Một nghìn năm, hai nghìn năm, mười nghìn năm qua đi, nhưng các thế hệ sau này vẫn còn nhắc đến chủ nghĩa anh hùng Việt Nam"...
Ngày 20 tháng 12 năm. 1973, tôi được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong lời tuyên dương có đoạn: "Từ năm 1968 đến tháng 6 năm 1972, đồng chí Nguyễn Huy Hiệu chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị.
Trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ trung đoàn, ở cương vị nào đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nguyễn Huy Hiệu đã đánh 67 trận, diệt 63 tên địch (có hàng chục tên Mỹ), phá huỷ 3 súng đại liên, thu 15 súng AR15, một máy vô tuyến, một số bản đồ quân sự. Chỉ huy đơn vị diệt gần 600 tên Mỹ, gần 2 nghìn tên ngụy, bắt 155 tù binh, phá hủy hơn 100 xe quân sự (có 39 xe tăng, xe bọc thép), chiếm nguyên vẹn một xe tăng M41, bắn rơi 57 máy bay các loại. Ba lần bị thương, đồng chí không rời trận địa, tiếp tục chỉ huy đơn vị chiến đấu đến khi trận đánh kết thúc. Đồng chí đã được tặng thưởng năm Huân chương chiến công Giải phóng (hai hạng Nhất, hai hạng Nhì, một hạng Ba), 14 danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, Dũng sĩ diệt cơ giới và Dũng sĩ Quyết thắng, hai danh hiệu Chiến sĩ Quyết thắng và nhiều bằng, giấy khen khác...".
Hai mươi lăm tuổi, được bổ nhiệm làm trung đoàn phó, được tuyên dương danh hiệu Anh hùng, đó là một vinh dự rất lớn đối với tôi. Hôm nhận danh hiệu Anh hùng tôi đã khóc. Tôi nhớ đến hình ảnh của Đại đội trưởng Mai Xuân Tình, Chính trị viên đại đội Đặng Quang Hồng, Trung đội trưởng Phan Hữu Mỹ, Nguyễn Đình Cư... chiến sĩ Cao Như Thiêm, chiến sĩ B41 Phùng Văn Khoét, Trung đoàn trưởng Cao Uy... và biết bao nhiêu cán bộ, chiến sĩ của Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 27 - Mặt trận B5 thân yêu của tôi ngã xuống vì độc lập tự do cửa Tổ quốc. Nhờ họ tôi mới có được vinh quang này.
Tôi thầm hứa với các liệt sĩ sẽ tiếp tục chiến đấu thực hiện lời Bác Hồ kính yêu: "Đánh cho ngụy nhào" giải phóng miền Nam thống nhất đất nước để xứng đáng với sự hy sinh của các anh. Tôi sẽ không bao giờ quên các anh, quên một thời Quảng Trị máu lửa và cũng rất anh hùng. Hình ảnh các anh sẽ sống mãi trong ký ức của tôi.
chương sáu
ĐẬP TAN TUYẾN TỬ THỦ PHÍA BẮC SÀI GÒN Tuy phải ký Hiệp định Pa-ri và rút đội quân viễn chinh và lính chư hầu về nước, nhưng Mỹ vẫn chưa từ bỏ âm mưu chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Ngụy quyền Sài Gòn vẫn tồn tại, bộ máy kìm kẹp của địch còn khá lớn với 140 nghìn nhân viên bình định, lại được tăng cường 24 nghìn sĩ quan xuống tận cơ sở. Lực lượng quân sự của chúng còn đông, bao gồm trên 1 triệu quân (với 60 vạn chủ lực gần 30 vạn bảo an và 20 vạn dân vệ). Chúng còn tổ chức hơn 1 triệu phòng vệ dân sự với trên 20 vạn tên có vũ trang.
Chủ trương nhất quán của Mỹ - ngụy là ra sức phá hoại Hiệp định Pa-ri, tiến hành một kiểu chiến tranh chống phá cách mạng bằng biện pháp chiến lược "lấn chiếm và bình định", còn được gọi là "tràn ngập lãnh thổ".
Để thực hiện âm mưu và chủ trương trên, Mỹ tiến hành một loạt biện pháp lớn như viện trợ ồ ạt cho quân ngụy. Ngoài những cơ sở vật chất, vũ khí, phương tiện chiến tranh đã từng phục vụ cho đội quân xâm lược đông tới 60 vạn tên được bàn giao lại cho quân ngụy Sài Gòn, trong quá trình rút quân.
Trước khi Hiệp định Pa-ri có hiệu lực, Mỹ đã gấp rút đưa thêm vào miền Nam 625 máy bay các loại, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép và nhiều tàu chiến...
Được chính quyền Mỹ hà hơi tiếp sức, ngụy quyền Sài Gòn ra sức đôn quân, bắt lính, đưa số quân nguy từ 60 vạn (năm 1972) lên 72 vạn tên (năm 1973). Các binh chủng pháo binh, thiết giáp, không quân phát triển nhanh. Thế chiến lược cũng được chúng tính toán điều chỉnh theo kế hoạch quân sự 3 năm (1973-1975) nhằm đẩy lùi bộ đội chủ lực của ta ra sát biên giới và xóa bỏ trạng thái xen kẽ địch - ta (vùng da báo). Ngụy quyền Sài Gòn đã huy động hai phần ba số quân chủ lực và toàn bộ lực lượng bảo an, dân vệ vào các cuộc hành quân tràn ngập lãnh thổ, lấn chiếm vùng giải phóng.
Những tháng đầu năm 1973, tuy tình thế đã thay đổi có lợi cho ta, nhưng lợi dụng tình hình có biểu hiện ảo tưởng hòa bình, chờ đợi của một số địa phương, địch đã lấn và chiếm lại nhiều vùng ta mới giải phóng trong năm 1972, như ở nam bắc Đường số 4 (Khu
, bắc Tam Kỳ (Quảng Nam), Hoài Nhơn, Phú Mỹ (Bình Định)... Đến giữa năm 1973, địch còn lấn chiếm thêm một số vùng giải phóng gồm hàng trăm xã với hàng chục vạn dân ở Khu 5, Khu 6, Khu 7, Khu 8...
Trước tình hình đó, ngày 25 tháng 6 năm 1973, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết về: "Tình hình và nhiệm vụ quan trọng mới", phân tích tình hình diễn ra từ khi có Hiệp định Pa-ri, dự kiến khả năng phát triển của tình hình, đề ra phương hướng nhiệm vụ quân sự và những chủ trương công tác lớn đối với miền Bắc và miền Nam.
Về tình hình miền Nam, Quân ủy Trung ương nhận định: "Địch thực hiện được một phần âm mưu không phải do chúng mạnh mà do ta khuyết điểm".
Do vậy, Quân ủy Trung ương chỉ thị: "Các lực lượng vũ trang ở miền Nam cần nắm vững chiến lược tiến công, đánh bại mọi hành động lấn chiếm của địch, giành và giữ dân, giữ vững vùng giải phóng và chính quyền cách mạng. Đồng thời phải chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt, nếu địch mở rộng chiến tranh, gây lại chiến tranh quy mô lớn thì kiên quyết tiêu diệt" Cũng trong tháng 6 năm 1973, Bộ Chính trị họp với các đồng chí bí thư các đảng bộ và các đồng chí chủ trì các chiến trường để thảo luận chuẩn bị bản báo cáo của Bộ Chính trị trước Hội nghị Trung ương.
Tháng 10 năm 1973, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 21 ra Nghị quyết: "Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới". Ban Chấp hành Trung ương đã nghe báo cáo của Bộ Chính trị và đã tổng kết 18 năm thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, rút ra những quy luật thắng lợi mà nhân tố quyết định là luôn luôn giữ vững, củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, là tư tưởng chiến lược tiến công, đồng thời biết giành thắng lợi từng bước cho đúng, đẩy lùi và đánh bại địch từng bước, củng cố trận địa của cách mạng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Phương pháp bạo lực cách mạng, dựa trên lực lượng chính trị và lực lượng quân sự, thực hiện bằng hình thức đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, kết hợp một cách hết sức chủ động linh hoạt, kết hợp khởi nghĩa quần chúng và chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy. Đánh địch trên cả ba vùng chiến lược, bằng ba mũi giáp công, kết hợp ba thứ quân, kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ thực hiện làm chủ để tiêu diệt. địch, tiêu diệt địch để làm chủ. Đánh lâu dài, càng đánh càng mạnh, vừa đánh vừa xây dựng và phát triển lực lượng ta.
Tiến công từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao...
Sau này có điều kiện nghiên cứu, tôi thấy tất cả những hình thức, biện pháp nói trên là một thể thống nhất, có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tạo nên chiến lược tổng hợp và nghệ thuật quân sự của chiến tranh cách mạng Việt Nam. Đó cũng là những quy luật để giành thắng lợi được thể hiện rất rõ trong đường lối cách mạng và chiến tranh cách mạng của Đảng ta.
Ban Chấp hành Trung ương đã nhất trí với nhận định của Quân ủy Trung ương tháng 6 năm 1973, đã được Bộ Chính trị thông qua về hai khả năng: - Hoặc do đấu tranh tích cực của ta trên ba mặt chính trị, quân sự, ngoại giao mà ta có thể từng bước buộc địch phải thi hành Hiệp định Pa ri về Việt Nam, hòa bình được lập lại. - Hoặc ta phải tiến hành chiến tranh cách mạng gay go, quyết liệt để đánh bại địch, giành thắng lợi hoàn toàn.
Ban Chấp hành Trung ương khẳng định: Con đường cách mạng của miền Nam là con đương bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 1 của Ban Chấp hành Trung ương (Khóa III) có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cách mạng miền Nam, kịp thời khắc phục những ảo tưởng hòa bình, thụ động chờ đợi khẳng định con đường tất thắng của sự nghiệp giải phóng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực, tiếp tục đẩy mạnh chiến lược tiến công.
Thực hiện Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Quân ủy Trung ương, Quân ủy Miền và Đảng ủy - Bộ Tư lệnh các quân khu trên chiến trường miền Nam đã tiến hành tổng kết, đánh giá tình hình 6 tháng đầu năm 1973, kịp thời đề ra những chủ trương mới nhằm củng cố, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang đặc biệt là bộ đội chủ lực. Đồng thời chỉ đạo các đơn vị các địa phương kiên quyết phản công và chủ động tiến công địch, đánh bại kế hoạch lấn chiếm vùng giải phóng của chúng. Do vậy, từ giữa năm 1973 trở đi, tình hình ở miền Nan bắt đầu chuyển biến tích cực. Hình thái chiến trường không những cơ bản được khôi phục lại như cuối năm 1972 mà còn phát triển rất có lợi cho ta.
Thời gian này, các lực lượng vũ trang trên chiến trường miền Nam đã tranh thủ những điều kiện thuận lợi do Hiệp định Pa-ri tạo ra để củng cố lực lượng, bổ sung quân số, trang bị và huấn luyện để nâng cao trình độ chiến đấu. ở miền Bắc, Trung ương và Chính phủ đã chỉ đạo các ngành, các địa phương huy động sức người, sức của chi viện cho chiến trường. Tôi được biết, trong vòng 9 tháng (từ tháng 1 đến tháng 9 năm 1973) đã có 14 vạn tấn hàng quân sự, trên 10 vạn cán bộ, chiến sĩ gồm hai sư đoàn bộ binh, hai trung đoàn pháo binh, một sư đoàn pháo cao xạ, một trung đoàn thiết giáp, một trung đoàn công binh và các đơn vị quân bổ sung đã đến các hướng trên chiến trường miền Nam.
Với sự chi viện trên, lực lượng vũ trang ta ở miền Nam đã có sự phát triển mới về số lượng trang bị và trình độ chiến đấu. Riêng bộ đội chủ lực có 31 vạn, biên chế thành 10 sư đoạn, 24 trung đoàn, 102 tiểu đoàn bộ binh và binh chủng.
Để có những quả đấm tập trung giáng những đòn quyết định tiêu diệt từng sư đoàn địch, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn làm thay đổi cục diện chiến tranh, ngày 24 tháng 10 năm 1973, Bộ Tổng tư lệnh ra quyết định thành lập Quân đoàn 1 - Binh đoàn Quyết thắng. Biên chế gồm 3 sư đoàn bộ binh (308, 312, 320B), Sư đoàn phòng không 367, Lữ đoàn xe tăng 202, Lữ đoàn pháo binh 45, Lữ đoàn công binh 299, Trung đoàn thông tin 140, các đơn vị binh chủng, phục vụ và các cơ quan quân đoàn.
Tư lệnh là Tướng Lê Trọng Tấn (Phó Tổng tham mưu trưởng kiêm chức), Chính ủy là Tướng Lê Quang Hòa (Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị kiêm chức). Quân đoàn 1 - Quân đoàn cơ động dự bị chiến lược đầu tiên của quân đội ta được thành lập là để chuẩn bị cho quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng, đồng thời đánh dấu bước phát triển tất yếu của giai đoạn cuối cuộc chiến tranh giải phóng.
Quân đoàn có nhiệm vụ: "Xây dựng quân đoàn cách mạng, chính quy, hiện đại, có sức chiến đấu cao, sức cơ động lớn, sức đột kích mạnh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao".
Lúc này, Trung đoàn 27 thuộc Mặt trận B5 ở Quảng Trị được Tướng Lê Trọng Tấn điều về đứng trong đội hình Sư đoàn 320B. Tướng Lê Trọng Tấn hiểu rất rõ sở trường của Trung đoàn 27.
Tướng Lê Trọng Tấn, người đã biết tôi từ khi tôi còn là đại đội trưởng đã đánh trận diệt gọn cụm xe cơ giới Mỹ 16 chiếc ở Tân Kim, xã Cam Tuyền, huyện Cam Lộ... nhiều lần gặp tôi, ông bảo: - Cậu phải nói hết thủ đoạn của địch, cách giấu quân của ta, khó khăn, thuận lợi là gì? Tôi đã trình bày rất kỹ để ông nghe. Nghe xong ông ân cần chỉ bảo cho tôi cái gì được, cái gì phải rút kinh nghiệm, nhất là sau trận đánh phải báo cáo kết quả, không được để cấp trên mong tin. Tôi được ông coi như là con...
Vì thế, khi điều Trung đoàn 27 về đứng trong đội hình Sư đoàn 320B, Tướng Lê Trọng Tấn cũng quyết định điều tôi từ Học viện Quân sự về làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 27 thay anh Huỳnh Ngọc Giao.
Cũng thời gian này trên quyết định anh Trịnh Văn Thư - Phó chính ủy lên thay anh Hoàng Nghĩa Yêm làm Chính ủy trung đoàn.
Sau hơn một năm được trên cử đi đào tạo ở Học viện Quân sự, tôi tốt nghiệp loại giỏi, được nhà trường giữ lại làm giáo viên. Đang ở đơn vị chiến đấu về nhà trường thật là bức bách. Lúc nào tôi cũng hướng ra chiến trường và mong được về đơn vị chiến đấu. Việc Tướng Lê Trọng Tấn quyết định đưa tôi về Trung đoàn 27 đã đáp ứng mong mỏi của tôi, tôi phấn khởi khoác ba lô lên đường. Đi nhanh như sợ trên lại thay đổi ý kiến. Về đơn vi chiến đấu là nguyện vọng của nhiều người lúc đó.
Trên Mặt trận cánh Đông Quảng Trị, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 kiên cường bám trụ, chiến đấu giữ vững vùng giải phóng cho đến ngày 28 tháng 1 năm 1973, ngày Hiệp định Pa-ri có hiệu lực. Nhưng vào thời điểm Hiệp định có hiệu lực, trên Mặt trận cánh Đông, Mỹ - ngụy tiếp tục mở cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng Quảng Trị. Trước thái độ ngoan cố của địch, các chiến sĩ Trung đoàn 2 7 đã kịp thời đánh trả, đẩy chúng ra khỏi khu vực, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong những ngày tiếp theo, Trung đoàn 27 có mặt trên tuyến giáp ranh từ Chợ Sải, Nại Cửu, Bích La, An Đông cùng các đơn vị bảo vệ vững chắc vùng giải phóng Quảng Trị.
Từ Quảng Trị, mảnh đất nóng bỏng lửa đạn, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 về đứng trong đội hình chiến đấu của Sư đoàn 320B (Sư đoàn 390 ngày nay). Từ trung đoàn chủ lực tại chỗ nay đứng trong đội hình một sư đoàn chủ lực trong quân đoàn cơ động chiến lược chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô lớn với những phương thức tác chiến ngày càng đổi mới cả về chiến dịch, chiến thuật là đòi hỏi rất cao đối với cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 anh hùng. Nhưng cũng rất may cho tôi, những kiến thức học trong nhà trường lại qua nửa năm làm giáo viên của Học viện Quân sự đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi vận dụng lý luận vào thực tiễn huấn luyện, chiến đấu cho bộ đội. Khi tôi về đến trung đoàn thì trung đoàn đang đứng chân ở huyện Như Xuân, Thanh Hóa. Công việc đầu tiên của tôi sau hơn một năm xa trung đoàn là đi thăm lại các đơn vị. Số cán bộ cũ đã trưởng thành lên cương vị mới. Nhiều người lúc tôi đi học mới là cán bộ tiểu đội, trung đội, cá biệt có người là chiến sĩ thì nay đã trở thành cán bộ đại đội trung đội. Không ít người đã không về, trong đó có Trung đoàn trưởng Cao Uy, người mà tôi luôn kính trọng, anh đã hy sinh cuối năm 1972 trong một trận chiến đấu chống lấn chiếm của địch. Tôi đi một lượt thăm các đơn vị trong trung đoàn, tự điểm lại thấy số anh em đã từng chiến đấu với tôi thiếu vắng khá nhiều, người thì hy sinh, người thì bị thương phải ra quân, trong đó có nhiều người là sinh viên bổ sung giữa năm 1972.
Tôi hỏi một số anh em từng là sinh viên (phần đông đã chững chạc) thì được biết cuối năm 1973, một số chiến sĩ từng là sinh viên đã hy sinh và bị thương, số còn lại, có người trưởng thành cán bộ trung đội, một số ít là cán bộ tiểu đội, một số được trên cử đi học tạo nguồn.
Giữa năm 1974, Trung đoàn 27 được bổ sung lớp tân binh quê Tiền Hải, Kiến Xương (Thái Bình) và sau đó là lớp tân binh quê Tiên Lữ (Hưng Yên).
Những chiến sĩ này có trình độ khác nhau, phải nhờ vào "bản lĩnh" của mấy chục cán bộ trung đội, tiểu đội là sinh viên "gò" các lính trẻ này vào khuôn.
Tôi và Chính ủy Trịnh Văn Thư trao đổi nhiệm vụ xây dựng trung đoàn trở thành đơn vị chủ lực cơ động mạnh, có sức chiến đấu cao, chiến đấu ở mọi chiến trường, đánh thắng địch trong mọi tình huống và đưa nhiệm vụ này ra để Đảng ủy trung đoàn thảo luận.
Sau khi đã có Nghị quyết của Đảng ủy trung đoàn về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng đơn vị cụ thể, toàn trung đoàn ra quân huấn luyện với khí thế sôi nổi. Từ doanh trại đến bãi tập ở đâu cũng nổi lên những khẩu hiệu hành động "Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu", "Huấn luyện giỏi để chiến đấu giải phóng miền Nam".
Ban chỉ huy trung đoàn chúng tôi chọn Tiểu đoàn 61 chủ công làm đơn vị đột phá huấn luyện đi trước một bước. Thông qua các hình thức tham quan, tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm, dân chủ bàn bạc, tìm sáng kiến hay, đặc biệt, việc vận dụng kinh nghiệm thực tiễn chiến đấu vào huấn luyện, ai cũng thấy cần phải huấn luyện cơ bản, có hệ thống, toàn diện, đi từ thấp đến cao, tạo ra những tình huống phức tạp để rèn luyện cho bộ đội nhanh chóng có trình độ và bản lĩnh chiến đấu.
Để khắc phục tình trạng hạn chế về năng lực của đội ngũ cán bộ phần lớn trưởng thành trong chiến đấu, chưa qua các trường lớp chính quy, chúng tôi rất chú trọng khâu bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ bằng nhiều biện pháp thiết thực: cho cán bộ thay
----------------------------
1. Từ khi Trung đoàn 27 về đứng trong đội hình Sư đoàn 320B thì các tiểu đoàn có sự thay đổi. Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 3 được đổi thành: Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 5, Tiểu đoàn 6.
----------------------------------
thế nhau đi dự các lớp tập huấn bồi dưỡng của sư đoàn, quân đoàn. Chúng tôi cũng tự tổ chức các lớp bồi dưỡng đối tượng chủ yếu là đại đội, trung đội.
Những kiến thức tôi có được ở trường đến giờ lại có tác dụng trong bồi dưỡng cho anh em.
Tôi còn nhớ, vào một chiều cuối năm 1974, đại đội 12 1y 7 của trung đoàn bắn đạn thật. Trường bắn được xây dựng bên sườn ngọn núi Nưa thuộc huyện Như Xuân, giáp huyện Nông Cống, Thanh Hóa. Để cho buổi bắn đạn thật đạt kết quả tốt nhất, công tác chuẩn bị thao trường phải được chuẩn bị chu đáo.
Khi tôi đến thì đơn vị đã đắp xong công sự trận địa ở chân núi, nhưng thấy cán bộ đại đội vẫn còn lúng túng chọn địa điểm để đặt mô hình máy bay trên sườn núi. Tôi đứng lên một mô đất cao quan sát, thì thấy một cụm cây trên sườn núi. Tôi chỉ tay về phía cụm cây và bảo: "Các anh cho đặt mô hình ở đó thì tạo được nhiều tình huống bắn tập sát thực tế chiến đấu hơn". Tôi yêu cầu một vài cán bộ, chiến sĩ cùng leo lên cụm cây cao trên sườn núi để treo mô hình máy bay. Khi anh em treo mô hình tôi nhìn vẫn chưa được, thế là tôi cùng anh em chỉnh sửa. Sửa, ngắm chưa được lại sửa. Khi làm xong thì trời xế chiều. Tất cả đều mệt, song mọi người đều hài lòng vì đã làm một trận địa bắn tập ưng ý, đúng tiêu chuẩn.
Chiều cuối đông, trời tối rất nhanh. Mọi người giật mình tìm lối xuống. Lúc leo lên mải nói chuyện vui vẻ với đám lính trẻ nên tôi không bảo anh em đánh dấu đường. Lúc này xung quanh là cây lút đầu không xác định được hướng để đi xuống. Một số anh em tỏ ra hoang mang. Tôi nói: - Những lúc như thế này cần phải bình tĩnh mới có thể giải quyết được mọi tình huống.
Theo kinh nghiệm của mình, tôi trèo lên một cây khá cao và xác định hướng xuống. Tôi bảo đại đội trưởng đưa cho con dao để tôi vừa đi vừa mở lối.
Xuống dưới chân núi ai cũng bảo: "Trung đoàn trưởng mở đường xuống còn ngắn hơn lúc lên"...
Sau khi hoàn thành huấn luyện, trên điều Sư đoàn 320B đi đắp đê ở Yên Mô (Ninh Bình). Cả sư đoàn trải đài trên con đê hơn hai chục cây số. Trên mặt đê, suốt dọc huyện Yên Mô như một công trường thủ công khổng lồ. Từ sáng đến chiều con đê rợp bóng áo xanh của những người lính rung đoàn 27 anh hùng. Chúng tôi đến, thôn xóm rộn lên tiếng cười đùa của đám lính trẻ cùng các cô thôn nữ.
Người dân Yên Mô rất tốt. Cái gì quý cũng nhường cho bộ đội, từ miếng ăn, chỗ ngủ. Quần áo của bộ đội các cô gái cũng giằng lấy để được giặt. Ngược lại bộ đội Trung đoàn 27 cũng để lại những ấn tượng tết đẹp cho người dân Yên Mô. Trừ lúc lao động trên công trường, thời gian còn lại anh em tham gia lao động vệ sinh đường làng ngõ xóm. Nhà có bộ đội ở bao giờ cũng sạch sẽ gọn gàng. Những đêm liên hoan văn nghệ giữa bộ đội và thanh niên địa phương được tổ chức thường xuyên, mang lại đời sống tinh thần cho một vùng quê đồng chiêm trũng...
Ngày 17 tháng 5 năm 1974, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang), đến ngày 20 tháng 7 năm 1974, Bộ Quốc phòng lại ra quyết định thành lập Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long).
Hội nghị Bộ Chính trị họp tháng 10 năm 1974 và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng tháng 1 năm 1975 đã phân tích thời cơ chiến lược và hạ quyết tâm lịch sử giải phóng miền Nam. Bộ Chính trị nhận định: Từ đầu năm 1974, bằng những cố gắng nhiều mặt ta đã thu được những kết quả to lớn trong công tác chuẩn bị chiến lược. Ta đã giữ vững và phát triển mạnh mẽ thế chủ động chiến lược, đẩy địch vào thế bị động trên toàn chiến trường. Ta đã tăng thêm sức mạnh của lực lượng vũ trang, đặc biệt là khối chủ lực. Làm căng mỏng và suy yếu một bước quan trọng quân ngụy, nhất là quân chủ lực cơ động của chúng. Làm cho chủ lực ta hơn hẳn chủ lực ngụy. Ta đã củng cố và mở rộng các bàn đạp tiến công trên các hướng chiến lược trọng yếu, chuẩn bị tất các mặt dự trữ vật chất, đường cơ động chiến lược và chiến dịch.
Mỹ ngày càng gặp khó khăn trong nước và trên thế giới. Do đó, Mỹ chẳng những phải giảm bớt chi viện cho ngụy mà còn khó có khả năng nhảy vào lại miền Nam, và dù chúng có can thiệp thế nào đi nữa cũng không cứu vãn được ngụy quyền Sài Gòn khỏi sụp đổ không thể ngăn cản bước tiến lên của cách mạng đang vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh...
Từ những nhận định trên, Bộ Chính trị đã nhất trí thông qua phương án thực hiện giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976, và chọn chiến trường Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu. ở Tây Nguyên, địch tương đối yếu và ta có nhiều thế lợi để có thể phát triển lực lượng về phía Nam, chia cắt miền Trung. Hơn nữa ở Tây Nguyên lại tiện cho ta phát huy hết sức mạnh của các binh chủng kỹ thuật.
Bộ Chính trị kết luận: Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn, chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất đất nước.
Bộ Chính trị quyết tâm: Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, trong thời gian 1975-1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh ngoại.giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta, tiến hành khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị mọi mặt, tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ Trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân.
Bộ Chính trị nhấn mạnh: Trong quá trình thực hiện quyết tâm chiến lược đó, cần nắm vững quy luật cơ bản của chiến tranh cách mạng nước ta là kết hợp quân sự và chính trị, tiến công và nổi dậy, chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa vũ trang, phát triển đến đỉnh cao là Tổng công kích, tổng khởi nghĩa, phát huy sức mạnh tổng hợp của tiến công quân sự, tiến công chính trị, tiến công binh vận kết hợp với tiến công ngoại giao.
Bộ Chính trị quan tâm rất nhiều đến vấn đề thời cơ chiến lược. Cả năm 1975 là thời cơ, đòn tiến công quân sự mạnh tạo nên thời cơ, tình hình thế giới và nội tại nước Mỹ là thời cơ. Từ bình thường đến vừa, đến cao, đến đột biến với tốc độ "l ngày bằng 20 năm", do đó cần khẩn trương, phải đánh nhanh hơn nếu đã có thời cơ mà không kịp thời phát hiện, bỏ lỡ thì có tội lớn đối với dân tộc.
Ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm 1975- 1976, cần phải có kế hoạch lợi dụng thời cơ, chuẩn bị phương án hành động cực kỳ quan trọng là: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị Quân ủy Trung ương quyết định dùng lực lượng chủ lực mạnh mở chiến dịch quy mô lớn ở Tây Nguyên, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của địch, đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột, giải phóng tỉnh Đắc Lắc, sau đó giải phóng toàn bộ Tây Nguyên và phát triển xuống Phú Yên, Khánh Hòa thực hiện chia cắt chiến lược.
Để bảo đảm cho trận then chốt mở đầu thắng lợi Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định cử Đại tướng Văn Tiến Dũng, ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham _mưu trưởng trực tiếp chỉ đạo và chỉ huy chiến dịch. Đồng thời, ở Tây Nguyên phải tập trung lực lượng hơn địch, tích cực nghi binh, tích cực đánh lạc hướng, hình thành chia cắt bao vây, cô lập địch, hành động thật bất ngờ, thật mãnh liệt, làm cho địch không kịp đối phó và khi mất thì không kịp phản kích lấy lại.
Theo tinh thần đó, ngày 4 tháng 3 năm 1975, ta tiến công cắt đứt đường 19, đường 21 từ Tây Nguyên nối với đông bắc Khu 5, tiến công nghi binh quy mô vừa và nhỏ ở Kon Tum, Plây Cu. Ngày 8 tháng 3, ta đánh chiếm Thuần Mẫn, cắt đứt đường 14 giữa Plây Cu và Buôn Ma Thuột. Ngày 9 tháng 3, ta đánh chiếm Đức Lập, Núi Lửa, cô lập hoàn toàn Buôn Ma Thuột.
Ngày 10 tháng 3 năm 1975, ta tập trung lực lượng gồm một sư đoàn và hai trung đoàn bộ binh, một trung đoàn đặc công, một đại đội xe tăng, hai trung đoàn pháo binh, ba trung đoàn pháo cao xạ tiến công thị xã Buôn Ma Thuột, tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch ở đây, gồm sư đoàn bộ binh 23, trung đoàn 53 (thiếu), một chi đội thiết giáp, một tiểu đoàn và bốn đại đội bảo an, 57 trung đội dân vệ.
Sau hai ngày chiến đấu, ta hoàn toàn làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột, đập vỡ một mảng lớn hệ thống phòng thủ của địch trên chiến trường Tây Nguyên.
Ngày 11 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị họp, nhận định: Thắng lợi ở Buôn Ma Thuột, Đức Lập, trên đường 19 và các hướng khác chứng tỏ ta có khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến.
Bộ Chính trị khẳng định một lần nữa khả năng can thiệp của Mỹ là rất ít và chỉ thị cho Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị khẩn trương kế hoạch giải phóng tiếp Tây Nguyên, giải phóng Huế - Đà Nẵng và dự kiến những thời cơ lớn hơn.
Ngày 16 tháng 3, quân địch ở Tây Nguyên rút chạy, bộ đội ta nhanh chóng tổ chức chặn đánh và truy kích. Đến ngày 24 tháng 3, toàn bộ quân địch rút chạy khỏi Tây Nguyên đã bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh.
Chiến dịch Tây Nguyên đại thắng. Ta đã giải phóng toàn bộ vùng cao nguyên chiến lược rộng lớn rất quan trọng trên chiến trường miền Nam.
Ngày 18 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị họp, hạ quyết tâm hoàn thành kế hoạch hai năm trong năm 1975. Bộ Chính trị xác định phương hướng tiến công chiến lược chủ yếu là Sài Gòn, nhưng trước mắt cần phải tiêu diệt ngay quân đoàn 1 ngụy.
Đến ngày 25 tháng 3, Bộ Chính trị lại họp và nhận định: Thời cơ chiến lược lớn đã tới. Trong suốt 20 năm chống Mỹ, cứu nước, chưa bao giờ thuận lợi bằng lúc này, do đó cần: Nắm vững thời cơ chiến lược mới, tranh thủ thời gian cao độ, nhanh chóng tập trung lực lượng vào hướng chủ yếu, hành động táo bạo, bất ngờ, làm cho địch không dự kiến kịp và không kịp trở tay, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam càng sớm càng tốt... Và, Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn Sài Gòn và miền Nam trước mùa mưa (tháng 5 năm 1975).
Cả nước tập trung sức người sức của cho chiến dịch cuối cùng kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. ở miền Bắc, thanh niên nam nữ trong các cơ quan, xí nghiệp, nhà máy, công trường, trường học hăng hái lên đường nhập ngũ. Mọi phương tiện vận tải đường bộ, đường sắt, đường biển, đường không đều được huy động tối đa để chi viện cho mặt trận.
Trên quốc lộ số 1 và các trục đường chiến lược, từng đoàn xe chở bộ đội, xe chở hàng hóa, xe kéo pháo nối nhau ngày đêm chạy về phía nam. Các quân đoàn, binh đoàn chủ lực của ta từ khắp nơi cũng được lệnh hội quân về Mặt trận Sài Gòn.
Ngày 26 tháng 3 năm 1975, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) trên cơ sở tổ chức khối chủ lực của Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên thành một lực lượng cơ động chiến lược của Bộ, phát triển xuống phía Nam tham gia giải phóng Sài Gòn.
Trung đoàn 27 của tôi đang lao động trên công trường đắp đê sông Đáy, phân lũ sông Hồng thuộc huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình, thì sáng ngày 16 tháng 3 năm 1975 nhận được lệnh của sư đoàn: "Trung đoàn tổ chức hành quân cơ động gấp từ vị trí đắp đê để đi nhận nhiệm vụ chiến đấu".
Tin trung đoàn ngừng lao động, lên đường đi chiến đấu được truyền nhanh khắp công trường.
Bây giờ không ai còn băn khoăn với câu hỏi bao giờ ra trận nữa. Việc Quân đoàn 1 đến lúc này vẫn chưa được trên giao nhiệm vụ chiến đấu là nằm trong kế hoạch nghi binh chiến lược của Bộ Tổng tư lệnh. Vì địch luôn theo dõi Quân đoàn 1 - đơn vị dự bị chiến lược của Bộ. Khi thấy Quân đoàn 1 vẫn "chưa động binh", chúng đoán rằng ta chưa thể đánh lớn. Hơn nữa, địch càng chưa thể dự đoán ta có ý đồ tổ chức một trận quyết chiến chiến lược đánh vào Sài Gòn để giải quyết chiến tranh.
Thấy bộ đội chuẩn bị hành quân, nhân dân mỗi người một tay giúp các chiến sĩ của trung đoàn. Các cụ phụ lão chọn những cây tre già, dày đốt làm cho anh em những chiếc đòn khiêng pháo. Có đơn vị anh nuôi còn nhận được cả những chiếc sọt tre đan vội nan không kịp vót. Thôn xóm có bộ đội ở nhộn nhịp như ngày hội. Bà con coi việc giúp bộ đội lên đường ra trận là trực tiếp góp công, góp sức của mình cho tiền tuyến.
Hôm tiễn cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 lên đường ra trận là hôm để lại trong cán bộ, chiến sĩ niềm xúc động khó quên. Các bà, các mẹ, các cô thôn nữ không cầm nổi nước mắt. Tiếng cười hòa với nước mắt chan hòa trên khuôn mặt mọi người.
Tôi có cảm tưởng, nếu không kiên quyết ra lệnh cho chỉ huy các đơn vị thổi còi và ôtô không nổ máy giục giã thì thật khó mà dứt đi được. Khi đoàn xe đã đi xa, người dân vẫn đứng giơ tay vẫy chào lưu luyến.
Trung đoàn 27 là đơn vị đi đầu đội hình sư đoàn và đội hình quân đoàn. Theo tôi, ý định của cấp trên là tăng cường trung đoàn cho Mặt trận Huế nếu ở đây gặp khó khăn. Trung đoàn chia thành hai khối. Khối một, xuất phát lúc 12 giờ ngày 18 tháng 3 tại ga Cầu Yên. Khối hai, xuất phát lúc 16 giờ ngày 19 tháng 3 cũng tại ga Cầu Yên.
Tàu hỏa, tiếp đó là các đoàn xe vận tải xanh lá ngụy trang của Binh trạm 1, Đoàn 559 đưa trung đoàn đến vị trí tập kết ở xã Vĩnh Chấp và Vĩnh Thành (khu vực Vĩnh Linh) vào ngày 23 tháng 3.
Tiểu đoàn tân binh gần 700 đồng chí bổ sung cho trung đoàn cũng có mặt ở vị trí tập kết.
Từ ngày 23 tháng 3 đến 24 tháng 3, Ban chỉ huy trung đoàn khẩn trương bàn công tác chuẩn bị: kiện toàn tổ chức biên chế chiến sĩ mới, bổ sung trang bị, vũ khí, đạn dược.
Hai giờ chiều ngày 23 tháng 3 năm 1975, tôi và anh Trịnh Văn Thư có mặt ở sở chỉ huy sư đoàn. Tôi và anh Thư vừa ngồi xuống, anh Lưu Bá Xảo - Sư đoàn trưởng, nói luôn: - Tình hình trên chiến trường đang diễn biến rất khẩn trương. Địch đang trên đà tan rã lớn về tổ chức, suy sụp về tinh thần. Theo lệnh của Bộ, sư đoàn chỉ dùng Trung đoàn 27 của các đồng chí cùng với Tiểu đoàn 66 xe tăng Lữ đoàn 202 nhanh chóng đánh chiếm đèo Hải Vân. Sau đó phát triển phối hợp với các đơn vị đánh chiếm sân bay Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn, bán đảo Sơn Trà.
Anh Đỗ Mạnh Đạo - Chính ủy sư đoàn bổ sung: - Trước mắt, cần động viên quyết tâm chiến đấu thật cao của cán bộ, chiến sĩ. Thực hiện tốt năm yêu cầu của Quân ủy Trung ương để quyết đánh thắng: Kịp thời nhất; nhanh chóng nhất; táo bạo nhất; bất ngờ nhất; chắc thắng.
Anh Lưu Bá Xảo nhấn mạnh: - Tình thế rất khẩn trương, ngay chiều nay sở chỉ huy nhẹ của sư đoàn và các đơn vị tăng cường cho trung đoàn sẽ hành quân gấp. Anh Hiệu có ý kiến gì không? - Tôi sẽ về tổ chức cho bộ đội thực hiện.
Các anh về khẩn trương chuẩn bị bước vào chiến đấu. 16 giờ ngày 25 tháng 3, tiểu đoàn xe ôtô vận tải của Trung đoàn 13, Đoàn 559 do anh Thi làm Trung đoàn trưởng đã có mặt tại trung đoàn. Chúng tôi tổ chức ba xe chở cán bộ và trinh sát đi đầu làm nhiệm vụ xem xét địa hình, nắm địch và giữ vững liên lạc với đại quân phía sau.
Đoàn xe chuẩn bị xuất phát thì đồng chí Nguyễn Hòa - Tư lệnh và đồng chí Hoàng Minh Thi - Chính ủy quân đoàn đến động viên. Đồng chí Chính ủy căn dặn: "Các đồng chí phải cắm bằng được lá cờ quyết thắng lên bán đảo Sơn Trà - Đà Nẵng".
12 giờ đêm ngày 26 tháng 3, Trung đoàn 27 đã vào tới Huế. Huế vừa được giải phóng. Trên các đường phố, các công sở, dọc hai bờ sông Hương rợp cờ đỏ sao vàng, cờ nửa đỏ nửa xanh của Mặt trận dân tộc giải phóng. Đây đó còn những xác xe tăng, xe GMC của địch bị ta bắn cháy nằm ngổn ngang hai bên đường, có nhiều chiếc xe do quân địch hoảng loạn bỏ lại còn nguyên vẹn. Từng tốp bộ đội và du kích tay đeo băng đỏ, trang phục gọn gàng mang súng đứng gác. Sau cơn mưa, phố xá như vừa được rửa sạch, không khí nhẹ hẳn.
Vượt cầu Tràng Tiền, đoàn xe nhằm đèo Hải Vân lao tới. Ba xe trinh sát do tôi chỉ huy vượt lên đỉnh đèo Chúng tôi vừa vui mừng vừa ngỡ ngàng thấy lá cờ giải phóng đã được cắm ngay trên đỉnh đèo đang tung bay.
Biết mục tiêu đèo Hải Vân đã được đơn vị bạn giải quyết tôi nói các anh em lái xe: - Vượt đèo đuổi theo! Mục tiêu của chúng ta là bán đảo Sơn Trà.
sáng ngày 29 tháng 3, ba chiếc xe vận tải nối tiếp nhau chạy về phía Đà Nẵng. Đà Nẵng đã rợp bóng cờ và sắc áo Quân giải phóng. Được tin Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đang ở sân bay Đà Nẵng, tôi cho xe tìm đến. Vừa bước vào Sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn 2, tôi gặp đồng chí Nguyễn Hữu An - Tư lệnh quân đoàn. Tôi báo cáo: - Theo hiệp đồng, chúng tôi đã đến đúng thời gian, nhưng địch thua nhanh quá.
Đồng chí Nguyễn Hữu An cười vui, nói: - Theo kế hoạch, Trung đoàn 27 cùng với một đơn vị của Quân đoàn 2 tổ chức thành một cánh quân theo trục đường 1 đánh vào thành phố. Nhưng ta mới đánh đến đèo Hải Vân thì lực lượng của Quân khu 5 đã đánh vào, giải phóng thành phố Đà Nẵng rồi. Theo lệnh của Bộ, Trung đoàn 27 đã có nhiệm vụ mới, đó là trở lại đội hình của Quân đoàn 1 để tham gia chiến dịch sắp tới.
Lúc này, anh em tổ đài 15W Bộ Tổng tham mưu tăng cường cho trung đoàn đưa điện của Bộ Tổng tham mưu, lệnh cho trung đoàn quay ra Đông Hà nhận trang bị bổ sung rồi theo đường Hồ Chí Minh vào tập kết ở Đồng Xoài. Nhận được lệnh, tôi hội ý Ban chỉ huy trung đoàn. Tôi nói: - Thời cơ đánh vào hang ổ của kẻ thù đã đến rồi, Trung đoàn 27 sẽ "Hành quân thần tốc Quyết thắng" tham gia chiến dịch.
Chào tạm biệt đồng chí Tư lệnh Quân đoàn 2 Nguyễn Hữu An, tôi cho đoàn xe quay trở lại Đông Hà.
Tôi được biết, ngay từ ngày 18 tháng 8 năm 1975, Bộ Chính trị - Quân ủy Trung ương đã đề ra chủ trương lớn về trận quyết chiến đánh vào Sài Gòn - Gia Định. Ngày 25 tháng 3, Bộ Chính trị có Nghị quyết và tiếp đó Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh đã chỉ đạo cụ thể. Nghị quyết Bộ Chính trị chỉ rõ: Nắm thời cơ, tập trung nhanh nhất lực lượng (từ 12 sư đoàn trở lên), tập trung binh khí, kỹ thuật và vật chất giải quyết xong Sài Gòn - Gia Định trước mùa mưa.
Về cách đánh Sài Gòn, Quân ủy Trung ương - Bộ Tổng tư lệnh xác định: Đánh thẳng vào trung tâm Sài Gòn bằng lực lượng đột kích mạnh, có binh chủng hợp thành. Tiến công thật mạnh và dồn dập đến toàn thắng; vừa phát động tiến công ở ngoại vi, vừa có lực lượng sẵn sàng nắm thời cơ thọc sâu vào trung tâm từ nhiều hướng, thực hiện trong đánh ra, ngoài đánh vào, tạo điều kiện cho đồng bào nổi dậy.
Lúc này, về phía địch, lực lượng quân đoàn 3 cùng tàn quân quân đoàn 1, quân đoàn 2 và tổng dự bị rút về, đã tổ chức phòng thủ quân khu 3 và Sài Gòn - Gia Định. ý định của chúng là: Tăng cường phòng thủ tuyến ngoài mạnh như Tân An, Hậu Nghĩa, Củ Chi, Đồng Dù, Bến Cát, Phú Lợi, Hố Nai, Long Bình; nội đô tổ chức thành từng khu vực phòng thủ. Hướng bắc và tây bắc Sài Gòn địch chú ý tăng cường lực lượng. Hướng tây và tây nam địch sơ hở hơn. Hướng đông địch dựa vào hai con sông lớn và có tăng cường lực lượng phòng ngự khá vững chắc.
Địch tổ chức phòng thủ, bố trí lực lượng xung quanh Sài Gòn - Gia Định như sau: Tuyến ngoại vi có năm sư đoàn và hai lữ đoàn.
Sư đoàn 22 ở Long An, Bến Lức. Sư đoàn 25 ở Tây Ninh, Trảng Bàng, Củ Chi, Đồng Dù, Hậu Nghĩa.
Sư đoàn 18 ở Bầu Cá, Trảng Bom, Suối Đìa. Sư đoàn lính thủy đánh bộ ở Long Bình. Lữ đoàn 3 kỵ binh ở Biên Hòa, Long Bình. Lữ dù giữ Bà Rịa. Sư đoàn biệt động quân (ba liên đoàn) mới thành lập, tổ chức ba khu: Khu bắc gồm Hóc Môn, Cầu Bông trở vào Tân Sơn Nhất, khu tây gồm Vĩnh Lộc, Châu Hiệp, Bà Hoàn, Bình Chánh. Khu nam gồm Nhà Bè, Nhơn Trạch...
Tuyến nội đô, chúng tổ chức thành năm liên khu, mỗi liên khu gồm hai quận, do lực lượng cảnh sát phòng vệ dân sự phụ trách.
Qua hình thái bố trí của địch ta thấy, vòng ngoài có lực lượng mạnh, bên trong sơ hở, không có lực lượng tăng viện. Chúng chú trọng tăng cường một số điểm then chốt, tăng cường chướng ngại trên các ngả đường nhưng còn giản đơn, với ý định nếu bị đánh, cố giữ bên ngoài rồi co dần về bảo vệ bên trong.
Về phía ta, khí thế và quyết tâm rất cao, lại có khả năng tập trung lực lượng ưu thế hơn hẳn địch cả về số lượng (ta 15 sư đoàn, địch sáu sư đoàn) và chất lượng. Chủ lực ta gồm có Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn mạnh). Binh chủng kỹ thuật ta có: 20 lữ đoàn, trung đoàn và tám tiểu đoàn pháo binh; ba lữ đoàn, trung đoàn và sáu tiểu đoàn xe tăng thiết giáp; tám lữ đoàn, trung đoàn và hai tiểu đoàn đặc công; bốn trung đoàn và mười tiểu đoàn thông tin; hai sư đoàn ôtô vận tải; ngoài ra còn có lực lượng không quân và hải quân...
Trong cuộc họp ngày 1 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị quyết định tăng cường sự lãnh đạo tại chỗ đối với chiến dịch ba đồng chí ủy viên Bộ Chính trị: Lê Đức Thọ, Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng.
Ngày 8 tháng 4 quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch gồm: Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng - Chính ủy. Các đồng chí Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Đinh Đức Thiện, Trung tướng Lê Trọng Tấn, Trung tướng Lê Đức Anh - Phó tư lệnh, Trung tướng Lê Quang Hòa - Phó Chính ủy.
Ngày 2 tháng 4 năm 1975, một cán bộ tham mưu Đoàn 559 mang đến cho tôi mệnh lệnh của Thiếu tướng Phùng Thế Tài - Phó Tổng tham mưu trưởng. Mệnh lệnh viết: "Gửi Trung đoàn 27.
Nhận được điện này, các đồng chí tổ chức cho đơn vị hành quân ngay ra Đông Hà cùng đội hình Sư đoàn đi làm nhiệm vụ mới. Đúng 1 giờ ngày 3 tháng 4 phải có mặt".
Đồng chí cán bộ tham mưu còn cho biết thêm tiểu đoàn xe vận tải của Trung đoàn 990 đã quay lại đưa trung đoàn về Đông Hà. Tôi hội ý Ban chỉ huy trung đoàn thống nhất đội hình và phương án hành quân. Mệnh lệnh hành quân được truyền đi khắp trung đoàn. Nhận được lệnh ai nấy đều phấn chấn, chỉ sau 30 phút, các đơn vị đã có mặt đầy đủ bên đường quốc lộ số 1.
Nửa đêm ngày 3 tháng 4 cả đội hình trung đoàn đã về đến vị trí quy định là hậu cứ của một đơn vị thuộc sư đoàn vận tải Đoàn 559 đóng tại Đông Hà.
Sáng ngày 4 tháng 4, trung đoàn đã tiến hành cấp phát trang bị cho bộ đội. Những thứ chưa kịp cấp phát thì bỏ lên xe, hành quân đến chỗ tạm dừng thì cấp phát tiếp.
14 giờ cùng ngày, đoàn xe chở Trung đoàn 27 được lệnh xuất phát từ Đông Hà qua Khe Sanh theo đường Hồ Chí Minh tây Trường Sơn nhằm hướng nam thẳng tiến.
Thời gian trôi đi vùn vụt. Tình hình chiến trường hết sức khẩn trương. Cách mạng nước ta đang ở giai đoạn một ngày bằng hai mươi năm.
Lúc này cán bộ, chiến sĩ trung đoàn đều hiểu sâu sắc hơn về thời cơ và thời gian còn lại. Thời cơ bao nhiêu năm mới có một lần. Thời cơ là sức mạnh! Thời gian là lực lượng, là chiến thắng! Chậm một giờ một phút là có tội với dân tộc với lịch sử. Do vậy những công việc chuẩn bị phức tạp trước đây phải giải quyết hàng tuần hàng tháng, thì nay được hoàn thành trong một ngày, một buổi.
Trung đoàn đi sau đội hình sư đoàn một ngày nhưng nhờ hiệp đồng chặt chẽ với tiểu đoàn xe vận tải Đoàn 559 nên đã thực hiện thường xuyên đi gọn đến đủ và an toàn từng cung, từng trạm.
Đường Hồ Chí Minh vào thời điểm này trở nên quá tải. Xe chở bộ đội, chở hàng hóa, xe kéo pháo, xe tăng, xe thiết giáp nối nhau chạy về phía Nam.
Cả Trường Sơn rùng rùng chuyển động. Đội hình hành quân của Trung đoàn 27 nối liền với đội hình của sư đoàn và các đơn vị bạn trải dài theo con đường mang tên Bác.
Các đơn vị được lệnh đi cả ngày lẫn đêm, chỉ dừng lại ở những chỗ có nước cho bộ đội thổi cơm. Thời gian thổi cơm được quy định sít sao. Xe nào thổi cơm không kịp phải mang cả nồi lên xe thổi tiếp.
Ngày đầu trung đoàn đi được khoảng 100 ki-lô-mét, rồi dần dần tăng lên 150-200 ki-lô-mét. Có ngày đạt kỷ lục 300 ki-lô-mét.
Xe chạy suốt ngày đêm bụi cuốn mịt mù, những cánh rừng đại ngàn rung chuyển, ầm ào trong tiếng máy nổ của các loại xe.
Có đi trên đường mang tên Bác những ngày này mới thấy hết được tầm vóc vĩ đại, trí thông minh và tài sáng tạo của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, mới thấy hết được thế vững chắc của tuyến vận tải chiến lược mà kẻ địch không thể làm gì nổi.
Giờ đây, đi qua các trọng điểm, xe không phải tạm lánh chờ đêm xuống để đi như trước mà đàng hoàng vượt trọng điểm ngay giữa ban ngày.
Đã vào những tháng cuối của mùa khô. Trời vẫn nắng nóng hầm hập. Mặt đất như bị nung lên, bị đốt cháy dưới nắng lửa. Nóng và bụi. Chưa bao giờ cán bộ, chiến sĩ ta gặp một cảnh bụi khủng khiếp đến như vậy. Có những đoạn, xe sau cách xe trước chỉ năm, bảy mét cũng không nhìn thấy nhau.
Những cánh rừng xanh giờ được khoác trên mình tấm áo choàng đỏ màu đất bazan kéo dài hàng chục ki-lô-mét. Bộ đội mỗi người một khẩu trang che kín miệng. Đầu tóc, quần áo, bụi nhuộm đỏ quạch. Bụi chui vào lỗ tai, vào mũi. Không khí như đặc quánh lại ngột ngạt. Thế nhưng, xe vẫn nối nhau lầm lũi lao đi trong cơn bão bụi kinh khủng ấy. Nóng và bụi đi liền với khát. Đi trên đường Trường Sơn trong những ngày này, bi đông chỉ là chai nước rất nhỏ trong cơn khát đường dài. Xe chạy cả ngày, đường chỉ một cảnh cát bụi và nắng nóng. Những đoạn ngầm, những con suối hung dữ trước kia nay đã trơ những đá cùng sỏi. May mắn lắm mới gặp được một khe suối nhỏ còn đọng lại một vài vũng nước. Thế là, các đơn vị lao xuống chắt lấy từng bát chia cho bộ đội.
Đến bắc Tây Nguyên, qua đèo ăm Pun rồi đèo Dốc Nứa, hàng trăm xe ùn lại vì một chiếc xe bị sa lầy. Giữa lúc ấy, một cán bộ của Đoàn 559 chuyển mệnh lệnh của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp: 1. Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và quyết thắng, 2. Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sĩ.
Văn 7-4-75 Mệnh lệnh "thần tốc" của Đại tướng được nhanh chóng phổ biến tới từng người. Khẩu hiệu "Thần tốc táo bạo" được các chiến sĩ viết vội dán ở đầu xe, ở trên mũ... Nhưng, chiếc xe bị sa lầy vẫn chưa được khắc phục, xe phía sau dồn lại kéo dài gần chục ki-lô-mét. Mọi người đều sốt ruột chưa biết làm cách nào để thông đường.
Một vài đồng chí lái xe của trung đoàn 13 Đoàn 559, tuổi khá cao, nhập ngũ từ năm 1959, dày dạn trận mạc nhưng hơi có chút công thần. Cán bộ, chiến sĩ trung đoàn yêu cầu họ cho xe tránh sang một bên để cho đoàn xe trung đoàn của tôi vượt lên nhưng họ không chịu. Tôi đến gặp họ và tự giới thiệu: "Tôi là Nguyễn Huy Hiệu, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 27. Các anh có nghe mệnh lệnh thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp không? Các anh phải chấp hành sự hướng dẫn của anh em chúng tôi".
Nghe tôi nói vậy, một số anh em lái xe đã biết tên tôi nói với nhau: "Nghe tên từ lâu giờ mới được gặp ông ấy trẻ thế mà đã là trung đoàn trưởng".
Thế rồi không ai bảo ai tất cả đều chấp hành theo sự hướng dẫn của anh em chúng tôi. Các đồng chí cho xe lùi vào bên, nhường đường cho đoàn xe chúng tôi. Đội hình trung đoàn dồn lên nhưng chiếc xe sa lầy vẫn chưa khắc phục được. Tôi quyết định dùng Tiểu đoàn 5 mở con đường tránh. Anh em ai có cuốc dùng cuốc, có xẻng dùng xẻng, có dao dùng dao. Người chặt cây, người san đất. Sau gần hai giờ, con đường gần một cây số đã hoàn thành. Đoàn xe tiếp tục lăn bánh...
Đoàn xe chạy ra đường 14, con đường trải nhựa phẳng lỳ. Về đêm, đèn các xe bật sáng, đoàn xe dài gần chục cây số không khác gì con rồng khổng lồ đang uốn lượn.
Ngày 10 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 27 chúng tôi đến thị xã Buôn Ma Thuột - nơi vừa diễn ra cuộc tiến công chiến lược mở màn cho cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa xuân của quân dân ta.
Dọc đường còn ngổn ngang dây thép gai, xác xe, pháo địch...
Những ngày này, thị xã Buôn Ma Thuột trở nên chật chội bởi những đoàn xe từ Trường Sơn đổ về ngày càng nhiều. Xe tên lửa, xe kéo pháo dài như toa tàu ngụy trang kín mít. Xe công binh chở phà, chở thuyền cồng kềnh. Xe tải đầy ắp hàng. Những chiếc xe tăng T.54, T.58, xe bọc thép K63 thân đỏ bụi đường... tất cả đều hối hả chạy về miền Đông Nam Bộ.
Ngồi trên xe không mui, nắng bụi làm mặt mọi người sạm lại. Nhưng nét mặt ai cũng rất tươi. Tới Bình Phước, xe chạy giữa các lô cao su. Có chỗ năm đến bảy đường ôtô. Những ngã ba, ngã tư có hàng chục biển chỉ đường với nhiều ký hiệu khác nhau: A100, A300, T500... từng đơn vị nhận ra đường của mình qua các ký hiệu riêng ấy. ở các trạm ba-ri-e, sĩ quan tham mưu cùng với các chiến sĩ công binh, trinh sát, truyền đạt thức suốt đêm ngày để hướng dẫn cho các đoàn quân và các đoàn xe vào đúng vị trí tập kết.
Ngày 10 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 27 đã có mặt ở Đồng Xoài thuộc tỉnh Phước Long, trong một cánh rừng cao su. Từ đây, theo đường chim bay chỉ cách địch 50 ki-lô-mét. Đây cũng là mảnh đất cửa ngõ Đông Nam Bộ. Hàng ngày địch vẫn cho máy bay đến ném bom bắn phá vào những cánh rừng cao su, nơi chúng nghi có lực lượng ta.
Đêm đầu tiên nằm võng trong cánh rừng cao su và rừng khộp Đồng Xoài, tôi nghĩ lại chặng đường hành quân vừa qua quả là thần tốc. Vượt gần 2.000 ki-lô-mét chỉ mất 12 ngày. Cuộc hành quân này có khác gì cuộc hành quân thần tốc của Quang Trung trong mùa xuân Kỷ Dậu (1789) từ Phú Xuân ra Thăng Long để đánh tan 29 vạn quân Thanh. Hôm nay các binh đoàn chiến lược của quân đội ta lại rầm rập hành quân từ mảnh đất Ninh Bình nơi hội quân của Quang Trung chuẩn bị đánh vào Thăng Long. Hai cuộc hành quân tuy rất xa nhau về thời gian nhưng đều chung một mục đích: Đánh đuổi quân xâm lược, diệt bè lũ bán nước tay sai giành lại độc lập tự do và thống nhất đất nước.
Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh nhiều cuộc hành quân kỳ diệu nhưng có lẽ chưa có một cuộc hành quân nào lại trùng điệp với sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân mà Đảng ta đã biết phát huy cao độ như trong cuộc hành quân thần tốc, vĩ đại này.
Trong thời gian này, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Bộ tư lệnh Khu 5 và Bộ tư lệnh Hải quân thực hiện gấp rút, nhằm thời cơ thuận lợi đánh chiếm các đảo do quân ngụy Sài Gòn chiếm đóng thuộc quẩn đảo Trường Sa. Ngày 14 tháng 4, bộ đội ta giải phóng đảo Song Tử Tây. Từ ngày 25 đến 29 tháng 4, ta giải phóng các đảo Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa...
Cũng trong ngày 14 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị gửi điện cho Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn: Đồng ý Chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Đây là chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn có kết hợp với nổi dậy của quần chúng, kết thúc chiến tranh. Đó là trận quyết chiến chiến lược lịch sử
Ngay tối hôm đến Đồng Xoài, Đảng ủy Trung đoàn đã họp và ra Nghị quyết lãnh đạo đơn vị. Năm ngày tạm dừng ở Đồng Xoài, Ban chỉ huy trung đoàn chúng tôi tranh thủ từng giờ từng phút làm công tác chuẩn bị mọi mặt cho nhiệm vụ chiến đấu, đồng thời tổ chức huấn luyện hiệp đồng giữa bộ binh và các đơn vị xe tăng, bộ binh với các đơn vị pháo binh, công binh... cách đánh địch trong hành tiến và cách đánh địch trong thành phố. Tôi chỉ đạo các đơn vị cứ một cựu binh thì hướng dẫn dìu dắt cho hai tân binh. Đơn vị cũng tranh thủ học tập chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng khi vào thành phố.
Những ngày này, tôi còn nhớ một chuyện đau lòng đã xảy ra. Trung đội công binh đi đầu, trong khi đang khắc phục cầu sắt ở Đồng Xoài thì máy bay địch ập tới ném bom trúng đội hình, 36 cán bộ, chiến sĩ bị thương và hy sinh.
3 giờ ngày 18 tháng 4 năm 1975, tôi nhận được điện của Tư lệnh Sư đoàn Lưu Bá Xảo: "Tổ chức cho đơn vị hành quân về khu vực Mã Đà, phía nam sông Bé. Chỉ huy cấp trưởng từ đại đội trở lên về sư đoàn nhận nhiệm vụ.
Nhận được điện, tôi hội ý Ban chỉ huy Trung đoàn, thống nhất: Tôi và anh Trịnh Văn Thư - Chính ủy và đại đội cấp trưởng trở lên tách khỏi đội hình hành quân về sở chỉ huy Sư đoàn. Bộ đội vẫn tiếp tục hành quân do Trung đoàn phó Đặng Ngọc Châu và Phó Chính ủy Nguyễn Văn Ký chỉ huy.
Suốt từ 4 giờ sáng đến 10 giờ đêm, các đơn vị bộ binh lặng lẽ hành quân cắt rừng, xuyên qua chiến khu Đ. Cùng lúc đó, những chiếc xe tăng, xe kéo pháo hạng nặng, pháo binh, công binh, cao xạ giấu mình trong những cành lá ngụy trang, nối với những đoàn xe ôtô vận tải đầy ắp gạo, đạn từ Đồng Xoài chạy theo con đường "Ba Thước" rồi ngoặt về Bến Bàu.
Các chiến sĩ bộ binh, ngoài quân trang mỗi người còn phải mang thêm gần 30 ki-lô-gam súng đạn, lương thực. Bộ phận hỏa lực có người còn mang tới 40, 50 ki-lô-gam. Tuy mang vác nặng, lại hành quân trong những ngày nắng nóng của miền Đông Nam Bộ, nhưng mọi người đều cố gắng. Không một ai chịu dừng lại, không một ai chịu san bớt cho người khác.
Đường mòn ở đây ngang dọc, chỉ tụt lại vài chục mét là có thể bị lạc. Lại nói về cái khát. Mùa này, cả cánh rừng khát nước. Những hố bom sâu khô khốc. Những con suối biến thành đường, hiếm hoi lắm mới đọng lại được vài vũng nước nhỏ. Bộ đội phải mang bi đông, nylon đi hai, ba cây số để lấy nước. Có hành quân qua đây trong những ngày này mới thấy hết sự gian khổ, hy sinh mà đồng bào và chiến sĩ miền Đông Nam Bộ đã trải qua suốt mấy chục năm kháng chiến, để giữ vững căn cứ địa miền Nam.
Chiều ngày 21 tháng 4, Trung đoàn 27 vào tới khu vực tập kết theo quy định.
20 giờ 15 phút hôm đó, khi Nguyễn Văn Thiệu đang đọc diễn văn từ chức tổng thống ngụy trên Đài phát thanh Sài Gòn, thì tôi được sư đoàn thông báo: Sở chỉ huy sư đoàn 5 ngụy đã chuyển về Phú Lợi, chiến đoàn 7 có thể về nam Phước Vĩnh. Địch đưa hai tiểu đoàn bảo an lên tuyến đường số 8 và tăng cường một đại đội của sư đoàn 5 chốt ở Tân Uyên, lập tuyến phòng thủ từ xa.
Những ngày này, bọn địch ở đây ra sức đối phó, bằng những phương tiện trinh sát hiện đại, chúng đoán đường 13 sẽ là một hướng bị quân ta tiến đánh. Chúng hốt hoảng khi biết một số đơn vị thuộc lực lượng dự bị chiến lược của ta có mặt ở Nam Bộ.
Bộ tổng tham mưu ngụy liền đưa máy bay đánh xăm, hòng phá sự chuẩn bị của ta. Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh sư đoàn 5 ngụy lệnh cho các trận địa pháo ở Lai Khê, Bến Cát, Phước Vĩnh bắn tối đa vào các khu vực mà chúng nghi có quân ta tập kết. Trên trời, máy bay trinh sát của địch vè vè quần đảo suốt ngày. Chúng kết hợp dùng không quân với biệt kích, thám báo tăng cường trinh sát, đánh phá trên trục đường 13, ngầm Rang Rang và những khúc sông chúng nghi có bến vượt của quân ta.
Ngày 20 tháng 4 năm 1975, tại sở chỉ huy_của khu suối Mã Đà, Tư lệnh sư đoàn Lưu Bá Xảo chính thức giao nhiệm vụ cho các đơn vị và tổ chức hiệp đồng chiến đấu. Tấm bản đồ quyết tâm chiến đấu treo sát vách đá, nổi bật dòng chữ: "Quyết tâm chiến đấu của sư đoàn 320B Quân đoàn 1: Thọc sâu trên hướng bắc Sài Gòn", như có sức hút kỳ diệu sự chú ý của mọi người.
Mở đầu, Tư lệnh sư đoàn Lưu Bá Xảo báo cáo tình hình chung trên chiến trường giữa ta và địch, về thời cơ chiến lược... Đồng chí cho biết: - Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch đã hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn trong thời gian ngắn nhất bằng lực lượng đột kích mạnh, liên tục, vừa đánh ở ngoại vi, vừa chọc thẳng vào trung tâm thành phố với tinh thần thần tốc, bất ngờ.
Mục tiêu tác chiến cụ thể của quân đoàn có sự thay đổi. Từ đánh dinh Độc Lập, đài phát thanh, chuyển sang đánh chiếm bộ tổng tham mưu, tiểu khu Gia Định và khu bộ tư lệnh các binh chủng quân ngụy.
Về kế hoạch tác chiến của quân đoàn được chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu đánh mở cửa, triển khai đội hình chuẩn bị tổng công kích. Giai đoạn sau, thực hành tổng công kích, tiến công trên hai hướng.
Hướng chủ yếu, thọc sâu vào Sài Gòn - Gia Định tiến theo đường Bình Chuẩn, cắt ngang đường số 8, xuống Lái Thiêu, vượt sông Sài Gòn đánh chiếm bộ tổng tham mưu ngụy, tiểu khu Gia Định, khu bộ tư lệnh các binh chủng và quận ly Gò Vấp. Hướng này do Sư đoàn 320B cùng các lực lượng tăng cường đảm nhiệm, tiến công bằng binh chủng hợp thành có sức đột kích mạnh, nhanh chóng đánh vào mục tiêu chính.
Hướng thứ hai, hướng quan trọng, đánh chiếm căn cứ Phú Lợi, chốt chặn đường 13, bao vây, chia cắt tiêu diệt sư đoàn 5 nguy, tạo thế thuận lợi cho hướng thọc sâu. Hướng này do Sư đoàn 312 cùng lực lượng tăng cường đảm nhiệm.
Như vậy, trừ Sư đoàn 308 ở lại hậu phương làm nhiệm vụ dự bị nghi binh chiến lược của Bộ, hai Sư đoàn 312 và 320B cùng các đơn vị binh chủng khác đều đảm nhiệm những nhiệm vụ quan trọng.
Sư đoàn 320B được tăng cường Tiểu đoàn xe tăng thiết giáp 66 (Lữ đoàn 202), Trung đoàn cao xạ 280 (Sư đoàn 367), tiểu đoàn công binh cầu phà, Tiểu đoàn ôtô vận tải 51.
Nhiệm vụ cụ thể của các đơn vị trong sư đoàn như sau: Trung đoàn 48 được tăng cường 2 đại đội xe tăng, một tiểu đoàn pháo cao xạ 37 và 57 ly, hai đại đội súng phun lửa, một trung đội tên lửa B72 và một tiểu đoàn ôtô vận tải, đảm nhiệm hướng chủ yếu đánh chiếm bộ tổng tham mưu ngụy.
Trung đoàn 27 được tăng cường một đại đội xe tăng, một tiểu đoàn cao xạ 37, 57 ly, hai đại đội pháo binh, một đại đội 121y7, một trung đội súng phun lửa, một đại đội vận tải, có nhiệm vụ đánh chiếm đường 16, đoạn từ Tân Uyên đến Bình Cơ mở cửa cho sư đoàn đưa lực lượng vào chuẩn bị thọc sâu kết hợp lực lượng thọc sâu bằng cơ giới với lực lượng luồn sâu ém sẵn tiến công tiêu diệt tuyến "tử thử' của địch ở Lái Thiêu, mở đường cho mũi thọc sâu của Trung đoàn 48 đánh vào bộ tổng tham mưu ngụy.
Trung đoàn pháo binh 54 và các đơn vị pháo cao xạ được tăng cường có nhiệm vụ chi viện cho bộ binh đánh chiếm các mục tiêu và bảo vệ đội hình tiến công của sư đoàn.
Trung đoàn 64 làm nhiệm vụ dự bị.
Tư lệnh Lưu Bá Xảo rất trăn trở, làm sao đánh lướt được tuyến phòng thủ gần 90 ki-lô-mét để thọc thẳng vào cơ quan đầu não chiến tranh của địch.
Đội hình tiến công hàng trăm xe, pháo các loại mà địa hình chưa ai biết sẽ giải quyết ra sao. Cầu cống khi ta tiến công, địch phá thì khắc phục vượt sông như thế nào, v.v... Cuối cùng đồng chí Tư lệnh sư đoàn kết luận: - Trong chiến đấu thọc sâu phải phát huy sức mạnh hiệp đồng binh chủng, đánh nhanh đánh mạnh, áp đảo quân địch, phải nắm chắc thời cơ, thần tốc, táo bạo, bất ngờ, bao vây, chia cắt tiêu diệt địch.
Không biết đường thì dựa vào nhân dân hoặc bắt tù binh dẫn đường. Đề phòng địch phá cầu chỉ có cách là đánh mạnh, đánh nhanh, làm cho địch không kịp phá.
Chính ủy sư đoàn Đỗ Mạnh Đạo, thay mặt Đảng ủy và Bộ tư lệnh Sư đoàn trao cho Trung đoàn 48 lá cờ Giải phóng sẽ cắm lên nóc nhà bộ tổng tham mưu ngụy...
Tại vị trí tập kết, Trung đoàn 27 tổ chức hội nghị quân chính toàn trung đoàn. Mở đầu, anh Trịnh Văn Thư - Chính ủy trung đoàn nói: Chiến dịch Hồ Chí Minh - chiến dịch mang tầm vóc lịch sử lớn nhất trong 30 năm qua của quân đội ta, đánh vào hang ổ cuối cùng của Mỹ - ngụy, giành thắng lợi hoàn toàn cho dân tộc, cho cách mạng Việt Nam. Được tham dự trận đánh cuối cùng này là vinh dự và niềm tự hào của mọi người.
Tôi kêu gọi toàn thể cán bộ, chiến sĩ trung đoàn hãy vượt qua gian khổ hy sinh, đạp bằng hiểm nguy, mang lá cờ bách chiến bách thắng của quân đội tới đích cuối cùng.
Sau khi anh Trịnh Văn Thư động viên tinh thần cán bộ, chiến sĩ. Tôi trình bày kế hoạch tác chiến, Tôi nói: - Trung đoàn 27 chúng ta được tăng cường một đại đội xe tăng thiết giáp, một tiểu đoàn pháo cao xạ 37 và 57 ly, một đại đội xe ôtô vận tải, một đại đội súng 12 1y 7, một đại đội pháo 85 ly, một đại đội cối 120 ly, một đại đội vận tải, một phân đội công binh, một phân đội súng phun lửa bốn khẩu, một đội phẫu. Quá trình chiến đấu được lựu pháo 122 của sư đoàn chi viện. Có nhiệm vu: Dùng một tiểu đoàn bộ binh đánh chiếm đoạn đường 16 từ Bình Cơ đến dốc Bà Nghĩa trong đêm 27 tháng 4 để mở rộng hành lang cho sư đoàn thọc sâu. Dùng một tiểu đoàn bộ binh được tăng cường binh khí kỹ thuật tiến công bằng cơ giới, là lực lượng chủ yếu tiến công đánh chiếm khu quân binh chủng ngụy ở Gò Vấp.
Trung đoàn là lực lượng đi đầu đội hình thọc sâu của sư đoàn đánh chiếm tuyến tử thủ Sài Gòn, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng chủ yếu của sư đoàn phát triển đánh chiếm bộ tổng tham mưu ngụy.
Quyết tâm của trung đoàn: Tập trung toàn bộ lực lượng sẵn có, với sức mạnh hiệp đồng binh chủng, nêu cao tinh thần đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể, kiên quyết đạp bằng mọi khó khăn gian khổ, nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh cấp trên. Nắm vững thời cơ, thần tốc, táo bạo, thọc sâu chia cắt địch, tranh thủ từng giờ, từng phút thực hiện mở rộng hành lang đúng thời gian. Kết hợp chặt chẽ lực lượng luồn sâu và lực lượng cơ giới, đánh từ trong ra, đánh từ ngoài vào bằng hiệp đồng binh chủng, hiệp đồng chặt chẽ với đơn vị bạn, không để mất thời gian. Dừng một lúc, tôi nói tiếp: - Về cách đánh, chuẩn bị khẩn trương, mở rộng hành lang đúng thời gian. Bộ binh áp sát mục tiêu có hỏa lực chuẩn bị trước. Lực lượng luồn sâu tránh đụng độ với địch dọc đường, chủ động hiệp đồng với lực lượng thọc sâu. Lực lượng thọc sâu đánh địch trong hành tiến bằng sức đột kích nhanh, mạnh của xe tăng, chủ động hiệp đồng với lực lượng luồn sâu, đánh chiếm chi khu và quận lỵ Lái Thiêu, chốt giữ cầu Lái Thiêu và cầu Vĩnh Bình, thực hiện đánh nhanh, nhằm chiếm bằng được mục tiêu chủ yếu.
Cuối cùng tôi nhấn mạnh từng lời như muốn truyền đến cán bộ, chiến sĩ trong toàn trung đoàn tất cả tâm huyết của mình: - Nhiệm vụ của chúng ta là tiểu đội thọc sâu, trung đội thọc sâu, đại đội thọc sâu, tiểu đoàn thọc sâu và tôi (tôi vỗ vào ngực) cùng Ban chỉ huy cũng thọc sâu. Trong trận đánh cuối cùng này, trung đoàn ta có thể chỉ còn lưu danh trong bảo tàng. Nếu phải hy sinh, mặt chúng ta phải hướng về Sài Gòn! Thế rồi, tôi nắm tay hô lớn: - Các đồng chí có quyết tâm không? Cả khu rừng như vỡ ra bởi những tiếng hô: - Quyết tâm1... Quyết tâm1... Quyết tâm!... của anh em cán bộ trung đoàn.
Đêm hôm đó, tôi lặng lẽ một mình đi kiểm tra bộ đội. Tôi nghe thấy mấy anh em lính trẻ Hà Nội nói chuyện với nhau. Một cậu hỏi Phạm Quang Hùng, quê số 10 Hoàng Hoa Thám, Hà Nội: - Anh Hùng, anh thấy chiến dịch này thế nào? Hùng nói: - Lần này giải phóng miền Nam là cái chắc! Anh em mình sẽ ở lại đây thôi và không bao giờ được về ăn kem Bốn Mùa ở Bờ Hồ nữa đâu. Nhưng dù có chuyện gì thì chúng ta cũng phải nhớ lời trung đoàn trưởng: "Nếu phải hy sinh, mặt chúng ta phải hướng về Sài Gòn".
Sau câu trả lời của Hùng, tất cả như lặng chìm vào suy tư. Thế rồi họ vô tư đi vào giấc ngủ. Đúng là tuổi trẻ, lo đấy nhưng họ cũng sẵn sàng chấp nhận hy sinh. Tôi thầm cám ơn những chiến sĩ vô cùng yêu quý của mình.
Đêm 25 tháng 4 năm 1975, toàn bộ trung đoàn vượt sang phía nam sông Bé, tiến vào vị trí xuất phát. Trước đó, công binh, trinh sát quân đoàn, sư đoàn và trung đoàn đã bí mật chuẩn bị con đường cho bộ đội xuất kích. ở đây địa hình trống trải, khó giấu quân và giữ bí mật, nhiều nơi chưa xác định được tuyến. Anh em trinh sát, công binh phải dựa vào trục đường cũ xác định hướng, rồi bí mật phân chia từng đoạn để trinh sát đánh dấu, rồi mới nối lại thành mạng đường. Các đơn vị xe tăng, pháo binh, cao xạ vượt sang phía nam sông Bé tiến theo con đường Ba Thước mà lữ đoàn công binh vừa sửa gấp để vượt qua ngầm Bến Bầu. Cùng lúc, lực lượng bộ binh trung đoàn từ các cánh rừng đổ về lần lượt chờ vượt qua một khúc sông cạn cách ngầm Bến Bầu chừng 3 ki-lô-mét. Pháo địch từ Lai Khê, Bến Cát bắn tới nổ chát chúa hai bờ sông. Nhưng pháo địch cũng không ngăn nổi cán bộ, chiến sĩ trung đoàn rầm rập vượt sông và tiến vào các vị trí đã định.
Chỉ còn mấy giờ nữa trung đoàn phải tổ chức xong đội hình chiến đấu. Tôi trao đổi với anh Trịnh Văn Thư, họp Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn mở rộng lần cuối. Anh Thư nói: - Theo thông báo của trên, Quân đoàn 4 sau khi giải phóng Xuân Lộc, phát triển đánh chiếm Trảng Bom. Đặc công diệt địch và chiếm cầu Rạch Chiếc, Rạch Cát, Cầu Ghềnh mở đường sẵn sàng đón chủ lực. Pháo binh ta đã đánh phá làm tê liệt sân bay Biên Hòa, địch phải chuyển máy bay về Tân Sơn Nhất. Quân khu 8 và Quân khu 9 cắt đứt lộ 4, đoạn Bến Lức đi ngã ba Trung Lương. Đoàn 232 đánh chiếm đầu cầu An Ninh, Lộc Giang trên sông Vàm Cỏ Đông. ở hướng đông, Quân đoàn 2, được pháo binh chiến dịch chi viện đã đồng loạt đánh chiếm căn cứ Nước Trong, chi khu quân sự Long Thành, vượt đường 15 giải phóng Phường Thường, bao vây Long Vân. Sư đoàn 3 Quân khu 5 đánh chiếm chi khu Đức Thạnh, đang tiến về Bà Rịa.
ở hướng tây bắc Quân đoàn 3 từ nhiều hướng bắn phá căn cứ Đồng Dù, Củ Chi, Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ. Như vậy, chiến dịch đang phát triển rất thuận lợi. Về nhiệm vụ cụ thể của trung đoàn anh Hiệu sẽ nói cụ thể.
Tôi nói ngay: - Nhiệm vụ sư đoàn giao cho Trung đoàn 27 chúng ta là phải đập tan tuyến tử thủ phía bắc Sài Gòn trên trục đường 13. Không được cho địch phá cầu để đại quân thọc vào nội đô. Do vậy, trung đoàn sử dụng: Tiểu đoàn 4, do Tiểu đoàn trưởng Cư, Chính trị viên Hồng có nhiệm vụ mở rộng hành lang.
Tiểu đoàn 5, do Tiểu đoàn trưởng Ký và Chính trị viên Sinh luồn sâu lót sẵn ở Lái Thiêu.
Tiểu đoàn 6, do Tiểu đoàn trưởng Dũng và Chính trị viên Vụ được tăng cường xe tăng, xe bọc thép và 25 xe vận tải chở quân có nhiệm vụ thọc sâu đánh chiếm khu binh chủng của quân ngụy.
Như vậy, trung đoàn hình thành ba thê đội tiến công, từ vị trí xuất phát đến mục tiêu cuối cùng là khu quân binh chủng ngụy ở Gò Vấp. Ta phải vượt qua ba tuyến phòng thủ của địch ở phía bắc Sài Gòn. Tuyến đường 16 - phòng thủ từ xa; tuyến đường 8 - tuyến trung gian và tuyến tử thủ là tuyến đường 13 (đường Đại Hàn) khu Lái Thiêu, cầu Vĩnh Bình, cầu Bình Triệu, cầu Bình Lợi với chặng đường dài 80 ki-lô-mét. Thời gian rất gấp, các đồng chí còn gì hỏi không. Nếu không, về bắt tay vào chuẩn bị ngay.
Sau cuộc họp Thường vụ mở rộng, chúng tôi phân công nhau xuống các đơn vị phổ biến kế hoạch và hiệp đồng chiến đấu lần cuối.
Anh Đặng Ngọc Châu, Trung đoàn phó và anh Nguyễn Văn Ký (2), phó Chính ủy đi với Tiểu đoàn 5 có nhiệm vụ luồn sâu và lót sẵn ở Lái Thiêu. Tôi và anh Trịnh Văn Thư - Chính ủy, anh Nguyễn Viết Giáp - Tham mưa trưởng, anh Lê Đăng Nhiệm
------------------------------------
1. Chỗ ở hiện nay: 143/17C Nguyễn Chí Thanh, thành phố Đà Nẵng.
2. Chỗ ở hiện nay: Vạn Lượng, Vạn Ninh, Khánh Hòa.
-----------------------------------------------------
Chủ nhiệm chính trị, anh Nguyễn Văn An - Chủ nhiệm Hậu cần đi với mũi thọc sâu do Tiểu đoàn 6 đảm nhiệm. Lúc sau, Phó tư lệnh sư đoàn Lê Quang Thúy có mặt đi chỉ đạo Trung đoàn 27.
Chúng tôi lệnh cho Tiểu đoàn 4 nhanh chóng áp sát mục tiêu, đánh vào tuyến đường 8.
Cũng trong đêm ấy khi các đơn vị cơ giới thọc sâu của sư đoàn đang làm công tác chuẩn bị, thì Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 27 lên đường làm nhiệm vụ Theo phương án, Tiểu đoàn 5 sẽ luồn sâu và lót sẵn ở Lái Thiêu, phối hợp với mũi thọc sâu bằng cơ giới của trung đoàn từ Tân Uyên tiến vào, tiêu diệt tuyến "tử thủ" này mở đường cho mũi chủ yếu của sư đoàn phát triển vào trong.
Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 5 lặng lẽ hành quân.
Trong lúc đó tiếng súng đánh địch của Sư đoàn 312 ở phía Bình Mỹ vọng đến lúc dồn dập, lúc im ắng, gây cho các chiến sĩ tiểu đoàn một cảm giác hồi hộp.. : Tuy tiếng súng tiến công địch của Trung đoàn 27 chưa nổ, nhưng trận chiến đấu đã thực sự bắt đầu từ cuộc hành quân luồn sâu này.
Tiểu đoàn 5 vượt qua ngã ba ]Bình Cơ thì trời tối hẳn. Màn đêm lan nhanh xuống cánh đồng hoang, cỏ dại. Lòng người chiến sĩ bồi hồi, miền quê nào trên đất nước ta, cũng có những cánh đồng, những xóm làng quen thuộc, thân thương với những rặng cây hàng tre bao bọc... Giờ đây cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 5 như được sống lại ba năm trước khi tiến về cánh Đông Thành Cổ Quảng Trị, vùng Nại Cửu An Tiêm, Bích La Đông thuộc xã Triệu Thành và Triệu Đông trong mùa hè của năm 1972 đỏ lửa...
Hai đêm tránh địch cắt đường hành quân, Tiểu đoàn 5 mới vượt được gần 30 ki-lô-mét. Như vậy, mới được nửa đoạn đường. Tính toán thời gian với đoạn đường còn lại, cán bộ tiểu.. đoàn không khỏi lo lắng. Đi đánh địch mà gặp địch không được đánh thì còn gì cực hơn. Cứ phải tìm đường vòng tránh, luồn lách qua. Nhưng anh ém đều ý thức được nơi họ cần đến và phải đến đúng thời gian là Lái Thiêu - tuyến tử thủ của địch trên hướng bắc Sài Gòn.
Đêm 28 tháng 4 năm 1975, Tiểu đoàn 5 tiếp tục hành quân. Nửa đêm, tiểu đoàn dừng lại bên con suối nhỏ gần ngã ba Tân Hiệp. Hơn một tiếng đồng hồ trôi qua, tiểu đoàn vẫn chưa có thời cơ vượt đường. Tôi sốt ruột hỏi: - Anh Ký? Đã vượt đường chưa? Anh Ký trả lời: - Trên ngã ba và dọc con đường chạy ngang qua bốt Tân Hiệp, pháo sáng địch không lúc nào tắt.
Nghe anh Ký báo cáo như vậy, tôi điện qua máy thông tin 2W của Nguyễn Văn Quảng - Tiểu đội trưởng thông tin Tiểu đoàn 5, quê Thụy Phúc, Thái Thụy, Thái Bình nhắc anh Ký: "Tiểu đoàn 5 tìm mọi cách ngay trong đêm nay phải có mặt ở Lái Thiêu".
Nhận được điện của tôi, Chính trị viên Hoàng Ngọc Sinh trao đổi với Tiểu đoàn trưởng Hoàng Đức Ký: - Ta đi như vừa rồi là tốt. Nhưng cứ tránh địch mãi thì không bảo đảm được thời gian. Cái chính lúc này là thời gian, là mục tiêu.
Đành là thế. Nhưng các đồng chí địa phương dẫn đường chưa xác định được đường đi gần nhất.
- Cứ thế này thì không thể hiệp đồng được với trung đoàn. Mở cửa Lái Thiêu chậm là vào Sài Gòn chậm.
Chính trị viên và tiểu đoàn trưởng đang còn trao đổi thì tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 đến. Giọng anh sôi nổi: - Sao chưa cho đi, các anh?. Tắc đường hay là gặp địch? Theo ý tôi, gặp địch là đánh! Đánh để lấy đường mà đi. Không tránh như hai đêm vừa rồi nữa...
Tiểu đoàn phó nói chưa dứt lời thì tổ trinh sát dẫn về hai tên thám báo. Các chiến sĩ bắt được khi chúng đang trinh sát con đường qua Tân Hiệp.
Chúng có bốn tên, hai tên chạy thoát về Tân Hiệp.
Một lúc sau pháo cối địch lập tức bắn vào đội hình của Tiểu đoàn 5, đồng thời chúng cho một đại đội bảo an nống ra đánh phá, ngăn chặn đường tiến quân của tiểu đoàn. Tình huống này ta đã tính đến.
Tiểu đoàn trưởng quyết định cho Đại đội 5 ở lại giam chân thu hút địch, còn đại bộ phận tiếp tục hành quân.
Tiểu đoàn trưởng Ký nói với hai tên tù binh, mặt đang tái đi vì sợ: - Các anh hãy dẫn chúng tôi vào Lái Thiêu theo con đường gần nhất. Đây là một cơ hội cho các anh lập công chuộc tội. Làm đúng các anh sẽ được tha về với gia đình, làm sai các anh sẽ bị nghiêm trị.
Hai tên tù binh hứa sẽ làm đúng những yêu cầu của ta và luôn mồm: "Xin các ông tha chết!".
Được tin Tiểu đoàn 5 đã vượt qua Tân Hiệp, tôi điện nhắc Ban chỉ huy tiểu đoàn: "Các anh cần nắm chắc nhiệm vụ chính là có mặt ở Lái Thiêu, đẩy nhanh tốc độ tiến quân".
Trong khi các chiến sĩ Tiểu đoàn 5 bí mật hành quân luồn sâu vào tuyến tử thủ Lái Thiêu thì Tiểu đoàn 4 cũng khẩn trương triển khai đánh mở cửa Tân Uyên (một trận địa phòng ngự vòng ngoài trong tuyến phòng thủ phía bắc Sài Gòn của địch) cho lực lượng cơ giới triển khai đội hình thọc sâu.
quan trọng hơn là phải thắng nhanh, tạo điều kiện cho mũi thọc sâu của sư đoàn đánh chiếm mục tiêu chủ yếu. Chi khu Tân Uyên không phải là vật cản lớn trên đường tiến quân của sư đoàn, nhưng việc đánh chiếm đường 16, giải tỏa khu bắc Tân Uyên có ý nghĩa quan trọng đối với mũi thọc sâu.
Khi trời còn tranh tối tranh sáng, các chiến sĩ Đại đội 2 và Đại đội 3 Tiểu đoàn 4, mình kín ngụy trang tiềm nhập vào sát các vị trí địch. Đại đội 2 hình thành hai mũi áp vào đồi Đất Đỏ. Đại đội 3 bao vây phía bắc quận ly. Lúc 4 giờ chiều, lợi dụng pháo địch trong chi khu bắn, tôi đã cho các trận địa pháo của trung đoàn bắn thử để xác định phần tử.
Những quả đạn pháo của ta như đã báo cho chúng biết trước điều gì sẽ đến.
16 giờ 45 phút, các mũi, các hướng báo về sở chỉ huy trung đoàn đã "ém" quân xong.
17 giờ tôi ra lệnh cho các trận địa pháo 85 ty nòng dài, cối 120 ly đồng loạt bắn vào trung tâm quận lỵ. Các trận địa cối 82 ly, cối 60 ly của tiểu đoàn cũng bắn vào các cụm quân địch vòng ngoài.
Đèn điện vụt tắt, sau loạt đạn pháo đầu tiên của ta các trận địa pháo của địch câm bặt, đèn dù tắt ngấm. Pháo ta bắn trúng một số mục tiêu trong chi khu, gây nhiều đám cháy lớn.
Sau 30 phút bắn phá, pháo ta chuyển làn rồi ngừng bắn. Các hướng bộ binh nổ súng tiến công vào các chốt của địch. ở hướng Đại đội 3, Đại đội trưởng Mai Văn Dung chỉ huy đánh vào các chốt phía bắc quận lỵ. Vượt qua được các hàng rào kẽm gai, mũi tiến công của Đại đội 3 bị các hỏa điểm địch bắn chặn quyết liệt. Dung lệnh cho Tiến, xạ thủ B40 vượt lên tiêu diệt các ổ đề kháng. Phát đạn đầu tiên, Tiến bắn chệch. Đại đội trưởng Dung ném hai quả lựu đạn về phía khẩu đại liên, rồi hô: - Bình tĩnh, Tiến! Di chuyển sang bên phải! Tiến lao sang một gò đất, lắp quả đạn B40 thứ hai. Một quầng lửa trùm lên khẩu đại liên địch.
Tiến đứng dậy vuốt mồ hôi trên mặt nhìn đại đội trưởng khẽ cười. Dung gật đầu, chỉ cho Tiến bọn địch trong lô cốt đang xối đạn vào sườn Trung đội 2.
Tiến trườn gần về phía lô cất, bằng hai quả đạn B40 chính xác, anh diệt gọn bọn địch trong lô cốt và diệt thêm một hỏa điểm khác. Các chiến sĩ Đại đội 2 xung phong đánh bọn địch tạt ra phía bờ suối.
Chúng vứt cả súng, bơi qua suối địch chạy về chi khu Nhưng chúng đã nằm trong tầm súng của các chiến sĩ Đại đội 3. Chiến sĩ Hiệp quét một loạt AK, diệt ba tên đang bơi rồi xông lên cùng trung đội tiêu diệt bọn địch đang tháo chạy.
Đại đội 3 đánh thẳng vào đồi Đất Đỏ, chia cắt địch rồi phát triển vào khu vực tháp nước. Địch dựa vào lô cốt, hầm ngầm chống trả lại ta. Đại đội trưởng Mai Văn Dung chỉ huy Trung đội 2 đánh thẳng vào khu vực tháp nước. Dung vừa vươn người tung quả lựu đạn vào tốp địch, thì một quả M.79 rơi trúng người anh. Đại đội trưởng Dung khuỵu xuống.
Tiến và một chiến sĩ lao tới, băng bó cho Mai Văn Dung. Mấy phút sau Dung tỉnh lại. Nhìn Tiến anh nói: - Xe tăng1 Xe tăng địch1 Tháp nước... ! Tiến hiểu, sau câu nói tỉnh táo này, đại đội trưởng khó qua khỏi. Tiến lau nước mắt trả lời: - Không, anh ạ! Đó là xe tăng của trung đoàn vượt đường 16 đấy? Tiếng động cơ xe tăng, thiết giáp, xe chở quân vọng đến ầm ầm. Đại đội trưởng Dung cố trở mình định ngồi dậy, nhưng anh không gượng nổi. Dung nói trong hơi thở đuối dần: - Thông đường... 16 rồi... phải không? Tiến định nói với đại đội trưởng là ta đã chiếm được đồi Đất Đỏ và làm chủ đường 16, đang phát triển vào trong chi khu, nhưng Mai Văn Dung đã lịm đi trên tay anh. Tiến xốc Đại đội trưởng Dung đặt lên vai một người chiến sĩ rồi xách khẩu AK của Dung chạy về phía tháp nước.
9 giờ tối ngày 28 tháng 4 năm 1975, Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 27 đã làm chủ hoàn toàn khu vực bắc chi khu Tân Uyên đến Bình Cơ. Cửa mở đã thông, đội hình bộ binh cơ giới thọc sâu của sư đoàn ầm ầm qua đường 16.
Tân Uyên được giải phóng, hành lang tiến quân của sư đoàn được mở rộng xuống phía Nam. Tư lệnh sư đoàn điện cho tôi, nhanh chóng tổ chức lực lượng thọc sâu theo đường Tân Uyên, Tân Bạ tiến công địch "tử thủ" Lái Thiêu.
Tôi và Đại đội trưởng xe tăng Hoàng Thọ Mạc ngồi mỗi người một xe dẫn đầu đội hình tiến công, đi sau là pháo 85 ly và pháo 37 ly, 57 ly, tiếp đó là xe chở bộ đội. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Lê Thế Dũng chỉ huy tiểu đoàn ngồi trên xe bọc thép và xe ôtô vận tải nối nhau hình thành mũi thọc sâu binh chủng hợp thành.
Mũi thọc sâu của Trung đoàn 27 chúng tôi vượt qua Tân Uyên tới ngã tư đường 48 thì bị pháo địch từ căn cứ Phú Lợi, Biên Hòa, Sóng Thần bắn chặn đường.
Đạn pháo rơi hai bên đường, nhiều quả rơi trúng mặt đường, tiếng nổ đinh tai, khói pháo mù mịt. Lợi dụng quy luật tản mát của đạn pháo, tôi ra lệnh đoàn xe nâng tốc độ vượt lên, ra khỏi tầm pháo địch. Đoàn xe chạy đến Bình Chuẩn thì gặp hai đại đội thuộc tiểu đoàn địch 321 chặn lại. Chúng dựa vào công sự và vật chướng ngại, dùng hỏa lực bắn vào đội hình quân ta. Trước tình hình đó, tôi nghĩ: "Phải đánh áp đảo ngay từ đầu, đẩy địch ra khỏi công sự. Đồng thời chớp thời cơ cho đoàn xe của mũi thọc sâu vượt qua". Tôi ra lệnh cho hai xe tăng đi đầu và pháo 37 ly hạ nòng bắn vào cụm quân địch.
Bị pháo xe tăng và pháo 37 của ta bắn thẳng, quân địch nằm chết gí trong hầm, dưới lòng hào, không dám ngóc đầu dậy. Tôi ra lệnh cho Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Lê Thế Dũng cho hai xe chở bộ binh vượt lên, đổ quân đánh vào đội hình quân địch.
Bị tiến công bằng xe tăng, nay lại thấy bộ binh ta xuất hiện, 2 đại đội địch tan rã nhanh chóng. Tôi nói với Tiểu đoàn trưởng Dũng bắt một số tù binh ngồi lên xe dẫn đường, số còn lại được phóng thích về với gia đình. Trong số tù binh này có trung úy Hiệp là sĩ quan chỉ huy lính thổi kèn ở tổng hành dinh ngụy, bị kỷ luật đẩy ra chiến trường và một tổ máy thông tin PRC25. Tôi lệnh cho máy thông tin của địch mà ta vừa thu được vẫn mở máy giữ nguyên tần số liên lạc và bảo nếu cấp trên hỏi thì nói: "Sư đoàn 5 về bảo vệ tuyến "tử thủ" Sài Gòn".
Khi đoàn xe tăng, xe bọc thép, xe chở quân vào đến Búng sở chỉ huy địch hỏi: "Lực lượng nào vậy", tổ máy thông tin trả lời như tôi đã dặn.
Mũi thọc sâu của Trung đoàn 27 tiếp tục tiến quân. Với cách đánh "gạt" địch để lướt qua, chúng tôi đã đánh tan hai đại đội bảo an khác ở Thuần Giáo, chất vòng ngoài của tuyến "tử thủ" Lái Thiêu.
17 giờ ngày 29 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn dừng lại ở ngã tư Búng, chuẩn bị tiến công địch ở Lái Thiêu. Trong khi mũi thọc sâu của Trung đoàn 27 phát triển thuận lợi, thì tôi được biết ở hướng chủ yếu Trung đoàn 48 gặp khó khăn. Đoàn xe đi cách Tân Uyên 3 ki-lô-mét thì bị mất đường. Con đường xấu và hẹp mất hút trong bãi cỏ gianh bạt ngàn cao lút đầu người. Các chiến sĩ trinh sát, công binh vận dụng mọi kinh nghiệm để phán đoán tìm đường. Con đường lúc hiện, lúc mất trong bãi cỏ gianh. Nhiều đoạn phải chặt cây, cắt bớt cỏ gianh mới đi được. Đoàn xe nhích lên từng đoạn theo bước chân của các chiến sĩ trinh sát, công binh. Phải mất ba tiếng đồng hồ, đoàn xe mới vượt qua được bãi cỏ mịt mùng ấy.
Ra khỏi con đường Đất ủi, đoàn xe đang vượt dốc thì bị máy bay địch oanh tạc vào đội hình. Các chiến sĩ cao xạ vừa đi vừa bắn trả máy bay địch, bảo vệ đội hình tiến quân. Nhiều chiến sĩ bị thương nhưng không một ai chịu ở lại phía sau. Lúc này, ở các hướng chiến dịch, mũi thọc sâu binh chủng hợp thành của Quân đoàn 3 tiến cách sân bay Tân Sơn Nhất và bộ tổng tham mưu ngụy chừng 3 ki-lô-mét. Quân đoàn 2 ở hướng đông nam đánh chiếm và làm chủ Vũng Tàu, Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ và đang tiến về Cát Lái, Cầu xa lộ Đồng Nai. Đặc công đánh chiếm căn cứ Nước Trong, ngã ba Long Bình, Biên Hòa đang kịch chiến vì địch ở Hố Nai còn chống cự. ở phía nam, Đoàn 232 làm chủ thị xã Hậu Nghĩa, quận ly Đức Hòa, bức rút Đức Huệ, mở thông sông Vàm Cỏ Đông. ở Quân khu 8 ta đánh chiếm ngã ba Vĩnh Lộc, Cầu Sáng, lộ 10 cắt đứt lộ 4, phát triển tiến công địch ở Cần Giuộc và Hưng Long.
Nhân dân và lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định đã nổi dậy diệt bọn ác ôn đầu sỏ, chiếm các công sở, đồn bốt đọc đường số 1 và một số nơi ở nội thành. Công nhân xưởng dệt Vi-na-tếc-cô đấu tranh bắt bọn phá hoại, tề điệp, bảo vệ an toàn máy móc và tổ chức tiếp tế cơm nước cho bộ đội.
Trên các đường phố, xe nhà binh, xe cảnh sát và xe chở những người "di tản" hốt hoảng lao vùn vụt.
Trong các công sở ngụy quyền, nhân viên, công chức bỏ trốn. Bọn lính, cảnh sát hàng ngày nhan nhản, hách dịch dọa nạt nhân dân, giờ đây lột vội quân phục, khoác áo thường dân, tìm đường tẩu thoát.
Cùng đêm 29 tháng 4 năm 1975, từng đoàn máy bay lên thẳng Mỹ bật đèn sáng, hớt hải, bay rối loạn trên bầu trời Sài Gòn. Rồi từng chiếc lén lút đỗ xuống những mái nhà bằng, chở người di tản tháo chạy vội vã. Nhân viên tòa đại sứ Mỹ cùng sĩ quan, binh lính và gia đình của chúng tranh cướp nhau lên máy bay. Chúng bắn súng thị uy, chửi bới, văng tục ẩu đả loạn xị. Tiếng kêu khóc của trẻ con, phụ nữ bị chìm lắng trong mớ âm thanh hỗn độn, sợ hãi của quang cảnh Sài Gòn hấp hối.
Chiều ngày 29 tháng 4, khi nhận được chỉ thị của Bộ Tư lệnh Quân đoàn phải đẩy nhanh tốc độ tiến quân hơn nữa, Tư lệnh sư đoàn Lưu Bá Xảo điện cho tôi: - Anh Hiệu đấy phải không? Thế nào? Chưa trinh sát được Lái Thiêu à? - Báo cáo, chúng tôi đang triển khai. Xin hứa với Tư lệnh chúng tôi sẽ nổ súng đúng kế hoạch.
- Được! Cho triển khai ngay. Nổ súng càng sớm càng tốt. Tôi nhắc lại, nhiệm vụ chính của Trung đoàn 27 là tập trung lực lượng làm tan rã địch trên đường 13, đoạn chi khu Lái Thiêu, sau đó thọc ngay vào Gò Vấp. Mọi việc còn lại do lực lượng khác giải quyết - Tôi sẽ thực hiện đúng chỉ thị của Tư lệnh.
Vị trí của chỉ huy Trung đoàn 27 dừng chân chuẩn bị tiến công địch ở Lái Thiêu là một rừng cao su ven lộ 13, cách bắc Lái Thiêu khoảng 3 ki-lô mét.
Tôi nói với Chính ủy Thư phải hội ý với các đơn vị, nắm lại tình hình sau một ngày chiến đấu và phổ biến bổ sung phương án đánh vào Lái Thiêu.
Sở chỉ huy trung đoàn là một chiếc nhà bạt căng tạm giữa rừng cao su. Tranh thủ lúc chờ cán bộ đến, tôi và anh Thư mỗi người ăn một vài thanh lương khô. Khi cán bộ các tiểu đoàn và đại đội phối thuộc đến, tôi cũng dúi vào tay họ một phong lương khô, rồi bảo: - ăn đi, tranh thủ ăn để lấy sức mà chạy. Đã ba, bốn ngày nay, cả trung đoàn có hạt cơm nào vào bụng đâu.
Chờ cán bộ đến đông đủ, tôi phổ biến ngay chỉ thị của Tư lệnh sư đoàn nhanh chóng giải quyết Lái Thiêu bảo đảm thông đường đúng thời gian.
Không khí cuộc họp sôi nổi, khẩn trương. Những vấn đề bổ sung cụ thể vào phương án chiến đấu được thảo luận và nhanh chóng thống nhất. Rút kinh nghiệm về chỉ huy và hiệp đồng sau một ngày chiến đấu thọc sâu, tôi kết luận: - Cán bộ chỉ huy cấp trưởng của các đơn vị phải đi đầu mũi tiến quân của đơn vị mình, nắm chắc tình hình để chỉ huy, quyết định vấn đề được nhanh chóng. Còn vấn đề bộ binh thiếu đạn hỏa lực B40, B41 thì cơ quan hậu cần và đơn vị vận tải phải bảo đảm cấp đủ sau 2 tiếng đồng hồ. Xăng dầu xe tăng còn đủ đánh Lái Thiêu, đánh xong sẽ lấy xăng dầu của địch bổ sung. Việc này anh An - Chủ nhiệm Hậu cần trung đoàn trực tiếp giải quyết.
Khó khăn lớn nhất hiện nay là tình hình địch trong quận ly Lái Thiêu ta chưa nắm được cụ thể.
Giải quyết việc này, tôi, anh Thư, anh Giáp cùng trinh sát đi vào thị trấn, dựa vào dân để nắm địch.
Nói xong tôi hỏi: - Các đồng chí còn có ý kiến gì không? Thấy mọi người ngồi im. Tôi nói: - Tĩnh hình rất khẩn trương, các đồng chí nhanh chóng về bắt tay vào tổ chức bộ đội chuẩn bị chiến đấu.
Tôi xin được nói thêm một chi tiết: Ký hiệu của trung đoàn 27 trong chiến dịch Hồ Chí Minh là BK19.
Mật danh của Trung đoàn trưởng Trung đoàn 27 (tôi) là Phong và anh Chính ủy Trịnh Văn Thư là Hàm. Mật khẩu hỏi: Hồ Chí Minh. Đáp: Muôn năm.
Trên ngực mỗi người có miếng vải đỏ.
Tôi, anh Thư, anh Giáp và một tổ trinh sát bám vào hàng cây bên đường đi về phía quận ly. Khi đến gần nghĩa địa của khu vực Búng, chúng tôi thấy một ngôi nhà lụp xụp, trong nhà le lói ngọn đèn dầu. Tôi nói ba trinh sát vào bắt liên lạc. "Cộc, cộc, cộc" Sau tiếng gõ cửa của trinh sát, tôi thấy trong nhà có tiếng bước chân, cùng với ánh đèn sáng dần ra phía cửa: - Ai đấy? Tiếng một bà má (1) vừa như thăm dò, vừa có vẻ thờ ơ.
- Chúng tôi là Quân giải phóng, là Bộ đội Cụ Hồ - Một chiến sĩ trinh sát trả lời.
Nghe mấy tiếng Bộ đội Cụ Hồ, má mạnh dạn ra mở cửa, giơ cao ngọn đèn, nhìn kỹ người chiến sĩ.
Nhận ra ám hiệu - miếng vải đỏ trên ngực - giọng má bỗng trở nên nghiêm trang và xúc động: - Hồ Chí Minh! Phấn khởi tìm được cơ sở, đồng chí trinh sát như reo lên khi đáp lại mật khẩu chiến dịch: - Muôn năm! Nhận ra bộ đội Giải phóng, má cầm tay từng người giục: - Các con vào đi! Vào đi. Má không ngờ các con về sớm thế.
Tôi, anh Trịnh Văn Thư và Sáu Châu, huyện đội phó vào nhà. Tôi nhìn. một lượt, căn nhà lợp tôn,
----------------------------
1. Tôi được biết.tên má là Sáu Ngẫu, trước đây má là giáo viên. Như đã hứa, ngày 1 tháng 5 năm 1975, tôi trở lại thăm má và hai em Phước, Đức. Tôi đã nhiều lần về thăm má khi má còn sống và góp phần xây mộ má khi má qua đời. Sau này, nhạc sĩ Văn Thành Nho có sáng tác bài hát "Tấm bản đồ má trao" dựa trên câu chuyện có thật về má Sáu Ngẫu. Bài hát đã được phát nhiều lần trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam.
một chiếc bàn gỗ đã cũ, hai chiếc giường đơn sơ. Gia tài cũng không có gì. Đợi chúng tôi ngồi xuống, má nói: - Bây giờ các con cần má giúp những gì? Tôi nói tóm tắt nhiệm vụ cửa đơn vị và đề nghị má: - Chúng con chưa nắm chắc địch và địa hình ở quận lỵ Lái Thiêu. Con nhờ má bày cho! Tôi đưa tấm bản đồ quân sự, nhìn qua má bảo: - Má không rành bản đồ này. Đợi má chút xíu.
Lát sau, má trở ra, mở bọc giấy báo, cẩn thận trải tờ giấy đã ố vàng lên mặt bàn. Mọi cặp mắt đổ dồn vào những nét vẽ chằng chịt, lòng hứng khởi tràn đầy. Giọng má hơi chùng xuống: Đây là bản đồ Đô thành Sài Gòn. Anh Tư Ca (1) giữ từ năm 1961.
- Thưa má, bây giờ anh Tư Ca ở đâu ạ? - Anh Tư Ca là chồng má. Hồi nớ ảnh và anh em du kích xã đã định diệt quân địch ở quận ly.
Chuyện lộ, ảnh bị bắt giam ở nhà tù Phú Lợi. Sau khi ra tù, ảnh tiếp tục hoạt động làm tuyên giáo
---------------------------
1. Tư Ca tên thật là Đinh Quang Kỳ, quê Đức Thủy, Đức Thọ, Hà Tĩch. ông theo đoàn quân Nam tiến vào miền Nam từ năm 1945.
----------------------------
phụ trách tờ báo của tỉnh Thủ Dầu Một. Năm 1968, trong chuyến đi công tác, ảnh lọt vào ổ phục kích của địch. ảnh bị địch bắn vào chân. Chúng xông lại thu đài bán dẫn và lột nhẫn của ảnh. ảnh mắng vào mặt tụi nó. Bọn địch xả súng bắn chết ảnh.
Riêng sơ đồ của ảnh má vẫn giữ được. Và cứ mỗi lần có sự thay đổi về phạm vi, lực lượng... má lại vẽ bổ sung trên toàn tuyến phòng thủ từ chi khu Lái Thiêu vào Sài Gòn. Má thuộc nằm lòng mà.
Bên cạnh nét mực đã mờ là những đường chì nhìn còn vụng về nhưng tỉ mỉ, chính xác. Mười bốn năm trời âm thầm, cần mẫn thay chồng, thay các chiến sĩ du kích Lái Thiêu đã hy sinh và đang bị cầm tù, má nắm tình hình địch và ghi vào bản đồ với tất cả niềm tin chiến thắng.
Má xoay chiếc sơ đồ về phía tôi, cặp kính lão trễ xuống tận cánh mũi, má nói: - Ngày hôm qua, chúng điều một tiểu đoàn bảo an từ Sài Gòn ra và hai khẩu pháo 175 từ Bình Dương về tăng cường cho Lái Thiêu. Trung tâm huấn luyện Huỳnh Văn Lương có gần 2.000 tên.
Ngoài ra còn một số tàn quân từ các nơi chạy về...
Vừa nói má vừa chỉ vào những ký hiệu đánh dấu các vị trí mới của địch trên sơ đồ. Tôi và mọi người theo dõi một cách chăm chú. Má nói tiếp: - Toàn bộ quân địch ở quận ly Lái Thiêu là vậy, tấm bản đồ này má trao lại cho mấy con.
Cầm tấm bản đồ trên tay, chúng tôi vô cùng cảm động. Chúng tôi chào má và nhanh chóng lên đường. Má xin được trực tiếp dẫn đường cho đơn vị.
Thấy má đã già yếu, tôi nói: - Cảm ơn má! Chúng con sẽ quét sạch địch ở Lái Thiêu, mở đường cho đại quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước để trả thù cho má, trả thù cho bà con cô bác ở Lái Thiêu. Ngày mai, con sẽ trở lại thăm má.
Biết chúng tôi không để cho má đi, má hướng về phía sau nhà gọi: - Phước, Đức đâu? Vào má bảo.
Thì ra, trong lúc trao đổi với chúng tôi, má đã giao cho các em làm nhiệm vụ cảnh giới. Ngay lúc đó Hai Mỹ (Bí thư huyện đoàn huyện Lái Thiêu) đến. Má nói với Hai Mỹ: - Má xin dẫn đường, nhưng mấy anh không chịu. Các con thay má làm nhiệm vụ dẫn đường cho đơn vị. Các con phải gắng mà hoàn thành.
Tôi nói: - Sáu Châu, Hai Mỹ dẫn chúng con là được rồi, còn em Phước (17 tuổi), em Đức (13 tuổi) còn nhỏ để em ở nhà giúp má.
Sáu Châu và Hai Mỹ cùng chúng tôi nhanh chóng về nơi tập kết.
Quận lỵ Lái Thiêu nằm trên đường 13 đường Đại Hàn, cách Sài Gòn 15 ki-lô-mét, là cửa ngõ của tuyến "tử thủ" cuối cùng của địch ở phía bắc Sài Gòn. Trên một diện tích chưa đầy 4 ki-lô-mét vuông, chúng bố trí ba tiểu đoàn bảo an, hai chi đoàn xe tăng, một tiểu đoàn pháo binh và 1.800 quân trong trung tâm huấn luyện Huỳnh Văn Lương.
Các vị trí địch trong khu vực đều được cấu trúc kiên cố liên hoàn với nhau, có tới trên 20 hàng rào dây thép gai xen kẽ vật chướng ngại và hào chiến đấu.
Những ngày cuối tháng 4 năm 1975, mỗi ngày địch lại tăng cường thêm lực lượng cho Lái Thiêu.
Lính từ Sài Gòn ra, từ Bình Dương, Phú Lợi đổ về.
Lái Thiêu vốn là một quận lỵ sầm uất với những vườn cây ăn quả nổi tiếng khắp miền, nay trở nên ồn ào, chật chội. Lính về, tai họa đổ xuống đầu người dân. Đổ tiền, đổ lính vào những tuyến tử thủ, chỉ huy quân ngụy Sài.Gòn hy vọng chặn đứng được các mũi tiến công của ta, có thể kéo dài thêm sự tồn tại của chính quyền tay sai Mỹ.
Sau khi xem xét các mặt mạnh yếu của địch, tôi hội ý Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn và nói: Địch tuy đông, phòng thủ có chiều sâu nhưng tổ chức ô hợp. Tàn quân từ các nơi chạy về đã gây tâm lý hoang mang, dao động trong các đơn vị địch.
Trận mở cửa Lái Thiêu là trận hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc hoàn thành nhiệm cụ của sư đoàn. Trung đoàn 27 chúng ta đánh nhanh hay chậm đều ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian mũi thọc sâu của sư đoàn đánh chiếm mục tiêu chủ yếu là bộ tổng tham mưu quân ngụy Sài Gòn.
Vì vậy bằng giá nào trung đoàn ta cũng phải tiến công theo đúng kế hoạch, thời gian.
Tôi quyết định, không đánh lần lượt từ ngoài vào trong mà tập trung lực lượng, kết hợp luồn sâu, ém sẵn và thọc sâu bằng cơ giới tiến công vượt qua Lái Thiêu từ hai đầu. Tiểu đoàn 5 (mũi luồn sâu) tiến công địch từ hướng nam, đánh chiếm cầu Lái Thiêu, bao vây, chia cắt làm tan rã trung tâm huấn luyện Huỳnh Văn Lương. Tiểu đoàn 6 (mũi thọc sâu cơ giới) tiến đánh từ hướng bắc, phối hợp với mũi tiến công của Tiểu đoàn 5 từ hướng nam đánh lên, làm tan rã địch trên đường 13, đoạn từ Lái Thiêu đến cầu Vĩnh Bình, Bình Phước. Đồng thời chặn các hướng khác buộc chúng phải đầu hàng, bảo đảm cho đội hình thọc sâu của sư đoàn phát triển nhanh chóng.
12 giờ đêm ngày 29 tháng 4, phương án tác chiến được phổ biến tới từng tổ chiến đấu. Lúc này trên hướng Tiểu đoàn 5 đã hình thành thế bao vây vu hồi phía đông nam chi khu. Đại đội 5 do Đại đội trưởng Vương Văn Vinh và Chính trị viên Trần Sĩ Quế chỉ huy. Đại đội 7 do Đại đội trưởng Nguyễn Văn Tý và Chính trị viên Nguyễn Đình Sức chỉ huy triển khai đội hình trên hướng chính đánh thẳng vào quận lỵ, giải tỏa đường 13. Đại đội 6 do Đại đội trưởng Nguyễn Quang Khởi chỉ huy, vòng sang phía tây nam, áp sát chia cắt trung tâm huấn luyện Huỳnh Vắn Lương. Hướng Tiểu đoàn 6, Đại đội 10, Đại đội 11 bộ binh và Đại đội 3 xe tăng hiệp đồng chiến đấu lần cuối. Bộ binh rời xe, chia thành các mũi, áp sát hàng rào địch. Các trận địa pháo binh, cao xạ đặt phía sau, ngay sát đội hình bộ binh. Xe tăng triển khai dọc đường 13.
3 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, các đơn vị báo cáo đã vào đúng vị trí quy định. Tôi ra lệnh tiến công. Một phát pháo hiệu màu vàng bay vút lên không trung. Các trận địa pháo, cối nhất loạt nổ súng bắn vào chi khu, pháo phòng không 37 ly hạ thấp nòng bắn chế áp các lô cốt vòng ngoài, chi viện cho bộ binh mở cửa.
Trên hướng Tiểu đoàn 6, ngay từ những phút đầu chiến sĩ Đại đội 11, dùng bộc phá ống phá tung các lớp rào kẽm gai, thùng phuy chặn đường. Địch bị bất ngờ, không kịp nổ súng chống trả. Lính ở các chất tiền duyên bỏ công sự tháo chạy tán loạn. Đại đội 3 xe tăng do Đại đội trưởng Hoàng Thọ Mạc chỉ huy từ đường Đại Hàn tiến vào cùng Đại đội 11 thọc thẳng chiếm các mục tiêu. Đạn pháo xe tăng, đạn B40, B41 của ta nhanh chóng bắn tiêu diệt quân địch chặn đường. Chiến sĩ ta vừa đánh vừa kêu gọi địch đầu hàng.
Trên hướng Tiểu đoàn 5, khi nghe tiếng pháo ta nổ ở phía đường Đại Hàn, Tiểu đoàn trưởng Hoàng Đức Ký lệnh cho các mũi áp sát mục tiêu. Pháo chuyển làn, bộ binh từ các hướng xung phong đánh vào mục tiêu theo kế hoạch.
ở trung tâm huấn luyện Huỳnh Văn Lương, sau ít phút nổ súng, Đại đội 6 đã thấy phía cổng trại xuất hiện những lá cờ trắng. Bọn địch đi thành hàng dọc về phía trận địa Đại đội 6. Đi đầu là đại 'tá Nguyễn Văn Hinh chỉ huy trưởng trung tâm huấn luyện Huỳnh Văn Lương. Lính đi sau, tên nào cũng cầm vải trắng giơ cao. Gần 2 nghìn mảnh vải trắng nối nhau, kéo dài trông như dải băng tang lớn choàng qua cổng trại nơi có dòng chữ: "Trung tâm huấn luyện Huỳnh Văn Lương" cùng với phù hiệu "Bạch xà tinh" (Phù hiệu của sư đoàn 5 ngụy).
Nghe Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 báo về cả trung tâm huấn luyện Huỳnh Văn Lương đầu hàng, chúng kéo ra rất đông, tôi chỉ thị cho anh Ký: "Giải thích rõ chính sách khoan hồng của Mặt trận, rồi tha chúng về với gia đình".
Trong lúc Đại đội 6 vây trung tâm huấn luyện Huỳnh Văn Lương thì ở mũi chủ yếu, Đại đội 5 và Đại đội 7 đã đánh chiếm được cầu Lái Thiêu, theo đường Đại Hãn thọc vào chi khu. Mũi luồn sâu của Tiểu đoàn 5 phát triển đến khu nhà tên quận trưởng thì bắt liên lạc được với mũi thọc sâu của Tiểu đoàn 6 cùng xe tăng. Trung đoàn 27 làm chủ đường Đại Hãn đoạn qua Lái Thiêu, chia cắt địch trong chi khu ra thành từng tốp nhỏ. Hai Mỹ và Sáu Châu dẫn đường cho các mũi đánh chiếm từng mục tiêu trong chi khu. Viên trung tá quận trưởng Nguyễn Thái Bình hoảng sợ rúc xuống hầm ngầm bị các chiến sĩ Tiểu đoàn 5 tóm gọn cùng với toàn bộ sĩ quan trong quận Lái Thiêu. Binh lính trong quận lỵ Lái Thiêu tan rã, hạ vũ khí đầu hàng.
Như vậy, sau hơn 2 giờ chiến đấu liên tục, Trung đoàn 27 đã làm chủ quận ly Lái Thiêu. Tuyến "tử thủ" mà quân ngụy Sài Gòn đặt nhiều hy vọng sẽ chặn được các mũi tiến công của quân ta đã bị đập tan, cánh cửa phía bắc Sài Gòn đã rộng mở. Lúc này, từ ngã tư Búng, đội hình xe tăng, thiết giáp, bộ binh cơ giới thọc sâu của sư đoàn ào ạt phóng qua Lái Thiêu trong tiếng hò reo của nhân dân trong quận.
Tin Lái Thiêu được giải phóng lan nhanh khắp quận lỵ. Nhân dân ùa ra đường, đổ về dinh quận trưởng, nơi có lá cờ Giải phóng đang tung bay trên tháp cao. Bà con mang đến cho bộ đội hoa quả, bánh kẹo, chiến sĩ ta chưa kịp nhận thì được tin một đoàn xe địch từ Bình Dương rút chạy về Sài Gòn tiến lại phía sau đội hình quân ta. Bộ đội hướng dẫn cho dân sơ tán và triển khai chiến đấu chặn địch. Tiểu đoàn 5 vừa triển khai xong thì đoàn xe địch lao tới. Chúng vẫn chưa hay biết gì về Lái Thiêu thất thủ. Toàn bộ tốp xe đi đầu lọt vào trận địa của Đại đội 5 do Đại đội trưởng Vinh chỉ huy.
Tốp xe bị tiêu diệt gọn. Những chiếc xe phía sau lại xông lên. Đại đội trưởng Vinh vừa chỉ huy chiến đấu vừa dùng B40 bắn cháy một xe chở quân của địch, diệt hàng chục tên. Tổ ba người do Nguyễn Văn Bài phụ trách, bí mật vòng lại phía sau đội hình địch. Bài nhằm vào chiếc xe cuối cùng nổ súng. Quả đạn B40 của Bài lao vào chiếc xe. Chiếc xe chung chiêng rồi đâm xuống vệ đường bốc cháy.
Bài vác súng chạy theo đoàn xe địch đang giảm dần tốc độ Khi cách xe địch 30 mét anh nâng súng, siết cò Hai quả đạn B40 liên tiếp bay đi. Chùm khói màu da cam phủ kín chiếc xe tăng và chiếc xe GMC của địch. Bọn địch sống sót nhảy xuống đường tháo chạy.
Một số xe tăng và xe GMC chở quân địch vượt qua được trận địa Đại đội 5 chạy về phía quận lỵ.
Tình huống diễn ra khẩn trương, bất ngờ. Nghĩ rằng một trong những chiếc xe tăng này mà nã pháo vào sau lưng mũi thọc sâu của sư đoàn thì sẽ vô cùng tai hại, tôi lệnh cho Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 dùng Đại đội 6 nhanh chóng thiết lập tuyến chốt giữa quận lỵ chặn bằng được những chiếc xe tăng địch. Đồng thời tôi ra lệnh Đại đội 16 giá súng 12 1y 7 ngay giữa đường phố đánh địch. Đại đội 15 cũng chia thành từng khẩu đội cối 82 ly cùng bộ binh chiến đấu. Chiến sĩ ta bám vào tường nhà nổ súng chặn địch. Đường phố Lái Thiêu một lần nữa lại mịt mù khói đạn. Các chiến sĩ Tiểu đoàn 5 và các đơn vị trực thuộc chiến đấu rất quả cảm, diệt hết chiếc xe này đến chiếc xe khác. Xe tăng, xe GMC chở quân của địch, chiếc bị bắn cháy, chiếc lao xuống vệ đường, chiếc đâm vào nhau đổ gục. Xác lính ngụy nằm rải rác trên mặt đường. Súng đạn, quần áo trang bị của địch vứt bừa bộn khắp nơi. Toàn bộ lực lượng địch tháo chạy qua Lái Thiêu bị tiêu diệt.
Tiểu đoàn 5 diệt 30 xe, thu 20 xe. Bọn tù binh, hàng binh dồn về chật một bãi cỏ rộng ở trung tâm quận lỵ. Tôi nói với Chính trị viên Tiểu đoàn 5 Hoàng Ngọc Sinh giải thích Mười chính sách của Mặt trận, rồi phóng thích họ. Anh Sinh tuyên bố. "Cho phép các anh trở về làm ăn, sinh sống với gia đình". Khi anh Sinh vừa dứt lời, đám lính ngụy nhảy lên reo hò: "Hoan hô Quân giải phóng! Hoan hô Quân giải phóng!".
Việc làm này được nhân dân quận lỵ Lái Thiêu rất hoan nghênh. Những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc "Quân giải phóng trả thù, sẽ có những cuộc tắm máu đã sớm tan biến trước chính sách khoan hồng, nhân đạo của ta. Các gia đình đón chồng, con, em trở về với niềm vui đoàn tụ và lòng biết ơn cách. mạng sâu sắc.
Cùng thời gian trên, mũi tiến công binh chủng hợp thành của Tiểu đoàn 6 thọc vào phía bắc cầu Vĩnh Bình. Gần 30 chiếc xe tăng, thiết giáp từ bộ chỉ huy thiết giáp xông ra phản kích. Đạn pháo từ xe tăng và đạn chống tăng từ các lô cốt địch bắn ra đan dày trước đội hình tiến công của ta. Chiếc xe tăng đi đầu của ta trúng đạn bốc cháy. Mũi thọc sâu của Tiểu đoàn 6 bị chững lại.
Trước tình huống đó, tôi trao đổi với Đại đội trưởng Hoàng Thọ Mạc động viên anh em giữ vững quyết tâm chiến đấu. Đồng thời tôi điều Đại đội 10 lên cùng phối hợp, kiên quyết đánh chiếm bằng được cầu Vĩnh Bình. Chúng tôi tổ chức thành hai mũi tiến công vào đội hình xe tăng địch. Mạc ngồi một xe, tôi ngồi một xe tiến theo đường 13. Xe tăng ta vừa tiến, vừa bắn.
xe của Mạc và xe của tôi bắn cháy 3 xe tăng M.48.
Các chiến sĩ bộ binh Đại đội 10 cũng chia thành hai mũi đánh vào sườn địch. Chiến sĩ B40, B41 của Đại đội 10 đánh rất giỏi, bắn trúng mười xe tăng địch.
Cánh quân phản kích bằng xe tăng của địch đã bị Trung đoàn 27 cùng Đại đội 3 xe tăng đánh thiệt hại nặng.
Gần như cùng một lúc, các đơn vị báo cáo với tôi: "Đạn B40, B41 đã hết, chỉ còn lựu đạn, thủ pháo và đạn AK, đề nghị bổ sung gấp". Tôi thoáng lo lắng: "Không có đạn hỏa lực, bộ binh không thể vượt qua trận địa xe tăng địch được". Tôi lệnh cho các đơn vị phía trước dùng lựu đạn, thủ pháo, AK giữ vững trận địa và chỉ thị cho anh An - Chủ nhiệm Hậu cần chuyển hết số đạn B40, B41 dự trữ của trung đoàn lên bổ sung kịp thời. Bộ binh dừng lại cho công binh khắc phục mìn. Khi các chiến sĩ công binh giơ tay ra hiệu đường thông, thì lúc đó các đơn vị đã được bổ sung đạn hỏa lực.
Cầu Vĩnh Bình đã hiện ra trước mắt các chiến sĩ, nhưng đội hình của ta vẫn chỉ nhích lên được từng mét. Địch tổ chức phòng thủ ngay sát đầu cầu và nống ra phản kích lần thứ hai. Lúc này chúng tôi không lo những chiếc xe tăng địch lao về phía mình mà lo chúng phá cầu. Tôi và Hoàng Thọ Mạc cho xe tách khỏi đội hình, vượt lên, chỉ thị mục tiêu cho xe tăng và bộ binh ta đánh địch.
Trong chiến đấu, tôi có thói quen ngoài khẩu K59 đeo bên người, bao giờ tôi cũng khoác thêm khẩu AK báng gấp với vài băng đạn. Lúc chúng tôi cho xe vượt lên, anh em lái xe nói: - Đề nghị thủ trưởng vào trong xe để bảo đảm an toàn.
Tôi liền bảo: - Vị trí của tôi là đứng ở đây, quan sát địch, chỉ thị mục tiêu cho bộ binh và xe tăng chiến đấu. Các đồng chí cứ tăng tốc độ lên! Cùng lúc đó, một pháo tự hành 175 của địch từ nhánh đường rẽ lao ra phía cầu Vĩnh Bình. Hoàng Thọ Mạc hô: - Xe 956! Đạn xuyên một phát, bắn! Tiếng hô của Đại đội trưởng Mạc vừa dứt, một quả đạn đã lao vút vào khẩu pháo "vua chiến trường" làm nó đâm đầu vào bức tường bên đường bốc cháy dữ dội. Còn một khẩu pháo 175, lính chạy bỏ lại. Tôi bảo anh em lấy sơn viết vào khẩu pháo: BK19.
Thấy "vua chiến trường" bị diệt, bọn địch ở phía sau hốt hoảng dừng lại. Chớp thời cơ cán bộ, chiến sĩ Đại đội 10 chia thành nhiều mũi, từ các hướng đánh vào trận địa địch. Xe tăng của chúng chiếc bị bắn cháy, chiếc bị ta bắt sống. Những chiếc còn lại vội vàng cụm lại, chốt giữ đầu cầu. Địch vẫn ngoan cố chống cự và tìm cách ngăn chặn mũi tiến công của ta. Đoạn đường đầu cầu, chúng dựng thùng phuy chứa đầy cát và những tấm bê tông trên mặt đường, tạo thành một lối đi chật hẹp, ngoắt ngoéo. Hoàng Thọ Mạc nói với tôi: - Ta không thể cho xe tăng lao lên húc đổ các vật cản trên đường. Địch sẽ lợi dụng lúc xe tăng ta khắc phục vật cản mà diệt. Phải đánh bằng bộ binh thôi anh Hiệu ạ! Nói rồi, Mạc tháo mũ công tác, xách khẩu B40, bật nắp xe nhảy xuống đường. Một số chiến sĩ cũng rời xe, xách súng AK chạy theo đại đội trưởng. Thấy vậy Mạc ra lệnh: - Các đồng chí về ngay vị trít Chuẩn bị cho xe vượt cầu! Tiếng Đại đội trưởng Mạc lẫn trong tiếng nổ ầm ầm của đạn pháo địch. Anh lao đi phối hợp chiến đấu với một mũi tiến công của Đại đội 10 Tiểu đoàn 6.
Bỗng có tiếng súng rộ lên ở phía sau. Đó là tiếng súng của Tiểu đoàn 5 đang chặn địch tháo chạy từ Bình Dương về Sài Gòn. Phía trước, phía sau đều có địch. Phải nhanh chóng chiếm cầu bằng được. Mạc bàn với Nguyễn Tiến Hoạt - Đại đội trưởng Đại đội 10, rồi vượt sang bên kia đường.
Một tiếng nổ choáng óc ở mép đường Mạc vừa tới. Quân địch ở lô cốt gần đó nhìn thấy anh, chúng nổ súng. Mảnh đạn M. 79 xuyên vào ngực làm anh lảo đảo khuỷu xuống. Một chiến sĩ lao đến. Mạc khoát tay ra hiệu cho người chiến sĩ im lặng rồi anh chỉ tay về phía cầu.
Quân địch từ trên cầu càng bắn mạnh. Chúng đang đổ đạn xuống mặt đường trước đội hình tiến công của ta. Nhưng khoảng cách giữa ta và địch ngày càng gần lại. Những vật cản của địch trên đường để ngăn chặn ta tiến công giờ đây trở thành ụ chiến đấu của các chiến sĩ phát triển lên đánh chiếm cầu.
Lúc này, Hoàng Thọ Mạc tay trái bóp chặt vết thương đang rỉ máu, tay phải cầm khẩu B40 vẫn lao lên. Máu chảy ướt đẫm một khoảng áo trước ngực. Anh hất đầu về dãy thùng phuy. Hiểu ý đại đội trưởng, một chiến sĩ vọt tiến theo anh. Một tiếng "xooẹ xoẹt" lao đến trước mặt anh và người chiến sĩ. Đại đội trưởng Mạc tung người xô ngã người chiến sĩ, rồi nằm úp lên trên. Khói quả đạn phủ kín cả hai người.
Hoàng Thọ Mạc (1) đã anh dũng hy sinh. Máu của anh chảy thắm đỏ một khoảng đất đầu cầu Vĩnh Bình. Các chiến sĩ Đại đội 3 xe tăng và Đại đội 10 Tiểu đoàn 6 vô cùng thương tiếc người đại đội trưởng dũng cảm. Lòng căm thù như tiếp thêm sức mạnh cho các chiến sĩ, thôi thúc họ tiến lên diệt địch, trả thù cho đại đội trưởng thân yêu. Tôi điều hai khẩu 37 ly hạ nòng bắn vào các cụm quân địch đang chiếm giữ cầu. Các mũi tiến công của Đại đội 10 chiếm được lô cốt đầu cầu, đẩy địch ra khỏi công sự.
Mất chỗ dựa, toàn bộ quân địch chốt giữ trên cầu Vĩnh Bình buộc phải bỏ súng, đầu hàng.
Tôi nói anh em đưa thi hài Hoàng Thọ Mạc lên xe cùng tiến vào hang ổ cuối cùng của địch. Xe tăng, xe thiết giáp, xe vận tải chở Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 27 ào qua cầu Vĩnh Bình. Tấm biển chỉ đường ở đầu cầu ghi dòng chữ màu trắng: "Sài Gòn 10 ki-lô-mét". Vượt qua cầu Vĩnh Bình, mũi thọc sâu binh chủng hợp thành của Trung đoàn 27 rẽ về hướng tây, theo một con đường vào quận ly Gò Vấp.
---------------------------------
1. Hoàng Thọ Mạc quê Xuân Hùng, Xuân Trường, Nam Định. Bố anh là Hoàng Thọ Mô, liệt sĩ chống Pháp. Nhà có hai anh em, Mạc và em gái Hoàng Thị Vui. Tháng 2 năm 1974, anh xây dựng gia đình với chị Tô Thị Khuy quê Xuân Vinh, Xuân Trường, Nam Định. Anh chị chưa có con.
-----------------------------
Mũi thọc sâu tiến sát khu bộ tư lệnh các binh chủng quân ngụy ở quận Gò Vấp.
Trời Sài Gòn như vỡ ra bởi tiếng nổ rung chuyển của các loại đạn các cỡ. Tiếng rít xé gió của đạn pháo. Tiếng đạn nhỏ xiết vào không gian chiu chíu.
Tiếng động cơ máy nổ, tiếng bánh xích nghiến rung mặt đường. Lúc này tôi nhận được điện của Bộ Tư lệnh Quân đoàn truyền đạt tinh thần bức điện của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương: Kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên, chiến sĩ với quyết tâm lớn nhất hãy nhanh chóng đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của địch với khí thế hùng mạnh nhất của quân đội trăm trận trăm thắng, đập tan mọi sự đề kháng của địch, kết hợp tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn - Gia Định.
Phải giữ kỷ luật thật nghiêm, triệt để chấp hành mọi chỉ thị, mệnh lệnh, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, nêu cao truyền thông và bản chất cách mạng của quân đội ta, hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc giành thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ vĩ đại.
9 giờ 30 phút, mũi thọc sâu của Trung đoàn 27 đánh vào bộ tư lệnh thiết giáp - lực lượng mạnh nhất của địch trong khu bộ tư lệnh các binh chủng ngụy. Trước cổng bộ tư lệnh thiết giáp, địch đã tổ chức một trận địa phòng ngự bằng tất cả các loại xe tăng, thiết giáp hiện đại nhất của chúng. Xe tăng xe thiết giáp được bố trí nhiều tầng, bắn như đổ đạn về phía trước ngăn chặn mũi tiến công của ta.
Quan sát trận địa địch tôi thấy chúng phòng thủ chủ yếu bằng xe tăng, thiết giáp, rất ít bộ binh. Do vậy chúng không dám ra phản kích. Biết rõ chỗ yếu của địch, tôi ra lệnh cho xe tăng ta nã pháo chế áp trận địa địch, đồng thời cho bộ binh chia thành nhiều mũi, dùng B40, B41 áp sát chia cắt, tiêu diệt xe tăng địch.
Nhận được lệnh, Đại đội 3 xe tăng của ta tập trung nã pháo tới tấp vào trận địa địch. Các xạ thủ B40, B41 rời khỏi xe ôtô vượt qua làn đạn đan chéo trên đầu, xông thẳng vào đội hình xe tăng địch. Mười chiếc xe tăng địch bị bắn cháy. Địch bị bất ngờ trước lối đánh của quân ta, chúng quay đầu tháo chạy. Nhưng, những con đường trước mặt chúng đều là những con đường cụt, buộc chúng phải co về cố thủ trong khu bộ tư lệnh thiết giáp.
Chớp thời cơ, tôi lệnh cho xe tăng và bộ binh vừa đánh vừa tiến vào. Không chịu nổi sức tiến công của ta, viên đại tá Chiêu buộc phải dẫn sĩ quan, binh sĩ trong bộ tư lệnh thiết giáp ra hàng. Lá cờ ba que bị hạ xuống, chiến sĩ ta kéo lá cờ Giải phóng lên nóc cột cờ bộ tư lệnh thiết giáp quân ngụy.
Làm chủ bộ tư lệnh thiết giáp, ta bắt tù binh dẫn đường đánh chiếm các mục tiêu tiếp theo. Lục quân công xưởng (trại Đoàn Dư Khương) là căn cứ sửa chữa lớn, tập trung nhiều vật tư kỹ thuật, có khoảng 2 nghìn sĩ quan, hạ sĩ quan và nhân viên với nhiều xưởng cơ khí, đúc, quân xa, xe hơi, trọng pháo, vũ khí... ở đây sửa chữa theo dây chuyền rất hiện đại, có khả năng đại tu tất cả các loại vũ khí, trọng pháo, xe tăng, xe thiết giáp, xe hơi lục quân
Khi ta đánh vào chỉ còn một số sĩ quan, binh sĩ. Tôi ra lệnh cho đại tá Chiêu chỉ huy sĩ quan, binh sĩ trong Lục quân công xưởng: - Các anh phải có trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn toàn bộ cơ sở vật chất, kỹ thuật, dây chuyền sửa chữa.
Tại căn cứ 60 tiếp vận truyền tin (trại Nguyễn Thái Học là căn cứ sửa chữa lớn các máy thông tin.
Trại Phạm Tất Được là nơi dự trữ nhiên liệu đặc biệt), khi Trung đoàn 27 chiếm giữ, căn cứ còn 12 triệu lít xăng. Ta còn chiếm giữ các căn cứ: Căn cứ tồn trữ quân nhu 331 (trại Nguyễn Công Trứ), bao gồm quân trang, các xưởng may mặc của quân đội ngụy. Căn cứ này có khoảng trên một nghìn sĩ quan, binh sĩ và nhân viên. Tiểu đoàn 61 pháo binh (trại Phan Sào Nam). Trường quân cụ và trường đào tạo kỹ thuật...
Tôi nhớ nhất là khi đánh vào Tổng y viện Cộng Hòa, bệnh viện lớn và hiện đại nhất của quân ngụy.
Tên lính ngụy dẫn đường đưa chúng tôi vào thẳng phòng làm việc của viên chuẩn tướng Phạm Hà Thanh. Thấy chúng tôi vào, Thanh lắp bắp:
- Xin chào các đồng chí!
Tôi nói ngay:
- Anh không phải là đồng chí của chúng tôi.
Thanh liếc nhìn tôi. Nhận ra giọng nói Nam Định của tôi, Thanh bắt chuyện:
- Tôi quê Nam Định, là bạn học cùng bác sĩ Phạm Gia Triệu (1), quê ở Hành Thiện, Xuân Trường, Nam Định. Chúng tôi cùng học với nhau ở Pháp.
Tôi cắt ngang:
- Tôi là Phong, chỉ huy cánh quân này. Anh cho biết bệnh viện của anh có bao nhiêu bác sĩ và nhân viên? - Dạ thưa, khoảng 400 bác sĩ và nhân viên.
- Bao nhiêu thương binh?
- Có 200 thương binh từ thiếu tá trở xuống.
--------------------------------
1. Bác sĩ Phạm Gia Triệu - Viện phó Viện quân y 108 từ năm 1967, ông là một chuyên gia phẫu thuật thần kinh. ông được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 1967.
-------------------------------------------------
Dừng lại một lúc, tôi nói như ra lệnh:
- Anh cho đăng ký số thương binh là cấp tá, còn tất cả thương binh khác cho gia đình đưa về điều trị và chuyển sang các viện dân sự. Anh cùng bác sĩ, nhân viên y tế tiếp tục ở lại phục vụ thương binh Quân giải phóng, ngay từ bây giờ.
Phạm Hà Thanh rụt rè hỏi:
- Thưa quý ông, tiêu chuẩn thương binh của cách mạng được hưởng là bao nhiêu?
Lúc này tôi cũng không rõ tiêu chuẩn điều trị các loại thế nào. Tôi bảo:
- Thương binh Quân giải phóng được hưởng tiêu chuẩn cao nhất từ trước đến nay.
- Thưa quý ông! Thuốc chỉ dùng được có 15 ngày thôi!
- Kho thuốc ở đâu?
- Căn cứ 70, tồn trữ y dược.
- Anh cho người và xe cùng chúng tôi đi nhận thuốc.
Phạm Hà Thanh đầy vẻ lễ phép:
- Dạ, dạ, dạ.
Tôi nói tiếp:
- Tất cả thương binh của chúng tôi vào điều trị ở đây anh phải bảo đảm chữa khỏi cho họ. Nếu để xảy ra tử vong, anh hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tôi vừa nói xong, Phạm Hà Thanh mặt biến sắc:
- Thưa quý ông, thương binh nặng tử vong có nhiều nguyên nhân. Nếu tử vong mà do vết thương quá hiểm nghèo mà quý ông quy trách nhiệm cho tôi thì khó quá. Mong quý ông xem xét lại.
Suy nghĩ một lát, tôi nói:
- Thôi được, các anh phải thành lập Hội đồng y khoa, cố gắng chạy chữa cho các đồng chí của chúng tôi. Nếu chẳng may vì vết thương quá nặng mà hy sinh, được hội đồng kết luận thì tôi miễn tra cứu trách nhiệm. Bây giờ anh về lo làm những việc tôi vừa giao...
Thương binh của Trung đoàn 27 và thương binh các hướng của chiến dịch bắt đầu được đưa về Tổng y viện Cộng Hoà (Ngày nay, nơi đây là Viện 175) điều trị.
Thi hài Hoàng Thọ Mạc (1) vẫn trên xe, tôi bảo anh em đến nơi bán quan tài chọn chiếc đẹp nhất để khâm liệm và an táng cho anh. Đây cũng là một trong những cán bộ hy sinh ngay trước giờ thắng lợi trong chiến dịch Hồ Chí Minh. Tang lễ Hoàng Thọ Mạc được tổ chức trọng thể với chiếc quan tài đẹp nhất.
----------------------
1. Hoàng Thọ Mạc được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong chiến dịch Hồ Chí Minh.
-----------------------
Cũng vào thời điểm 11 giờ 30 phút lá cờ chiến thắng của quân đội ta được kéo lên ở Dinh Độc Lập, bộ tổng tham mưu quân ngụy Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất và nhiều nơi khác trong thành phố Sài Gòn - Gia Định.
Chiến dịch Hồ Chí Minh - Trận quyết chiến chiến lược cuối cùng đã đại thắng. Nhân dân Sài Gòn xuống đường hò reo đón chào bộ đội cách mạng. Cờ đỏ sao vàng, cờ Giải phóng bay rợp các đường phố. Bà con cô bác, nam nữ thanh niên, các cháu thiếu niên vây quanh các anh bộ đội, vây quanh những chiếc xe tăng, những khẩu pháo lớn.
Nét mặt ai nấy đều hân hoan rạng rỡ. Cả Sài Gòn, cả Việt Nam lúc ấy sống trong niềm vui bất tận - niềm vui giải phóng, với những nụ cười cùng những giọt nước mắt lăn nhanh trên má mọi người.
Trong giờ phút lịch sử, chúng tôi đều xúc động nhớ tới Bác Hồ. Câu thơ mừng Xuân năm 1969 của Người: "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" đã chỉ đường đi cho cách mạng Việt Nam đến thắng lợi hôm nay.
Giữa giờ phút thiêng liêng này, tôi nghẹn ngào nhớ tới hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 và các đơn vị bạn đã anh dũng ngã xuống từ Mặt trận Bắc Quảng Trị mùa Xuân năm 1968, trên suốt chặng đường chiến đấu, đến chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng hôm nay. Tôi càng bồi hồi, đau xót nhớ tới những đồng đội mới hôm qua và vừa mới trước đây vài giờ đã anh dũng hy sinh vì thắng lợi huy hoàng.
chương bảy
TRÊN MẶT TRẬN MỚI Trước khi nói về những năm tháng ở Tổng hành dinh, tôi xin dành ít trang cho quê hương Hải Hậu (Nam Định) - nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng tôi khôn lớn trưởng thành.
Nhìn trên bản đồ, dòng chảy của sông Ninh Cơ và sông Sò tạo thành một vòng cung - địa giới phía trong của huyện Hải Hậu. Phía ngoài, gần như một đường thẳng hơi chếch từ đông bắc xuống tây nam là bờ biển. Bờ biển Hải Hậu từ cửa sông Hà Lạn tới cửa sông Ninh Cơ theo bờ đê dài 32 ki-lô-mét.
Từ năm 1920 trở đi vùng đất nơi đây bị biển xâm lấn nên bờ biển sâu.
Theo các cụ kể lại, cách đây 500 năm mảnh đất Hải Hậu còn là một vùng biển, khi đó mới có một số cồn cát nổi lên rải rác ở phía nam cửa Lạch Lác (tên gọi cửa sông Ninh Cơ trước đây) và phía tây cửa Lạn Môn (tên gọi cửa sông Hà Lạn trước đây). Lúc ấy mới lẻ tẻ có người tới cư trú. Cuối thế kỷ XV, ông Trần Vũ, người Cổ Lễ huyện Nam Ninh tới vùng này, nhìn thế đất "khi nước lên thì cá bơi, hạc đứng, bốn mặt mênh mông. Khi nước xuống thì u nhệch, lầu ngao, một vùng gò đống" đã lập bàn địa án dâng lên vua Lê Thánh Tông (Hồng Đức) xin được lấy "khu đất hoang này làm tư điền thế nghiệp".
Ông Trần Vũ được vua Lê phê chuẩn và phong chức Dinh điền Phó sứ.
Ông Trần Vũ kết nghĩa với các ông Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập (bốn ông này sau được nhân dân tôn vinh thành Tứ Tổ) cùng thu họp dân các nơi về khai khẩn. Từ đấy công cuộc quai đê lấn biển được tiến hành có quy hoạch...
Sau khi đắp xong con đê biển gọi là đê Hồng Đức, đồng đất phía trong đê trở nên vững vàng, đồng ruộng, sông ngòi mở mang có bài bản.
Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XX, nhân dân ở một số làng xã phía bắc sông Cường và Cát Chử (nay là xã Trực Cát huyện Nam Ninh) tiếp tục sang đây tham gia khai khẩn mở mang. Vào đầu thế kỷ XVII, ở phía tây cửa Lạn Môn, ông Vũ Duy Hòa khởi xướng và tập hợp lực lượng lấn biển được nhiều họ hưởng ứng, đồng thời ở đây nhân dân và các họ từ phía bắc cũng tiếp tục ra lấn biển. Công việc tiến hành ròng rã hơn 100 năm, tới đầu thế kỷ XVIII, khu trong đê Hồng Đức - từ đê Đông xã Quần Anh đến giáp sông Hà Lạn hoàn thành mở thêm một phần đất đai.
Những năm hai mươi của thế kỷ XIX, biển bồi càng mạnh và công việc khai hoang ở đây cũng diễn ra với nhịp độ nhanh trong phạm vi rộng. Dưới triều Minh Mạng với cương vị Dinh điền sứ, Nguyễn Công Trứ mộ dân khẩn hoang khu nam, khi hoàn thành lập ra chín làng: An Nhân, An Nghiệp (Hải Toàn), An Trạch, An Đạo, An Nghĩa (Hải An), An Phong, An Phú, An Lạc, An Lễ (Hải Phòng).
Cư dân Hải Hậu hôm nay là hậu duệ của những người tiên phong đi mở đất. Họ là những người nghèo, chủ yếu ở các làng xã phía Bắc chuyển cư xuống vùng biển phía Nam để khai cơ lập nghiệp.
Trong hành trang mang theo của họ, có cả lối sống và phong cách làm ăn của nền văn minh sông Hồng để tạo dựng một miền quê mới.
Kế thừa truyền thống của ông cha trong lịch sử dựng nước và giữ nước, ngay từ những ngày đầu thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân Hải Hậu đã liên tục tham gia chiến đấu. Đặc biệt, sau sự kiện lịch sử thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930) ở Hội Khê Ngoại đã xuất hiện tổ chức đảng đầu tiên. Dưới sự lãnh đạo của những đảng viên cộng sản này, các tổ chức "Nông hội đỏ" đã lần lượt ra đời ở Hà Lạn, Phúc Lộc (Hải Phúc), Phúc Thủy (Hải Hà), Trung Thành (Hải Vân).
Ngay sau khi giành chính quyền, những người đảng viên cộng sản huyện Hải Hậu đã bắt tay ngay vào việc củng cố tổ chức Đảng để lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền nhân dân non trẻ. Chi bộ Đảng đầu tiên của huyện được thành lập gồm năm người do đồng chí Nguyễn Thiếp Giáp làm Bí thư ở xã Hải Long. Sự ra đời của chi bộ là một mốc son lịch sử đánh dấu sự trưởng thành của phong trào cách mạng huyện Hải Hậu. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, phong trào phát triển sâu rộng, toàn diện, cơ sở chính trị và lực lượng của Đảng phát triển nhanh chóng. Trước yêu cầu đó, tỉnh ủy Nam Định đã quyết định thành lập huyện ủy Hải Hậu.
Sau khi huyện ủy và lực lượng vũ trang huyện được thành lập, hệ thống tổ chức Đảng, lực lượng đảng viên và lực lượng dân quân, du kích đã lớn mạnh không ngừng, trưởng thành nhanh chóng.
Đây là nhân tố quyết định để lãnh đạo và làm nòng cốt cho phong trào cách mạng của huyện vượt qua những thời kỳ khó khăn, ác liệt nhất. Đặc biệt là thời kỳ địch tạm chiếm "2 năm 4 tháng", từ cuối năm 1949 đến đầu năm 1952. Thời kỳ này, trong tỉnh nhiều nơi phong trào bị địch khủng bố trắng.
ở xã Hải Long, địch bắt được cán bộ, không những chém giết dã man, chúng còn đan rọ cho cán bộ vào rồi buộc đá thả xuống sông Ngòi Cau. Hòa bình lập lại người dân đánh cá còn vớt được nhiều rọ có xương sọ cán bộ.
Bố tôi là Nguyễn Văn Đáp, sinh năm 1921, ở xã Hải Long, huyện Hải Hậu. Bố tôi là người ham học, ông đã nhiều năm theo học chữ Nôm, sách của ông nhiều, xếp đầy giá. Khi còn nhỏ, bố tôi và thầy giáo Luật (một nhà Nho) dạy tôi học ba năm chữ Nôm. Trong kháng chiến chống Pháp, nhiều năm bố tôi tham gia du kích chống địch càn và đi dân công hỏa tuyến.
Do tuổi cao sức yếu, bố tôi đã mất vào năm 1995.
Mẹ tôi là Mai Thị Cúc, quê Hải Tân. Thời trẻ mẹ tôi xinh đẹp có tiếng trong vùng. Thấy bố tôi là người học giỏi nên yêu thương. Ông bà sống với nhau rất hạnh phúc. Mẹ tôi yêu chồng, thương con, tần tảo chịu thương, chịu khó, chắt chiu nuôi năm anh em tôi khôn lớn trưởng thành. Mẹ là chỗ dựa tinh thần cho anh em chúng tôi trong cuộc sống, công tác. Mẹ tôi ra đi giữa những ngày Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc (tháng 5 năm 2008) được tổ chức tại Việt Nam; hưởng thọ 89 tuổi.
Bố mẹ tôi sinh được năm người con. Anh cả tôi là Nguyễn Văn Tiếu, sinh năm 1942, ở quê. Tôi là thứ hai, sinh ngày 27 tháng 7 năm 1947. Em trai tôi là Nguyễn Văn Phu, sinh năm 1952, bộ đội Đoàn 559, sau chuyển ra ngoài công tác tại huyện nhà. Em gái tôi là Nguyễn Thị Sợi, sinh năm 1959, là quân nhân chuyên nghiệp Binh đoàn 11. Em trai út tôi là Nguyễn Văn Tuyến, sinh năm 1961, đại tá, đang bị bệnh hiểm nghèo.
Ngày 20 tháng 2 năm 1965, tôi có lệnh gọi nhập ngũ. Hôm tiễn tôi lên đường, mẹ nắm tay tôi bịn rịn. Mẹ tôi căn dặn: - Con ơi! Thời chiến con là trai phải đi đánh giặc giải phóng miền Nam.
Mẹ cố nén lòng nhưng vẫn không sao cầm được nước mắt. Hai em Nguyễn Thị Sợi (sáu tuổi) và Nguyễn Văn Tuyến (bốn tuổi), chưa hiểu gì, nhìn tôi ngơ ngác... Bố tiễn tôi đến nơi tập trung. Trong lúc đợi lên xe, bố tôi bảo: - Con nhớ, theo gia phả thì họ Nguyễn nhà mình là hậu duệ cụ Nguyễn Bặc, danh tướng đại thần nhà Đinh. Thuở nhỏ là bạn thân của Đinh Bộ Linh, sau kết nghĩa anh em, theo Đinh Bộ Linh dẹp loạn mười hai sứ quân. Được vua Đinh phong tước Định Quốc Công. Ông đã bắt và giết gian thần Đỗ Thích, kẻ đã ám hại Đinh Tiên Hoàng, rồi cùng Đinh Điền, Phạm Hạp dấy binh chống Lê Hoàn nhằm bảo vệ nhà Đinh. Việc làm không thành bị Lê Hoàn giết.
Đến đời Lý ông được truy phong Phúc Thần. Nhà mình thờ chữ Tâm. Người xưa có câu: Sông có khúc, người có lúc. Sinh thì có hạn, tử bất kỳ.
Dừng hồi lâu, bố tôi nói tiếp : - Con nhớ các cụ xưa nói: Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó.
Nói rồi, bố tôi chảy nước mắt. Tôi cũng khóc theo.
Bố tôi nói, không giải thích, nhưng tôi hiểu được ý của bố tôi: Trên bước đường chiến đấu và công tác, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn phải vui vẻ, phải vững tâm, kiên nhẫn mà vượt qua. Còn sinh có hạn, tử bất kỳ, ý của bố tôi là sống chết không thể tính trước được. Điều cuối cùng bố tôi dặn tôi "sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy" là muốn nói với tôi rằng: mình đối xử với mọi người như thế nào, thì về sau mọi người đối xử với mình như thế.
Phải biết trân trọng quá khứ, phải tri ân những người đã giúp đỡ mình, đã hy sinh vì mình, trân trọng lịch sử... Những lời căn dặn của bố tôi, tôi luôn ghi nhớ.
Trong chiến đấu ác liệt, nhiều lúc tưởng chừng không vượt qua được tôi vẫn tự nhủ: Sinh thì tính được, tử chẳng tính trước được, nên tôi quên mình, lao vào cuộc chiến đấu sinh tử với quân thù...
Sau ngày đất nước thống nhất, tôi được tham gia đoàn Việt Nam đi cảm ơn các nước bạn bè trên thế giới. Khi đoàn đến Liên Xô, chúng tôi được tham quan Hạm đội Hắc Hải đóng ở biển Hắc Hải.
Tại đây tôi gặp lưu học sinh Việt Nam ở trường Đại học Y ở ô-đét-xa. Trong số lưu học sinh tại trường Đại học Y-ô-đét-xa. Nơi đây nhà tôi - Lại Thị Xuân, người cùng xã Hải Long đã học bảy năm bác sĩ. Vợ tôi là con gái út của ông Lại Văn Tá - đảng viên Đảng Cộng sản năm 1930. Ông hy sinh trong kháng chiến chống Pháp. Lại Thị Xuân là con liệt sĩ nên được cử ra nước ngoài học từ năm 1969, đến năm 1976 tốt nghiệp bác sĩ, Xuân về nước công tác tại Bệnh viện E. Chúng tôi tổ chức lễ cưới vào ngày 16 tháng 8 năm 1976 (tính theo âm lịch). Vợ chồng tôi sinh được hai con. Con gái Nguyễn Thị Hải Yến sinh năm 1978, công tác tại Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, cháu thi đỗ và được cử sang học cao học ở Vương quốc Anh. Con trai Nguyễn Hải Anh, sinh năm 1980, cũng thi đỗ, được cử sang học và tốt nghiệp cao học ở Vương quốc Anh.
Sau khi tốt nghiệp khóa đào tạo chính quy đầu tiên của Học viện Cấp cao (Học viện Quốc phòng hiện nay), tháng 10 năm 1980, tôi được điều về làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 390, Quân đoàn 1, thay
---------------
1. Vợ chồng tôi dùng chữ đệm cho các con là Hải, có ý kỷ niệm ngày đầu gặp nhau ở biển Hắc Hải, và cùng quê hương Hải Hậu.
------------------
anh Phạm Huấn về Bộ Tư lệnh Hải quân. Cùng về Sư đoàn 390 dịp này với tôi còn có anh Phan Trần Thắng thay anh Nguyễn Văn Đệ giữ chức Chính ủy sư đoàn; anh Vũ Trung Thướng thay anh Đoàn Trương giữ chức Sư đoàn phó - Tham mưu trưởng.
Nhân nói về Sư đoàn 390 nơi tôi sống và công tác bảy năm, anh Trần Văn Thứ - Sư đoàn phó Chính trị, Bí thư Đảng ủy Sư đoàn, khi anh Thứ chuyển đi, anh Lê Xuân Yến thay làm Sư đoàn phó Chính trị, Bí thư Đảng ủy Sư đoàn. Khi tôi đi học ở Liên Xô, anh Trần Xuân Gứng - Sư đoàn phó thay tôi quyền Sư đoàn trưởng. Khi tôi lên quân đoàn, anh Phùng Quang Thanh làm Sư đoàn trưởng, tiếp đến anh Phạm Thế Mỹ và anh Nguyễn Khắc Nghiên giữ chức Sư đoàn trưởng...
Thời gian này ở Sư đoàn 390 cũng chịu sự khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng của đất nước. Bộ đội không có gạo ăn, phải ăn sắn "gạc nai" (1) của người dân Thanh Hóa, đem về giã lấy bột nấu ăn thay cơm. Trước tình hình đó, Đảng ủy và Ban chỉ huy chúng tôi họp bàn rồi tổ chức xin ruộng cho bộ đội cấy lúa, liên hệ xin khai thác luồng để đổi
--------------------------
1. Sắn gạc nai đồng bào nhổ cả bụi để trên gác bếp đen như gạc con nai.
--------------------------
lương thực, phát động trồng rau, nuôi cá, bảo đảm một phần đời sống bộ đội.
Lúc này quân số của sư đoàn hơn một vạn người. Lo cho từng ấy con người thật là khó khăn
Chính trong những tháng ngày khó khăn này, Ban chỉ huy sư đoàn chúng tôi đã nêu vấn đề học tập làm theo lời dạy của Bác: "Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng". Chúng tôi thống nhất cán bộ sư đoàn phải là tấm gương cho bộ đội noi theo. Lời nói phải đi đôi với việc làm. Đây cũng là tính thuyết phục cao nhất đối với cán bộ và chiến sĩ.
Chúng tôi quy định từ cán bộ sư đoàn đến cán bộ đại đội không ăn bếp riêng mà xuống nhà ăn cùng bộ đội.
Ngoài tập trung cho nhiệm vụ huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến đấu của sư đoàn, chúng tôi chủ trương xây dựng nhà cơ bản cho bộ đội.
Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, kinh phí trên cấp có hạn, nên chỉ huy sư đoàn chúng tôi xác định phải tự lực đi lên bằng sức lao động của bản thân, phải khai thác tiềm năng sẵn có, những nhân tài vật lực của đơn vị.
Về xây dựng cơ bản, chúng tôi tiến hành xây dựng có trọng điểm. Tập trung xây dựng nhà kho, nhà xe pháo, nhà ăn. Mỗi tiểu đoàn xây dựng một đại đội để rút kinh nghiệm. Năm 1981, ngôi nhà đầu tiên được xây dựng ở Đại đội 11 Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 64, nhà 14 gian lợp ngói. Khi xây dựng xong, đưa vào sử dụng, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 - Tư lệnh Lê Nam Phong và Phó Tư lệnh Chính trị Đỗ Mạnh Đạo đã cho cán bộ cấp trung đoàn toàn quân đoàn đến tham quan và cho đây là một hình mẫu để các đơn vị làm theo.
Để tiết kiệm chi phí cho sản xuất vật liệu xây dựng, tôi đã cử anh Đoàn Quang Ngần, Sư đoàn phó hậu cần ra Quảng Ninh liên hệ mua hàng nghìn tấn than, chuyển sà lan về tới khu vực đóng quân tại bến Đò Lèn, Hà Trung, Thanh Hóa. Có than mới tính đến đốt gạch, nung vôi. Tôi giao cho Trung đoàn 64 tổ chức sản xuất vật liệu xây dựng.
Sau ba tháng lao động, cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 64 đã sản xuất được ba triệu viên gạch, 400 tấn vôi, 1.700 mét khối đa và cát. Chiến dịch sản xuất vật liệu xây dựng của Trung đoàn 64 thắng lợi mở ra niềm tin cho cả sư đoàn. Chúng tôi đã tổ chức tập huấn bồi dưỡng tay nghề cho hàng trăm đồng chí về kỹ thuật đóng gạch, đốt vôi, làm thợ nề, thợ mộc, thợ rèn... Những đồng chí này sau khi được bồi dưỡng ở sư đoàn trở về đơn vị lại hướng dẫn kỹ thuật cho anh em khác. Do đó đã tạo ra một lực lượng đông đảo chiến sĩ có tay nghề trên nhiều lĩnh vực làm cơ sở cho nhiệm vụ xây dựng doanh trại của đơn vị.
Chúng tôi còn tổ chức những cuộc hội thi để chọn tay nghề cao. Tôi còn nhớ, thời gian này thượng úy Bùi Xuân Đếm, Trung đoàn 64 được mệnh danh là "Kiện tướng đốt gạch". Lúc đầu, Đếm đốt lò năm vạn viên thành công. Sau tăng lên chín vạn viên bảo đảm tỷ lệ gạch chín 95%.
Những công trình xây dựng lớn của sư đoàn như nhà truyền thống, nhà chỉ huy sư đoàn, hội trường và nhà cơ quan sư đoàn đo Đội xây dựng của sư đoàn và chiến sĩ các đơn vị được điều lên thực hiện.
Các trung đoàn và các đơn vị trực thuộc tự sản xuất vật liệu để xây dựng nhà ở. Từ tháng 2 đến tháng 9 năm 1983, tôi được cử đi học ở Học viện Phrunde Liên Xô.
Trở về đơn vị tôi kiên định mục tiêu xây dựng cơ bản, với phương châm dựa vào sức của đơn vị là chính đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của chính quyền các địa phương, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ.
Do vậy, thời gian từ tháng 10 năm 1983 đến năm 1987, cả Sư đoàn 390 như một công trình xây dựng.
Từ cơ quan đến đơn vị, nơi nào cũng thấy lò gạch, lò vôi tỏa khói. Đến cuối năm 1987, toàn sư đoàn đã ngói hóa từ 85%-95%. Để cải thiện đời sống cho cán bộ, chiến sĩ, chỉ huy sư đoàn chúng tôi còn liên hệ tham gia một số công trình của Nhà nước. Trung đoàn 64 tham gia xây dựng sân bay Sao Vàng. Trung đoàn 27, Trung đoàn 54 tham gia xây dựng Nhà máy xi măng Bỉm Sơn. Công binh làm đường khai thác gỗ luồng của Thanh Hóa.
Công tác hậu phương quân đội cũng được Đảng ủy và chỉ huy sư đoàn quan tâm chu đáo và tìm nhiều biện pháp giải quyết. Tôi bàn thảo nhiều lần và cân nhắc rết kỹ với các anh trong Ban chỉ huy sư đoàn: - Sư đoàn ta còn nghèo, không thể giúp anh em cán bộ một, hai chỉ vàng. Chúng ta phải liên hệ xin đất để cán bộ có đất làm nhà. Có an cư thì mới lạc nghiệp được.
Thế rồi, tôi cùng cơ quan cán bộ trực tiếp đi các địa phương xin đất và cấp cho cán bộ. ở Nghệ An, ở Nam Định, Thái Bình. Đặc biệt, chúng tôi đã xin đất xây dựng các khu gia đình sĩ quan ở ngay khu vực sư đoàn bộ, với những tên gọi mang đậm ý nghĩa truyền thống như: Làng Đồng Bằng, làng Vĩnh Định, làng Thạch Hãn, Triệu Hải... Số gia đình lúc đầu còn ít, dần dần đã có tới hàng trăm gia đình sĩ quan đến ở. Phần lớn anh em đã có nhà xây cơ bản, đời sống khá.
Là người trưởng thành từ chiến trường Quảng Trị, một chiến trường khốc liệt, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, tôi rất xót xa khi nhìn những cánh rừng trụi lá do chất độc hóa học, không còn mầm xanh của sự - sống. Nay tôi muốn tạo dựng lại màu xanh của sự sống. Bởi vậy, đầu năm 1983, tôi đề xuất với Ban chỉ huy sư đoàn mở chiến dịch trồng cây xanh. Mục đích của chiến dịch này là phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, trồng cây trong doanh trại, vừa làm đẹp vừa tạo môi trường râm mát, cân bằng hệ sinh thái trước mắt và lâu dài. Chiến dịch được mang tên: "Màu xanh đồng bằng".
Để bảo đảm cho kế hoạch trồng cây, chúng tôi thành lập các tổ làm vườn ươm cây giống. Cơ quan sư đoàn cũng được giao nhiệm vụ cụ thể. Phòng Hậu cần đảm bảo kỹ thuật và cây giống. phòng Chính trị phụ trách công tác tuyên truyền, giáo dục hướng dẫn thi đua. Phòng Tham mưu lo điều lực lượng. Do được giáo dục về ý nghĩa và lợi ích của trồng cây, cán bộ, chiến sĩ đều hăng hái tham gia.
Từ đơn vị cơ sở đến cơ quan sư đoàn không một chỗ nào để đất trống. Đâu đâu cũng thấy cây mọc xanh tốt. Tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của sư đoàn đã phối hợp với Thị đoàn Bỉm Sơn, Trường phổ thông trung học huyện Hà Trung cùng trồng cây trong doanh trại. Sư đoàn bảo vệ chăm sóc và giữ gìn bốn mươi hécta rừng dẻ gần sư đoàn bộ. Môi trường sinh thái được cải thiện nên từng đàn cò và nhiều loài chim về trú ngụ.
Vườn ươm của sư đoàn đã cung cấp cây giống cho các đơn vị trong sư đoàn đu trồng. Các địa phương nghe tin vườn ươm của sư đoàn có nhiều giống cây quý như lát hoa, tràm hoa vàng, bạch đàn, xà cừ, cây ăn trái nhiều loại do Sở Lâm nghiệp tỉnh Thanh Hóa giúp kỹ thuật đã cử người đến mua. Sư đoàn 390 đã cung cấp hai triệu cây lát hoa, tràm hoa vàng cho các tỉnh từ Quảng Trị đến Hà Nội, Quảng Ninh, giá trị hàng chục triệu đồng.
Tổng kết cuộc thi "Hoa trái Đồng Bằng" sư đoàn quy định mỗi đơn vị trồng năm vườn: Vườn ươm giống; Vườn rau ăn; Vườn thuốc đông y; Vườn hoa; Vườn cây cảnh.
Tháng 4 năm 1984, tôi dẫn đầu đoàn cán bộ Sư đoàn 390 trở lại Quảng Trị. Lần này tôi mang theo một cây đa do bà Thủ tướng ấn Độ In-đra Gan-đi tặng, cây đa này được trồng từ phong trào "Cách mạng xanh" nổi tiếng của đất nước ấn Độ tươi đẹp, nhân chuyến tôi và đoàn đại biểu Việt Nam đi thăm và cảm ơn các nước đã ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược (tháng 10 năm 1977). Cả chuyến đi đó tôi giữ gìn cây đa nhỏ như một báu vật. Về nước, tôi trồng cây đa vào một cái chậu, đi đâu tôi cũng mang theo, từ Học viện Cấp cao rồi về Sư đoàn 390. Đến năm 1984, cây đa lên xanh tốt tôi quyết định đem cây đa và một số cây lát hoa vào trồng ở thị xã Quảng Trị.
Cây đa phát triển rất nhanh. Năm 2005, theo quy hoạch của thị xã, phải dịch chuyển cây đa về đất thị đội. Lúc này cây đa đã rất to. Anh em phải cưa bớt hai cành rồi đánh gốc để cần cẩu cẩu về nơi mới. Khi đánh gốc, anh em phát hiện bốn bộ hài cốt ở dưới gốc đa. Hãy còn đó dép cao su, dây lưng, bi đông Trung Quốc... Hài cốt liệt sĩ được đưa về nghĩa trang liệt sĩ trong Thành Cổ an táng. Tháng 4 năm 2007, tôi trở lại thị đội, cây đa hai nhánh xanh tốt, tỏa bóng mát xuống sân thị đội Quảng Trị. Dưới gốc để một bia đá ghi "Cây đa này do Anh hùng Lực lượng vũ trang Nguyễn Huy Hiệu nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 27 - Triệu Hải (nay là Thượng tướng, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) trồng tháng 4 năm 1984. Quà tặng của Thủ tướng In-đra Gan-đi từ phong trào "Cách mạng xanh" nhân chuyến thăm ấn Độ tháng 10 năm 1977". Bên cạnh tấm bia anh em còn đặt một bát hương để thờ đồng đội...
Sau ba năm phát động phong trào "Màu xanh đồng bằng", 12 nghìn cây ăn quả trồng quanh doanh trại lên xanh tốt. Một số loại cây đã cho thu hoạch.
Năm 1986, ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa tặng bằng khen cho Sư đoàn 390 vì có phong trào trồng cây giỏi ở địa phương. Năm 1987, Bộ Lâm nghiệp tặng bằng khen và một số hiện vật cho sư đoàn cũng nhờ thành tích trên. Bộ Quốc phòng đã phát động toàn quân học tập phong trào trồng cây của Sư đoàn 390.
Tháng 12 năm 1987, tôi được bổ nhiệm Phó Tư lệnh thứ nhất Quân đoàn 1, được phong quân hàm Thiếu tướng (năm 1988). Tôi là một trong năm người trưởng thành từ lính nghĩa vụ đầu tiên được phong quân hàm cấp Tướng.
Nhận nhiệm vụ Phó Tư lệnh thứ nhất được ít ngày, tôi được các anh trong Bộ Tư lệnh phân công lên đi kiểm tra và chỉ đạo các đơn vị chiến đấu ở biên giới.
Cuối tháng 4 năm 1988, Quân đoàn 1 bàn giao khu vực tác chiến cho đơn vị bạn trở về vị trí đóng quân Tam Điệp.
Tháng 6 năm 1988, tôi được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn 1 thay anh Nguyễn Kiệm. Bộ Tư lệnh có anh Đỗ Trường Quân - Phó Tư lệnh chính trị, anh Đỗ Trung Dương - Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng, anh Hoàng Ngọc Chiêu - Chủ nhiệm Cục Chính trị Quân đoàn. Khi anh Quân chuyển công tác anh Chiêu lên thay Phó Tư lệnh chính trị. Khi anh Đỗ Trung Dương đi học thì anh Phùng Quang Thanh phụ trách Tham mưu trưởng Quân đoàn sáu tháng...
Trong lúc này tình hình biên giới và quần đảo Trường Sa của ta bị đe dọa nghiêm trọng. Cả nước hướng về Trường Sa. Theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Quân đoàn 1 chọn 70 cán bộ từ trung đội đến tiểu đoàn ra làm nhiệm vụ ở Trường Sa. Được động viên chu đáo, tất cả 70 cán bộ được cử đi làm nhiệm vụ đều phấn khởi lên đường và đều hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Trước tình hình chiến sự đang nóng lên ở biên giới và tình hình phức tạp ở quần đảo Trường Sa, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh quân đoàn chủ trương lãnh đạo chỉ huy các đơn vị tăng cường hơn nữa công tác huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, nâng cao tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ. Chúng tôi chỉ đạo Sư đoàn bộ binh cơ giới 308 tiến hành diễn tập thực binh với mục tiêu: Sư đoàn bộ binh cơ giới tiến công địch ở vùng đồng bằng ven biển. Địa bàn diễn tập là khu vực của một huyện vùng biển. Bộ Tư lệnh phân công anh Đỗ Trung Dương - Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ huy.
Sau 6 ngày căng thẳng, vất vả, Sư đoàn 308 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ diễn tập thể hiện được khả năng hiệp đồng chiến đấu giữa các đơn vị trong sư đoàn, giữa sư đoàn với lực lượng vũ trang địa phương trong khu vực phòng thủ, phát huy được thế mạnh của lực lượng tại chỗ. Lần đầu tiên làm nhiệm vụ diễn tập chiến đấu ở vùng đồng bằng ven biển, Sư đoàn 308 đã thực hiện đúng yêu cầu rèn luyện cả chiến thuật, kỹ thuật, khả năng cơ động, trình độ hiệp đồng chiến đấu và tiến hành công tác dân vận ở khu vực diễn tập đạt kết quả tết Sau cuộc diễn tập của Sư đoàn 308 thành công, chúng tôi chỉ đạo cho Sư đoàn 312 tiến hành diễn tập: "Sư đoàn bộ binh tiến công địch phòng ngự ở địa hình rừng núi" nhằm hoàn thiện và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đoàn.
Ngày 9 tháng 11 năm 1989, Sư đoàn 312 bước vào diễn tập ngoài thực địa có bắn đạn thật với tất cả các loại súng pháo có trong biên chế. Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 312 (với lực lượng chủ yếu là Trung đoàn 165) đã hoàn thành tốt nhiệm vụ diễn tập được Bộ Quốc phòng biểu dương.
Cùng thời gian này, theo yêu cầu của Nhà nước và quân đội Cam-pu-chia, Bộ Quốc phòng giao cho Quân đoàn 1 tổ chức một khung cố vấn sư đoàn bộ binh cơ giới đi làm nhiệm vụ giúp quân đội Cam-pu- chia. Chúng tôi chỉ đạo Sư đoàn bộ binh cơ giới 308 chọn 48 cán bộ, chiến sĩ tổ chức khung cố vấn từ cấp sư đoàn tới trưởng xe (mang tên K88B). Đoàn cố vấn do Trung tá Phan Khuê Tảo - Phó Tham mưu trưởng Sư đoàn và Thượng tá Lê Sỹ Thái - Phó Sư đoàn trưởng chính trị chỉ huy. Sau 2 năm công tác đoàn đã huấn luyện, xây dựng Sư đoàn bộ binh số 7 của bạn, đồng thời cùng với bạn trực tiếp tham gia chiến đấu truy quét lực lượng tàn quân Pôn Pốt ở các khu vực thuộc các tỉnh Công Pông Xư Pư, Cra Chiê. Tháng 7 năm 1991, Đoàn cố vấn quân sự K88B hoàn thành tốt nhiệm vụ, lên đường về nước.
Thời gian này, ngoài những nhiệm vụ xây dựng đơn vị, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, diễn tập thực binh, Quân đoàn 1 còn xin Bộ Quốc phòng cho thành lập các đơn vị lao động làm kinh tế trong điều kiện cho phép để tạo ra cơ sở vật chất, góp phần cải thiện đời sống và giải quyết chính sách hậu phương quân đội. Các công trường 391, 591 được thành lập. 391 thành lập tháng 3 năm 1991; 591 thành lập tháng 5 năm 1991. Tháng 3 năm 1992, có công trường tham gia xây dựng đường dây tải điện 500 KV Bắc - Nam. Các công trường hoạt động có hiệu quả, tham gia xây dựng nhiều công trình cho đất nước, làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội và tạo ra vốn cho quân đoàn.
Tôi còn đề xuất Bộ Tư lệnh Quân đoàn phát động phong trào trồng cây xanh ở các đơn vị. Từ Quân đoàn bộ đến các Sư đoàn 308, Sư đoàn 312 và Sư đoàn 390 phong trào phát triển mạnh.
Mùa xuân năm 1992, Quân đoàn tổ chức cuộc thi sinh vật cảnh giữa các Hội cựu chiến binh Ninh Bình, Nam Định, Thanh Hóa. Nhiều cây cảnh được mang về hội thi. Trong dịp này tôi làm bài thơ với tên là: Ba cây. Vì tôi nghĩ số ba là kiềng ba chân, là tổ ba người. Tôi thích nhất cây đa, cây lộc vừng và cây sung. Ba cây này được trồng trong chậu đẹp như cây bon-sai.
Tuổi cao ngồi gốc cây đa
Ăn sung ngồi ngắm cây hoa lộc vừng
Non xanh nước biếc đã từng
Gừng cay, sung chát xin đừng quên nhau
Ở đời có trước có sau
Nhìn cây mà ngẫm nghĩ câu nhân tình. Ngày 28 tháng 4 năm 1992, nhân kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng Quảng Trị, đoàn đại biểu Quân đoàn 1 do tôi dẫn đầu vào dự lễ kỷ niệm và cùng nhân dân Quảng Trị khởi công xây dựng tượng đài chiến thắng Ngã ba Long Hưng - cửa ngõ tây nam Thành Cổ Quảng Trị.
Tháng 10 năm 1992, tôi bàn bạc và đề xuất với các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Quân đoàn tổ chức luyện tập chiến dịch cho chỉ huy, cơ quan một bên hai cấp (quân đoàn và sư đoàn) với đề mục: "Quân đoàn thực hành tiến công địch ở địa hình rừng núi" tại Sư đoàn 390. Thành phần tham gia luyện tập gồm chỉ huy, cơ quan quân đoàn, chỉ huy, cơ quan sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn thuộc quân đoàn. Kết quả của đợt luyện tập đã bồi dưỡng cho người chỉ huy, cơ quan các cấp biết thứ tự các bước tổ chức đơn vị trong thời chiến để xây dựng đơn vị đủ sức chiến đấu, sẵn sàng đánh thắng địch trong mọi tình huống. Thông qua luyện tập, nhiều vấn đề được đặt ra để nghiên cứu bổ sung cho công tác huấn luyện như: Phương pháp nắm nguồn, công tác hiệp đồng cùng địa phương, địa bàn tiếp nhận quân dự bị, tổ chức biên chế, cấp phát trang bị vũ khí, huấn luyện bổ sung... Những vấn đề trên đòi hỏi người chỉ huy và cơ quan phải có trình đố vững, hiểu biết công việc để chủ động giải quyết và xử trí tình huống kịp thời, đáp ứng yêu cầu chiến đấu tiến công của quân đoàn.
Vừa kết thúc nhiệm vụ luyện tập chiến dịch chỉ huy, theo sự chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu Quân đoàn tiếp tục tổ chức cho Sư đoàn 312 diễn tập thực nghiệm: "Sư đoàn bộ binh phòng ngự trận đỉa ở địa hình rừng núi". Cuộc diễn tập được tiến hành từ ngày 28 tháng 12 năm 1992 đến ngày 2 tháng 1 năm 1993, tại một khu vực phía bắc Hà Nội, phục vụ lớp tập huấn cán bộ quân sự toàn quân tham quan. Thượng tướng Đào Đình Luyện - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng, trực tiếp chỉ đạo.
Cuộc diễn tập được chuẩn bị chu đáo, luyện tập nhiều lần, tổ chức chặt chẽ nên đạt kết quả tốt. Sư đoàn 312 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Bộ Quốc phòng khen ngợi.
Nhân kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Quân đoàn 1, từ ngày 15 tháng 3 đến ngày 15 tháng 4 năm 1993, tôi chỉ đạo Cục Chính trị và bàn bạc kỹ với các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Quân đoàn thống nhất mở trại sáng tác văn học tại Sầm Sơn (Thanh Hóa). Dự trại viết là những cán bộ, chiến sĩ đã và đang công tác tại quân đoàn. Sau một tháng mở trại gần 100 tác phẩm của các trại viên bao gồm các thể loại truyện ngắn, ký sự, thơ, kịch... đã hoàn thành. Quân đoàn chọn hơn 40 tác phẩm có chất lượng về nội dung và nghệ thuật xuất bản thành bộ sách: "Đời lính, đời người" (hai tập) và cuốn "Văn nghệ Quân đoàn 1". Cũng dịp này, chúng tôi nâng cấp Nhà truyền thống và hoàn thành bộ phim: "Binh đoàn tuổi 20". Nhà bảo tàng và bộ phim truyền thống đã tập hợp được những hiện vật, hình ảnh quý báu, phản ánh truyền thống vẻ vang của quân đoàn trong 20 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành.
Cùng với các hoạt động văn hóa, văn nghệ, quân đoàn đã hoàn thành công trình Sở chỉ huy quân đoàn ba tầng với gần một nghìn mét vuông sử dụng, tạo điều kiện thuận lợi để làm việc tập trung, chính quy, cho Bộ Tư lệnh và cơ quan quân đoàn.
Giữa những ngày tháng 10 sôi động, cán bộ, chiến sĩ quân đoàn thi đua lập thành tích kỷ niệm Ngày truyền thống của đơn vị. Quân đoàn phấn khởi, tự hào được đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Trung tướng Nguyễn Hòa, Trung tướng Hùng Phong, Trung tướng Đỗ Mạnh Đạo, Trung tướng Nguyễn Thế Bôn, Trung tướng Lê Nam Phong và nhiều tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp đã từng tham gia xây dựng quân đoàn về thăm. Nhân dịp này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cắt băng khánh thành Nhà bảo tàng Quân đoàn 1.
Ngày 24 tháng 10 năm 1993, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 long trọng tổ chức lễ kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập. Đại tướng Đoàn Khuê - ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cùng đại biểu các cơ quan Bộ Quốc phòng, các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, học viện, nhà trường và đại biểu thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Quảng Trị, Sông Bé, Thanh Hóa, Ninh Bình, Hòa Bình, Hà Tây, Bắc Thái. :. đã về dự lễ kỷ niệm.
Sau lời diễn văn của tôi, Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Đoàn Khuê phát biểu. Đại tướng biểu dương thành tích của cán bộ, chiến sĩ quân đoàn trong 20 năm qua. Đồng thời chỉ thị cho quân đoàn: "Phải luôn luôn nắm vững nhiệm vụ trọng tâm là huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho, xứng đáng truyền thống của Binh đoàn Quyết thắng anh hùng".
Thay mặt cán bộ, chiến sĩ quân đoàn, tôi hứa: "Luôn trung thành tuyệt đối với Đảng với nhân dân, đồng tâm hiệp lực xây dựng quân đoàn cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, xứng đáng với vị trí, chức năng là binh đoàn chủ lực, cơ động, dự bị chiến lược của Bộ".
Trong suốt 7 năm làm Tư lệnh Quân đoàn 1, tôi đã được đón tiếp các đồng chí Đại tướng Chu Huy Mân, Đại tướng Nguyễn Quyết, Thượng tướng Lê Khả Phiêu và nhiều tướng lĩnh khác về thăm và làm việc với Bộ Tư lệnh Quân đoàn.
Tháng 6 năm 1994, đồng chí Lê Đức Anh - ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước về thăm Quân đoàn 1.
Ngày 15 tháng 10 năm 1994, tôi được bổ nhiệm giữ chức Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Anh Đỗ Trung Dương - Thiếu tướng Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân đoàn được bổ nhiệm Tư lệnh Quân đoàn 1 thay tôi.
Cũng vào năm này, tôi bảo vệ thành công học vị Phó Tiến sĩ khoa học quân sự (nay là tiến sĩ) tại Học viện Quốc phòng. Trong quá trình làm luận văn "Nghệ thuật đánh địch ngoài công sự trong chiến dịch tiến công", tôi được Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo, Thượng tướng Nguyễn Hữu An giúp đỡ; được các anh Phan Văn Hoè - Phó Giáo sư Nguyễn Trường Cửu - Tiến sĩ hướng dẫn luận văn. Ngoài ra tôi còn được các giáo viên thuộc Học viện Quốc phòng, Học viện Chính trị quân sự nhiệt tình giúp đỡ.
Tháng 6 năm !996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng diễn ra tại Hà Nội. Đại hội đã bầu 170 ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chấp hành Trung ương bầu năm đồng chí Thường vụ Bộ Chính trị. Tôi được Đại hội bầu vào Ban Chấp hành Trung ương.
Khi giữ chức Phó Tổng tham mưu trưởng tôi được Bộ Quốc phòng và Chính phủ phân công làm Phó Trưởng ban phòng chống lụt bão Trung ương, Phó trưởng ban Phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn Bộ Quốc phòng, Phó Chủ tịch thường trực ủy ban quốc gia tìm kiếm - cứu nạn, trực tiếp chỉ đạo công tác phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn của Chính phủ và Bộ Quốc phòng. Tôi đã đến nhiều địa phương, có mặt ở những vùng được gọi là "điểm nóng" để tìm ra phương án cứu giúp nhân dân. Từ trong gian khổ, nguy nan tôi càng thấy sự hy sinh to lớn của các lực lượng vũ trang nhân dân. Cũng từ cuộc chiến đấu trong thời bình với thiên tai bão lũ đã sản sinh ra những "cách đánh" mới. Phương châm "Bốn tại chỗ" của tôi cũng ra đời từ thực tiễn ấy Đó là: "Lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ, hậu cần tại chỗ và chỉ huy tại chỗ". Trong những trường hợp cụ thể, điều kiện cụ thể, từng địa phương, từng đơn vị lại có những biện pháp hết sức linh hoạt, sáng tạo, nên đã hạn chế đến mức thấp nhất sự tàn phá của thiên tai.
Khi bão lũ ập đến, việc tự cứu mình, tự cứu lấy nhau, đem sức lực của dân để cứu dân là kịp thời, hiệu quả nhất. Phương châm lực lượng tại chỗ xuất phát từ thực tế này. Bởi lúc đó "nước xa không cứu được lửa gần". Lực lượng của Chính phủ, của quân đội không thể có mặt tức thời để giúp dân ngay từ lúc vừa xảy ra sự cố. Vì vậy, để tránh tổn thất do thiên tai, bão lũ gây ra, các địa phương phải xây dựng cho được lực lượng tại chỗ đủ mạnh để xử lý các tình huống. Lực lượng đó là dân quân cơ động xã phường. Đây là lực lượng trẻ, khỏe, thông thạo địa bàn, nếu được tổ chức chu đáo, thường xuyên được tập luyện, diễn tập các tình huống giả định, chắc chắn khi "vào cuộc" lực lượng này sẽ giải quyết tốt các phương án. Phải xây dựng, huấn luyện lực lượng này thành đội quân tại chỗ mạnh, không chỉ để làm nhiệm vụ phòng chống lụt bão, thiên tai, mà còn là chỗ dựa vững chắc cho chính quyền giải quyết các tình huống khác.
Nhiều câu hỏi được đặt ra khi phòng chống bão lụt thiên tai, như: Trong điều kiện dân ta còn nghèo, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, lấy đâu ra phương tiện để đương đầu với bão lũ thiên tai? Xin được nói ngay rằng: Không thiếu, không hiếm các loại phương tiện có thể sử dụng vào việc ứng cứu nhân dân. Có loại phương tiện tưởng như thô sơ, ít tác dụng nhưng trong thực tế bão lũ lại trở thành đắc dụng. Ví dụ: khi lũ tràn về các làng mạc ở vùng quê Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Quảng Nam, tưởng như lại có thể dùng các loại xuồng, phà, ca nô máy đẩy để làm phương tiện cơ động, nhưng thực tế các phương tiện này lại không thể sử dụng được.
Xuồng, phà, ca nô máy đẩy chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi cơ động trên sông, còn len lỏi trong các làng mạc có nhiều gò đồi, cây cối, vật cản thì thúng chai, thuyền chèo lại là hợp lý. Trong trận lũ lịch sử năm 1999, nhân dân các địa phương thuộc tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng đã dùng các loại phương tiện này ứng cứu lẫn nhau rất hiệu quả Hình ảnh những thúng chai chở cả sản nghiệp của gia đình thoát khỏi vùng ngập úng, hay trên đường phố ngập nước xuất hiện những thuyền chèo nhỏ vận chuyển cụ già, trẻ em là một minh chứng sống động về việc huy động phương tiện tại chỗ. Từ thực tiễn này, các địa phương đã tổ chức điều tra, thống kê các loại phương tiện hiện có, trên cơ sở đó lập kế hoạch điều động khi có tình huống xảy ra. Cả hệ thống chính trị vào cuộc đưa phương châm "Bốn tại chỗ" vào cuộc sống.
Từ trong bão lũ cũng đã xuất hiện những cách làm sáng tạo của quân dân ta. Xin được nêu những ví dụ điển hình. Trước khi bão số 6 (năm 2006) đổ bộ vào miền Trung, nhờ có những dự báo về sự tàn phá khủng khiếp của nó. Người dân chuẩn bị tránh bão nhưng cũng không thể bỏ làng mạc, nhà cửa.
Người dân Thăng Bình, Quảng Nam đã sáng tạo việc đào hầm tránh bão. Tương tự, để tránh tổn thất, nhân dân đã phân tán tàu thuyền đưa sâu vào những đoạn sông có làng mạc. Có nơi, bà con còn tổ chức tháo máy, đánh chìm tàu thuyền xuống lòng sông. Việc làm này có thể tốn vài chục triệu, nhưng tránh được tổn thất hàng tỷ đồng.
Đoàn không quân B.72 đã sáng tạo ra cách tránh bão cho khí tài, xe máy, khi thấy nhà xưởng không đủ sức chống đỡ, đó là đưa toàn bộ xe máy từ trong nhà xưởng ra sân. Bão đổ bộ vào, nhà xưởng sập nhưng gần sáu chục xe máy vẫn còn. Tôi đánh giá cao sự sáng tạo của lãnh đạo, chỉ huy Đoàn không quân B.72.
Thực tiễn sinh động muôn màu muôn vẻ, không phải khuôn mẫu có sẵn. Phương châm "Bốn tại chỗ" cũng vậy. Vấn đề là vận dụng sáng tạo những cách làm mới và sự quyết đoán của lãnh đạo các địa phương, đơn vị. Sẽ không có được những biện pháp tối ưu nếu như những mệnh lệnh được phát ra theo kiểu sao chép: "nhận trên, triển khai dưới" một cách máy móc, rập khuôn. Công tác chỉ huy tại chỗ đòi hỏi các cấp ủy, người chỉ huy phải sâu sát thực tế, phải cụ thể tỷ mỷ. Càng sâu sát, cụ thể, càng hạn chế tổn thất và có nhiều cách làm sáng tạo.
Cuối năm 1999, tôi vào miền Trung chỉ đạo công tác phòng chống trận lũ lịch sử. Do đường bộ, đường sắt bị lũ chia cắt, đường không cũng gặp khó khăn về thời tiết, Chính phủ và Bộ Quốc phòng quyết định lập cầu hàng không để chi viện lương thực, thực phẩm, trang thiết bị cứu hộ, cứu nạn. Nhưng, hàng hóa cũng chỉ đến được các đầu cầu hàng không mà thôi. Trong lúc đó, tỉnh Quảng Ngãi bị lũ chia cắt, bao vây như một ốc đảo. Các huyện trong tỉnh cũng bị lũ xé ra thành các ốc đảo nhỏ. Phải tìm con đường đến với tỉnh Quảng Ngãi, để cùng các đồng chí lãnh đạo địa phương cứu giúp đồng bào là mệnh lệnh cao nhất thôi thúc tôi.
Tại Đà Nẵng tôi đã cùng với các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Quân khu 5, các đơn vị hải quân, biên phòng, không quân bàn phương án và đi đến quyết định nhanh chóng dùng tàu Đại Lãnh - con tàu cứu hộ, có sức chịu đựng sóng to, gió lớn, mở một đường biển từ Đà Nẵng vào Quảng Ngãi.
Chuyến xoi đường đi ấy là một trong những chuyến đi hết sức vất vả nguy hiểm, nhưng nó mở ra một hướng mới, một con đường mới có ý nghĩa chiến lược: Nếu như sau này gặp những trận lũ tương tự chia cắt nhiều địa phương, các tuyến giao thông khác tắc nghẽn, thì chúng ta hoàn toàn có thể chủ động đưa lực lượng phương tiện, lương thực, thực phẩm đến ứng cứu các địa phương bằng đường biển.
Nhiều năm qua, lũ lụt, bão lớn liên tiếp xảy ra, nhưng dưới sự chỉ đạo sâu sát của Chính phủ và Bộ Quốc phòng, sự dũng cảm quên mình của các lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương nên đã hạn chế được rất nhiều tổn thất do thiên tai gây ra.
Trong phòng chống bão lũ đã xuất hiện những tấm gương dũng cảm cứu dân, như: Trung úy Phạm Văn Điều, Binh nhất Lê Đình Tư thuộc Hải đội 2 bộ đội biên phòng. Ngày 1 tháng 11 năm 1999, trong khi chống lũ cứu dân, các anh đã anh dũng hy sinh ở cửa Thuận An. Trung úy Phạm Hiếu Nghĩa, phó đội trưởng kiểm soát cửa khẩu Lao Bảo ngày 2 tháng 11 năm 1999, anh đi xe khách đến địa phận xã Mỹ Chánh, huyện Hải Lăng Quảng Trị thì đường 1 ngập nước. Nghĩa cùng hành khách trên xe phải chuyển sang đi thuyền. Bất ngờ, lũ quét tràn về lật đổ thuyền kéo mọi người vào dòng nước cuồn cuộn chảy. Nghĩa đã dũng cảm cứu được hai người đang bị nước cuốn. Đến người thứ ba, mặc dù đã kiệt sức, nhưng khi thấy tiếng kêu cứu anh vẫn quên mình lao ra cứu người bị nạn. Một đợt lũ mới ập tới, cuốn chìm hai người về phía hạ lưu...
Tôi hết sức cảm động trước sự hy sinh quên mình của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang trong bão lũ cứu dân, cứu tài sản của dân. Tôi cảm ơn lãnh đạo các địa phương, ban ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, các tổ chức quốc tế, các cá nhân trong và ngoài nước đã ủng hộ đồng bào nơi bị thảm họa thiên tai.
Nhân đây, tôi mong mọi người hãy bảo vệ môi trường sống, bảo vệ rừng đầu nguồn, trồng và bảo vệ rừng chính là bảo vệ cuộc sống trước mắt và lâu dài cho con cháu chúng ta. Nếu chúng ta không biết bảo vệ mà tàn phá môi trường thì chúng ta sẽ phải trả giá. Tháng 4 năm 2001, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, tôi được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương và được bầu vào Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương, được Bộ Quốc phòng giao cho tiếp tục phụ trách công tác đối ngoại thay anh Trần Hanh. Tôi còn được phân công phụ trách Trung tâm Khoa học Kỹ thuật - Công nghệ Quân sự Bộ Quốc phòng thay anh Trương Khánh Châu; Trung tâm Nhiệt đới Việt-nga thay anh Nguyễn Thới Bưng.
Công tác đối ngoại quân sự là một bộ phận của công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương, đối ngoại quân sự đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Việt Nam luôn kiên định quan điểm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ.nghĩa.
Bản chất của chính sách quốc phòng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI là hòa bình, tự vệ.
Việt Nam sử dụng mọi biện pháp cần thiết để thực hiện chính sách quốc phòng của mình, đồng thời tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích của quốc gia theo nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hiệp quốc và luật pháp quốc tế. Việt Nam tăng cường phát triển quan hệ với quân đội các nước láng giềng có chung biên giới và các nước trong khu vực; từng bước đưa quan hệ vào chiều sâu. Từ năm 1992, quan hệ quốc phòng Việt - Trung có bước phát triển nhanh trên nhiều mặt. Hai bên đã định kỳ trao đổi nhiều đoàn ở cấp lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, các Tổng cục, Quân khu và ở các cấp khác. Thông qua hoạt động giao lưu, trao đổi, lãnh đạo Bộ Quốc phòng và Quân đội hai nước đều đạt được nhận thức chung về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, bảo vệ vững chắc những thành quả của chủ nghĩa xã hội trước những âm mưu thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và khẳng định quyết tâm có những hoạt động thiết thực nhằm thực hiện chủ trương xây dựng đường biên giới hòa bình, ổn định, hữu nghị, từng bước đi vào giải quyết những vấn đề còn tồn tại và mở ra hợp tác cụ thể. Đây là một trong những yếu tố tạo nền tảng để lãnh đạo hai nước đạt được thỏa thuận về khuôn khổ quan hệ song phương 16 chữ:
Láng giềng thân thiện
Hợp tác toàn diện
Ổn định lâu dài
Hướng tới tương lai. Và 4 tốt:
Láng giềng tốt
Bạn bè tốt
Đồng chí tốt
Đối tác tốt Quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa Bộ Quốc phòng và Quân đội hai nước cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc ký kết Hiệp ước biên giới trên bộ (12-1999), Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ (2000), Hiệp định hợp tác nghề cá (2000) và Nghị định thư bổ sung Hiệp định hợp tác nghề cá (2004).
Bộ Quốc phòng hai nước đã ký Nghị định thư cụ thể hóa các lĩnh vực hợp tác: Trao đổi đoàn; công tác đảng; công tác chính trị; tổ chức xây dựng và huấn luyện; công nghiệp quốc phòng; giao lưu học thuật, đào tạo; giao lưu giữa các Quân khu và tuần tra chung trên Vịnh Bắc Bộ... Các văn kiện hợp tác này đánh dấu bước phát triển tốt đẹp, bắt đầu một giai đoạn mới trong quan hệ quốc phòng hai nước, góp phần tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và phát triển ở mỗi nước, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích lâu dài của mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, đây là quá trình phấn đấu lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì và nỗ lực chung từ cả hai phía.
Trước những mưu đồ chống phá điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, hòng chia rẽ quan hệ đặc biệt Việt - Lào, đe dọa an ninh sườn phía tây của đất nước, xuất phát từ nhận thức "giúp bạn là tự giúp mình", ta đã kiên trì, chủ động tăng cường củng cố quan hệ đoàn kết hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện với quân đội Lào anh em thông qua việc thực hiện triệt để, đầy đủ các nội dung Nghị định thư hàng năm giữa hai Bộ Quốc phòng, tiếp tục quan hệ chặt chẽ với bạn trên các lĩnh vực: Thông tin tuyên truyền; tác chiến; hậu cần - kỹ thuật; đào tạo cán bộ, chuyên gia; điều trị thương bệnh binh và nghỉ dưỡng; tìm kiếm hồi hương hài cốt liệt sĩ làm kinh tế kết hợp quốc phòng...
Nhận thức rõ sự ổn định của biên giới Tây Nam có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc tạo môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ta đã từng bước triển khai các hoạt động song phương nhằm phục hồi quan hệ quân sự cấp cao với Quân đội Hoàng gia Cam-pu-chia. Bộ Quốc phòng ta thực hiện giúp bạn trên các lĩnh vực đào tạo cán bộ quân sự; sửa chữa trang bị tàu thuyền; điều trị và tham quan nghỉ dưỡng... đồng thời thỏa thuận Hải quân hai nước sẽ tuần tra chung trên vùng nước lịch sử; hợp tác hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam; hợp tác giữa các Quân khu giáp biên và lực lượng Biên phòng hai nước... Phối hợp chặt chẽ với các hoạt động của Chính phủ, ta kiên trì chính sách nhất quán là tôn trọng độc lập chủ quyền. không can thiệp vào công việc nội bộ của Cam-pu-chia, ủng hộ Cam-pu-chia trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Quan hệ hữu nghị giữa hai Quân đội đã góp phần củng cố quan hệ láng giềng thân thiện giữa hai nước và tạo điều kiện triển khai các biện pháp hữu hiệu duy trì ổn định vùng biên.
Sau khi gia nhập ASEAN (7-1995), ta đã thiết lập được quan hệ quốc phòng với tất cả các nước trong khu vực và từng bước đưa quan hệ vào chiều sâu Ta và các nước trong khu vực đã tổ chức nhiều chuyến thăm lẫn nhau ở các cấp: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng, Quân chủng, Học viện, Nhà trường, tàu hải quân; trao đổi Tùy viên quân sự, kinh nghiệm huấn luyện, đào tạo; giao lưu thi đấu thể thao; triển khai tuần tra chung với Thái Lan...
Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN, ngay từ đầu, trong khuôn khổ diễn đàn ARF và các hội nghị chuyên đề của ASEAN, ta đã tích cực góp phần vào việc giữ gìn những nguyên tắc cơ bản của tổ chức ASEAN. Đó là đồng thuận trong sự đa dạng và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tạo dựng sự hợp tác trong khối và với các đối tác bên ngoài hướng vào việc thực hiện có hiệu quả Chương trình Hành động Hà Nội và tầm nhìn ASEAN 2010; đồng thời có nhiều đóng góp thiết thực trong việc ra Tuyên bố về cách ứng xử ở biển Đông, chủ trương khu vực không có vũ khí hạt nhân, vũ khí hóa học. Trong các diễn đàn đa phương khác, ta cũng tích cực đóng góp ý kiến nhằm hình thành các chủ trương, biện pháp tiến tới đạt được giải pháp cho các vấn đề bức xúc như ma túy tội phạm xuyên quốc gia, buôn bán phụ nữ, trẻ em và các vấn đề an ninh phi truyền thống. Gần đây lãnh đạo Quân đội ta đã chủ động tham gia trực tiếp vào các hoạt động đa phương của khu vực như Hội nghị Tổng tham mưu trưởng Quân đội các nước ASEAN về chống khủng bố, Hội nghị Tư lệnh Lục quân Châu Á - Thái Bình Dương... Ta đã đăng cai tổ chức Hội nghị chuyên đề của Tổ chức thể thao quân sự quốc tế (CISM) mà ta là thành viên, tham gia các cuộc họp Đại hội đồng của tổ chức này và cử đoàn vận động viên tham dự các giải thi đấu của CISM cũng như của quân đội các nước thành viên ASEAN.
Các hoạt động trên đã góp phần tăng cường hữu nghị, hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, góp phần vào việc ổn định khu vực, tăng cường thu hút đầu tư, thúc đẩy giao lưu kinh tế - thương mại, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế.
Hoạt động đối ngoại quân sự cũng góp phần củng cố và mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển.
Trong những năm qua, cách mạng Cu Ba đứng trước những thử thách gay go quyết liệt do lệnh cấm vận, trừng phạt kinh tế và các hoạt động chống phá của chủ nghĩa đế quốc. Bởi vậy, việc ta giúp đỡ bạn vượt qua thời kỳ đặc biệt này cũng là nhằm duy trì, bảo vệ trận địa của chủ nghĩa xã hội. Do cách xa về địa lý và cả hai bên còn khó khăn, sự giúp đỡ của ta dành cho bạn chủ yếu là giúp thông tin, kinh nghiệm để bạn nghiên cứu vận dụng vào thực tiễn của mình. Hai bên đã trao đổi các đoàn Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị và một số đoàn chuyên ngành nhằm tăng cường hữu nghị, thống nhất quan điểm và đề ra các biện pháp thúc đẩy quan hệ phù hợp với khả năng của mỗi bên đồng thời triển khai hợp tác trên các lĩnh vực trao đổi thông tin, bảo quản và cải tiến trang bị, bước đầu đạt kết quả tốt.
Năm 1994 đánh dấu bước khởi sắc trong quan hệ quốc phòng giữa ta và Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên. Bạn cử Tùy viên quân sự trở lại Việt Nam sau một thời gian dài để trống do vấn đề Cam-pu-chia. Trong các năm 1994 - 1996, hai bên triển khai một số dự án hợp tác công nghiệp quốc phòng. Gần đây, ta tổ chức chu đáo việc cất bốc và hồi hương hài cốt 14 quân nhân Triều Tiên hy sinh trong chiến tranh (9-2002). Tháng 10 năm 2002, Anh Lê Văn Dũng - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã sang thăm Triều Tiên. Tháng 12 năm 2003, Phó Chủ nhiệm thứ nhất Tổng cục Chính trị bạn đã đến thăm Việt Nam.
Ngoài ra, hai bên đã trao đổi một số đoàn công tác các cấp.
Sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, viện trợ quân sự không hoàn lại cho Việt Nam chấm dứt. Các hiệp định về cố vấn chuyên gia quân sự và đào tạo cán bộ quân sự cho Việt Nam cũng mặc nhiên hết hiệu lực. Năm 1994, Tổng tham mưu trưởng Đào Đình Luyện thăm hữu nghị chính thức Liên bang Nga và Ucraina, đã ký Hiệp định về hợp tác một số lĩnh vực đào tạo chiến thuật quân sự với Nga và Hiệp định liên Chính phủ về hợp tác kỹ thuật quân sự với Ucraina. Trước đó, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Ucraina và Bêlarút (1992). Từ đó, quan hệ quân sự và đặc biệt là hợp tác kỹ thuật quân sự với ba nước dần được khôi phục và có bước phát triển mới trên cơ sở các bên cùng có lợi. Mối quan hệ này ngày càng ổn định, có hiệu quả và đi vào chiều sâu, đáp ứng phần lớn nhu cầu của ta về mua sắm, sửa chữa, cải tiến và hợp tác sản xuất vũ khí, trang bị và đào tạo. Kết quả nổi bật là đã xây dựng và thiết lập về cơ bản hệ thống cơ sở pháp lý cần thiết để điều chỉnh quan hệ quân sự và kỹ thuật quân sự với ba nước (cho đến nay ta mới ký Hiệp định liên Chính phủ về Hợp tác kỹ thuật quân sự với ba nước trong SNG); đồng thời thành lập các tổ chức tương ứng của hai phía, xác lập cơ chế phối hợp giải quyết ngày càng kịp thời và có hiệu quả những vướng mắc phát sinh trong quá trình hợp tác. Ta cũng đã xử lý thỏa đáng vấn đề Cam Ranh phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong điều kiện mới.
Từ chỗ quan hệ bị ngưng trệ, Nga đã trở thành đối tác chiến lược của Việt Nam góp phần đáng kể vào việc nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội và tiềm lực quốc phòng của nước ta.
Cho đến năm 1989, ta và các nước Đông âu vẫn quan hệ mật thiết và có đặt phòng Tùy viên quân sự tại thủ đô của nhau. Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông âu, ta và các nước này đều rút Tùy viên quân sự. Gần đây, quan hệ quốc phòng giữa ta với một số nước Đông âu đã từng bước được phục hồi. Một số đoàn của Quân chủng Phòng không - Không quân, Tổng cục Kỹ thuật đã thăm một số nước Đông âu, khảo sát và mua sắm một số trang bị, phụ tùng linh kiện kỹ thuật. Việt Nam và ấn Độ có quan hệ hữu nghị truyền thống, song trong một thời gian dài, quan hệ quân sự chưa tương ứng với quan hệ chính trị hai nước.
Năm 1998, bạn bắt đầu dành cho ta học bổng theo đường Bộ Quốc phòng. Trên lĩnh vực trao đổi đoàn hai bên trao đổi nhiều đoàn cấp lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục, Quân chủng, Học viện... Bạn nhiều lần cử tàu Hải quân thăm Việt Nam. Qua các chuyến thăm cấp cao, hai bên thống nhất hợp tác trên các lĩnh vực: Đối thoại quốc phòng; kỹ thuật quân sự và công nghiệp quốc phòng; huấn luyện đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Triển khai đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, gần đây ta đã mở rộng quan hệ đối ngoại quân sự ra các khu vực trên thế giới. Tôi đã dẫn đầu đoàn Bộ Quốc phòng Việt Nam thăm Nam Phi, ăng-gô-la, Mô-dăm-bích, Cộng hòa Công-gô, Chi Lê (7-2004), I-ran, Li-bi, Ai Cập (3-2004), ác-hen-ti-na (7-2004)... Ta ta đã đón tiếp Thứ trưởng Quốc phòng Mô-dăm-bích (3-2004), Thứ trưởng Quốc phòng ăng-gô-la (8-2004). Hiện nay, ta đã mở phòng Tùy viên quân sự tại An-giê-ri, Bra-xin và Nam Phi.
Đối với các nước công nghiệp phát triển ở Châu Âu (đây là những nước có trình độ phát triển cao, có nhiều tiềm năng về khoa học công nghệ và đào tạo) ta đang tranh thủ để phục vụ nhu cầu xây dựng quân đội; góp phần thúc đẩy và phát triển quan hệ đối ngoại chung của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, chính sách đối ngoại của những nước này có xu hướng độc lập, tương đối phù hợp cho việc triển khai đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa của ta.
Pháp là nước đi đầu trong việc thiết lập quan hệ với Quân đội ta (1991). Ta đã cử các đoàn Bộ Quốc phòng (1997 và 2001), Tổng tham mưu trưởng (3-2000), Tổng cục Kỹ thuật, quân binh chủng sang thăm chính thức, dự triển lãm, trao đổi kinh nghiệm.
Pháp đã cử các đoàn Tham mưu trưởng Liên quân (1997 và 2000), các đoàn Quân chủng, tàu hải quân và chuyên ngành sang thăm và làm việc tại Việt Nam. Đồng thời, ta mở ra quan hệ chính thức với một số nước khác bằng việc chấp thuận Tùy viên quân sự Anh (1996), Italia (1997), Bỉ (2002); trao đổi Tùy viên quân sự với Đức (2003).
Sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao (7-1995), Tùy viên quân sự đầu tiên của Mỹ đã đến Hà Nội (12-1995), đánh dấu sự khởi đầu của quan hệ quốc phòng. Ta đã xác định với phía Mỹ: Quan hệ quốc phòng Việt - Mỹ là một bộ phận nằm trong tổng thể quan hệ kinh tế - chính trị xã hội hai nước.
Đây có thể được coi là cơ chế vận hành quan hệ quốc phòng song phương thời gian qua.
Trên tinh thần "gác lại quá khứ, hướng tới tương lai", một mặt, ta chủ động triển khai quan hệ quốc phòng nhằm góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại và các lĩnh vực quan hệ khác; mặt khác, kiên quyết đấu tranh đòi Mỹ phải có trách nhiệm đối với hậu quả chiến tranh do họ gây ra ở Việt Nam. Trên tinh thần nhân đạo, ta đề nghị hai bên phối hợp giải quyết có hiệu quả vấn đề MIA đồng thời yêu cầu Mỹ cung cấp thông tin về quân nhân ta mất tích trong chiến tranh. Từ 1997, hàng năm ta cử cán bộ tham dự một số cuộc hội thảo, lớp tập huấn về an ninh theo lời mời của Mỹ. Từ năm 1999, hàng năm Chính phủ Mỹ dành cho Việt Nam một phần kinh phí để mua thiết bị dò tìm bom, mìn, vật liệu chưa nổ sót lại sau chiến tranh. Ta đã Vài lần đón tàu hải quân Mỹ vào thăm Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Ta đã trao cho Mỹ kế hoạch tẩy độc tại sân bay Đà Nẵng, Biên Hòa, Phù Cát và đèo Cù Mông nhưng phía Mỹ chưa đáp ứng tích cực.
Trên tinh thần nhân đạo, ta đã phối hợp giải quyết có lý, có tình vấn đề bia mộ lính Pháp chết trận tại Việt Nam. Ta còn phối hợp giải quyết có hiệu quả vấn đề MIA, được chính giới và đông đảo dư luận Mỹ công khai thừa nhận.
Theo chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, Bộ Quốc phòng ta đã chấp thuận để Ca-na-đa cử Tùy viên quân sự tại Băng Cốc kiêm nhiệm tại Việt Nam (2002).
Trải qua 10 năm hoạt động kiên trì, bền bỉ, đến nay ta đã thiết lập được quan hệ quốc phòng với quân đội nhiều nước ở các châu lục, trong đó có năm nước ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hiệp quốc. Hiện nay có 34 cơ quan Tùy viên quân sự nước ngoài ở Việt Nam (thường trú và kiêm nhiệm) và 24 cơ quan Tùy viên quân sự Việt Nam ở nước ngoài, đồng thời ta có quan hệ giao lưu tiếp xúc thương mại quân sự với hàng chục nước khác.
Lãnh đạo Bộ Quốc phòng ta đã thăm và đón tiếp các đoàn quân sự cấp cao của các nước: Trung Quốc, Nga, Mỹ, ấn Độ, Nhật Bản và một số nước EU; tham gia các diễn đàn an ninh quốc tế và khu vực; đã triển khai quan hệ đa dạng trên các lĩnh vực chính trị - quân sự, tư tưởng - văn hóa, hậu cần - kỹ thuật, kinh tế - thương mại, văn hóa - thể thao.
Điều đó chứng tỏ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa đã được thực hiện trên thực tế. Có thể nói một thế trận đối ngoại quốc phòng mới, rộng rãi đã được thiết lập và triển khai trên phạm vi tất cả các châu lục, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định, đưa đất nước từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, tạo điều kiện thuận lợi phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Bộ Quốc phòng đã tham gia các đoàn của Chính phủ đàm phán và ký Nghị định thư bổ sung Hiệp định biên giới với Lào, giải quyết một số tồn tại về biên giới với Cam-pu-chia, phân định vùng chồng lấn với Thái Lan và phân định thềm lục địa với In-đô-nê-xi-a. Đặc biệt công tác đối ngoại quân sự đã đóng góp tích cực trong việc giải quyết hai trong ba vấn đề biên giới, lãnh thổ tồn tại do lịch sử để lại giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cụ thể, đã góp phần tích cực để ta ký với bạn: Hiệp ước biên giới trên đất liền, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá.
Công tác đối ngoại quân sự cũng đóng góp không nhỏ vào Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) làm nền tảng tiến tới thỏa thuận về Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC).
Trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi, ta đã triển khai từng bước vững chắc hoạt động kinh tế đối ngoại nhằm khai thác các nguồn lực bên ngoài, tận dụng các tiềm năng của phân công lao động quốc tế và các điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ sự nghiệp củng cố quốc phòng, góp phần từng bước hiện đại hóa quân đội Thời gian qua, nhiều đoàn đã được cử ra nước ngoài tìm kiếm đối tác, thị trường, nguồn vốn, nguồn hàng. Hiện đang tiếp tục triển khai các dự án tổ chức cho bộ đội xuất ngũ đi lao động nước ngoài, xuất khẩu sản phẩm công nghiệp quốc phòng sang một số nước và triển khai dự án liên doanh, gia công hàng may mặc, quân trang, giày dép với một số đối tác nước ngoài.
Tháng 6 năm 2005, tháp tùng Thủ tướng Phan Văn Khải sang thăm Mỹ trong một buổi tiếp xúc với các chính giới Mỹ tôi nói rằng: Nước Mỹ còn 2 nghìn quân nhân mất tích trong chiến tranh Việt Nam, nhưng ở Việt Nam còn 300 nghìn quân nhân đến nay vẫn chưa có tin chính xác về họ. Mỹ có 2 nghìn người mất tích, có 2 nghìn bà mẹ mất tin con, thì việt Nam gấp hơn một trăm lần như thế với 300 nghìn người mẹ mất tin con. Nỗi đau của mỗi người mẹ Mỹ và nỗi đau của mỗi người mẹ Việt Nam nào có khác nhau.
Tôi lại nói: ở Việt Nam có gần bốn triệu người chịu ảnh hưởng chất độc da cam đi-ô-xin do Mỹ sử dụng trong chiến tranh. Trên tinh thần nhân đạo, tôi yêu cầu Mỹ phải có trách nhiệm góp phần xoa dịu nỗi đau này.
Về vấn đề bom mìn sót lại sau chiến tranh, phía Mỹ cũng đã làm nhưng chưa được bao nhiêu. Tôi yêu cầu Mỹ phải có trách nhiệm nhân đạo hơn nữa để giải quyết bom mìn sót lại sau chiến tranh ở Việt Nam, đặc biệt là ở Quảng Trị. Tôi đưa ra con số trung bình mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 2.000 người thương vong do bom mìn sót lại.
Tôi đã đi hơn 60 nước trên thế giới. Đến đâu tôi cũng kêu gọi các tổ chức phi chính phủ và các tở chức nhân đạo giúp đỡ Việt Nam giải quyết những vấn đề tồn đọng sau chiến tranh. Tôi dẫn đầu đoàn đại biểu Bộ Quốc phòng nước ta thăm Bỉ - nơi đặt trụ sở khối NATO. Phía bạn yêu cầu tôi và bà Tôn Nữ Thị Ninh - Đại sứ Việt Nam tại Bỉ phát biểu ở Hạ viện có đông đảo các nhà báo quốc. tế. Tôi cũng nói những vấn đề còn tồn đọng sau chiến tranh ở Việt Nam và yêu cầu Quốc hội Bỉ giúp đỡ.
Trước những tổn thất to lớn do chiến tranh gây ra tại Việt Nam. Đến nước nào, ở đâu, tôi cũng muốn bày tỏ nỗi khát khao, nguyện vọng thiết tha của nhân dân Việt Nam với nhân dân trên thế giới là: Phải tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh. Hãy cùng nhau bảo vệ hành tinh của chúng ta mãi mãi là hành tinh hòa bình, hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác cùng phát triển...
Tháng 6 năm 2003, tôi được Chủ tịch nước phong quân hàm Thượng tướng.
Tôi còn nhớ, sau kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, anh Phạm Văn Trà - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giao cho tôi trực tiếp chỉ đạo các nhà khoa học của quân đội trong đó có Trung tướng Trương Khánh Châu - Viện sĩ, Tiến sĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng làm Tổng Công trình sư nghiên cứu sản xuất máy bay siêu nhẹ thủy phi cơ mang ký hiệu VN-41.
Anh Trương Khánh Châu đã cùng Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân và các nhà khoa học trong Quân chủng nhiều năm nghiên cứu và đã sản xuất thành công chiếc máy bay bay thử nghiệm đầu tiên tại hồ Trị An. Sau đó, chúng tôi đưa chiếc thủy phi cơ này ra sân bay Hòa Lạc bay thử lần hai và đã thành công. Chúng tôi đã sản xuất sáu thủy phi cơ siêu nhẹ. Thành công này đã mở ra triển vọng cho Quân chủng Phòng không - Không quân của ta vừa có máy bay huấn luyện, vừa có thể dùng cho cứu hộ thiên tai ở những vùng sông nước. Đây là một thành tựu đáng ghi nhận của các nhà khoa học hàng không của quân đội ta.
Tháng 11 năm 2003, tôi dẫn đầu đoàn đại biểu Bộ Quốc phòng nước ta đi thăm ấn Độ theo lời mời của Bộ Quốc phòng nước bạn. Trong khuôn khổ chương trình chuyến thăm, bạn sắp xếp cho đoàn chúng tôi đến tham quan ngôi chùa cổ. Nơi đó theo truyền thuyết của ấn Độ là miền đất Phật thiêng liêng, chỉ có khách quý mà bạn coi như người nhà bạn mới đưa đến. Từ Thủ đô Niu Đê-li, chúng tôi phải bay hơn một nghìn ki-lô-mét tới Bốt-gay-a bang Bi-ha rồi đi đường bộ bằng ôtô gần bốn tiếng đồng hồ mới đến được "cửa ngõ" của miền đất Phật.
Chúng tôi phải đi bộ gần 10 cây số, qua những nẻo đường quanh co đèo dốc đẹp như trong cổ tích.
Trong lòng chúng tôi háo hức trước một di tích có bề dày lịch sử vào bậc nhất của đất nước ấn Độ.
Khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, chùa chiền hoành tráng, uy nghi, cổ kính hơn cả sự tưởng tượng của chúng tôi. Tại đây, đoàn chúng tôi gặp một nhà tu hành người Việt Nam, đó là Đại sư Thích Huyền Diệu. Đại sư là một trong năm nhà tu hành ở nước ngoài đến đây lập chùa tu. Sau khi thăm ngôi chùa Việt Nam trên mảnh đất linh thiêng huyền bí này, chúng tôi được Đại sư hướng dẫn tham quan ngôi chùa cổ kính nhất khu vực này.
Khi biết chúng tôi đến từ đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị sư trụ trì tại ngôi chùa thiêng đã tặng tôi ba cây bồ đề con được lấy giống từ cây bồ đề nghìn năm tuổi.
Tương truyền, cây bồ đề này là nơi Đức Phật Thích Ca thành đạo. Mọi người, từ các vị quốc vương, các vị lãnh đạo Chính phủ các nước đến các chư vị tăng ni, phật tử các nơi trên thế giới đến đây ai ai cũng mong có một lá bồ đề, vì tin rằng lá cây chứa đựng sự linh thiêng, mầu nhiệm và sự tuệ giác của chư Phật... Trân trọng nhận món quà giầu ý nghĩa, tôi nghĩ ngay đến việc đưa ba cây bồ đề về trồng ở các nghĩa trang liệt sĩ - nơi cõi thiêng như một sự tri ân đến các đồng đội, đồng bào đã hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc: Suốt hành trình dài tôi và anh Nguyễn Hồng Sinh (thư ký của tôi) thay nhau chăm sóc ba cây bồ đề này.
Về nước, việc đầu tiên là tôi ươm ba cây bồ đề vào ba cái chậu, khi đó mỗi cây chỉ cao chưa đầy hai mươi phân. Khi cây thật sự cứng cáp tôi mới đưa đi trồng. Cây thứ nhất, tôi trồng ở Nghĩa trang Quốc gia Đường 9. Cây thứ hai, tôi trồng ở khuôn viên Bảo tàng Quân đoàn 1 (Tam Điệp, Ninh Bình) - nơi tôi trưởng thành từ người chiến sĩ rồi sau đó trải qua những năm tháng gian khổ, ác liệt ở chiến trường Quảng Trị. Cây thứ ba, tôi trồng ở nghĩa trang Liệt sĩ quê nhà tại xã Hải Long, Hải Hậu, Nam Định - nơi chôn nhau cắt rốn của tôi. Hiện nay, cả ba cây bồ đề đều xanh tốt, trong đó cây bồ đề ở Nghĩa trang Quốc gia Đường 9 tốt nhất.
Biết tôi mang cây bồ đề từ đất phật về trồng ở Nghĩa trang Quốc gia Đường 9, Thượng tọa Thích Quảng Tùng (ủy viên kiểm soát, Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó ban Thường trực Thành hội Phật giáo Hải Phòng) trong đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam vào cầu siêu cho các anh hùng liệt sĩ ở đây, nói: "Thật là tuyệt vời, cây bồ đề đất Phật trồng ở nơi hàng vạn anh linh Anh hùng liệt sĩ yên nghỉ thì còn gì bằng. Sự hữu duyên ở chỗ, cây đất phật trồng nơi những người con trung hiếu không tiếc máu đào, sẵn sàng đấu tranh với cái xấu, cái ác, anh dũng hy sinh vì sự sống của chúng sinh, sự trường tồn của dân tộc. Đây là sự gặp nhau giữa cái tâm của người trồng và sự từ bi hỉ xả của nhà Phật". Cảm ơn lời nói chân thành của Thượng tọa Thích Quảng Tùng, "Người với người sống để yêu nhau", phải tôn vinh cái thiện, phải độ lượng bao dung, giàu lòng vị tha, nhân ái... chính là sự gặp nhau mà Thượng tọa đã nói đồng thời cũng là điều tâm nguyện suốt đời của tôi...
Tháng 6 năm 2006, Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng được tiến hành tại Hà Nội. Tôi được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương. Được Bộ Quốc phòng tiếp tục giao phụ trách Cục Đối ngoại Tổng cục Kỹ thuật, Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Trung tâm Khoa học Kỹ thuật - Công nghệ Quân sự Bộ Quốc phòng, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga.
Mười bốn năm ở Tổng hành dinh tôi được sự cộng tác của các cục chức năng: Tác chiến, Quân huấn, Nhà trường, Quân lực, Dân quân tự vệ... của Bộ Tổng tham mưu và các Tổng cục. Chính các cơ quan chiến lược này đã giúp cho Đảng ủy Quân sự Trung ương Bộ Quốc phòng tham mưu cho Đảng và Nhà nước đề ra các quyết sách trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các vấn đề cụ thể về đối ngoại quốc phòng, các chính sách bảo đảm cho lực lượng vũ trang hoàn thành nhiệm vụ trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao.
Năm nào cũng vậy, cứ vào dịp 30 tháng 4 hoặc 27 tháng 7 tôi đều trở lại Quảng Trị, chiến trường một thời máu lửa để thắp hương cho đồng đội. Trung tuần tháng 4 năm 2007 tôi trở lại chiến trường xưa đúng vào dịp kỷ niệm 35 năm ngày giải phóng Quảng Trị. Tôi đã đến dâng hương tại Nghĩa trang Quốc gia Đường 9, Thành Cổ Quảng Trị và nghĩa trang huyện Hải Lăng - nơi yên nghỉ của hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 - Mặt trận B5.
Tôi cùng đồng chí Thanh, quyền chỉ huy trưởng tỉnh đội Quảng Trị về thôn Gia Bình xã Gio An huyện Gio Linh. Trong kháng chiến chống Mỹ, thôn Gia Bình là hậu cứ dã chiến của Trung đoàn 27.
Cách đây hơn 40 năm, ở đầu thôn có một cây đa cổ thụ, cành lá xum xuê, thân to hai người ôm không xuể Trên ngọn cây, bộ đội pháo binh đã làm đài quan sát, đo đạc, hiệu chỉnh tầm hướng cho pháo binh từ bờ Bắc sông Bến Hải bắn vào Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang... Cách gốc đa vài chục mét là một giếng nước cổ, hình tròn, ghép đá.
Trước đó, năm 1998, khi tôi là Trung tướng - Phó Tổng tham mưu trưởng đã cùng cán bộ huyện Gio Linh về thôn Gia Bình để tìm đến cây đa và giếng nước đã để lại bao kỷ niệm trong cuộc đời chiến đấu của tôi. Tôi hỏi một số người dân nhưng không ai biết cây đa, giếng nước ở đâu. Rất may, lúc đó có hai cụ già đến. (Hai cụ đã từng làm cán bộ địa phương trong kháng chiến chống Mỹ). Hai cụ kể lại: "Ngày 6 tháng 3 năm 1968, trong một trận đánh không cân sức, chiến sĩ Cao Như Thiêm của Trung đoàn 27 - Mặt trận B5 đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, bị thương nặng và bị địch bắt.
Chúng đưa anh về gốc cây đa hết dụ dỗ lại đánh đập dã man hòng lấy được tin tức về Trung đoàn 27.
Nhưng chúng đã thất bại trước ý chí kiên cường của người chiến sĩ quân đội cách mạng. Bọn chúng đã xả đạn vào anh. Khi hy sinh, Cao Xuân Thiêm tựa vào gốc đa, hướng về miền Bắc... (sự hy sinh của chiến sĩ Cao Xuân Thiêm tôi đã nhắc tới trong Chương hai).
Biết cây đa chính là đài quan sát của ta, ngày nào địch cũng nã pháo, giội bom và rải chất độc hóa học hòng hạ gục cây đa. Lần lượt cành lớn, cành nhỏ của cây đa bị phạt ngang như dao chém, chồi không kịp nẩy, thân chi chít mảnh bom, mảnh pháo...
thế nhưng cây đa vẫn đứng trơ trơ, đầy thách thức cho đến ngày giải phóng Quảng Trị tháng 5 năm 1972, cây đa mới chịu ngã xuống".
Sau khi dẫn tôi và đoàn cán bộ huyện Gio Linh ra khu vực gốc đa và giếng nước, không khó khăn lắm hai cụ đã chỉ chính xác gốc đa xưa. Tại đó tôi đã trồng một cây đa búp đỏ.
Cây đa tôi trồng năm đó bây giờ đã xanh tốt, tỏa bóng mát và thả những chùm rễ cắm sâu vào lòng đất bazan của vùng đồi Gio An.
Thấy chúng tôi dừng chân bên cây đa, nhiều người trong thôn Gia Bình kéo đến. Một chị tự giới thiệu:
- Em là Nguyễn Thị Quý - Bí thư Đảng ủy xã Gio An. Anh có phải là Tướng Hiệu, người đã trồng cây đa này không?
- Đúng! Tôi đây.
- Ba em là Nguyễn Phương Tâm, người trước đây đã dẫn anh đi tìm gốc đấy.
- ông cụ đâu rồi?
Giọng chị chùng xuống:
- Ba em bị tù đày, địch tra tấn dã man nên sức khỏe ba em không được tốt. Ba em mất vào tháng 5 năm 1998, sau khi anh trồng cây đa này được ba tháng. Trước khi mất ba em dặn: "Bộ quần áo quân phục Tướng Hiệu tặng ba khi Tướng Hiệu về thăm thôn Gia Bình và trồng cây đa, ba giữ cẩn thận. Khi nào ba đi, các con nhớ mặc cho ba nhé".
Câu chuyện của chị Quý làm tôi vô cùng xúc động.
Chị kể tiếp:
- Sau khi anh trồng cây đa, dân làng em đã chăm sóc cẩn thận, rào gốc để trâu bò không phá và đặt bát hương dưới gốc cây đa. À, em quên chưa nói với anh: Cụ Nguyễn Văn Nậy - người đã cùng bố em dẫn anh ra trồng cây đa này hôm nay cũng có mặt ở đây?
Chị Quý vừa nói vừa nắm tay một ông cụ râu tóc bạc phơ. Tôi nắm chặt tay cụ, hỏi thăm:
- Thưa cụ, cái giếng nước trước đây nằm ở chỗ nào ạ?
- Nó ở chỗ này - Cụ chỉ tay ra một khoảng đất trống - Hồi đó, bom đạn Mỹ ném xuống nhiều lắm, nó phá cây đa và lấp luôn cả giếng!
- Thế bây giờ bà con có muốn làm lại cái giếng không - Tôi hỏi.
Cụ Nậy suy nghĩ, rồi ngập ngừng nói:
- Muốn chứ, vừa là giếng cổ của thôn vừa mang nhiều dấu tích lịch sử, nhưng dân làng nghèo lắm, không có tiền.
Tôi rút ngay năm triệu đồng, nói với chị Quý, cụ Nậy và bà con:
- Số tiền ít ỏi này là của cá nhân tôi, xin gửi lại xã gọi là chút lòng thành. Nếu còn thiếu thì Bí thư Đảng ủy xã huy động bà con góp công, góp của làm lại cái giếng. Cái giếng này là dấu tích lịch sử. Nước giếng đã tắm rửa cho hàng trăm đồng đội của chúng tôi anh dũng hy sinh, được chuyển từ các nơi về trước khi an táng. Cố gắng khôi phục giếng như cũ.
Tất cả mọi người đứng đó đều nói:
- Như thế thì phải khôi phục lại giếng thôi.
Cầm số tiền trên tay, chị Quý nói:
- Làm lại giếng cổ cũng là ý nguyện của ba em lúc còn sống. Ba em nhiều lần kể rằng: "Bộ đội Trung đoàn 27 và các đơn vị của Mặt trận B5 khi đưa thi hài liệt sĩ về đây, trước lúc an táng đều lấy nước giếng tắm rửa”. Ba em cũng đôi lần tham gia công việc này. Em và cụ Nậy cùng bà con xã Gio An xin hứa với anh sẽ làm xong giếng trước ngày 27 tháng 7 năm 2007 để kỷ niệm 60 năm ngày Thương binh liệt sĩ.
Tôi nắm chặt tay chị Quý:
- Cây đa tôi đã trồng được rồi, còn giếng nước chưa làm được. Hôm nay gặp cụ Nậy, gặp Bí thư Đảng ủy xã Gio An, tôi thật vui mừng. Điều mà bấy lâu cứ canh cánh trong tôi, nay đã được thực hiện. Cảm ơn bà con xã Gio An anh hùng vẫn son sắt thủy chung với bộ đội như những năm đánh Mỹ.
Đúng vào dịp 27 tháng 7 năm 2007, chị Quý đã gửi cho tôi một số tấm ảnh chụp cảnh nhân dân Gio An đang thi công làm lại giếng cổ ở thôn Gia Bình. Ngắm từng bức ảnh phía trước là giếng được ghép đá phía sau là cây đa tỏa bóng xum xuê, tôi đã không cầm được nước mắt.
Anh Lê Hải Triều cùng đi với tôi trong chuyến trở lại thăm cây đa búp đỏ có bài viết: - Trở lại Gia Bình - đăng trên - Tạp chí Văn hóa quân sự - số tháng 7 năm 2007. Một bạn đọc tên là Lê Văn Tuấn (nội ngoại của anh Tuấn đều có người là liệt sĩ) điện cho tôi xin tài trợ một trăm triệu đồng để xây một ngôi đình trên nền đình cũ đã bị bom Mỹ san bằng. Thế là, lại thêm một tấm lòng tri ân với đồng đội, đồng bào.
Đầu năm 2008, tôi đưa nhà tài trợ vào xã Gio An để thống nhất với xã và các cụ trong làng việc xây dựng lại ngôi đình cổ. Phần thiết kế thi công và xây dựng do Công ty 384 Binh đoàn 12 đảm nhiệm.
Ngày 31 tháng 3 năm 2008 (tức ngày 24 tháng 2 năm Mậu Tý) xã Gio An đã khởi công xây dựng ngôi đình. Công việc xây dựng lại ngôi đình đang tiến triển tốt và sẽ hoàn thành vào ngày 27 tháng 7 năm 2008.
Suốt chặng đường chiến đấu gần chục năm trên mảnh đất Quảng Trị, với tôi, biết bao kỷ niệm vui buồn. Thấm thoát đã hơn một phần ba thế kỷ trôi qua kể từ ngày Quảng Trị giải phóng. Nhớ làm sao xiết, ghi làm sao hết những kỷ niệm buồn vui. Cảm xúc lớn lao, bao trùm trong tôi là niềm tự hào vì đã một thời được chiến đấu trên mảnh đất anh hùng này. Những địa danh Đường 9, Dốc Miếu, Tà Cơn, Khe Sanh, Sa Mưu, Phu-lơ, Thành Cổ, sông Thạch Hãn, suối La La... sẽ mãi in đậm trong lịch sử cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam.
Không nơi nào, nghĩa trang liệt sĩ lại nhiều như ở nơi đây. Cả tỉnh có 72 nghĩa trang (trong đó có Nghĩa trang Quốc gia Đường 9 và Nghĩa trang Quốc gia Trường Sơn). ở đây, còn có hai nghĩa trang không mộ nữa là mảnh đất Thành Cổ và lòng sông Thạch Hãn. Lòng sông Thạch Hãn trở nên linh thiêng bởi ẩn trong nó biết bao số phận của những người lính.
Hằng năm, vào ngày 27 tháng 7, người dân Quảng Trị và du khách khắp mọi miền vẫn về đây thả hoa tưởng niệm. Lê Bá Dương, một người lính của Trung đoàn 27 thời đánh Mỹ, đã viết:
Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Hóa tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm. Lời thơ giản dị mà sâu sắc biết bao. Đó chính là lời nhắn gửi mọi thế hệ: Hãy luôn nhớ và nghiêng mình bên dòng sông thiêng nơi tuổi xuân của các anh hùng, liệt sĩ đã trở thành bất tử.
Gần đây, Phạm Minh Tâm, thương binh 2/4, người đã từng chiến đấu trong chiến hào Quảng Trị năm xưa, khi về thăm Quảng Trị đã viết bài thơ "Về giữa lòng mẹ". Tôi xin được trích đôi dòng ở cuối bài thơ:
... Một nghĩa trang bạt ngàn trong đất
Nấm mồ chung hương khói Cổ Thành
Xin cây cỏ chớ vô tình tươi tốt
Và sông kia đừng xiết xoáy đổi dòng
Móng những công trình xin đừng vô cảm
Lớp lớp địa tầng, đồng đội chúng tôi đông
Và hoa nữa mỗi lần đua nở
Ngát hương đò cũng từ đất mà thơm
Bản nhạc du dương cung thanh đừng réo rắt
Đêm ngoài kia giao hưởng những linh hồn
Xin tất cả một lần thôi cũng đủ
Được hồi sinh từ máu đổ xương tàn
Hãy cúi xuống hôn vào lòng đất mẹ
Nơi những linh hồn yên nghỉ gió mưa chan". Chiến tranh là thế! Một thời Quảng Trị là thế! Xin hàng ngàn, ngàn lần hôn vào lòng đất mẹ - mảnh đất "lớp lớp địa tầng, đồng đội chúng tôi đây".
Năm nào tôi cũng trở vào Quảng Trị một đôi lần. Lần nào tôi cũng dành thời gian đến các nghĩa trang Đường 9, Hải Lăng, Thành Cổ... để thắp hương cho đồng đội của tôi. Tôi đã đóng góp ý kiến xây dựng khu di tích Thành Cổ. Tôi kêu gọi các nhà đầu tư, những người có lòng hảo tâm xây dựng những khu tưởng niệm, những khu di tích lịch sử cách mạng để tri ân đồng chí, đồng bào. Tôi nghĩ, phải bằng mọi cách để có thể nói lại với mai sau về những sự tích anh hùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại, để các thế hệ mai sau không lãng quên quá khứ hào hùng của dân tộc, không lãng quên - Một thời Quảng Trị - mảnh đất thiêng liêng và huyền thoại, mảnh đất đau đáu trong tôi suốt cả cuộc đời.
Viết xong vào dịp kỷ niệm Chiến thắng 30 tháng 4 năm 2008.