Những cảm nhận về Ca dao - dân ca Việt Nam
TranMinhThuong 24.11.2008 07:49:40 (permalink)
Các bộ phận trong cơ thể người qua ca dao dân ca người Việt.
Thạch Ba Xuyên

Ca dao dân ca là sản phẩm tinh thần và trí tuệ của người bình dân. Có thể nói ở kho tàng ca dao nhiều lĩnh vực trong cuộc sống con người, đặc biệt là những tình cảm, những cảnh sinh hoạt  thường nhật của người lao động được khắc hoạ một cách chân thực, sắc nét. Việc ý thức về bản thân mình, ý thức về vẻ đẹp của chính cơ thể con người là một bộ phận khá phong phú được người bình dân thể hiện và truyền cho bao thế hệ mai sau. So với các thể loại của loại hình văn học dân gian khác nói chung và thơ ca dân gian nói riêng thì có lẽ ca dao dân ca là nơi thể hiện đầy đủ và đậm nét nhất “chân dung” của con người. Từ các từ ngữ chỉ bộ phận trên cơ thể đến những nghĩa phát sinh từ của các từ ngữ đó để nói rộng hơn, sâu hơn, những điều người chân đất chân quê muốn nói.
Trước hết, hãy đề cập đến lớp ca dao được coi là “xem tướng”. Trải qua quá trình cải tạo cuộc sống, sinh hoạt giao lưu, người bình dân đã khéo léo đúc kết những kinh nghiệm để đời:
Mua cá thì xem lấy mang
Cưới vợ chọn lấy hai hàng tóc mai.
Đọc câu ca ấy, con cháu thời đại @ hôm nay vẫn còn nghe vẳng vẳng đâu đây lời nhắc nhở chân thành của người xưa: cái răng cái tóc là gốc con người. Cái gốc quyết định tính tình, nhân cách của cô gái ở nơi … hàng tóc mai ấy!
Một câu ca khác:
Đàn ông miệng rộng thì sang
Đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà
Từ chỉ bộ phận “miệng” ở đây đã có phần biến nghĩa để nói đến tính cách của con người. “Miệng rộng” vừa có nét nghĩa thực, vừa có hàm ý sâu xa chứ không chỉ dừng hẳn lại ở dáng hình của nơi “phát ngôn”. Từ chuyện miệng một người, đến miệng của thế gian:
Quần áo tả tơi mỗi nơi một miếng
Biết có chi lành che miệng thế gian.
Đấy chính là dư luận, là những lời đàm tiếu, bàn luận đánh giá, khen chê, … vốn luôn luôn thường trực trong chốn hồng trần!
Trở lại việc xem “mặt mà bắt hình dong”, ta gặp:
 
Những người thắt đáy lưng ong
Đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con.
Chuyện thắt đáy lưng ong của người con gái đã được dân gian khẳng định là người biết chiều chồng, khéo nuôi con. Đọc đến đây người viết chợt nhớ đến một bài vè khuyết danh vốn thường được các nhà Nho truyền tụng, có đề cập đến chuyện “tế yêu” (tức eo lưng nhỏ) nhưng tiếc là nó không được tế nhị lắm nên không dám chép ra đây. Nói thế để xin khẳng định rằng câu thơ bình dân thật kín đáo nhưng cũng thật tinh tế, và rất chính xác cả nghĩa thực lẫn nghĩa sâu xa của từ này.
Từ những kinh nghiệm, những lời khuyên, lời nhắc nhở chân tình, vấn đề là “hình thể” con người được thể hiện một cách tự nhiên, bình dị như những gì nó có và tồn tại.
Cũng từ đây, bao nhiêu vẻ đẹp của cơ thể con người được coi như là tiêu chuẩn trong việc “giao duyên”:
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém xa, …
Một lời tỏ tình hay chính là một sự ngợi ca bằng những mỹ từ duyên dáng dành cho người con gái đã được chàng trai nào đấy chọn làm đối tượng. Đó là những từ mang nét nghĩa thực, tương đối đơn giản, dễ hiểu, … cho đối tượng lẫn cho người khác nghe. Nó dịu dàng mà chân thành không sáo rỗng, …một “ước mơ”, một thông điệp được gửi gắm hết sức độc đáo của chàng trai ẩn mặt nào đó!
Từ tâm thức chuyển thành lời tỏ tình chứa chan vẽ đẹp lung linh, làm cho người phát ngôn không giấu được sự xúc động:
Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài bối rối dạ anh.
Táo bạo hơn, nhưng cũng cùng dạng ấy, ta hãy nghe một chàng trai khác “ngẩn ngơ” bởi nét đẹp của đôi má lúm đồng tiền:
Dẫu rằng chẳng đặng bén duyên
Cũng hun má lúm đồng tiền của em
Cái lưng của cô gái cũng nằm trọn trong tầm ngắm và tận trong tâm khảm của anh nông dân si tình nào đấy:
Trèo lên thanh trục cho cao
Thấy lưng em cấy dạ nào hổng thương
Nhưng rồi, như ý thức được chuyện mắt liếc tay đưa không gì lấy làm duyên dáng, cô gái nhẹ nhàng nhắn lại:
 
Anh thương em đừng buông con mắt
Đứng ngoắt ngón tay
Người ta đông như hội cứ ngó ngay mà nhìn.
Cứ đường đường chính chính mà bày tỏ, rồi gìn giữ. Con mắt, ngón tay ở đây dường như đã thay lời cho người trong cuộc, …
Mắt, mặt, má, … là những từ xuất hiện với tần số cao trong ca dao về tình yêu. Đến đây, ta nên thưởng thức nét đẹp của đôi chân mày với vẽ mỹ miều của nó:
Mặt em thơi thới má đào
Chân mày vòng nguyệt lẽ nào anh chẳng thương.
             Ở nội dung biểu hiện tình cảm gia đình, tạo cho người đọc ấn tượng sâu sắc khi tác giả vô danh khắc hoạ nên một số … bộ phận trong cơ thể “mẹ già”:
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm bún lưỡi lừa cá xương
             Cái răng, hàm răng, như đã dẫn trên cũng không ít lần lộ diện, ở một trường hợp khác ta thấy, trong nỗi “tương tư”, đợi chờ ngày gặp mặt, hàm răng của “người tình” được bật ra từ nỗi nhớ:
Ai về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.
Mình và ta trong câu ca dao ấy là những đại từ dùng trỏ ngôi thứ trong giao tiếp. Ta lại gặp một từ “mình” khác:
Mặc ai ép nghĩa liễu nài tình
Phận mình là gái chữ trinh làm đầu
Từ “mình” mà nhân vật trữ tình kia đề cập đến chính là cơ thể, là dáng hình như nghĩa tự điển đã chỉ rõ: Mình = thân thể!
Thì đây:
Con nói mẹ nghe sao đà quá dễ
Áo mặc trong mình nỡ để gió bay!
Có lẽ nên dừng lại đôi chút với một từ vừa xuất hiện: chữ trinh! Nó là danh từ chỉ một bộ phận, vừa là một khái niệm mang tính tượng trưng. Người bình dân lúc thì nói thẳng, nói thật như trường hợp nhân vật trữ tình ở trên đã nói. Nhưng cũng có lúc, người ta cố tình ẩn nó đi, thay bằng một từ khác, tránh đi chuyện “còn mất” vốn rất nhạy cảm nọ:
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa một mình
Như vậy, duyên ở đây nếu xét tường tận thì nó không chỉ là một từ mà nhà Phật thường sử dụng hay tự điển thường giải thích, duyên trong trường hợp này được xem như một dạng để chỉ … “bộ phận” trong cơ thể người con gái, nó vượt hẳn ra khỏi nét nghĩa quen thuộc, hay dùng …
Thân, mình rồi đến chân, tay, … Những từ ngữ ấy đương nhiên xuất hiện rất nhiều trong cuộc sống của người nông dân chân lâm tay bùn, suốt tháng quanh năm quần quật một nắng hai sương bên cánh đồng thửa ruộng, hay trong các cuộc hành trình ngược xuôi khắp nẻo, tìm kế sinh nhai:
  Mau chân kẻo lỡ chuyến đò
Đi buôn đi bán những lo cùng phiền.
Bước chân xuống cánh đồng sâu
Mắt nhắm mắt mở, đuổi trâu ra cày.
Bụng đói, đầu gối phải bò
Cái chân phải chạy, cái giò phải đi.
Ngay trong chuyện “ái tình” bước chân vẫn cùng vạn dăm:
Lúc bước chân ra, ở nhà má dặn
Công sanh thành là nặng, đường tình ái chớ khinh.
Từ chân, giò, bụng, đầu gối, … ở các câu ca dao vừa dẫn đích thực là những từ chỉ bộ phận của cơ thể con người. Nhưng không dừng ở đấy, ca dao còn dùng hình ảnh “chân, tay” với nhiều nét nghĩa khác:
Anh em như thể chân tay
Rách lành đùm bọc dỡ hai đỡ đần.
Một sự so sánh, một nét nghĩa mới chỉ tình thâm máu mủ, được đặt ra từ chuyện quan hệ “như chân với tay” trên cơ thể con người.
Trong một ví dụ nữa:
Mặt nhìn nước mắt rưng rưng
Ở thời khó ở dời chân khó dời
Chân ở đây là hình ảnh hoán dụ được tác giả dân gian dùng để nói đến tình cảnh của con người. Nghĩa của nó rộng hơn và nhiều sắc thái biểu cảm hơn!
Tương tự nét nghĩa phát sinh vừa nêu, chúng ta còn gặp rất rất nhiều hiện tượng ấy trong ca dao:
Áo vải quao lựa xào mà vắt
Tuy xấu mặc lòng chọn mặt gửi thân.
Nước chảy re re con cá he nó xoè đuôi phụng
Em có chồng rồi trong bụng anh vẫn còn thương.
Chị em một ruột mà ra
Chị giàu em khó hoá ra người ngoài
 
 
 
Hay như tạo thành một từ ghép mới:
Mái tóc tơ không chừng phân rẽ
Dạ con thương, cha mẹ khiến đừng
Hai hàng nước mắt rưng rưng
Khổ cam trong dạ, biết chừng nào phai.
Câu thơ dân gian cơ bản là câu thơ điệu nói. Từ góc độ miêu tả, đối tượng được miêu tả thơ ca dân gian đã thể hiện hài hoà nét đẹp giữa hình thể con người và vấn đề thẩm mỹ “tục” hay “nhã”. Ta vẫn thấy ở đó, nhiều trường hợp táo tợn kiểu:
Nước láng linh chảy ra Vàm Cú
Thấy dạng em chèo cặp vú muốn hun
Hay mạnh hơn nữa:
Giữa trưa đói bụng thèm cơm
Thấy đùi em vợ như tôm kho tàu
Thậm chí cả yếu tố tục cũng được vận dụng hết công suất:
Cô kia cấy lúa nanh chồn
Chổng mông cô để cái l… cô ra.
Nhưng xét cho cùng với thể chất và tư cách là đối tượng miêu tả (cùng với những đối tượng miêu tả khác) nó đã đem đến cho lời thơ một vẻ đẹp khác mang tính tượng trưng, nó là chuyện chung của nhiều người, là sự “xao xuyến” rất nhân bản của con người, chứ không riêng của một anh chàng dung tục nào kia! Người bình dân tiếp nhận nó với tất cả những đặc tính hõm hĩnh, mạnh mẽ vốn có trong lời ăn tiếng nói hàng ngày vậy thôi!
Tóm lại, với những vẽ đẹp về thể chất con người, ca dao đã nói lên được tiếng nói rất nhân bản, đầy tình thương yêu và sự trân trọng con người, đặc biệt là những người quanh năm suốt tháng bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Họ rất tự hào về vẽ đẹp trần thế ấy mà khẳng định rằng:
Hơn nhau tấm áo manh quần
Khi cởi bốc trần ai cũng như ai
Đấy, chính là tâm hồn trong sáng của những người đã tạo nên những viên ngọc lung linh cho đời.


-----------------
Tôi rất mong nhận được sự nhận xét, đánh giá của các bạn về loạt bài ca dao Việt Nam, đây là bài đầu tiên! Xin chân thành cảm ơn
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.11.2008 08:41:51 bởi TranMinhThuong >
#1
    TranMinhThuong 26.11.2008 09:51:51 (permalink)
    Những vần ca dao liên quan đến lịch sử dân tộc.
    Minh Thương


    Ca dao dân ca là loại hình văn nghệ dân gian quen thuộc của người bình dân. Nó xuất hiện cùng với tiến trình phát triển văn hoá của nhân loại nói chung và dân tộc ta nói riêng. Từ thuở bình minh dựng nước và giữ nước cho đến hôm nay qua mấy nghìn năm lịch sử, ca dao vẫn phản ánh đậm nét từng sự kiện lịch sử. Từ những sự kiện trọng đại cho đến những chi tiết thường ngày diễn ra trong đời sống xã hội điều được người bình dân thể hiện và  lưu truyền cho con cháu đời sau.
     
    Khảo sát phần ca dao – dân ca liên quan đến lịch sử nghĩa là chúng ta cùng sống lại với hiện thực đời sống của tiền nhân ngày đầu mở cõi…
    Từ quá khứ xa xăm, nhân dân ta đã nhắc nhở câu ca:
    Ai về Phú Thọ cùng ta Vui ngày giỗ Tổ tháng ba mồng mười.
     
    Đó là ngày giỗ Tổ chung của “con Lạc cháu Hồng”. Tình đồng bào, nghĩa anh em được gợi lên từ truyền thống cao đẹp đó.
     
    Ca dao là tiếng lòng mà dân gian dùng để nhắc nhở mọi người hay cũng chính là để tự nhắc mình:
    Ai ơi mồng chín tháng Tư Không đi hội Gióng cũng hư một đời.
     
    Lễ hội Gióng được lưu truyền từ bao đời nay nhằm ghi ơn người anh hùng dân tộc, Người đã đuổi giặc Ân xâm lược!
    Trong những thành quả giữ nước, để ca ngợi và nhắc lại công trạng xây thành Cổ Loa, dựng nước Âu Lạc của vua Thục Phán, người bình dân có câu ca rằng:
    Cổ Loa thành Ốc lạ thường Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây
     
    Rồi trong công cuộc chống hoạ ngoại xâm phương Bắc có biết bao truyền thuyết hào hùng được lưu truyền nhưng trong tâm trí của mỗi chúng ta hẳn không ai không biết, không thuộc những vần ca dao khắc hoạ chân dung của nữ kiệt anh thư Triệu Thị Trinh: 
    Tùng Sơn nắng quyện mây trời  Dấu chân Bà Triệu muôn đời oai linh
    Hay:
    Ru con con ngủ cho lành  Cho mẹ gánh nước rửa bành con voi
     Muốn coi lên núi mà coi
    Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng
     
    Dòng Bạch Đằng lịch sử từng ba lần sóng nhấn chìm mộng quân xâm lăng của cha con Hoằng Thao năm 938, của giặc Tống triều, do tướng Hầu Nhân Bảo chỉ huy tiến đánh Đại Cồ Việt, năm 981 và của viên dũng tướng nhà Nguyên: Ô Mã Nhi, năm 1288. Những sự kiện ấy được gợi nhớ từ câu ca quen thuộc:
    Sâu nhất là sông Bạch Đằng Ba lần giặc đến ba lần giặc tan.
     
    Cũng từ công trận đó, nhân dân ta còn rút ra “bài học kinh nghiệm” cho quân thù:
    Đánh giặc thì đánh giữa sông Đừng đánh trong cạn phải chông mà chìm.
     
    Chiến công của anh hùng Lê Lợi ở đầu thế kỷ XV, chống quân Minh xâm lược, được thể hiện qua vần thơ dân gian:
    Cao nhất là núi Lam Sơn
    Có ông Lê Lợi trong ngàn bước ra.
     
    Trong chiến đấu thì chiến thắng vẻ vang, trong thời kỳ xây dựng thì nhiều triều đại phong kiến cũng đã góp công lớn đưa đất nước ta đến phồn thịnh. Thời thanh bình thịnh trị ấy được nhân dân ngợi ca:
    Nhớ đời Thái Tổ Thái Tông Cỏ mọc đầy đồng trâu chẳng thèm ăn
     
    Câu ca dao này được nhiều nhà nghiên cứu cho là tác giả dân gian muốn nhắc đến đời Thái Tổ, Thái Tông nhà Hậu Lê. Vì khi giặc Minh xâm chiếm nước ta chúng đã “tàn sát đến cả côn trùng cây cỏ” (Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trãi), nên khi phục quốc nhân dân ta được tự do “chăn nuôi” súc vật nhiều “đầy đồng” như vậy!
     
    Nhưng không chỉ có mảng ngợi ca khí phách hào hùng trong chiến đấu chống xâm lăng và dựng xây nước nhà. Ca dao cũng là “những chứng nhân” lịch sử thời loạn lạc chia ly.
    Trịnh Nguyễn phân tranh dai dẳng ở thế kỷ XVI, cuối cùng phải lấy sông Gianh làm giới tuyến:
    Núi Truồi ai đắp mà cao Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu.
    Nhát cắt trên địa đồ đã đi vào vết cắt của lòng người, gợi lên nỗi đâu cho toàn dân tộc Việt!
     
    Chuyện triều chính bát nháo lăng nhăng của triều đình Chúa Trịnh. Sau khi Trịnh Sâm băng hà trước là dân gian ngâm nga và sau nó đã được tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của phái văn nhà họ Ngô ghi lại lời ca rằng:
    Trăm quan có mắt như mờ
    Để cho Huy Quận vào sờ chính cung.
     
    Nội dung câu ca ai đã rõ: đấy là việc Quận Huy Hoàng Đình Bảo “lem nhem” với bà Chúa Đặng Thị Huệ để rồi xảy ra việc “kiêu binh nổi loạn” phế Cán lập Tông đầy rối ren vào giữa thế kỷ XVIII!
     
    Đến thời Tây Sơn, chiến công hiển hách của Long Nhượng Tướng Quân: Nguyễn Huệ với chiến thắng giặc Xiêm tại Rạch Gầm – Xoài Mút năm 1785 đã được nhân dân Nam Bộ thể hiện qua lời hát ru:
    Bần Gie đốm đậu sáng ngời Rạch Gầm Xoài Mút muôn đời oai linh.
     
    Cảnh chiến tranh cũng là những hình ảnh không thiếu trong kho tàng thơ ca bình dân:
    Thùng thùng trống đánh quân sang Chợ Già trước mặt, quán Nam bên đường
    Qua Chiêng thì rẽ về Giàng
    Qua quán Đông Thổ vào làng Đình Hương
     Anh đi theo chúa Tây Sơn
     Em về cày cuốc mà thương mẹ già.
    Sau khi hoàng đế Quang Trung qua đời đột ngột, triều đình Tây Sơn suy yếu, việc mua quan bán chức diễn ra phổ biến, dân gian ghi lại thực trạng lịch sử đau buồn ấy như sau:
    Đô đốc tam thiên đô đốc Chỉ huy bát vạn chỉ huy
    Trung uý,  uý vệ chẳng kể làm chi
    Cai đội, phó đội lấy tàu mà chở
    Mười quan thì đặng tước hầu
    Năm quan tước bá, ai hầu kém ai?
     
    Chuyện Nguyễn Ánh bị anh em nhà Tây Sơn vây đánh, Nguyễn vương(*) phải chạy vào Nam ở nửa đầu thế kỷ XVIII cũng đã in đậm trong không ít câu ca dân gian:
    Rồng chầu xứ Huế, ngựa tế Đồng Nai Nước sông trong sao lại lạc loài
    Thương người xa xứ lạc loài đến đây.
    Còn đây là cảnh Nguyễn Ánh bôn tẩu được dân gian vừa cảm cảnh vừa xót thương!
    Ba phen quạ nói với diều
    Ngả kinh ông Hóng có nhiều vịt con.
    Câu thơ nhắc lại một câu chuyện có thật trong lịch sử, với những con người và địa danh cụ thể. Thuở Nguyễn Ánh còn bôn đào, một ngày trên chiến thuyền của ông đậu trên sông Vàm Cỏ Tây (chảy ngang Tân An – Long An), Nguyễn Ánh bị thiếu lương thực và được ông Hóng - một hào phú trong làng Bình Lãng, Tân An - tiếp tế “một bữa cháo”. Ông Hóng mới đào một con kênh từ nhà ông thông ra Vàm Cỏ Tây để chở lúa tiếp tế cho Chúa.
    Trên con kinh ấy, người ta lại nuôi nhiều vịt con, nên mới có câu ca như vậy.
    (Còn một dị bản nữa, ở An Giang truyền câu ca rằng:
    Ba phen quạ nói với diều
    Cù lao ông Chưởng có nhiều cá tôm.
    Ông Chưởng là nhân vật lịch sử Chưởng Cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, người được chúa Nguyễn sai mở đất phương Nam đã đến cù lao này và tên cù lao Ông Chưởng ra đời như vậy, và sự kiện này diễn ra trước sự kiện kia (ở trên) đến gần hơn một thế kỷ, vào những năm cuối của thế kỷ XVII ….)
     
    Trở lại với nhân vật Nguyễn Ánh, nhân dân cũng thẳng thắn bày tỏ sự phản đối không đồng tình với hành động “cầu Tây” của vị vương này:
    Gáo vàng đem múc giếng Tây Khôn ngoan cho lắm tớ thầy người ta.
    Đến triều Minh Mạng, vị hoàng đế giàu cá tính này ban ra một chiếu chỉ làm hãi hùng nhiều người bấy giờ, đó là lệnh buộc đàn bà không được mặc váy (!):
    Một sáng có chiếu vua ra Đàn bà không váy người ta hãi hùng
    Không đi thì chợ không đông
    Đi chợ phải mượn quần chồng sao đang
     
    Sang triều Tự Đức ca dao dân ca thể hiện sự phản kháng với triều đình nhiều hơn. Người bình dân đã rất công tâm khi nhận định sự kiện lịch sử, chính trị của nước nhà:
     
    Thế gian Đặng Trứ là đầu
    Con thuyền thương mại qua Tàu sang Tây
    Một thằng Biện chất nên ghê Xem quân như cỏ chẳng hề xót thương.
    Đặng Huy Trứ giữ chức binh chuẩn Sứ ti coi những thuyền buôn thông thương hải ngoại. Biện lý bộ Công: Phạm Chất coi việc xây dựng Khiêm Lăng cho vua Tự Đức đã hành hạ bọn lính thợ gây nên bạo loại mà sử gọi là giặc “Chày Vôi”!
    Xung quanh đến việc xây “Khiêm lăng” còn có một câu ca khác:
    Vạn Niên là Van Niên nào Thành xây xương lính hào đào máu dân
     
    Song, nhân dân cũng rất công tâm, họ nhắc đến công trạng của Nội tán nhà Nguyễn là Nguyễn Khoa Đăng, người có công dẹp loạn giặc cướp để yên dân:
    Phá Tam Giang ngày rày đã cạn Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm.
     
    Chuyện người nông dân khởi nghĩa chống lại các triều đình phong kiến cũng chiếm một số lượng đáng kể trong số những câu ca dao về lịch sử dân tộc.
    Người Bình Định còn nhắc mãi câu chuyện của Chàng Lía, một thủ lĩnh cuộc khởi chống lại triều đình nhà Nguyễn, nhưng không thành công:
    Chiều chiều én liệng Truông mây Cảm thương Chú Lía bị vây trong thành
    Cuộc khởi nghĩa cùng thời của Phan Bá Vành cũng đã in đậm trong lòng người nông dân Hà Tĩnh với câu ca:
    Trên trời có sao tua rua Ở làng Minh Giám có vua Ba Vành Khi giặc Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Chúng chiếm Đà Nẵng rồi cho quân tiến vào đánh Gia Định thành, cảnh ly loạn chia lìa đã hiện ra:
    Giặc Tây đánh tới Cần Giờ  Bảo đừng thương nhớ đợi chờ uổng công  
    Vua Duy Tân bàn với Trần Cao Vân khởi nghĩa chống Pháp, với vai người câu cá, hai người “tạo cớ” hợp pháp gặp nhau để luận bàn việc lớn, dân gian tức cảnh ngâm nga nghe đến chạnh lòng:
    Chiều chiều ra bến Văn Lâu
    Ai ngồi ai câu
    Ai sầu ai thảm
    Ai thương ai cảm
    Ai nhớ ai trông
    Thuyền ai thấp thoáng bến sông
    Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
     
    Đến khi Cách mạng tháng Tám thành công rồi trải qua hai cuộc kháng chiếc trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược ca dao mới được hình thành và phát triển với số lượng phong phú ghi nhận lại không khí sục sôi của những ngày cả nước lên đường cứu quốc rồi đuổi Mỹ diệt nguỵ.
    Hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh kính yêu cũng được ca dao mới (nhiều bài còn in đậm dấu ấn tác giả) thể hiện.
    Tháp Mười đẹp nhứt bông sen
    Việt Nam đẹp nhất có tên Cụ Hồ
    (Bảo Định Giang)
    Vậy mới hay, đi cùng với lịch sử dân tộc là tâm hồn, tình cảm của dân gian. Họ ghi lại hiện thức lịch sử bằng loại hình ca dao dân ca, ….
     
    (*) Năm 1780, Nguyễn Ánh xưng vương để tấp hợp lực lượng đánh Tây Sơn.
    Minh Thương. trường THPT Mai Thanh Thế, Ngã Năm, huyện Ngã Năm, Sóc Trăng. Đ.T: 0986542195.
    #2
      TranMinhThuong 28.11.2008 16:41:07 (permalink)
      Vài cảm nhận về các cung bậc trong tình yêu của ca dao - dân ca Sóc Trăng.
      Minh Thương
      Nam Bộ đã vùng đất đã có trên 300 năm tuổi. Theo dấu chân những cư dân đi mở đất ca dao dân ca cũng được hình thành dể ghi nhận lại những cảm xúc, những tâm tư tình cảm của người bình dân. Tình yêu lứa đôi là đề tài muôn thuở của thơ ca nói chung và ca dao nói riêng.
      Năm 2002, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh cho ấn hành công trình VĂN HỌC DÂN GIAN SÓC TRĂNG do giáo sư Chu Xuân Diên làm chủ biên và nhóm sinh viên, cán bộ giảng dạy của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Khoa Ngữ văn và Báo chí sưu tầm, công trình, đã tổng hợp công phu những lời thơ tiếng hát trong cộng đồng cư dân ở đất Sóc Trăng. Theo đó, tình yêu lứa đôi cũng xuất hiện đậm nét trong phần ca dao, dân ca. Tìm hiểu nó ở các cấp bậc tình cảm cũng có gặp nhiều thú vị! Có thể tạm định dạng các cung bậc ấy bắt đầu từ khi họ gặp nhau làm quen rồi ngỏ lời để cả hai cùng thề nguyền ước hẹn. Từ đó, thương nhớ nhau bằng nỗi lòng tương tư nặng trũi. Nhớ thương nhau tìm đến nhau trong hạnh phúc hay là dở dang thì cũng điều là kết thúc! Kết thúc trong hương vị chia tay mặn đắng hay ngọt ngào của một mái lều tranh với “hai quả tim vàng!”
       
      Có gặp nhau thì mới làm quen để ngỏ lời yêu thương.
      Nội trong lục tỉnh Nam Kỳ Thấy em nhu mì ăn nói anh thương.
      Chàng trai đi khắp vùng lục tỉnh Nam Kỳ đến đây gặp cô gái mà anh ta cho là “ăn nói nhu mì” rồi thương ngay!
      Hay trong một buổi chiều dạt dào cảm hứng thấy được các cô anh chàng tự bộc bạch:
      Chiều chiều vịt lội bờ sen
      Tình cờ tôi gặp người quen tôi chào Hiu hiu gió thổi vườn đào
      Bốn cô trong đó cô nào tôi thương?
      Cũng cung bậc ấy nhưng đôi lúc nói được nói văn hoa hơn:
      Rồng nằm kẹt đá hoá long
      Anh đi lục tỉnh giáp vòng
      Tới đây trời khiến đem lòng thương em.
      Đôi khi anh chàng “nọ” cũng không ngần ngại bày tỏ suy nghĩ của mình:
      Cam sành lột vỏ còn the
      Thấy em còn nhỏ anh ve để dành.
      Chỉ “làm quen” để dành cho ngày mai thôi, quả là lo xa hết chỗ nói!
      Một lời bày tỏ buổi sơ ngộ chân thành mà thật táo bạo, như chính tấm lòng của họ.
      Gắn liền với cánh đồng thửa ruộng, nơi hàng ngày họ cùng một nắng hay sương “cui cút làm ăn”, cũng xuất hiện những vần thơ mộc mạc của ngày đầu gặp gỡ:
      Trèo lên thanh trục cho cao
      Thấy lưng em cấy dạ nào hổng thương.
      Họ là người dưng khác họ nhưng “đem lòng nhớ thương" ngay từ những lần đầu gặp gỡ.
      Thò tay mà ngắt cọng ngò
      Thương em đứt ruột giả đò ngó lơ.
      Đúng là “tình trong như đã mặt ngoài còn e”!
      Cũng có khi cả hai người cùng làm chung một công việc gì đó và chàng trai không ngần ngại ngỏ lời:
      Chèo ghe đi bẻ trái bần
      Nước chảy lần lần anh bóp tay em.
      Từ chỗ táo bạo muốn bóp tay đến một “đòi hỏi” khác cũng không xa:
      Trứng vịt để lộn trứng gà Thấy má em trắng anh đà muốn hun
      Lúc này cô nàng nếu thuận lòng đẹp dạ cũng không ngần ngại đáp lời:
      Xung quanh cô bác giáp vòng
      Muốn hun về chốn loan phòng mà hun
      Nhiều tình cảnh được phản ánh cũng đáng thương thật:
      Gió đẩy đưa rau dừa quặn quỵu
      Anh thương nàng lịu địu xuống lên.
      Hay một cảnh ngộ khác, nàng còn bà mẹ già, nhà lại xa xôi:
      Tàu Nam Vang chạy ngang Cồn Cát
      Thuyền cầu bơi gần sát mé nga
      Thấy em còn chút mẹ già
      Muốn vô hoạn dưỡng biết là được không.
      Một sự “khéo léo” đáng nể mà chàng dùng “tán” nàng trong một lời ca khác:
      Kính lời thăm má với ba Còn nàng mai mốt anh qua thăm nàng
      Rất tế nhị giữ gìn ý tứ khi đế nhà người mình yêu, chứ không đến nỗi “quên về” như câu ca “quạ kêu nam đáo nữ phòng”:
      Thăm em một chút anh về
      Đường xa viễn vọng anh sợ bề mẹ cha.
      Đọc lời đối đáp sau đây mới thấy lời “tán tỉnh” rất sắc, mà lời đáp lại của “con gái Ba Xuyên” cũng chẳng dễ chịu chút nào:
      Các chàng trai đến từ Nhơn Ái đất Cần Thơ buông lời trêu chọc:
      Trai nào bảnh bằng trai Nhơn Ái
      Đầu thì hớt chảy tóc tém bảy ba
      Mặc pijama khăn quàng choàng cổ
      Thấy gái Ba Xuyên ngồ ngộ nên thố lộ đôi lời:
      - Cấy cày cực lắm em ơi
      Theo anh về vườn anh trái một đời ấm no.

      Các cô không ngần ngại:
      Gái Ba Xuyên tuy quê mùa sàn dã
      Tóc dài bỏ xoả mặc áo bà ba
      Nắng táp mưa sa mà mịn da dài tóc
      Không đẹp bằng ai nhưng hay lừa lọc
      Tuy quê rang quê rít mà hỏng thích trai vườn
      Chớ trai mà dở dở ương ương Ngồi không hái trái thì hết đường tương lai.
      Như vậy, ý tình đã rõ…
      Cũng chính vì lời đối đáp như vậy nên không ít chàng trai âu lo, một âu lo hợp lý:
      Ngó lên Châu Đốc, ngó xuống Vàm Lau
      Thấy buồm bạn chạy sóng bủa theo sau
      Anh thương em ruột thắt gan bàu
      Biết em có thương lại chút nào hay không?
      Nhiều lúc khi nghe được lời ngỏ ý sau khi gặp nhau, quen biết nhau, các cô “dùng kế hoãn binh” để tìm người tâm đầu ý hợp:
      Ngó lên chữ ứ, ngó xuống chữ ư
      Anh thương em hỏng thẳng em ừ Anh đừng làm vội, mẫu từ em hay
      Hay một lời cảnh báo đáng yêu:
      Về nhà cha mẹ rầy la Anh đừng san qua sớt lại ắt xa duyên tình.
      Cũng có lúc các chàng không dám bạo dạn “đặt vấn đề” ngay mà phải vòng vo dò xét “đối tượng của mình một cách kỹ càng:
      Mặt trời xế bóng về tây
      Cô kia cắt cỏ bên đày bên vơi
      Cô còn cắt nữa hay thôi
      Cho tôi cắt với làm đôi vợ chồng.
      Nếu cô gái im lặng thì có lẽ là tiến trình “làm quen” đã tốt đẹp! Còn nếu cô gái trả lời “thôi” thì cũng là … rồi!
      Nhiều khi phải cặn kẻ hỏi thăm để rộng đường lui tới:
      Trời mưa cho ướt lá cà
      Biết mặt em đấy biết nhà em đâu.
      Hay nói bóng gió xa xôi để tìm hiểu:
      Chim quyên ăn trái nhãn lồng
      Nó kêu bớ bậu có chồng hay chưa? Về phía người con gái, trong văn học bình dân nói chung và văn học dân gian Sóc Trăng nói riêng, họ không phải hoàn toàn thụ động mà chính các cô cũng lém lĩnh tìm người “tâm đầu ý hợp” với mình:
      Em đây thật gái chưa chồng
      Anh đà chưa vợ sao dây tơ hồng chẳng se.
      Nhiều cô táo bạo hơn tự khẳng định:
      Khổ qua đắng khổ qua đèo
      Anh nào chèo lái là “mèo” của em.
      (Hoặc: Anh nào cấy gỏi là “mèo”  của em)
      Các cô tự khẳng định “tiêu chuẩn” rõ ràng cho các chàng trai:
      Ngọc còn ẩn bóng cây tùng
      Thuyền quyên còn đợi anh hùng sánh đôi.
      Tự ví mình là “ngọc” đợi “anh hùng” nữa mà thôi! Thật là hết ý!
      Nhưng không phải lúc nào cũng chỉ là phận “thuyên quyên” với “khách anh hùng”, mà ở họ còn là sự đồng cảm với các chàng trai trong cảnh cơ hàn dãi dầu vì miếng cơm manh áo:
      Thuyền than mà đậu bến than
      Thương anh vất vả cơ hàn nắng mưa Đương nhiên không phải đối tượng nào khi “ngỏ lời cũng thành công. Nhiều khi người con gái sẽ tế nhị mà đáp lời lại người “nhiều chuyện” với mình:
      Nghe anh em cũng muốn thương nhiều
      Nhưng hoa kia đà có chủ khó chiều dạ anh Quyết liệt hơn cô nàng trở giọng xưng “chị” mà nói:
      Em cắt thì chị trả công Mặt đây chẳng đáng làm chồng chị đâu.
       
      Gặp nhau, ướm lời để làm quen nếu thành công thì coi như “đầu đã xuôi” người trong cuộc tấn công tới đối tượng bằng những lời hò hẹn sắt đinh:
      Anh còn son em cũng còn son Ước gì ta được là con một nhà
      Họ mơ đến ngày vầy duyên mai trúc:
      Vái ông tơ năm ba chầu hát
      Vái bà nguyệt năm bay cuốn kinh
      Đôi ta gá nghĩa chung tình
      Dẫu ăn cơm quán ngủ đình em cũng ưng.
      Dầu nghèo khổ khi thương nhau họ sẵn sàng cùng nhau đi cùng trời cuối đất miễn là họ được gần nhau.
      Nhiều khi, do một nguyên nào đó mà họ chỉ là nạn nhân, chứ họ hoàn toàn vô tội, chàng trai mạnh miệng hứa hẹn:
      Kinh Xáng mới đào tàu Tây đương chạy
      Hai đứa mình có thương thì thương đại
      Đừng có nghi ngại bớ điệu chung tình
      Bao nhiêu thù oán để mình anh bao.
      Vượt qua tất cả những lễ nghi và điều kiện khắt khe mà phong tục tập quán đặt ra, họ đến với nhau bằng niềm hạnh phúc vô biên:
      Rượu lưu ly chân quỳ tay rót
      Cha mẹ uống rồi nối gót theo anh
      Đã thề non hẹn biển mà còn vì một nguyên nhân nào đó phải xa mặt cách lòng thì tương ta da diết. Có thể nói trong các cung bậc ở ca dao tình yêu lứa đôi, những lời thương nhớ là mãnh liệt hơn cả:
      Đêm nằm chiếc bóng đèn tây
      Vái cho gặp bạn khoả khuây cơn buồn Họ không ngần ngại thừa nhận:
      Gió sao gió thổi sau lưng
      Dạ sau dạ nhớ người dưng thế này.
      Không chịu đựng nổi thì tìm cách để gặp mặt người thương:
      Giả đò mua khế bán chanh Giả đò đi chợ thăm anh đỡ buồn
      Rồi thì:
      Một chờ hai đợi ba trông Bốn thương, năm sáu nhớ; bảy tám chín mong, mười tìm.
      Thương nhớ nhiều đến không còn nói đúng với hiện thực đang diễn ra:
      Tôi xa mình ông Trời nắng tôi nói mưa
      Canh ba tôi nói sáng, giữa trưa tôi nói chiều.
      Nhiều cô mượn áo người thương mà tìm hơi:
      Anh về để áo lại đây
      Đêm khuya em đắp gió tây lạnh lùng.
      Nhìn kỷ vật mà không nguôi thương nhớ:
      Dù ai bấm chỉ cổ tay
      Thì anh cứ giữ nhẫn này cho em Một nỗi lòng nhớ thương thường trực:
      Đêm năm canh ngày sáu khắc
      Thương nhớ chàng không giấc nào nguôi.
      Có khi vượt cả thời gian của “đời người":
      Sông dài cá lội bặt tăm
      Phải duyên chồng vợ ngàn năm em cũng chờ.
      Chờ em cho hết sức chờ
      Chờ cho rau muống lên bờ trổ bông.
      Nhớ thương quên ăn mất ngủ, cũng bởi vì tình. Quả là quá sức, đây là hình dáng của một kẻ tương tư:
      Chim chuyền nhành ớt líu lo
      Sầu ai nên nỗi ốm o gầy mòn.
      Nhiều khi nó gắn liền với không gian “buồn thiu”:
      Chim quyên thỏ thẻ, canh khuya vắng vẻ cô phòng Em thề tạc với non sông
      Thương ai mà đêm đợi ngày trông
      Liễu bồ thổn thức lâm vòng tương tư.
      Nhìn vật có đôi mà người thì chiếc bóng, thì không thể chịu nổi:
      Hồi hôm tôi có vô đình Hạc chầu đủ cặp sao hai đứa mình lẻ đôi
      Gắn liền với cung bậc tương tư nhớ thương nhau là sự đợi chờ người thương cho đến khi nên duyên chồng vợ, dù hiện tại không phải là không còn cách trở:
      Nước trong con cá giỡn sao
      Đôi ta lịu địu ngày nào nên duyên Họ chờ đợi bất chấp cả không gian, thời gian để chứng tỏ tình yêu chung thuỷ và bất diệt của mình:
      Anh nói với em sơn cùng thuỷ tận
      Anh nói với em nguyệt khuyết sao băng
      Đôi ta như rồng lượn trong trăng
      Dẫu xa mấy đi nữa cũng khăng khăng đợi chờ.
      Ca dao phần lớn dùng nghệ thuật “nói quá” để khẳng định:
      Chừng nào cầu ván hết đinh
      Mái chùa hết ngói hai đứa mình mới xa nhau Chờ đợi rồi nói lên lời nguyện ước:
      Đôi ta giao nghĩa bất ngờ Lòng ưa dạ muốn còn chờ mẹ cha.
      Khi đã yêu nhau da diết hò hẹn tương tư thương nhớ, đợi chờ như thế rồi mà với một lý do nào đó, chẳng hạn như:
      Chuối non vú ép chát ngầm
      Trai tơ đòi vợ khóc thầm nửa đêm
      - Khóc rồi mẹ lại đánh thêm
      Vợ đâu mà cưới nửa đêm cho mày.
      Họ không được gần nhau, thế là một hình thức “nổi loạn” xuất hiện. Nổi loạn cũng bằng nhiều cách. Xin được bắt đầu từ việc họ quyết tâm đến với nhau vượt cả đạo đức gia phong. Hình thức nổi loạn ấy xuất hiện ở ca dao Nam Bộ và Sóc Trăng có phần nhiều hơn ca dao ở Bắc Bộ, có lẽ là do tâm lý phóng khoáng hơn, luật lệ và nghi thức phong kiến cũng có phần nhẹ nhàng hơn. Khi nổi loạn thì cả trai và gái đều “sôi nổi” hào hứng hưởng ứng.
      Cá trê là nghĩa, cá dĩa là tình
      Má không thương, má không gả cho mình
      Đợi em đi cấy anh rình anh hun…
      Một chàng trai làm liều, một cô gái mạnh dạn khẳng định:
      Mẹ cha bú mớm nâng niu
      Tội trời em chịu không yêu bằng chồng Một chàng trai khác thì xui người mình yêu “trốn nhà” theo mình:
      Đồng hồ đánh vội sáu giờ
      Em không sửa soạn lên bờ theo anh.
       
      Hay:
      Thương nhau cuốn gói cho tròn
      Chờ cha mẹ ngủ em lòn theo anh Chàng trai này lại cương quyết “bảo vệ” người mình yêu, nếu việc “ăn cơm trước kẻng” kia có lỡ vỡ:
      Trời mưa sa lác đác
      Hột cát nhỏ dầm dầm
      Anh thương em anh lén khóc thầm
      Không cho cha mẹ biết ăn nằm với ai
      Còn đây là lời băn khoăn về hậu quả “tày trời” của cô gái:
      Mẹ cha an giấc đừng làm động đất cha mẹ hay
      Lén nhau ôm ấp đêm nay Giấu sao cho nhẹm việc này xấu thay
      Rồi cô nhận được sự trấn an của người tình:
      Miệng đời mặc kệ họ chê bay
      Keo sơn đà gắn chặt dạ đây
      Rủi mà em bậu có thai anh nhìn.
      Sự nổi loạn là biểu hiện thái độ bất bình, phản kháng chống lại bởi duyên tình dang dở của “đôi trẻ” là do “người lớn” gây nên:
      Do ông tơ se duyên kết nợ:
      Bắt ông tơ quánh sơ ít chục
      Mối chi sậm sờ ông ngủ gục không se.
      Hoặc:
      Rồi đây ta kiện ông tơ
      Chỗ thương không vấn, vấn vơ nơi nào? Do cha mẹ đôi bên:
      Bí lên ba lá trách ba với má sao chẳng bỏ giàn
      Để cho qua với bậu chung làng mà chịu cách xa.
      Có khi một kết cục đau đớn xảy ra:
      Sống làm chi anh một ngã, em một đàng Nắm tay ta nhảy xuống suối vàng cho có đôi.
       
      Tự do vượt qua lễ giáo, “cãi cha cãi mẹ trăm đường con hư” cũng không phải là sai. Sau những giờ phút ái ân hạnh phúc, cũng không ít cặp nhân tình đẹp lứa xứng đôi. Song, cũng còn nhiều cảnh đau đớn đến quặn lòng mà người con gái phải chịu đựng hậu quả thua thịêt. Các cô đã cảnh giác với những tên “Sở Khanh” như vầy:
      Còn duyên kẻ đón người dưa
      Hết duyên đi sớm về trưa một mình
      (Hoặc: Hết duyên như ổ ong tàn ngày mưa)
      Hay tệ bạc hơn nữa là:
      Bông súng mọc dưới thềm đìa
      Chim chi hút nhuỵ bỏ chìa trơ trơ
      Không đặng chàng ước chàng mơ
      Đặng rồi bỏ thiếp bơ vơ một mình.
      Vở kịch hay nào cũng đến hồi kết, tình đẹp nào cũng đến hồi kết thúc. Ở trên đã điểm qua phần nổi loạn trong ca dao tình yêu lứa đôi, đó cũng là một phần của hồi kết. Nhưng kết cục ấy chỉ mới một điểm trong cái kết cục tổng thể. Kết cục chung ở đây tạm coi như có hai ngả rẽ.
       
      Ngả rẻ thứ nhất: dang dở, chia tay.
      Có thể do tâm ý không hợp, do sự đèo bòng của những người trong cuộc:
      Đứng thấy nhan sắc mà mê Bỏ em hiu quạnh trăm bề em nhớ thương
      Mầm mống của sự chia ly:
      Mình nói rằng vài bữa mình vìa (về)
      Hay là mình muốn phân chia chữ tình.
       
      Do sự bội bạc của thói đời:
      Trách ai ở bạc như vôi
      Để em đứng ngồi trông ngóng thở than.
      Hoặc:
      Chê đây lấy đó sau đành Em chê cam sành lấy phải quýt hôi
      Tại cha mẹ hay một lý do rất “vô duyên” nào đó ngoài ý muốn:
      Tiếc công tôi súc ống lau bình
      Cậy mai tới nói phụ mẫu nhìn bà con.
      Vì không môn đăng hộ đối:
      Bởi anh mang chữ hàn vi
      Phiền thay phụ mẫu em khinh khi kẻ nghèo
      Vì bị nhà gái “đòi” cao không sao lo nổi:
      Anh về bán ruộng cây đa
      Bán cặp trâu già mới cưới đặng em
      Vàng vòng không sắm sửa đủ cho “cô dâu” tương lai chàng trai cũng đành chào thua:
      Em thương anh em chẳng đòi nhiều
      Đôi bông lượng mốt cái kiềng lượng hai.
      Vì tuổi tác không hợp:
      Màn treo sát đất gió phất màn lem
      Anh không đặng tuổi nên em không gần.
      Không vượt qua được những thử thách khắc nghiệt, oái oăm:
      Đố anh tìm được cái vẫy con cá trê vàng
      Cái gan con tép bạc thì em nguyền theo không?
      Hoặc do tính cách “trăng hoa” mà “lén phén” chuyện xằng của bậc mày râu, để rồi bị bắt bí, tự thua:
      Nghe anh hay chữ tôi hỏi thử đôi lời
      Ví mà anh đối đặng thì người ngợi ca:
      - Vợ anh buôn bán đường xa
      Có cô em vợ mượt mà ở chung
      Đang đêm mưa gió bão bùng
      Lỡ cô em vợ trúng gió anh dùng cách chi?  
      Phụ tình nhưng vẫn nặng tình:
      Sắt lâu còn có khi mòn
      Mẹ cha ép buộc duyên con
      Phụ tình lỗi ấy con còn ăn năn.
      Nhiều khi sự dang dở kia là do chàng trai chậm chân lỡ bước:
      Anh không thương, người khác thương rồi
      Phủi tay anh đứng dậy đừng ngồi uổng công
      Dù có ăn năn thì cũng đã là tan vỡ. Nhiều chàng trai tuy có đau khổ nhưng cũng lắm lúc mạnh dạn dứt tình:
      Thương không thương tôi cũng không cần
      Lựu với lê khó kiếm chớ ổi bần khó chi.
      Một sự trách móc nhẹ nhàng mà thấm thía:
      Chim đa đa đậu nhánh đa
      Chồng gần không lấy đi lấy chồng xa
      Mai đây cha yếu mẹ già Chén cơm đôi đũa bộ kỷ trà ai dưng
      Gặp nhau muộn màn trong hối tiếc:
      Em đã có chồng như ngựa có yên
      Anh đà có vợ như chim quyên có bầy
      Bây giờ gặp lại nhau đây
      Đừng nói nhừ vầy cho nó mắc công.
      Nhiều chàng cũng ngỏ lời bằng cảnh ngộ thật đáng thương!
      Khi nào nặng gánh anh chờ
      Qua cầu anh đợi, bây giờ bỏ anh.
      Không đợi lâu họ cũng nhận được những câu trả lời lại:
      Bước xuống cầu cầu quằn cầu gãy
      Bước xuống tàu nước chảy tàu nghiêng
      Tại anh căn nợ đảo điên
      Bây giờ anh trách anh phiền làm chi.
      Cuối cùng là tuyệt vọng não nề:
      Đũa bếp có đôi chìa vôi đủ bạn
      Anh xa em rồi làm bạn với ai.
       
      Ngả rẽ thứ hai: sự son sắt chờ ngày loan phượng hoà minh cùng hót vang bản nhạc chung tình:
      Chừng nào Ngã Bảy xây thành
      Chợ Ba Rinh xe lửa chạy anh mới đành xa em.
      Tình yêu kia luôn luôn nồng nàn bùng cháy:
      Yêu nhau từ độ má hồng
      Đến khi má tóp lưng còng cũng yêu
      Cho dù có “chết” họ cũng không rời xa:
      Phụ mẫu đánh em quật quà quật quại treo tại nhành dương
      Phụ mẫu bảo từ ai thì em chịu chứ từ bỏ người thương em không từ.
      Với cô gái là thế, với chàng trai cũng không kém phần chung thuỷ:
      Dế kêu khoả lấp cơn sầu
      Mấy lời em nói bạc đầu anh chẳng quên.
      Hay:
      Dao phay kề cổ máu đổ anh không màng
      Chết thời anh chịu chết chớ buông nàng anh không buông.
      Tình yêu đó giúp họ nên vợ nên chồng. Từ đây, giai đoạn yêu thương nồng cháy đã tạm kết thúc để chuyển sang một cung bậc mới: tình cảm vợ chồng trong gia đình bé con mà họ vừa tạo dựng:
      Râu tôm nấu với ruột bầu
      Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
      Sống bên nhau tình yêu nên nghĩa ngày thêm mặn nồng:
      Chim quyên ăn trái nhãn lồng
      Thia thia quen chậu vợ chồng quen hơi
      Như ngày đầu yêu nhau, giờ đây họ khẳng định tình nồng duyên thắm ấy trong bất kỳ hoàn cảnh nào:
      Đạo nào bằng đạo vợ chồng
      Dầu lâm cơn hoạn nạn cũng bế bồng nuôi nhau.
      Trong đạo vợ chồng lại kéo theo một hệ quả nữa. Hạnh phúc dạt dào như trên đã nói thì thật đáng mừng và trân trọng:
      Vợ chồng như đôi chim cu
      Chồng thời đi trước vợ gật gù theo sau.
      Nhưng cũng lắm khi chung sống rồi lại vỡ tan, gây nên nhiều cảnh tượng đau lòng chua chát cho những trẻ thơ, những nạn nhân vô tội:
      Trời mưa bong bóng phập phồng
      Má đi lấy chồng con ở với ai Một người chồng đào hoa sẽ tan nhà nát cửa như chơi:
      Một chồng một vợ thì sang
      Một chồng hai vợ tan hoàng cửa nhà
      Một chống một vợ hiệp hoà
      Một chồng ba vợ ắt là phân chia.
      Não lòng hơn:
      Gió đưa bụi chuối sau hè
      Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ
      Kẻ ngoài cuộc “thừa gió bẻ măng”:
      Nước ròng trong ngọn chảy ra
      Tin em chồng chết, anh bôn ba qua liền.
      Một hạnh phúc mới đang đến hay đang xa dần trong tâm hồn những người trong cuộc … vẫn vang vọng trong lòng người đến tận hôm nay và mai sau,…
       
       
      Như vậy với tất cả các ngỏ ngách trong những trạng thái của người mới bắt đầu yêu cho đến hồi kết thúc đều được ca dao dân ca ghi nhận lại. Đó là những hạt ngọc quý giúp chúng ta - những kẻ hậu sinh - hiểu biết và càng trân trọng tâm tình của tiền nhân ngày trước.
       
       
       
       
      Minh Thương, trường THPT Mai Thanh Thế, Ngã Năm, huyện Ngã Năm, Sóc Trăng. Đ.T: 0983901995.
      Gặp gỡ - làm quen - Ngỏ lời - hẹn ước thề nguyền trao kỷ vật– tương tư - đợi chờ - ); tan vỡ (nhiều nguyên nhân); nên chồng nên vợ (hạnh phúc; tan vỡ)
       
      TV TV
      TV TV Còn duyên kẻ đón người đưa Hết duyên đi sơm về trưa một mình (Hết duyên như ổ ong tàn ngày mưa)
      TV
      N N Chào anh ở trỏng mới ra Nên anh mới biết em đà có con
       
      Đi Ngang Về Tắt (Bị Bỏ Rơi) TC Tới đây thì ở lại đây Bao giờ bán rễ xanh cây mới về.
      TV
      Thuỷ chung:
      Thử thách  
      Kỷ vật  
       
      Tình cảnh Gió Nam non thổi lòn xuống biển Anh với nàng một kiểng (cảnh) hai quê.
      HT
      HT Phụ mẫu sanh em để phụ mẫu em định Em đâu dám cãi lệnh sợ phụ mẫu em rầy Anh về đưa mai mối tới đây Phụ mẫu em ừ, em sẽ ưng anh
      HT
      HT
      T TC Chẳng qua duyên nợ trời xui Dẫu cha với mẹ có giết tôi tôi cũng đành
      Đạo vợ chồng; kết quả của tìnhyêu   Dao vàng tra cán gỗ mun Thương em bất tử muốn hun bây giờ
      N Nón nan đứt chỉ tung vành Để anh về hỏi lại phụ mẫu đành hay không?
      TC
      TC Đó phụ đây đây không phụ đó Tôi phú với trời ai phụ mặc ai?
      TC TC TC Em thương anh em sắm cho anh cái áo bà ba trắng không vắn cũng không dài Sao anh đà không bân bận hoài cái áo vải đen.
      TC
      TC
      TC TC Râu tôm nấu với ruột bầu Chống chan vợ hú gật đầu khen ngon.
      TC TC TC Thấy em bậu phụ tình anh, tức mình anh muốn chết Chờ người ta ngủ hết anh lấy cái gối gòn Đập đầu cho rảnh nợ chớ còn nghi nan.
      TC
      TC
      TC TcẢNH
      TH
       
      TN
      TT
      TT
      TT TV
      UN Em ngó lên trời trời cao lồng lộng Ngó xuống đất đất rộng thênh thang Lục bình trôi theo nước, bên nội, bên ngoại cũng muốn anh gần Tại anh có phước một mình em thương
      Trời mưa cho ướt lá chanh Ướt em thì em chịu chứ ướt anh em buồn Thò tay hứng giọt mưa tuôn Để anh lấy nước rử buồn cho em
       
      #3
        TranMinhThuong 03.12.2008 16:17:48 (permalink)
        Văn hoá ứng xử của người dân Cửu Long qua hình tượng “cá tôm” trong ca dao.

                                                                   Minh Thương


         
        Cà Mau khỉ khọt trên cây
        Ruộng đồng lai láng cá bầy đua bơi


        Cà Mau nói riêng và miền Tây Nam Bộ nói chung, đồng ruộng mênh mông, đất đai cò bay thẳng cánh, kênh rạch, sông ngòi chằng chịt là điều kiện sinh sống lý tưởng cho hàng trăm loài cá tôm, … Ngay từ khi mới đặt chân đến vùng đất hoang sơ này cách nay vài ba thế kỷ, con người không khỏi “bàng hoàng” bởi những con cá con tôm sống lâu đến “có râu”:

        Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
        Con chim kêu cũng sợ con cá vùng cũng kinh.


        Và rồi với đôi bàn tay giàu nghị lực chịu thương, chịu khó, với bộ óc thông minh sáng tạo, với tâm hồn thật thà chân chất mà phóng khoáng như vùng đất đầy ắp phù sa, họ đã biến những cánh đồng phèn chua nước mặn trở thành những ruộng lúa phì nhiêu. Đi liền với chén cơm, bồ lúa, cá tôm lại trở thành thứ thực phẩm không thể thiếu phục vụ con. Từ những món ăn thường nhật đến khi đãi bạn bè phương xa đến thăm, hay ở những lễ hội cưới nói, giỗ chạp, cá tôm hầu như không lúc nào vắng mặt. Từ nét sinh hoạt văn hoá ẩm thực hàng ngày, cá tôm lại đi vào đời sống tâm hồn của người bình dân. Cụ thể, nó xuất hiện với một tần số khá cao qua những lời thơ tiếng hát đậm đà hương vị chân đất chân quê. Xin được nhắc lại cùng bạn đọc những hình ảnh “cá tôm” trong các câu ca dao về văn hoá ứng xử của người miệt đất chín rồng ấy!
        Từ những món ăn bên mâm cơm, bàn tiệc…
        Những món ăn dân dã, dễ làm, không mất nhiều thời gian chế biến:

        Ví dầu cá lóc nấu canh
        Bỏ tiêu cho ngọt, bỏ hành cho thơm.


        Nghe qua tưởng chừng như nghịch lý, nhưng điều mà câu ca dao thể hiển được người bình dân nói rất đúng nếu ai đã thưởng thức qua hương vị của những canh cá lóc!
        Cá lóc, cá trê, cá rô, … là những loài sống rất phổ biến ở đây. Cá lóc trở thành “đặc sản” thứ thiệt trong ăn uống:

        Bắt con cá lóc nướng trui
        Làm mâm rượu trắng đãi người phương xa


        Cá lóc xỏ lụi bằng que tre, nhánh trúc cắm chút đầu xuống dưới chất rơm khô đốt cho đến khi cá chín vàng, lấy cây cạo cho hết lớp vảy cháy đen bày cá ra trên nửa tàu lá chuối xiêm lớn, nước mắm me, ớt, rau rừng hái sẵn mang về, cùng “ly rượu đế” đã làm cho khách phương xa … ấm lòng, hả dạ!
        Con cá, con tôm cũng có thể nói thay người:

        Muốn ăn cơm trắng cá trê
        Theo nghề chài lưới thì về với anh


        Miệng chài, tấm lưới là những dụng cụ đánh bắt … cá tôm. Nó cũng từng là “nghề nghiệp” sinh sống của không ít người lao động ở vùng đất mới. (Cũng xin được mở ngoặc nói thêm: chài lưới để bắt cá tôm tức là đâm hà bá – nhứt phá sơn lâm, nhì đâm hà bá, theo dân gian đây là nghề hạ bạc!)

        Từ cá làm ra mắm, mắm có nhiều loại mắm trê, mắm lóc, mắm bò hóc, mắm còng, … mắm có nhiều cách ăn: ăn sống, chưng, chiên hoặc kho, … mắm trở thành hương vị đồng quê quyến luyến hồn người xa xứ:

        Muốn ăn bông súng mắm kho
        Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm


        Phải chăng đó cũng là lời ngợi ca sự giàu đẹp trù phú của những nơi còn hoang hoá.
        …đến nhiều thông điệp của người bình dân muốn gởi gắm vào hình tượng …con cá!
        Qua những lời mộc mạc kia, con cháu hậu sinh hôm nay có thể thấy được những phong tục của cha ông cha ngày trước để lại:

        Cồng cộc bắt cá dưới sông
        Mấy đời cháu ngoại giỗ ông bao giờ


        Cồng cộc là loại chim hay bắt cá ở bàu, đìa, nơi lắm cá tôm. Tác giả dân mượn hình ảnh ấy để nói lên một tục lệ của gia đình phụ hệ. “Con gái là con người ta”, cháu ngoại tức là người ngoài không phải lo hương khói cho “ông bà ngoại” sau này, mọi việc hậu sự chỉ do cháu nội, người “bên trong” lo lắng! Một thực tế, có khi phủ phàng và biết đâu ẩn đằng sau câu ca ấy còn là những lời trách hờn mà người bình dân muốn gửi gắm. Có dị bản nữa như chứng mình điều đó:

        Cồng cộc bắt cá dưới bàu
        Ông ngoại mày giàu mầy giỗ đầu heo


        Cháu ngoại không giỗ ông ngoại, nhưng nếu “ông ngoại giàu” cháu giỗ đầu heo! Thật là nghe qua “đã thấy hơi đồng mà ghê”!
        Hình ảnh cá tôm cũng không thiếu trong những câu ca đậm đà tình nghĩa:

        Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
        Miệng nhai cơm bún lưỡi lừa cá xương


        Một người con chí hiếu nhớ bóng hình của người mẹ thân yêu ngày xưa, người mẹ ấy đã chắt chiu như chim mẹ mớm mồi cho con, lo cho con từng miếng ăn giấc ngủ! Từ đó, phận làm con tự cảm thấy trách nhiệm thiêng liêng đối với đấng sinh thành:

        Ba đồng một khúc cá buôi
        Cũng mua cho được mà nuôi mẹ già


        Sang lĩnh vực khác, vượt ra ngoài khuôn khổ gia đình, bước ra ngoài xã hội:

        Nước không chưn sao kêu bằng nước đứng
        Con cá không trèo sao gọi cá leo


        Mượn nghệ thuật chơi chữ, câu ca như muốn gửi gắm nhiều ẩn ý với con người và cuộc đời đầy … ngang trái, oái ăm. Dù đó là sự thực trăm phần!
        Nói đến thân phận chim lồng cá chậu ca dao có câu:

        Thân em như cá trong lờ
        Hết nơi vùng vẫy không biết nhờ nơi đâu


        Đại từ nhân xưng em ở đây hàm nghĩa, thấp, bé nhiều hơn để chỉ giới tính. Lời thơ có lẽ xuất phát tự đáy lòng của ai đấy trong hoàn cảnh “cùng đường” không lối thoát!
        Song, chuyện đời lúc nào cũng có hai mặt:

        Sá bao cá chậu chim lồng
        Hễ người quân tử cố cùng mới nên


        Bất chấp hoàn cảnh, con người cần có ý chí, nghị lực vươn lên! Ai làm được điều đấy, dân gian đã thẩm định rồi, chắc chẳng thể sai được!
        Hoặc giả ở đó có những ước mơ:

        Thiếp như cá ở biển đông
        Chờ khi nước cạn hoá rồng lên mây


        Cái ngày cá chép vượt vũ môn hoá rồng kia có lẽ còn xa, nhưng mơ ước vẫn phải cứ ước mơ. Thế thôi!
        Trên con đường hoạn lộ, chốn quan trường không ít điều … bẽ bàng:

        Cá trong lờ lờ đờ ngoắt ngoải
        Cá ngoài lờ khắc khoải chun vô


        Mượn hình tượng có thật của con cá để nói đến con người. Người được “ở đấy” thì ngay than đêm thở, người ở ngoài ngỡ đấy ấm êm nên cố tìm, cố vượt để … vào vị trí đó! Không khác chi bầy cá sặc có con chui vào lờ, chờ người đến bắt về chiên kho, làm khô, làm mắm, vậy mà đám còn lại không biết … thân biết phận tránh đi … lại cố chun vào … rọ!
        Một trường hợp khác, trong cuộc sống đôi lúc người ta cố tránh vỏ dưa liền gặp ngay vỏ dừa:

        Chê tôm ăn cá lù đù
        Chê thằng ỏng bụng lấy thằng gù lưng


        Tôm là thứ thuỷ sản ngon hơn gấp nhiều lần cá lù đù. Hai con vật được đem ra so sánh với hai dạng người: thằng ỏng bụng và thằng gù lưng! Thế mới biết nói thâm thuý đến dường nào! Nghịch cảnh đó còn được dân gian cố tình trêu ngươi bằng hình tượng “nói ngược” độc đáo:

                Buổi chợ đương đong con cá lòng tong anh chê lạt
                Buổi chợ tan rồi con tép bạc khen ngon


        Qua thật, câu ca rất đa chiều, đa tầng nghĩa. Cá lòng tong dùng để kho tiêu, là món ăn đạm bạc, không thể nào sánh được với tép bạc, con vật cùng họ nhà tôm này có thể chế biến nhiều món ăn “cao cấp” hơn nhiều. Vậy, cách nói ngược ấy nói lên điều gì? Phải chăng là cuộc đời quá nhiều bạc bẽo (dùng từ bạc đa nghĩa trong “tép bạc”?), trắng hoá đen, vật đổi sao dời khó bề liệu tính!
        Cám cảnh, biết trước việc mình làm hiệu quả không cao, nhưng không còn cách nào khác:

        Nước sông đang chảy vội ngừng
        Muốn quăng câu sợ cá lạ cần không ăn


        Hay đây cũng là những ý tưởng lưu luyến buổi ban đầu của cung bậc “ngỏ lời” nhằm ướm thử “đối tượng” trong tình yêu lứa đôi! Có lẽ nên hiểu cả hai nét nghĩa ấy, song có điều tuỳ trường hợp cụ thể mà vận dụng vào để từ chủ thể trữ tình dân gian thành chủ thể của chính người ngâm nga hay đọc thầm cho hợp cảnh, hợp tình, hợp lý …!
        Để phê phán những người trông mặt mà bắt hình dong, nhìn thoáng bề ngoài đã vội vàng nhận xét, nhưng sự thật của nội dung thì hoàn toàn trái ngược:

        Dưới sông cá lội có cờ
        Tưởng đâu ô mã ai ngờ lý ngư


        Ô mã là ngựa đen, còn lý ngư là cá chép. Hai giống vật hoàn toàn khác xa nhau vậy mà … chủ thể trữ tình ở đây lại … không nhận ra nỗi. Sự “cố ý” đó phải chăng là một bài học ở đời dành cho hậu thế!
        Tương tự, đối với những người nông nỗi chẳng rõ lẽ phải trái:

        Cá sặt mà rượt cá rô
        Ăn nói xô bồ chẳng biết trước sau


        Ở đây, bài học rút ra có khác đi chút ít. Nếu ở trên cái cười dành cho kẻ “mắt không sáng” thì ở đây cái cười, dành cho kẻ huyên thuyên lắm mồm!
        Chuyện thế gian sao dời vật đổi cũng là chuyện thường tình:

        Con cá lóc nằm trong bụi lách
        Con chim le le đứng đó mà lo
        Lo cho biển cạn thành gò
        Sông sâu lắp lại con đò thôi đưa


        Nước chảy đá mòn, trách sao lòng người không thay đổi, có lẽ nỗi niềm u uất, hoài vọng “chuyện ngày xưa” của nhân vật trữ tình thốt ra từ bài ca trên nhằm vào chỗ đó! Tuy vậy, cũng cần lưu ý tính đa nghĩa, nghĩa nước đôi, lấy chuyện “bãi bể hoá cồn dâu” để nói đến nhân tình thế thái vốn không ít lần xuất hiện trong ca dao!
        Thoạt nghe ngỡ là người kiên nhẫn, chịu khó nhưng thực tình đấy là chuyện làm không đâu vào đâu.

        Liều mình lặn xuống ao sâu
        Đặng đo miệng cá uốn câu cho vừa


        Quả là một việc làm … vớ vẫn hơn cả chuyện “lo bò trắng răng”. Bài học ấy hẳn rất có giá trị cho những ai không tiên liệu, làm chủ được mục đích cho công việc của mình.
        Chuyện ở đời đen trắng, trắng đen, khôn dại, dại khôn khó bề liệu lường.

        Cá không ăn câu kêu bằng cá dại
        Cá mắc câu rồi đổ tại cá tham ăn


        Nếu “không biết nghĩ suy” không biết “cân nặng nhẹ”, không biết “dò nông sâu” chắc sẽ để tiếng cười cho người khác, thậm chí thiệt thân vô ích!
        Và cũng từ chuyện dáng hình của cá người bình dân gửi gắm, răn dạy con người.

        Cá lưỡi trâu sầu ai méo miệng
        Cá trèn bầu nhiều chuyện trớt môi


        Sự thật hình dáng hai loại cá này là thế, nhưng nghĩa của nó không dùng lại ở, đọc kỹ mà xem.
        Đôi lúc, trong kinh nghiệm chọn mặt hàng, các bà, các chị cũng thật sâu sắc:

        Mua cá thì phải xem mang
        Mua bầu xem cuống mới toan không nhằm


        Muốn biết cá tươi hay cá ươn xem mang cá đỏ hay tái sẽ nhận được dạng. Cũng vậy, muốn biết bầu tươi hay bầu héo, úa xem lấy cuống bầu tất sẽ biết ngay! Một kinh nghiệm nhỏ nhưng thật đáng để cho những ai quan tâm đến công việc … bếp núc!
        Từ món ăn ngon canh chua bông so đũa nấu với cá rô đồng quen thuộc:

        Canh chua nấu cá rô đồng
        Lơ mơ có kẻ mất chồng như chơi


        Đằng sau món hấp dẫn kia, dân gian còn phát hiện ra đấy là một món bỗ dưỡng có tác dụng hỗ trợ tốt về mặt sinh lý vợ chồng. Họ rất tinh tế khi nêu lên lời cảnh báo như vậy!
        Con cá cũng xuất hiện cùng những tâm sự thầm kín:

        Sông dài cá lội huyên thuyên
        Lòng anh muốn bắt cá lội riêng một mình
        Hoặc trong cảnh ngộ:
        Nước trong cá đuối chạy theo
        Lái buôn hết gạo bỏ neo cầm chừng


        Một điểm nhấn quan trọng trong cuộc đời con người là tình yêu lứa đôi. “Cá tôm” cũng chứng kiến bao nụ cười tươi rót, bao giọt lệ thầm của các chàng trai cô gái đang yêu. Xét thấy vấn đề quá đa dạng nên xin được đề cập vào một dịp khác, tỉ mỉ và sâu sắc hơn.
         
        Tóm lại: bằng những ngôn ngữ mọc mạc chân chất mà không kém phần thâm thuý, từ những nét văn hoá ẩm thực, dân gian đã đúc kết bao nhiêu hình tượng để rút ra những bài học có giá trị nhân văn cao cả cho những ai không quên nguồn cội. Đi tìm trong di sản ngày xưa, người viết bài này cảm thấy mình như những đứa con thơ được may mắn các bậc sinh thành nâng niu chăm chút. Có học ở đó mới có nên người:

        Cá không ăn muối cá ươn
        Con cãi cha mẹ trăm đường con hư!

         
         
         
         
         
         
        Trần Minh Thương, Trường THPT Mai Thanh Thế, Ngã Năm, huyện Ngã Năm, Sóc Trăng; ĐT: 0988092618. email: tranminhthuong1995@yahoo.com.vn
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 03.12.2008 21:35:43 bởi Ct.Ly >
        #4
          TranMinhThuong 17.12.2008 08:31:22 (permalink)
          Vấn đề đố tục giảng thanh và đố thanh giảng tục trong kho tàng câu đố Việt Nam.
          Minh Thương
          Khái niệm về câu đố: Trước nay, có nhiều khái niệm được đưa ra, trong khuôn khổ bài viết này chỉ xin dẫn ra một số ý kiến như vậy:
          Câu đố là tiếng cười của trí tuệ, thông minh linh hoạt . [Nguyễn Văn Trung: Câu đố Việt Nam, Nxb TP. HCM, 1986].
          Câu đố là những sáng tác dân gian ngắn gọn miêu tả sự vật bằng lời nói chệch (nói một đằng hiểu một nẻo) [Theo Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Lộc (chủ biên) Văn học 10, T 1 phần văn học Việt Nam (sách chỉnh lý hợp nhất năm 2000). Nxb GD 2001]
          Câu đố là một thể loại văn học dân gian mà chức năng chủ yếu là phản ánh đặc điểm các sự vật, hiện tượng bằng phương pháp giấu tên và nghệ thuật chuyển hoá gây nhiễu (chuyển vật nọ thành vật kia) được nhân dân dùng trong sinh hoạt tập thể để thử tài suy đoán, kiểm tra sự hiểu biết, mua vui. [Nhiều tác giả, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo Dục, 2006]
          Như vậy, dù định nghĩa nào thì câu đố cũng có phải đảm bảo ba yêu cầu chính: cấu tạo; chức năng; hình thức và giá trị sử dụng.
          Câu đố gồm hai phần: lời đố và vật đố.
          Thế nào là yếu tố tục: Theo Việt Nam Tự điển của Lê Văn Đức (cùng nhóm thân hữu soạn), Nhà sách Khai Trí, S.1970, “tục” là thói quen thành lề lối, thành luật, thành lệ: Nước trên trời có khi trong khi đục/ Người ở đời có kẻ tục, người thanh (Ca dao)
          Từ điển Hán Việt của Nguyễn Văn Khôn do nhà sách Khai Trí in năm 1960 thì giải thích: tục là thói quen, trần thế. Tóm lại: tục là thói quen, nhưng hiểu rộng ra thì đó là những thói quen “trần thế”, “trần tục của con người. Nó nghiêng nhiều về tính bản năng. Đó là những nhu cầu cần thiết được con người gọi là “tứ khoái”: ăn, ngủ …
          Câu đố tục trong văn học dân gian Việt Nam : Là câu đố có lời đố mang yếu tố tục, với các từ chỉ bản năng con người, hoặc khơi gợi trí liên tưởng đến những bộ phận trong cơ thể người, nhất là cơ quan sinh dục, … hoặc trong lời đố chỉ là những yếu tố bình thường, những vật đố là tục, là những bộ phận, chất thải của cơ thể,  …
          3.1 Câu đố tục giảng thanh: nghĩa là lời đố có yếu tố, hoặc từ ngữ gợi “tục”, còn vật đố là những vật dụng sinh hoạt hàng ngày, là cây cỏ, hoa trái, bánh mứt, …
          a. Lời đố chứa những từ chỉ cơ quan, bộ phận sinh dục, … của con người.
          Từ những từ ngữ còn tương đối “nhẹ nhàng” kiểu các câu đố xuất vật danh sau đây:
          Có mái mà không có trống,
          Có đái mà không ỉa?
                                                   Mái nhà
          Những từ không được sạch sẽ trong câu đố kia chính là một hiện tượng của tự nhiên, mưa rơi trên mái nhà, từ mái nhà nước mưa chảy xuống, lại được “cố ý” dùng chệch đi với hành động tiểu và đại tiện của con người.
          Hoặc lời đố có chứa “chất thải”:
          Anh kia đội cứt đi đâu,
          Tài chi mà lại mọc râu sái hàm.
                                   Con tôm
          Để đố về một loại củ (xuất đầu):
          Bằng trang trái quýt,
          Dưới đít có lông.
                                                           Củ hành
          Đến những từ ngữ mà ít sách vở nào viết đầy đủ chữ, để tránh phản cẩm thẩm mỹ, dù lời đố đó chỉ hướng đến đối tượng bình thường (giảng thanh).
          Câu đố về các con vật:
          Lù lù như mu l … chị,
          Lị sị như đầu b … tôi,
          Ngày thời đi khắp mọi nơi,
          Đến đêm lại chiu vào mu l … chị.
                                            Con rùa
          Dựa vào hình dạng của “con chuột” – con vật được đố.
          Mình bằng quả chuối tiêu,
          L … bằng vỏ trấu, lỗ bằng niêu.
          Đố về vật dụng, kho tàng câu đố dân gian cũng có những câu mà lời đố chứa yếu tục tương tự như trên:
          L … già da dính tận xương,
          Váy xanh mỏng mảnh lại thương bìu dài.
                                                    Cối giã gạo
          Đố đến cái nia để đựng khi các bà, các chị sàng gạo:
          Không chân, không tay mà hay mó l …
          Để đố cái gàu sòng tát nước, ta hãy nghe lời thơ dân gian sau đây:
          Bà Ba mà dạng chân ra,
          Một ông đứng giữa mà tra c… vào.
          Để đố “miếng trầu bây giờ bà ăn”, dân gian sử dụng hình ảnh:
          L… già ăn với cà kheo,
          Lại thêm c… lõ và đèo năm lông.
          Đố về một hành động: chuột bị mèo bắt ăn thịt, người đố cũng “cố ý” dùng những yếu tố tục:
          Vừa bằng cổ tay đâm ngay vào l…,
          Gặp ông quan ôn bỏ l … bỏ chạy.
          Đố về hành động tác đìa (loại ao nằm giữa ruộng và vườn của người miền Tây Nam Bộ) bằng gàu vai của hai người đàn ông, tác giả dân gian khéo mượn hình ảnh sinh thực khí của người phụ nữ và động tác làm tình của phái nam để đố:
          Cái l … có bốn cọng lông,
          Hai thằng cha đàn ông nấc cong xương sống.
          Hay một hành động của chị thợ may:
          Hai sợi lông l… sợi dài sợi ngắn
                                                   Xỏ kim
          Hành động của một người kéo vó, với nhiều động tác không khác chi các động tác trai gái “yêu” nhau rồi sinh con đẻ cái:
          Canh một thì trải chiếu ra,
          Canh hai bóp vú canh ba sờ l…,
          Canh tư thì nấc xom xom,
          Canh năm cuốn chiếu ẵm con mà về.
          Cũng có khi dùng yếu tố tục trong lời đố tục với nghĩa “hỏi cắc cớ”, chơi chữ cùng lúc chỉ hai ba đối tượng. Vật đố được hướng đến hình như không được chú trọng bằng “vật” của người nghe đố (!)
          Đố em l …  ở chỗ nào,
          Đẻ ra ngàn trứng thì bao nhiêu l …
                                                   Con cá
          Đố về một loại cây, bằng cách sử dụng từ đồng âm để liên tưởng:
          Má ơi con muốn chú này,
          Hà bá đ… mày để chú ấy tao.
                                               Cây chành dành
          Rõ ràng những từ viết không nguyên vẹn ngữ âm như trên là những từ “tục”. Thế được nó lại được hướng nghĩa đến một đối tượng khác …đúng như chức năng và cấu tạo của thể loại văn học dân gian: câu đố!
          b. Lời đố dùng những từ ngữ miêu tả động tác, âm thanh gợi đến cảnh ái ân, hình thể của con người, …, những từ về mặt cấu tạo ngữ âm không tục, nhưng nghĩa lại gợi tục.
          Miêu tả động tác của người bào cây:
          Hai tay anh nắm lấy vai nàng,
          Cái chân quỳ xuống nấc hoài không thôi,
          Nắc cho đến đổ mồ hôi,
          Khi nào mỏi mệt móc hoài nó ra.
          Thực ra từ “nấc” ở đây là đã viết trại đi, chính xác thì â kia phải thay bằng ă, và đó là một khẩu ngữ chỉ … hành động giao hợp nam nữ! Rõ ràng động tác của người thợ bào cây không khác gì động tác … trên giường! Mượn cái hình ảnh này để đố hình ảnh kia là nét cấu tạo thường thấy trong câu đố dạng này.
          Để đố về một hành động “móc cua”, người ta cũng cố gợi đến … chuyện ấy!
          Hai bên cỏ mọc xanh rì,
          Ai mà đi tới phải quỳ một chân,
          Đút vô cửa động thiên thần,
          Rút ra cái bóc mày quần cắn tao.
          Động tác mở khoá cũng vậy:
          Anh ơi có đút thì đút cho sâu,
          Đừng lắc qua lắc lại như trâu đi cày.
          Dùng ghe xuồng đi lại là chuyện thường ngày trên con rạch, dòng sông ở miệt đồng bằng Cửu Long. Nhưng khi để đố về một hành động “chèo ghe” thì cách liên tưởng sau đây quả là “hấp dẫn”:
          Em ơi nằm dưới cho yên,
          Thân anh mệt nhọc ngả nghiêng cả người.
          Đây là hình ảnh để người trả lời có thể hướng đến đối tượng được đố là “cây quạt giấy”:
          Vuông vuông góc xéo về ba,
          Chính giữa lại thiếu một chút da,
          Nhấp nhấp vài cái sướng quá ta,
          Không nhấp thì nước lại chảy ra.
          Để đố cái cối xay lúa ngày trước, hình ảnh sau đây cũng thật dễ khiến liên tưởng đến chuyện nọ, chuyện kia!
          Ông nằm dưới trỏ ngỏng lên,
          Bà nằm trên rên hừ hừ.
          Cũng đố cái cối xay, ta có một câu khác:
          Mỗi người một nước một nơi,
          Làm thân con gái nằm chơi trên bụng chồng.
          Đói no thiếp lòng,
          Ăn mặc cho chống thiếp chẳng bận chi,
          Thiên hạ lắm kẻ yêu vì,
          Giằng đi kéo lại cũng chẳng bận chi đến chàng.
          “Chơi” ngoài nghĩa thông thường thì trong khẩu ngữ dân gian còn một nét nghĩa độc đáo khác, ở đây được tác giả dân gian khéo léo sử dụng nghĩa ấy để lồng vào trong văn cảnh đố.
          Cái áo tơi đi mưa của người nông dân chân lắm tay bùn khi đã là vật đố, thì lời đố cũng gợi lên nhiều chuyện:
          Lồm xồm hai mép những lông,
          Ở giữa có lỗ đàn ông chui vào.
          Chui vào rồi lại chui ra,
          Năm thì mười hoạ đàn bà mới chui.
          Hành động mẹ cho con bú, lại được liên tưởng đến hành động trong phòng the của “vợ chồng”:
          Một người nằm, một người ngồi,
          Đút vào sướng lắm em ơi,
          Rút ra đánh choách,
          Miệng cười toét loe.
          Một dị bản khác:
          Cục thịt đút vô lỗ thịt,
          Một tay sờ đít một tay sờ đầu,
          Đút vào một lúc lâu lâu,
          Nhột ở múm đầu nước chảy ứa ra,
          Da non nút chặt da già,
          Kéo cưa đưa đẩy rút ra cùng cười.
          Một người hút thuốc lào:
          Lỗ trên toét toè loe,
          Lỗ dưới toét toè loe,
          Anh bịt lỗ dưới anh đè lỗ trên,
          Cô mình tức cô mình kêu lên,
          Đã vừa mệt nhọc lại thêm mất tiền.
          Rõ ràng tác giả dân gian đã vận dụng rất thành công hiện tượng chơi chữ đồng âm dị nghĩa trong tiếng Việt để tạo ra những tình huống liên tưởng “không ngờ” nhằm “bắt bí” người nghe đố.
          Xin nêu thêm một số trường hợp lời đố gợi tục thật đa dạng sau đây:
          Đố về đồ vật:
          * Trên bằng da dưới cũng bằng da,
          Đút vào thì ấm rút ra lạnh lùng.
                                         Đôi vớ.
          * Mình chuông vuông vắn,
          Tay ngắn chân dài,
          Trèo qua hai hòn động thiên thai,
          Hai tay ôm lấy nàng tiên thục nữ.
                                       Cái yếm
          Đố về bánh:
          Thân em vừa trắng vừa tròn,
          Sao anh lại nở lột quần em ra,
          Lột quần anh cũng chẳng tha,
          Anh lấy miếng thịt anh tra ngay vào.
                                                Bánh dày giò
          Đố về cây:
          Tắt đèn chẳng thấy lối đi,
          Chân lần tay vịn ra thì nhà sau,
          Rủi ro mũi đụng má đào,
          Của cô em vợ lao xao cả nhà.
                                               Rau mò om
          Đố về con vật:
          *Yếm nàng nịt,
          Áo nàng gài,
          Nàng yêu ai,
          Nàng quẹo đít.
                                                          Con ốc
          *Khom khom như cái bàn tay,
          Mồm thì mồm dọc ngậm ngay hạt hồng,
          Hai bên có hai hàng lông,
          Ở giữa hạt hồng đỏ loét đỏ loe.
                                               Con sò huyết
          Nhiều khi sử dụng cách “nói lái” quen thuộc trong khẩu ngữ:
          Giữa thanh trúc xung quanh luỹ mây,
          Tồn li, không phải tồn lì,
          Hoá ra tồn lì.
                                                                      Cái nia, cái tràng
          3.2 Đố thanh giảng tục: ngược lại lời đố mang những từ ngữ bình thường, trang nhã nhưng vật đố là bộ phận của cơ thể con người, những chất thải do con người tạo ra. Vật đố đó là những từ thường được nói tránh đi, bởi nó không “sạch sẽ” cho lắm!
          Miêu tả một hành động đi ngoài, tác giả dân gian lại dùng nhiều từ Hán Việt khéo gợi cho người nghe đến một vị tướng xuất quân, ý đồ “đánh lạc hướng” chính là chỗ đó.
          Anh hùng phi ngựa thật nhanh,
          Mã đáo công thành mặt vẫn nhăn nheo.
          Đối với đời sống người dân quê, cái nhà vệ sinh “ven sông” ngày trước quả không phải là đều ít thấy, ít gặp. Nó được làm bằng cây dùng lá dừa nước che tạm để người cần ngồi vào cũng có cái mà che chỗ cần che. Dựa vào đặc điểm ấy, tác giả nêu câu đố: Nhà rách có khách hoài, đổ hướng đến vật đố là “nhà” mà mọi người hay “đến” đấy! Trước khi đến …, con người có những lần trung tiện, thế là tiếng kêu chẳng lấy gì làm thơm tho phát ra cũng đi vào lời đố:
          Tai nghe súng nổ cái đùng,
          Thuyền quyên lánh mặt anh hùng ngả nghiêng.
          Vào “nhà rách” nọ để thải chất thải ra từ ngoài, nhìn chất thải của con người, người ta đố rằng:
          Ách ửi một hồi rất đỗi lâu,
          Lần ra ải khẩu xuống sông sâu,
          Chẳng lo gả chó theo lôi óc,
          Chỉ sợ bầy tong xúm kéo đầu.
          Sinh thực khí đàn ông đã đi vào câu đố dân gian như sau:
          Mồm ở đỉnh đầu, hay xỏ hay xiên,
          Đêm đẻ con tiên cháu rồng.
          Hoặc một câu đố khác:
          Không tai không mắt miệng ở trên đầu,
          Cổ lại lồm xồm một mớ râu,
          Không mũi mà đánh hơi rất nhạy,
          Chẳng lộ hầu mà quá lộ hầu.
          Và:
          Đầu đội mũ đỏ,
          Cổ mặc áo rêu,
          Hai vai đeo hai hòn đạn.
          Hay: Không mắt, không tai, mồm ở đỉnh đầu, chòm râu ở cổ. Đều cùng chung hướng về một vật đố!
          Vật đố là sinh thực khí phụ nữ, có lời đố là:
          Múi mít hạt hồng,
          Lá vông rễ ấu,
          Xấu thì thật xấu,
          Xem vẫn muốn xem,
          Nghe nói thòm thèm,
          Bảo ăn thì giận.
          Hoặc đố theo dạng chiết tự chữ nghĩa:
          Ông Long đầu đội mũ huyền,
          Chăn dê mà lại bỏ quên dê rồi.
          Long bỏ “g” thêm dấu mũ và thanh huyền vào là lời giải của câu đố này.
          Đố đến cả hai bộ vừa nêu, khi cả hai cùng tham gia vào chuyện “ngửa nghiêng loan phượng”:
          Có khi cứng có khi mềm,
          Khi dài khi ngắn không chêm mà vừa.
          Theo cụ Như Ý trong bộ “Kinh thi Việt Nam"(dẫn theo Nguyễn Văn Trung, sđd) thì cách giải bằng thơ rằng:
          Anh về hỏi khẽ chị đi,
          Khi mô nó cứng khi mô nó mềm.
          Khi anh yêu chị suốt đời,
          Anh nằm ngủ mệt nó mềm thuỗn ra.
          Tóm lại, qua những câu đố tục vừa dẫn chứng trên chúng ta thấy rằng:
          -         Sự liên tưởng bất ngờ thú vị giữa lời đố và vật đố.
          -         Câu đố vừa mang tính bình dân, vừa chất phác gắn liền với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Nhưng nó lại là nơi thể hiện một trí tuệ tuyệt với của những người “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Nó là một hiện tượng độc đáo của văn học dân gian.
          -         Nhờ các hiện tượng “chữ nghĩa như vậy đã tạo nên tiếng cười khuây khoả trong cuộc sống quần quật một nắng hai sương của những kiếp người “con trâu đi trước cái cày theo sau” …
           
           
           
           
          Minh Thương, Trường THPT Mai Thanh Thế, Ngã Năm, huyện Ngã Năm, Sóc Trăng; ĐT: 0988092618. email: tranminhthuong1995@yahoo.com.vn
           
           
          Câu đố sử dụng trong bài viết trong bài dẫn theo:
          Nguyễn Văn Trung, Câu đố Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1986.
          Chu Xuân Diên (chủ biên), Văn học dân gian Sóc Trăng. Nxb TP Hồ Chí Minh, 2002.
           
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.12.2008 09:17:50 bởi TranMinhThuong >
          #5
            TranMinhThuong 18.12.2008 08:04:06 (permalink)
            Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao dân ca Việt Nam.
            Minh Thương
                       
             
                        Thế nào là "chơi chữ"?
                        Chơi chữ là một nghệ thuật độc đáo trong ngôn ngữ nói chung và trong Tiếng Việt nói riêng. Có nhiều định nghĩa, khái niệm, … giải thích vấn đề này, xin được nêu một số ý kiến như sau:
                        Tự điển Tiếng Việt giải thích: "Chơi chữ là lợi dụng hiện tượng đồng âm, đa nghĩa, v.v, … trong ngôn ngữ nhằm gây một tác dụng nhất định (như bóng gió, châm biếm, hài hước, …) trong lời nói. (Hoàng Phê (chủ biên) – Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Giáo Dục. H. 1994).
                        Từ điển thuật ngữ văn học gọi chơi chữ là "lộng ngữ" và giải thích là một biện pháp tu từ có đặc điểm: người sáng tác sử dụng những chỗ giống nhau về ngữ âm, ngữ nghĩa, văn tự, văn cảnh để tạo ra sự bất ngờ thú vị trong cách hiểu, trong dòng liên tưởng của người, người nghe". Các hình thức của lộng ngữ rất phong phú, trong đó có: nói lái, dùng từ đồng âm hoặc gần âm, dùng từ gần nghĩa, tách một từ thành các từ khác nhau. (có thể xem đây là hình thức của nghệ thuật chơi chữ - người viết chú thêm). Các tác giả trong quyển "từ điển" này cho rằng: nhìn chung các lộng ngữ đều mang tính hài hước, thường được sử dụng trong văn thơ trào phúng (có thể xem đây là tác dụng của nghệ thuật chơi chữ - người viết chú thêm). (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - Từ điển thuật ngữ văn học – Nhà xuất bản Giáo Dục . H. 2007
                                    Tác giả Hữu Đạt thì xem chơi chữ là một đặc điểm độc đáo của ngôn ngữ thơ Việt Nam và nêu định nghĩa: "Chơi chữ là một biện pháp tu từ nghệ thuật dựa vào những khả năng tiềm tàng của ngôn ngữ, vận dụng linh hoạt đơn vị cơ bản của tu từ học (là chữ hoặc tiếng) đặt nó trong mối quan hệ nhiều chiều, nhiều phía với các đơn vị cùng bậc và khác bậc, nhằm khai thác tính chất nước đôi của các đơn vị ngôn ngữ dựa vào sự hiện diện của văn cảnh". (Hữu Đạt – Ngôn ngữ thơ Việt Nam – Nxb Giáo dục. H. 1996).
                                    Từ những cách lý giải trên soi rọi vào ca dao chúng ta dễ dàng thấy được nghệ thuật độc đáo mà ngày xưa cha ông ta đã vận dụng.
                                    Từ những từ láy lại đơn giản:
                        Trong chúng ta ai đó đã từng nghe câu hát của những người làm "nghề " nói thơ dạo của những năm cuối thế kỷ trước:
            Vân Tiền, Vân Tiễn, Vân Tiên
            Ai cho đồng tiền tôi kể Vân Tiên.
                        Vân Tiên là tên nhân vật chính trong tác phẩm "Lục Vân Tiên" của cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu. Tác giả dân gian khi hát đã láy lại thành câu lục "Vân Tiền, Vân Tiễn, Vân Tiên" trong cặp lục bát dẫn trên cho đủ lượng chữ cần thiết của một dòng thơ. Giá trị của việc chơi chữ ở đây chỉ có vậy.
                        Cũng tương tự như thế ta có thể dẫn chứng một trường hợp khác: chơi chữ bằng việc sử dụng từ láy kiểu như trên:
            Con mèo, con mẻo, con meo
            Ai dạy mày trèo, mà chẳng dạy tao?
            Từ "con mèo" được láy lại hai lần nhằm tạo âm hưởng cho câu thơ!
                        Với cách chơi chữ lặp đi lặp lại như thế, nhiều câu ca dao đã gợi nên cuộc sống quẩn quanh bế tắc không lối thoát của phận cái kiến, con ong ở xã hội ngày trước:
            Con kiến mà leo canh đa
            Leo phải cành cụt leo ra, leo vào
            Con kiến mà leo cành đào
            Leo phải cảnh cụt leo vào, leo ra.
                        Hoặc như trong một tình cảnh khác, chơi chữ kiểu láy này để thể hiện nét nghĩa gắn lết không muốn xa rời nhau của đôi nam nữ "đá trót dan díu"…
            Rau má là lá lan dây,
            Đã trót dan díu, ở đây đừng về.
            Rau má là lá lan thề
            Đã trót dan díu đừng về ở đây.
                        Đó là cách chơi chữ bình thường vốn dĩ quen thuộc trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của ng dân quanh năm "một nắng hai sương" bên cánh đồng thửa ruộng. Trong thơ ca bình dân còn có nhiều kiểu "chơi chữ" khác mà dụng ý của nó cũng rất uyên thâm.
                        Chơi chữ bằng cách dùng hiện tượng từ đồng âm khác nghĩa giữa từ đơn tiết với tiếng trong từ đa tiết:
                        Xin dẫn bài ca dao quen thuộc sau đây để làm ví dụ:
            Một trăm thứ dầu, dầu chi là dầu không thắp?
            Một trăm thứ bắp, bắp chi là bắp không rang?
            Một trăm thứ than, than chi là than không quạt?
            Một trăm thứ bạc, bạc chi là chẳng ai mua?
            Trai nam nhi anh đối đặng thì gái bốn mùa xin theo.
                        Muốn biết nghĩa của các từ "dầu"; "bắp"; "than"; "bạc" trong các câu hát đố trên, ta xem tiếp phần đáp lại thì hiểu được sự điêu luyện của nghệ thuật này.
            Một trăm thứ dầu, dầu xoa không ai thắp. (Một dị bản khác: Một trăm thứ dầu, dãi dầu thì không ai thắp)
            Một trăm thứ bắp, bắp chuối thì chẳng ai rang. (Một dị bản khác: Một trăm thứ bắp lắp bắp mồm, lắp bắp miệng thì chẳng ai rang)
            Một trăm thứ than, than thân là than không ai quạt.
            Một trăm thứ bạc, bạc tình bán chẳng ai mua
                        Chơi chữ là cách dùng các từ đơn tiết đồng âm nhưng khác nghĩa:
            Trời mưa, trời gió vác đó(1) ra đơm
            Chạy vô ăn cơm chạy ra mất đó(2).
            Kể từ ngày mất đó(3) đó(4) ơi
            Răng đó(5) không phân qua nói lại đôi lời cho đây hay?
                        Từ đó mà tác giả dân gian sử dụng trong bài ca dao trên vừa là danh từ chỉ một dụng cụ đánh bắt, vừa là đại từ chỉ nơi chốn được "mượn" làm đại từ nhân xưng chỉ người. Từ đó(2), đó(3), đó(4) là thú vị và đa tầng nghĩa nhất vậy.
                        Gợi lên một ý nghĩa khác "tục" mà thanh bởi từ "đẩy" đa nghĩa (cả nghĩa trong khẩu ngữ) của câu ca dao sau đây:
            Em ơi nên lấy thợ bào
            Khom lưng ảnh đẩy cái nào cũng êm
                        Xét từ ngữ nghĩa tường minh của văn bản thì không có gì hết, nó chỉ miêu tả một hành động bình thường của anh thợ mộc làm động tác bào cây, gỗ, nhưng xét về nghĩa hàm ẩn của nó thì thật là "độc", mà cái "độc" ấy là do nghệ thuật "chơi chữ' tạo ra.
             
                        Công dụng của nét chơi chữ ấy dùng để phê phán. Phê phán thầy đồ đạo cao đức trọng, cố ý "thanh cao" nhưng không tránh khỏi cái bản năng bình thường của con người, tác giả dân gian chơi chữ "đồ" để mỉa mai hết sức thâm thuý trong bài ca dao sau đây:
            Nhân lúc đồ ngồi nhàn hạ
            Ra hồ sen xem ả hái hoa
            Ả hớ hênh ả để đồ ra
            Đồ trông thấy ngắm ngay tức khắc
            Đêm năm canh đồ nằm khôn nhắp
            Những mơ màng đồ nọ tưởng đồ kia
                        "Đồ nọ" tưởng "đồ kia" là hai từ đồng âm nhưng một từ với nghĩa là thầy đồ - một hạng người trong xã hội, và một từ "đồ" cũng là danh từ nhưng để chỉ sinh thực khí của phụ nữ!
                        Nhiều khi cách chơi chữ đồng âm này tránh được cái tục, một sự nói tránh hết sức tinh tế:
            Sáng trăng em nghĩ tối trời
            Em ngồi em để sự đời em ra
            Sự đời em bằng lá đa
            Đen như mõm chó chém cha sự đời.
                        Cái sự đời mà câu ca dao đề cập bằng việc dùng nghĩa lấp lửng nước đôi như trên chắc chắn rằng ai cũng biết đó là cái gì rồi!
                        Phê phán "bà già"  còn muốn chồng được tác giả dân gian mỉa mai bằng cách chơi chữ "lợi" trong một bài ca dao quen thuộc:
            Bà già đi chợ Cầu Đông
            Xem bói một quẻ lấy chồng lợi chăng
            Thầy bói gieo quẻ nói rằng
            Lợi thì có lợi nhưng răng không còn
                        Lợi vừa là tính từ chỉ việc có ích, vừa chỉ một bộ phận trong vòm họng con người: cái " nướu răng"!
                        Đôi khi kín đáo hơn, nhẹ nhàng, để nói đến thân phận bấp bênh về thân phận của người phụ nữ trong xã hội ngày trước dân gian có câu:
            Thân em như cá rô mề
            Lao xao giữa chợ biết về tay ai.
                        Ví "thân em" với cá rô mề, quả là khó còn từ ngữ nào đắc hơn trong văn cảnh vừa dẫn, bởi nói vừa chỉ được nhiều điểu mà người sáng tạo ra nó muốn nói.
                        Trái lại hiện tượng trên, là việc dùng từ đồng nghĩa để chơi chữ với dụng ý phê phán rõ ràng:
            Có cứt thì lúa mới xanh
            Quần hồ áo cánh bởi anh cứt này
                        Thực ra những từ không được sạch sẽ trên đây có từ "phân" đồng nghĩa với nó, nhưng dân gian không dùng "phân" mà thay "phân" bằng …(!) để nhắc nhở những người gần bùn mà vội "quên đi mùi bùn"(!)
                        Xong có lẽ hiện tượng dùng từ cùng trường nghĩa, gần nghĩa để tạo nét liên tưởng thú vị là phổ biến nhất trong ca dao:
            Con quạ nó ăn tầm bậy tầm bạ nó chết,
            Con diều xúc nếp làm chay,
            Tu hú đánh trống bảy ngày,
            Con bịp nó dậy, nó bày mâm ra.
            Con cuốc nó khóc u oa,
            Mẹ nó đi chợ đàng xa chưa về.
                        Bài ca dao tập hợp những con chim sống trọng bụi quạ, diều, tu hú, bìm bịp, cuốc, cho mỗi con đóng vai trò thích hợp với đặc điểm của chúng: diều với quạ cùng loại nên đóng vai trò chính; tu hu đầu mùa hè hay kêu; bìm bịp thường hay ở trong bụi rậm, ít bay đi đêm, như người nội trợ; cuốc lủi trong bụi như tìm ai, tiếng kêu của nó sầu não như khóc như than. Đây là cách chơi chữ dùng các từ cùng trường nghĩa để khắc hoạ lên những bức tranh dân gian về một đám ma nghèo nhưng đầy đủ lễ thức. Vừa phản ảnh một phong tục ngày trước với nhiều màu sắc độc đáo nhưng cũng không giấu tính châm biếm sắc sảo.
                        Cùng kiểu như vậy ta còn có thể gặp trong các bài ca dao tương tự:
            Con cò chết rủ trên cây,
            Cò con mở lịch xem ngày làm ma
            Cà cuống uống rượu la đà
            Chim ri ríu rít bò ra chia phần
            Chào mào thì đánh trống quân,
            Chim chích cỡi trần vác mõ đi rao.
                        Hoặc:
            Con cò mắc giò mà chết
            Con quạ ở nhà mua nếp làm chay
            Con cu đánh trống bằng tay
            Chào mào đội mũ làm thầy tế văn
            Chiền chiện vừa khóc vừa lăn
            Một bầy chim sẻ bịt khăn khóc cò
                        Chọn những con vật cùng trường nghĩa khác, bài ca sau đây cũng dùng cách chơi chữ ấy:
            Cóc chết bỏ nhái mồ côi,
            Chẫu ngồi chẫu khóc :" Chàng ơi là chàng"
            Ễnh ương đánh lệnh đã vang,
            Tiền đâu mà trả nợ làng ngoé ơi!
                        Tác giả dân gian tập hợp trong bài ca dao này các con vật cùng loài với cóc: nhái, chẫu chuộc, chầu chàng (chẫu chàng thân và chi mảnh, dài; chẫu chuộc cũng giống như chẫu chàng nhưng lớn hơn); ễnh ương, ngoé là giống nhái bén. "Chàng" trong câu câu ca trên vừa là con vật (chẫu chàng) vừa là đại từ chỉ người trong cặp đại từ nhân xưng cổ: chàng – nàng. Như vậy, bài ca dao vừa chơi chữ bằng cách dùng từ đồng âm, vừa chơi chữ bằng cách dùng các từ cùng trường nghĩa.
             
                        Đôi lúc ghép những từ cùng trường nghĩa để chơi chữ với tính chất "trào lộng":
             
            Chị Xuân đi chợ mùa hè
            Mua cá thu về chợ hãy còn đông
                        Những từ đồng âm khác nghĩa (Xuân, thu, đông) và các kết hợp các từ cùng trường nghĩa với nhau tạo nên nét độc đáo: hoá ra đó là bốn mùa trong năm!
                        Một bài khác:
            Anh Hươu đi chợ Đồng Nai
            Bước qua Bến Nghé ngôi nhai thịt bò
                        Vui đùa với chữ là dụng ý chính của những câu ca dao này!
                        Hoặc để chỉ một cảnh sinh hoạt bình thường của một gia đình làm nghề chài lưới:
            Cha chài mẹ lưới con câu
            Chàng rễ đóng đáy con dâu ngồi nò.
                        Hay như để chỉ các sản vật là lương thực mà con người đổ không biết bao nhiêu giọt mồ hôi để tạo ra, tác giả dân gian gửi gắm:
            Thấy nếp thì lại thèm xôi
            Ngồi bên thúng gạo nhớ nồi cơm thơm
            Hai tay xới xới đơm đơm
            Công ai cày cấy sớm hôm đó mà.
             
                        Chiết tự ra từ một từ láy, hoặc một từ ghép để "chơi chữ":
            Cô giỏi cô giang, cô đang xúc tép
            Cô thấy anh đẹp cô đổ tép đi
                        Từ "giỏi giang" được chiết tự ra làm hai thành tố để rồi kết hợp lại nhằm nhấn mạnh tính cách của chủ thể "cô" trong câu ca trên. Đó cũng là một dạng của nghệ thuật chơi chữ!
             
                        Việc dùng từ trái nghĩa trong cùng một câu thơ, cũng là một hiện tượng chơi chữ của dân gian:
            Bánh cả thúng sao gọi là bánh ít
            Trầu cả khay sao dám gọi trầu không.
                        Hoặc như:
            Lươn ngắn mà chê trạch dài
            Thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm.
                        Chạch là loại cá trông giống lươn cỡ nhỏ, thân ngắn. Thờn bơn là loại cá thân dẹt, miệng và mắt lệch lên phía trên đầu. Trai là loại động vật thân mềm, vỏ cứng, gồm hai mảnh, thường há ra như cái miệng. Với nghệ thuật chơi chữ để giễu nhại giống như kiểu: "Chuột chù chê khỉ rằng hôi/ Khỉ mới trả lời cả họ mày thơm" tác giả dân gian muốn châm biếm những người đem chủ quan của mình gán ghép cho người khác mà không thấy được mình cũng có khuyết điểm tương tự như thế, chả ai hơn ai, chả biết mèo nào cắn mỉu nào!
                        Trong nhiều lời hát đối đáp cũng có hiện tượng như vậy:
            Giàn hoa bể cạn nước đầy
            Cá vàng hoá bạc chàng rày đối chi?
                        Chơi chữ là dùng cách nói lái, tức là đảo vị trí phần vần và thanh điệu của hai từ liền kề nhau:
            Con cá đâu anh ngôi câu đó
            Biết có không mà công khó anh ơi
                        Và:
            Con cá đối nằm trong cối đá
            Con mèo đuôi cụt nó năm mục đuôi kèo,…
                        Chơi chữ bàng cách dùng các từ thuần Việt đồng nghĩa với nhau:
            Đi tu Phật bắt ăn chay
            Thịt chó ăn được, thịt cầy thì không.
                        "Chó với cầy là những từ cùng nghĩa, gần nghĩa được sử dụng "chơi" để phê phán một hiện tượng "ngược đời"
                        Hay:
            Bạn vàng chơi với bạn vàng
            Chớ chơi với Vện ra đàng cắn nhau.
                        Từ "bạn vàng" của "những con chó" làm cho người nghe liên tưởng đến "bạn vàng của con người" cũng là một dụng ý thật đắc mà nghệ thuật chơi chữ tạo ra.
                        Hoặc đôi lúc dùng một tiếng Việt đồng nghĩa với một từ Hán Việt để chơi chữ:
            Có răng nói thật đi nha
            Lúc trăng đang tỏ thì hoa đang thì.
                        "Nha" là từ Hán Việt tương đương với từ thuần Việt "răng"!
                        Hay như:
            Rắn hổ đất leo cây thục địa
            Ngựa nhà trời ăn cỏ chỉ thiên.
                        Rồi thì:
            Cha con thầy thuốc về quê
            Hồi hương phụ tử thì chàng đối chăng?
                       
                        Cái độc đáo ở nghệ thuật chơi chữ trong câu thơ này là vừa có hai từ tương đương nghĩa "cha con" (thuần Việt) với "phụ tử" (Hán Việt); "về quê" (thuần Việt) với "hồi hương" (Hán Việt). Rồi "thầy thuốc" để chỉ nghề nghiệp của hai "cha con" mà "hồi hương", "rồi phụ tử" là những vị thuốc nổi tiếng trong đông y!
                        Cuối cùng hết của các dạng chơi chữ trong ca dao mà chúng tôi khảo sát được là việc đảo trật tự từ ngữ để tạo ra nghĩa ngược với thực tế:
             
            Bao giờ cho đến tháng ba
            Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng
            Hùm nằm cho lợn liếm lông
            Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi
            Nắm xôi nuốt bé lên mười,
            Con gà mâm rượu nuốt người lao đao
            Lươn nằm cho trúm bò vào
            Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô
            Lúa mạ nhảy lên ăn bò,
            Cỏ năn, có lác rình mò bắt trâu
            Gà con đuổi bắt diều hâu,
            Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông.
                        Tất cả các sự việc, các hành động và chủ thể tạo nên hành động trong bài ca dao trên đều ngược nghĩa so với hiện thực cuộc sống. Đều mà tác giả dân gian muốn gửi gắm ở đây có lẽ với hai dụng ý rõ rệt: vừa mua vui với chữ nghĩa, vừa muốn nói lên một sự bất công ngang trái trong xã hội ngày trước!
                        Như vậy, tuy khác nhau về lời lẽ song có thể thấy mấy điểm chung trong các cách hiểu trên về chơi chữ.
            - Chơi chữ là một biện pháp tu từ được dùng trong ngôn ngữ nghệ thuật (ngôn ngữ văn thơ)
            - Biện pháp chơi chữ được thực hiện dựa trên các tiềm năng về chất liệu ngôn ngữ dân tộc. Các tiềm năng về âm thanh, chữ viết, từ đồng âm, đồng nghĩa, v.v, ...càng phong phú thì càng tạo điều kiện cho chơi chữ phát triển.
            - Chơi chữ tạo nên những liên tưởng bất ngờ, thú vị về nhận thức, đồng thời có tác dụng châm biếm, hài hước, thư giãn bằng chữ nghĩa, v.v…
                        Riêng trong ca dao chơi chữ đã thể hiện nét phong phú độc đáo trong tâm hồn của người nông dân "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".  
               
            *Trong bài viết có tham khảo tài liệu chép tay (chuyên đề dành cho thạc sĩ Ngữ văn): "Truyền thống ngữ văn của người Việt" của T.S Trần Văn Minh, Trường Đại học Vinh.
             
             
             
            Địa chỉ:
             
            Trần Minh Thương, giáo viên Trường THPT Mai Thanh Thế, Ngã Năm, huyện Ngã Năm, Sóc Trăng. Đ.T: 0988092618
            Email: tranminhthuong1995@yahoo.com.vn 
             
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.12.2008 08:29:13 bởi TranMinhThuong >
            #6
              Chuyển nhanh đến:

              Thống kê hiện tại

              Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
              Kiểu:
              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9