Đường Thi Trích Dịch VI - Anh-Nguyên
LỘC TRẠI 鹿 寨 空 山 不 見 人, 但 聞 人 語 響。 返 景 入 深 林, 復 照 青 苔 上。 王 維 Không sơn bất kiến nhân, Đản văn nhân ngữ hưởng. Phản ảnh nhập thâm lâm, Phục chiếu thanh đài thượng. Vương-Duy Dịch: Trại hươu Núi non vắng chẳng thấy ai, Chỉ nghe người nói vọng ngoài chốn xa. Rừng sâu nắng phản chói lòa, Rọi trên mặt đất mượt mà rêu xanh... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 10:47:55 bởi Anh Nguyên >
TRÚC LÝ QUÁN 竹 里 館 獨 坐 幽 篁 裡 彈 琴 復 長 嘯 深 林 人 不 知 明 月 來 相 照 王 維 Độc tọa u hoàng lý, Đàn cầm phục trường khiếu. Thâm lâm nhân bất tri, Minh nguyệt lai tương chiếu. Vương-Duy Dịch: Quán Trúc-Lý Ngồi trong rừng trúc một mình, Cầm đàn dạo khúc, buồn tình hát vang. Rừng sâu ai biết có chàng, Chỉ vầng trăng sáng đến đang chiếu người... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 10:49:18 bởi Anh Nguyên >
TƯƠNG TƯ 相 思 紅 豆 生 南 國, 春 來 發 幾 枝。 願 君 多 采 擷, 此 物 最 相 思。 王 維 Hồng đậu sinh nam quốc, Xuân lai phát kỷ chi. Nguyện quân đa thái cát, Thử vật đối tương ti. Vương-Duy Dịch: Nhớ nhau Đậu hồng trồng ở phương nam, Xuân về, cành lá lại càng tươi xanh. Hái đầy bọc áo nha anh, Mỗi khi nhìn thấy dễ thành nhớ nhau... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 10:51:07 bởi Anh Nguyên >
MẠNH THÀNH AO 孟 城 坳 新 家 孟 城 口, 古 木 餘 衰 柳。 來 者 復 為 誰, 空 悲 昔 人 有。 王 維 Tân gia mạnh thành khẩu, Cổ mộc dư suy liễu. Lai giả phục vi thùy, Không bi tích nhân hữu. Vương-Duy Dịch: Vùng trũng Mạnh-Thành Dọn nhà về cửa Mạnh-Thành, Cây xưa, còn liễu gốc cành cằn đây. Ai rồi sẽ đến chốn này? Buồn người xưa ở nơi đây đã nhiều!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 10:51:37 bởi Anh Nguyên >
LƯU BIỆT THÔI HƯNG TÔNG 留 別 崔 興 宗 駐 馬 欲 分 襟, 清 寒 御 溝 上。 前 山 景 氣 佳, 獨 往 還 惆 悵。 王 維 Trú mã dục phân khâm, Thanh hàn ngự câu thượng. Tiền sơn cảnh khí giai, Độc vãng hoàn trù trướng. Vương-Duy Dịch: Thơ từ biệt Thôi-Đông-Hưng Ngựa dừng, sắp sửa chia tay, Suối con vườn ngự bữa nay lạnh nhiều. Núi đằng trước đẹp bao nhiêu, Một mình đi, lại, lòng nhiều buồn thương... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 10:55:44 bởi Anh Nguyên >
TỐNG SỨ AN TÂY (Vị thành khúc) 渭 城 曲 渭 城 朝 雨 浥 輕 塵, 客 舍 青 青 柳 色 新。 勸 君 更 盡 一 杯 酒, 西 出 陽 關 無 故 人。 王 維 Tống sứ an tây Vị thành triêu vũ ấp khinh trần, Khách xá thanh thanh liễu sắc tân. Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu, Tây xuất dương quan vô cố nhân. Vương-Duy Dịch: Tiễn sứ đi ổn định miền tây Mưa mai ướt bụi Vị-thành, Xanh xanh quán khách mấy cành liễu tươi. Khuyên ai cạn chén ai mời, Dương-Quan ra đó không người quen thân. Quách-Tấn Thành Vị mưa mai ướt bụi trần, Xanh xanh quán khách liễu tươi xuân. Ly bôi một chén xin mời cạn, Ra đến Dương quan, không cố nhân. Trần-Trọng-San Vị-Thành mưa sớm mù tăm, Cõi miền bụi thắm ướt đầm ngõ thuông. Quán mờ liễu thắm xanh buông, Mời anh cạn chén rượu buồn tiễn chân. Tiền trình quan ải tây phân, Đèo truông ra khỏi cố nhân không còn. Bùi-Giáng Mưa mai thấm bụi Vị Thành Liễu bên quán trọ sắc sanh ngời ngời Khuyên anh hãy cạn chén mời Dương Quan ra khỏi ai người cố tri. Tương Như Thành Vị mưa mai thấm bụi trần, Liễu rờn quán trọ sắc ngời xuân. Chén đưa xin cạn thêm lần nữa, Ra khỏi Dương Quan ai cố nhân? Nguyễn-Hà Vị-Thành, mưa ướt bụi trần, Trước nhà khách liễu xanh rần lá non. Khuyên anh cạn chén rượu ngon, Dương-Quan, chốn ấy đâu còn cố nhân... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 10:57:35 bởi Anh Nguyên >
TỐNG BIỆT 送 別 其 三 送 君 南 浦 淚 如 絲, 君 向 東 州 使 我 悲。 為 報 故 人 憔 悴 盡, 如 今 不 似 洛 陽 時。 王 維 Tống quân nam phố lệ như ti, Quân hướng đông châu sử ngã bi. Vị báo cố nhân tiều tụy tận, Như kim bất tự lạc dương thì. Vương-Duy Dịch: Tiễn đưa Tiễn anh Nam-Phố, lệ như tơ, Anh hướng Đông-Châu, tôi ngẩn ngơ. Xin báo: người xưa mòn mỏi hết, Bây giờ chẳng giống Lạc-Dương xưa... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 11:02:26 bởi Anh Nguyên >
HÍ ĐỀ BÀN THẠCH 戲 題 盤 石 可 憐 盤 石 臨 泉 水, 復 有 垂 楊 拂 酒 杯。 若 道 春 風 不 解 意, 何 因 吹 送 落 花 來。 王 維 Khả liên bàn thạch lâm tuyền thủy, Phục hữu thùy dương phất tửu bôi. Nhược đạo xuân phong bất giải ý, Hà nhân xuy tống lạc hoa lai. Vương-Duy Dịch: Đề chơi tảng đá bàn Khá thương tảng đá bên bờ, Thêm cây liễu rủ phất phơ chén nồng. Gió Xuân chẳng tỏ ý cùng, Hoa rơi, ai thổi chập chùng tới đây?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 11:04:53 bởi Anh Nguyên >
NGƯNG BÍCH TRÌ 凝 碧 池 萬 戶 傷 心 生 野 煙, 百 官 何 日 再 朝 天。 秋 槐 葉 落 空 宮 裏, 凝 碧 池 頭 奏 管 弦。 王 維 Vạn hộ thương tâm sinh dã yên, Bách quan hà nhật tái triều thiên. Thu hòe hoa lạc không cung lý, Ngưng bích trì đầu tấu quản huyền. Vương-Duy Dịch: Ao Ngưng-Bích Muôn nhà, khói lửa đau lòng, Ngày nào quan lại vào trong cung chầu. Hoè Thu cung vắng rụng lâu, Bờ ao Ngưng-Bích, sáo đâu hòa đàn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 11:05:55 bởi Anh Nguyên >
THIẾU NIÊN HÀNH 少 年 行 其 一 新 豐 美 酒 斗 十 千, 咸 陽 遊 俠 多 少 年。 相 逢 意 氣 為 君 飲, 繫 馬 高 樓 垂 柳 邊。 王 維 Tân phong mỹ tửu đẩu thập thiên, Hàm dương du hiệp đa thiếu niên. Tương phùng ý khí vị quân ẩm, Hệ mã cao lâu thùy liễu biên. Vương-Duy Dịch: Tuổi trẻ Mười ngàn đấu rượu Tân-Phong, Hàm-Dương, du hiệp trẻ trung chốn này. Ý đồng, chén rượu cầm tay, Liễu buông, buộc ngựa ở ngay cạnh lầu... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 11:08:13 bởi Anh Nguyên >
QUÁ THÔI HƯNG TÔNG LÂM ĐÌNH 過 崔 處 宗 林 亭 綠 樹 重 陰 蓋 四 鄰, 青 苔 日 厚 自 無 塵。 科 頭 箕 踞 長 松 下, 白 眼 看 他 世 上 人。 王 維 Lục thụ trùng âm cái tứ lân, Thanh đài nhật hậu tự vô trần. Khoa đầu cơ cứ trường tùng hạ, Bạch nhãn khan tha thế thượng nhân. Vương-Duy Dịch: Ghé nhà Thôi-Hưng-Tông ở trong rừng Cây xanh tỏa bóng chung quanh, Ngày ngày, không bụi, rêu xanh càng dầy. Đầu trần nằm gốc thông này, Người đời, mắt trắng nơi đây ta nhìn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 11:09:38 bởi Anh Nguyên >
CỬU NGUYỆT CỬU NHẬT ỨC SƠN ĐÔNG HUYNH ĐỆ 九 月 九 日 憶 山 東 兄 弟 獨 在 異 鄉 為 異 客, 每 逢 佳 節 倍 思 親。 遙 知 兄 弟 登 高 處, 遍 插 茱 萸 少 一 人。 王 維 Độc tại dị hương vi dị khách, Mỗi phùng giai tiết bội tư thân. Dao tri huynh đệ đăng cao xứ, Biến sáp thù du thiếu nhất nhân. Vương-Duy Dịch: Ngày mồng chín tháng chín nhớ anh em ở Sơn-Đông Một mình khách lạ quê người, Người thân càng nhớ khi trời đẹp tươi. Anh em lên núi cao chơi, Thù du giắt nhánh, một người vắng thôi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 11:11:46 bởi Anh Nguyên >
THU DẠ KHÚC 秋 夜 曲 桂 魄 初 生 秋 露 微, 輕 羅 已 薄 未 更 衣。 銀 箏 夜 久 殷 勤 弄, 心 怯 空 房 不 忍 歸。 王 維 Quế phách sơ sinh thu lộ vi, Khinh la dĩ bạc vị canh y. Ngân tranh dạ cửu ân tình lộng, Tâm khiếp không phòng bất nhẫn quy. Vương-Duy Dịch: Đêm Thu Trăng Thu vừa mọc, sương thưa, Áo tơ bạc phếch hôm xưa vẫn còn. Đàn tranh đêm vẫn nỉ non, Sợ phòng trống vắng về còn ngại thay!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 11:12:56 bởi Anh Nguyên >
THÙ TRƯƠNG THIẾU PHỦ 酬 張 少 府 晚 年 惟 好 靜, 萬 事 不 關 心。 自 顧 無 長 策, 空 知 返 舊 林。 松 風 吹 解 帶, 山 月 照 彈 琴。 君 問 窮 通 理, 漁 歌 入 浦 深。 王 維 Vãn niên duy hiếu tĩnh, Vạn sự bất quan tâm. Tự cố vô trường sách, Không tri phản cựu lâm. Tùng phong xuy giải đới, Sơn nguyệt chiếu đàn cầm. Quân vấn cùng thông lý, Ngư ca nhập thố thâm. Vương-Duy Dịch: Đáp quan huyện họ Trương Tuổi già chỉ thích ở yên, Việc đời muôn sự chẳng phiền lòng chi. Thấy mình không kế sách gì, Trở về rừng cũ ẩn đi cho rồi. Gió thông lay giải áo lơi, Ánh trăng núi sáng, chiếu nơi cây đàn. Lý cùng, thông, bác hỏi han, Cứ nghe chài hát còn vang trên đầm... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 11:16:28 bởi Anh Nguyên >
CHUNG NAM SƠN 終 南 山 太 乙 近 天 都, 連 山 接 海 隅。 白 雲 回 望 合, 青 靄 入 看 無。 分 野 中 峰 變, 陰 晴 眾 壑 殊。 欲 投 人 處 宿, 隔 水 問 樵 夫。 王 維 Thái ất cận thiên đô, Liên sơn đáo hải ngu. Bạch vân hồi vọng hợp, Thanh ái nhập khan vô. Phân dã trung phong biến, Âm tình chúng hác thù. Dục đầu nhân xứ túc, Cách thủy vấn tiều phu. Vương-Duy Dịch: Núi Chung-Nam Kinh đô, Thái-Ất ở gần, Núi non tiếp nối chạy dần ra khơi. Ngó lui, mây trắng phủ rồi, Mây xanh, đi tới trông thời lại không. Núi non ở giữa chia đồng, Khi trời tạnh ráo thấy cùng các hang. Muốn nhờ nơi ngủ qua đàng, Cách dòng suối, hỏi tiều đang đốn cành... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 11:21:42 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
Kiểu: