Đường Thi Trích Dịch VI - Anh-Nguyên
TÂY THI VỊNH 西 施 詠 艷 色 天 下 重, 西 施 寧 久 微? 朝 為 越 溪 女, 暮 作 吳 宮 妃。 賤 日 豈 殊 眾? 貴 來 方 悟 稀。 邀 人 傅 脂 粉, 不 自 著 羅 衣, 君 寵 益 嬌 態, 君 憐 無 是 非。 當 時 浣 紗 伴, 莫 得 同 車 歸。 持 謝 鄰 家 子, 效 顰 安 可 希? 王 維 Diễm sắc thiên hạ trọng, Tây thi ninh cửu vi. Triêu vi việt khê nữ, Mộ tác ngô cung phi. Tiện nhật khởi thù chúng, Quý lai phương ngộ hi. Yêu nhân truyền hương phấn, Bất tự trước la y. Quân sủng ích kiêu thái, Quân liên vô thị phi. Đương thì cán sa bạn, Mạc đắc đồng xa quy. Trì tạ lân gia tử, Hiệu tần an khả hi. Vương-Duy Dịch: Vịnh Tây-Thi Người ta trọng sắc đẹp thôi, Tây-Thi há chịu mãi đời hèn đâu. Sớm, bên suối Việt giãi giầu, Chiều, là phi nữ trong lầu vua Ngô. Nghèo, đâu khác bạn bao giờ, Đến nay quyền quý, nào ngờ, hiếm hoi. Phấn hương, sai kẻ tôi đòi, Khi thay áo lụa, chỉ coi người làm. Vua chiều, kiêu ngạo đồn vang, Vua yêu, chẳng kể trái ngang phải gì. Bạn bè giặt lụa cùng thì, Không cô nào được chung đi xe về. Nhắn cô hàng xóm gần kề: ‘‘Chau mày, bắt chước không hề ích chi!’’... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 17:28:50 bởi Anh Nguyên >
ĐÀO NGUYÊN HÀNH 桃 源 行 漁 舟 逐 水 愛 山 春, 兩 岸 桃 花 夾 古 津。 坐 看 紅 樹 不 知 遠, 行 盡 青 溪 不 見 人。 山 口 潛 行 始 隈 隩, 山 開 曠 望 旋 平 陸。 遙 看 一 處 攢 雲 樹, 近 入 千 家 散 花 竹。 樵 客 初 傳 漢 姓 名, 居 人 未 改 秦 衣 服。 居 人 共 住 武 陵 源, 還 從 物 外 起 田 園。 月 明 松 下 房 櫳 靜, 日 出 雲 中 雞 犬 喧。 驚 聞 俗 客 爭 來 集, 競 引 還 家 問 都 邑。 平 明 閭 巷 掃 花 開, 薄 暮 漁 樵 乘 水 入。 初 因 避 地 去 人 間, 及 至 成 仙 遂 不 還。 峽 裡 誰 知 有 人 事, 世 中 遙 望 空 雲 山。 不 疑 靈 境 難 聞 見, 塵 心 未 盡 思 鄉 縣。 出 洞 無 論 隔 山 水, 辭 家 終 擬 長 游 衍。 自 謂 經 過 舊 不 迷, 安 知 峰 壑 今 來 變。 當 時 只 記 入 山 深, 青 溪 幾 曲 到 雲 林? 春 來 遍 是 桃 花 水, 不 辨 仙 源 何 處 尋? 王 維 Ngư chu trục thủy ái sơn xuân, Lưỡng ngạn đào hoa giáp cổ tân. Tọa khan hồng thụ bất tri viễn, Hành tận thanh khê bất kiến nhân. Sơn khẩu tiềm hành thủy ôi úc, Sơn khai khoáng vọng triền bình lục. Dao khan nhất xứ toản vân thụ, Cận nhập thiên gia tán hoa trúc. Tiều khách sơ truyền hán tính danh, Cư nhân vị cải tần y phục. Cư nhân cộng trú vũ lăng nguyên, Hoàn tùng vật ngoại khởi điền viên. Nguyệt minh tùng hạ phòng lung tĩnh, Nhật xuất vân trung kê khuyển huyên. Kinh văn tục khách tranh lai tập, Cạnh dẫn hoàn gia vấn đô ấp. Bình minh lư hạng tảo hoa khai, Bạc mộ ngư tiều thừa thủy nhập Sơ nhân tị địa khứ nhân gian, Cánh vấn thần tiên toại bất hoàn. Giáp lý thùy tri hữu nhân sự, Thế gian dao vọng không vân sơn. Bất nghi linh cảnh nan văn kiến, Trần tâm vị tận tư hương huyện. Xuất động vô luân cách sơn thủy, Từ gia chung nghĩ trường du diễn. Tự vị kinh qua cựu bất mê, An tri phong hác kim lai biến. Đương thì chỉ ký nhập sơn thâm, Thanh khê kỷ độ đáo vân lâm. Xuân lai biến thị đào hoa thủy, Bất biện tiên nguyên hà xứ tầm. Vương-Duy Dịch: Đào nguyên hành Chiếc thuyền câu đẩy đưa trên sông nước, Mê sắc trời núi đẹp ánh xuân sa. Đôi bờ Đào hoa bến thuyền xưa ấy, Ngồi ngắm nhìn cây thắm chẳng biết xa. Đi hết bờ suối xanh người bỗng gặp, Vào hang núi thẳm mới thấy gập ghềnh. Núi mở rộng trông quanh miền đất phẳng, Xa xa nhìn mây vần vũ kéo lên. Vào gần đấy ngàn nhà chen hoa trúc, Khách giả tiều phu theo Hán đặt tên. Ở đã lâu chưa đổi Tần y phục, Người đã từng sống đất Vũ-Lăng xưa. Giã ngoại cảnh đã về vui vườn ruộng, Trăng rọi bóng tùng phòng ốc lưa thưa. Mây rẽ ánh hồng, gà kêu, chó cuốn, Nghe hãi kinh khách tục đến lạ đời. Dìu nhau đi cùng hỏi thăm quê quán, Bình minh ngoài ngõ hẹp nhặt hoa rơi. Chiều mong manh ngư tiều dần lai vãng, Bởi vì đâu bỏ xứ lánh mọi người. Lại ướm hỏi khách tiên sao không lại, Giữa núi non ai biết có việc đời. Ngồi dõi ngắm núi mây bay thơ thái, Thấy nghe chi? Đây cảnh trí u huyền. Lòng trần chưa cắt đứt niềm lưu luyến, Về quê hương mới thật cảnh thần tiên. Ra khỏi động non mờ sông nước chuyển, Từ biệt gia đình trọn bước viễn du. Ngày xưa ấy ra đi không lầm lỗi, Ai biết núi khe nay đã sa mù. Vào non thẳm ghi điều gì thuở ấy, Khe xanh bao độ vượt mấy rừng mây. Xuân đã về đây đó Đào nguyên thắm, Nước chảy hoa trôi chính ở chốn này. Tìm đâu nữa Đào nguyên, chiều viễn xứ. Trường-Xuân Phạm-Liễu Khúc hát suối hoa đào Núi xuân, theo nước thuyền bơi, Hai bờ đào nở tận nơi bến đò. Ngắm hoa, đường xá chẳng lo, Thanh-Khê đi tới, trước đò thấy ai!... Quanh co vào núi đoạn dài, Bỗng đâu núi mở, đất lài phẳng phiu. Xa nhìn, cây nấp mây chiều, Gần, nghìn nhà lẫn vào nhiều trúc, hoa. Truyền, tiều gốc Hán sanh ra, Ở lâu, chưa đổi được ra áo Tần. Vũ-Lăng vốn gốc là dân, Bỏ theo ngoại vật, sống gần cỏ cây. Trăng soi, phòng bóng thông đầy, Hừng đông, chó sủa lẫn bầy gà kêu. Người nghe khách tục, lại nhiều, Dẫn về, tranh hỏi những điều quê xưa. Quét hoa sáng sớm rụng bừa, Ngư tiều theo nước, chiều vừa về đây. Xưa vào lánh nạn chốn này, Cảnh tiên, như gặp nên nay không về. Có người trong núi, ai ngờ, Ngoài đời chỉ thấy mây mờ núi cao. Cảnh u linh dễ thấy sao! Nhưng quê sao vẫn nao nao lòng trần. Động, rời, sông, núi, qua dần... Giã nhà, lại tính một lần chơi xa. Đinh ninh đến chốn đã qua, Nào hay khe, núi, khác xa bấy giờ. Núi sâu, vượt, nhớ lờ mờ, Thanh-Khê bao độ cách bờ rừng mây? Xuân, đào ven suối nở đầy, Nguồn tiên, khó nhận, tìm nay chốn nào?!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 17:33:36 bởi Anh Nguyên >
LẠC DƯƠNG NỮ NHI 洛 陽 女 兒 行 洛 陽 女 兒 對 門 居, 纔 可 容 顏 十 五 餘。 良 人 玉 勒 乘 驄 馬, 侍 女 金 盤 膾 鯉 魚。 畫 閣 朱 樓 盡 相 望, 紅 桃 綠 柳 垂 簷 向。 羅 幃 送 上 七 香 車, 寶 扇 迎 歸 九 華 帳。 狂 夫 富 貴 在 青 春, 意 氣 驕 奢 劇 季 倫。 自 憐 碧 玉 親 教 舞, 不 惜 珊 瑚 持 與 人。 春 窗 曙 滅 九 微 火, 九 微 片 片 飛 花 璅。 戲 罷 曾 無 理 曲 時, 妝 成 祇 是 薰 香 坐。 城 中 相 識 盡 繁 華, 日 夜 經 過 趙 李 家。 誰 憐 越 女 顏 如 玉, 貧 賤 江 頭 自 浣 紗。 王 維 Lạc dương nữ nhi đối môn cư, Tài khả dung nhan thập ngũ dư. Lương nhân ngọc lặc thừa thông mã, Thị nữ kim bàn khoái lš ngư. Họa các chu lâu tận tương vọng, Hồng đào lục liễu thùy thiềm hướng. La vi tống thướng thất hương xa, Bảo phiến nghênh quy cửu hoa trướng. Cuồng phu phú quý tại thanh xuân, Ý khí kiêu xa kịch quý luân. Tự liên bích ngọc thân giáo vũ, Bất tích san hô trì dữ nhân. Xuân song thự diệt cửu vi hỏa, Cửu vi phiến phiến phi hoa tỏa. Hí bãi tằng vô lý khúc thì, Trang thành chỉ thị xuân hương tọa. Thành trung tương thức tận phồn hoa, Nhật dạ kinh qua triệu lý gia. Thùy liên việt nữ nhan như ngọc, Bần tiện giang đầu tự cán sa. Vương-Duy Dịch: Cô gái Lạc-Dương Lạc-Dương, cô gái trước nhà, Khoảng mười lăm tuổi như hoa đương thời. Chồng ngồi yên ngọc sáng ngời, Con hầu, cá chép, dâng nơi đĩa vàng. Lầu son, gác vẽ, mơ màng, Thềm, đào liễu biếc nhẹ nhàng gió lay. Lên xe, màn lụa hương bay, Vào phòng, quạt quý cầm tay đón chào. Chồng giàu, tuổi trẻ, tài cao, Kiêu kỳ, xa xỉ, khác nào Quý-Luân. Dạy nàng Bích-Ngọc múa nhuần, San hô đem tặng, chẳng cần so đo. Cửa song nắng tắt bày trò, Pháo hoa, từng hạt nhỏ to bay đầy. Vui tàn, múa hát tiếp ngay, Hay ngồi bên cạnh lò bay hương trầm. Phồn hoa, cùng hưởng mọi phần, Ngày đêm, Triệu, Lý bạn thân, qua thường. Đẹp như gái Việt ai thương, Vì nghèo giặt lụa năm trường bến sông!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 17:40:28 bởi Anh Nguyên >
LÃO TƯỚNG HÀNH 老 將 行 少 年 十 五 二 十 時, 步 行 奪 得 胡 馬 騎。 射 殺 中 山 白 額 虎, 肯 數 鄴 下 黃 須 兒。 一 身 轉 戰 三 千 里, 一 劍 曾 當 百 萬 師。 漢 兵 奮 迅 如 霹 靂, 虜 騎 崩 騰 畏 蒺 藜。 衛 青 不 敗 由 天 幸, 李 廣 無 功 緣 數 奇。 自 從 棄 置 便 衰 朽, 世 事 蹉 跎 成 白 首。 昔 時 飛 箭 無 全 目, 今 日 垂 楊 生 左 肘。 路 傍 時 賣 故 侯 瓜, 門 前 學 種 先 生 柳。 蒼 茫 古 木 連 窮 巷, 寥 落 寒 山 對 虛 牖。 誓 令 疏 勒 出 飛 泉, 不 似 潁 川 空 使 酒。 賀 蘭 山 下 陣 如 雲, 羽 檄 交 馳 日 夕 聞。 節 使 三 河 募 年 少, 詔 書 五 道 出 將 軍。 試 拂 鐵 衣 如 雪 色, 聊 持 寶 劍 動 星 文。 願 得 燕 弓 射 天 將, 恥 令 越 甲 鳴 吳 軍。 莫 嫌 舊 日 雲 中 守, 猶 堪 一 戰 取 功 勳。 王 維 Thiếu niên thập ngũ nhị thập thì, Bộ hành đoạt đắc hồ mã ky. Xạ sát sơn trung bạch ngạch hổ, Khẳng số nghiệp hạ hoàng tu nhi. Nhất thân chuyển chiến tam thiên lý, Nhất kiếm tằng đương bách vạn sư. Hán binh phấn tấn như tích lịch, Lỗ kỵ bôn đằng úy tật lê. Vệ thanh bất bại do thiên hạnh, Lý quảng vô công duyên số kỳ. Tự tòng khí trí tiện suy hủ, Thế sự sa đà thành bạch thủ. Tích thì phi tiễn vô toàn mục, Kim nhật thùy dương sinh tả trửu. Lộ bàng thì mại cố hầu qua, Môn tiền học chủng tiên sinh liễu. Thương mang cổ mộc liên cùng hạng, Liêu lạc hàn sơn đối hư dũ. Thệ linh sơ lặc xuất phi tuyền, Bất tự dĩnh xuyên không sử tửu. Hạ lan sơn hạ trận như vân, Vũ hịch giao trì nhật tịch văn. Tiết xứ tam hà mộ niên thiếu, Chiếu thư ngũ đạo xuất tướng quân. Thí phất thiết y như tuyết sắc, Liêu trì bảo kiếm động tinh văn. Nguyện đắc yên cung xạ đại tướng, Sỉ linh việt giáp minh ngô quân. Mạc hiềm cựu nhật vân trung thủ, Do kham nhất chiến lập công huân. Vương-Duy Dịch: Ông tướng già Trẻ đương mười sáu hai mươi, Ngựa Hồ, chạy bộ, bắt thời dễ thôi. Bắn con cọp trán trắng rồi, ‘‘Râu vàng’’ Nghiệp-Hạ, sánh đôi cũng bằng. Đánh ba nghìn dậm vẫn hăng, Một gươm, từng chống cả trăm vạn người. Hán binh như sấm dậy trời, Kỵ Hồ bỏ chạy tơi bời, sợ chông. Vệ-Thanh chẳng bại, trời trông, Không công, Lý-Quảng số ông lạ kỳ. Từ đây, càng yếu hèn đi, Việc đời lần lữa, đầu thì trắng phau. Xưa, tên bắn, chẳng ngắm đâu, Giờ tay cứng vụng như đầu cành dương. Cố-Hầu, dưa bán bên đường, Đào-Tiềm trồng liễu, còn đương học đòi. Cây già che khuất xóm rồi, Chơ vơ núi lạnh. khung trời cửa song. Thề làm Sơ-Lặc suối trong, Chứ không uống rượu a tòng Dĩnh-Xuyên. Hạ-Lan, mặt trận mây chuyền, Hịch quân xuôi ngược suốt đêm lẫn ngày. Tam-Hà, trai tráng, mộ ngay, Tướng quân, năm đạo, phen này ra quân. Chiến bào như tuyết trắng ngần, Múa trì gươm báu nhanh gần sao rơi. Cung Yên bắn tướng giặc thôi, Thẹn binh giáp Việt rộn nơi bệ rồng. Vân-Trung trước, chẳng bận lòng, Chỉ cần một trận, lập công lớn rồi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 19:28:08 bởi Anh Nguyên >
ĐÁP TRƯƠNG NGŨ ĐỆ NHÂN 答 張 五 弟 人 終 南 有 茅 屋, 前 對 終 南 山。 終 年 無 客 常 閉 關, 終 日 無 心 長 自 閑。 不 妨 飲 酒 復 垂 釣, 君 但 能 來 相 往 還。 王 維 Chung nam hữu mao ốc, Tiền đối chung nam sơn. Chung niên vô khách trường bế quan, Chung nhật vô tâm trường tự nhàn, Bất phương ẩm tửu phục thùy điếu, Quân đản năng lai tương vãng hoàn. Vương-Duy Dịch: Trả lời người em thứ năm họ Trương Chung-Nam có mái nhà tranh, Núi Chung trước cửa, hóa thành đối nhau. Suốt năm cửa đóng, khách đâu, Suốt ngày nhàn hạ, chẳng sầu muộn chi. Ngồi câu, uống rượu, nghĩ gì! Chú năng lui tới đi về thăm nhau... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 19:29:32 bởi Anh Nguyên >
QUAN LẠP 觀 獵 風 勁 角 弓 鳴, 將 軍 獵 渭 城。 草 枯 鷹 眼 疾, 雪 盡 馬 蹄 輕。 忽 過 新 豐 市, 還 歸 細 柳 營。 迴 看 射 鵰 處, 千 里 暮 雲 平。 王 維 Phong kính giác cung inh, Tướng quân lạp vị thành. Thảo khô ưng nhãn tật, Tuyết tận mã đề khinh. Hốt quá tân phong thị, Hoàn quy tế liễu dinh. Hồi khan xạ điêu xứ, Thiên lý mộ vân bình. Vương-Duy Dịch: Xem săn bắn Cung reo vì gió thổi nhanh, Tướng quân lại đến Vị-Thành đi săn. Mắt ưng nhanh, cỏ khô cằn, Vó câu ngựa nhẹ, tuyết băng tan rồi. Chợ Tân-Phong, chợt đến nơi, Về dinh Tế-Liễu, lại rời bước chân. Nhìn nơi điêu bắn mấy lần, Mây chiều nghìn dặm dần dần lặng trôi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 19:30:53 bởi Anh Nguyên >
PHỎNG LÃ DẬT NHÂN, BẤT NGỘ 訪 呂 逸 人 不 遇 桃 源 面 面 絕 風 塵, 柳 市 南 頭 訪 隱 淪。 到 門 不 敢 題 凡 鳥, 看 竹 何 須 問 主 人? 城 外 青 山 如 屋 裏, 東 家 流 水 入 西 鄰。 閉 戶 著 書 多 歲 月, 種 松 皆 作 老 龍 鱗。 王 維 Đào nguyên diện diện tuyệt phong trần, Liễu thị nam đầu phỏng ẩn nhân. Đáo môn bất cảm đề phàm điểu, Khan trúc hà tu vấn chủ nhân. Thành ngoại thanh sơn như ốc lý, Đông gia lưu thủy nhập tây lân. Bế hộ trứ thư đa tuế nguyệt, Chủng tùng giai tác lão long lân. Vương-Duy Dịch: Thăm ẩn sĩ họ Lã, không gặp Đào-Nguyên, bụi chẳng tới gần, Đầu nam chợ Liễu hỏi dần chủ nhân. Chẳng đề ‘‘Phàm điểu’’, tần ngần, Trúc, xem, lại hỏi chủ nhân làm gì. Trong, ngoài nhà, núi khác chi, Nhà đông, dòng nước chảy về xóm tây. Cửa cài, viết sách năm chầy, Thông trồng đều có vẩy cây như rồng... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 19:37:44 bởi Anh Nguyên >
QUÁ THỪA NHƯ THIỀN SƯ, TÚC CƯ SĨ TUNG KHÂU LAN NHÃ 過 乘 如 禪 師 蕭 居 士 嵩 丘 蘭 若 無 著 天 親 弟 與 兄, 嵩 丘 蘭 若 一 峰 晴。 食 隨 鳴 磬 巢 烏 下, 行 踏 空 林 落 葉 聲。 迸 水 定 侵 香 案 濕, 雨 花 應 共 石 床 平。 深 洞 長 松 何 所 有, 儼 然 天 竺 古 先 生。 王 維 Vô trước thiên thân đệ dữ huynh, Tung khâu lan nhã nhất phong tình. Thực tùy minh khánh sào ô hạ, Hành đạp không lâm lạc diệp thanh. Bính thủy định xâm hương án thấp, Vũ hoa ưng cộng thạch sàng bình. Thâm động trường tùng hà sở hữu, Nghiễm nhiên thiên trúc cổ tiên sinh. Vương-Duy Dịch: Qua nhà tu của thiền sư Thừa-Như và cư sĩ Túc ở núi Tung Anh em Vô-Trước, Thiên-Thân, Tung-Khâu, dựng thất ở gần đầu non. Ăn theo khánh, quạ véo von, Rừng hoang, đạp lá khô dòn dưới chân. Nước tuôn, hương án ướt dần, Mưa hoa, giường đá, cao gần bằng nhau. Ngoài thông, động có gì đâu, Xưa thầy Thiên-Trúc ở lâu chốn này... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 19:40:16 bởi Anh Nguyên >
QUÁ LÝ TIẾP TRẠCH 過 李 楫 宅 閒 門 秋 草 色, 終 日 無 車 馬。 客 來 深 巷 中, 犬 吠 寒 林 下。 散 髮 時 未 簪, 道 書 行 上 把。 與 我 同 心 人, 樂 道 安 貧 者。 一 罷 宜 城 酌, 還 歸 洛 陽 社。 王 維 Nhàn môn thu thảo sắc, Chung nhật vô xa mã. Khách lai thâm hạng trung, Khuyển phệ hàn lâm hạ. Tán phát thì vị trâm, Đạo thư hành thượng bả. Dữ ngã đồng tâm nhân, Lạc đạo an bần giả. Nhất bãi nghi thành chước, Hoàn quy lạc dương xã. Vương-Duy Dịch: Ghé thăm nhà Lý Tiếp Cửa nhàn, cỏ sắc Thu khoe, Cả ngày không bóng ngựa xe ra vào. Hẻm sâu, khách đến bên rào, Nơi rừng lạnh lẽo, chó sao sủa hoài. Không trâm, tóc xõa bờ vai, Khi đi, sách Đạo cầm hoài trong tay. Ông cùng với ý ta đây, Nghèo nhưng vui đạo nên nay an lành. Uống xong chén rượu Nghi-Thành, Lại về Bạch-Xã ngoài thành Lạc-Dương... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 19:41:24 bởi Anh Nguyên >
VƯƠNG GIÁ XUÂN TÌNH 春 晴 雨 前 初 見 花 間 蕊, 雨 後 全 無 葉 底 花。 蜂 蝶 紛 紛 過 牆 去, 卻 疑 春 色 在 鄰 家。 王 駕 Vũ tiền sơ kiến hoa gian nhị, Vũ hậu toàn vô diệp để hoa. Phong điệp phân phân quá tường khứ, Khước nghi xuân sắc tại lân gia. Vương-Giá Dịch: Tình Xuân Trước mưa, hoa, thấy nhị đầy, Sau mưa, đài, lá, còn đây ích gì. Qua tường, ong bướm bay đi, Bên nhà hàng xóm, lại nghi Xuân về... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 19:42:44 bởi Anh Nguyên >
VƯƠNG HÀ LƯƠNG CHÂU TỪ 涼 州 詞 葡 萄 美 酒 夜 光 杯, 欲 飲 琵 琶 馬 上 催。 醉 臥 沙 場 君 莫 笑, 古 來 征 戰 幾 人 回。 王 翰 Bồ-Đào mỹ tửu dạ quang bôi, Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi. Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. Vương-Hàn Dịch: Bài từ Lương-Châu Bồ-Đào rượu rót chén lưu-ly, Muốn uống, Tỳ-bà giục ngựa đi. Bãi cát say nằm, chê cũng mặc! Xưa nay chinh chiến mấy ai về! Bùi-Khánh-Đản Bồ-Đào, chén ngọc mời nhau, Tỳ-bà đã giục ngựa mau lên đường. Đừng cười say chốn sa trường, Xưa nay, chinh chiến, về thường mấy ai?!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 19:47:29 bởi Anh Nguyên >
VƯƠNG KIẾN TÂN GIÁ NƯƠNG 新 嫁 娘 三 日 入 櫥 下 洗 手 作 羹 湯 未 諳 姑 食 性 先 遣 小 古 嘗 王 建 Tam nhật nhập trù hạ, Tẩy thủ tác canh thang. Vị am cô thực tính, Tiên khiển tiểu cô thường. Vương-Kiến Dịch: Cô gái mới về nhà chồng Ngày ba, vào bếp nấu ăn, Rửa tay, nấu món canh măng xem nào. Chưa hay tính mẹ ra sao, Nhờ em nếm trước, chị nào đã quen... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 19:49:21 bởi Anh Nguyên >
VỊNH HOA THANH CUNG 咏 華 清 宮 行 盡 江 南 數 十 程 曉 風 殘 月 入 華 清 朝 元 閣 上 西 風 急 都 入 長 楊 作 雨 聲 王 建 Hành tận giang nam sổ thập trình, Hiểu phong tàn nguyệt nhập hoa thanh. Triều nguyên các thượng tây phong cấp, Đô nhập Trường-Dương tác vũ thanh. Vương-Kiến Dịch: Vịnh cung Thanh-hoa Đến Giang-Nam chục dặm đường, Trăng tàn, gió sớm, vào vườn Hoa-Thanh, Gác Triều-Nguyên, gió thổi nhanh, Trường-Dưong, lùa đến hóa thành tiếng mưa. Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 19:50:39 bởi Anh Nguyên >
THẬP NGŨ DẠ VỌNG NGUYỆT 十 五 夜 望 月 中 庭 地 白 樹 棲 鴉, 冷 露 無 聲 濕 桂 花。 今 夜 月 明 人 盡 望, 不 知 秋 思 落 誰 家。 王 建 Trung đình địa bạch thụ thê nha, Lãnh lộ vô thanh thấp quế hoa. Kim dạ nguyệt minh nhân tận vọng, Bất tri thu tứ tại thùy gia. Vương-Kiến Dịch: Đêm rằm ngắm trăng Cây sân đất trắng, quạ bầy, Lặng yên, hoa quế hứng đầy móc rơi. Ngắm trăng sáng, khắp mọi người, Ý Thu, chẳng biết ở nơi nhà nào?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 19:52:02 bởi Anh Nguyên >
VỌNG PHU THẠCH 望 夫 石 望 夫 處, 江 悠 悠。 化 為 石, 不 回 頭。 山 頭 日 日 風 和 雨, 行 人 歸 來 石 應 語。 王 建 Vọng phu xứ, Giang du du. Hóa vi thạch, Bất hồi đầu. Sơn đầu nhật nhật phong hòa vũ, Hành nhân quy lai thạch ưng ngữ. Vương-Kiến Dịch: Đá Vọng Phu Nơi đây đứng mãi trông chồng, Bên dòng sông nước mênh mông chảy dài. Hoá thành tượng đá vì ai, Đầu không ngoảnh lại năm dài trôi qua. Ngày ngày đầu núi mưa sa, Người đi trở lại, hẳn là nói ngay... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 19:54:45 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: