Theo tp hiểu thì như sau:
1> Khẩn trương với lo âu và lo lắng
- Khẩn chương: thiên về nghĩa vội vàng, cấp bách cần phải giải quyết nhanh một vấn đề nào đó, tranh thủ thời gian để giải quyết.
- Lo lắng, lo âu: thể hiện sự bồn chồn, tư tưởng bất an, không an tâm về một việc gì đó.
Như vậy Khẩn chương và lo âu không thể đồng nghĩa với nhau rồi, và không thể dùng thay cho nhau được. Thử so sánh hai câu
họ đang khẩn trương và
họ đang lo lắng thì câu thứ nhất thể hiện rằng nhóm người (họ) đang gâp rút cố gắng làm để hoàn thành một hành động nào đó, còn câu thứ 2 thì không hề thể hiện ý đó.
Còn khi tra tử điển việt-việt thì tp thấy họ cắt nghĩa như sau:
+ Khẩn trương: 1. Cấp bách, cần giải quyết ngay: nhiệm vụ khẩn trương. 2. Nhanh gấp, tranh thủ mọi thời gian: làm khẩn trương, tác phong khẩn trương.
+ Lo lắng: Suy nghĩ nhiều đến việc gì: Thân ta ta phải lo âu, Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này (K).
2> Đồng ý với Nhất trí
hai từ này đồng nghĩa, và có thể sử dụng thay cho nhau. Xem trong từ điển thì được cắt nghĩa như sau:
+ Đồng ý: đgt. Có cùng ý kiến, bằng lòng, nhất trí với ý kiến đã nêu: đồng ý cộng tác
+ Nhất trí: Toàn thể giống nhau, có cùng một ý kiến : Nhận định nhất trí.
3> Tết Ất Dậu - Tại sao có chữ Ất đàng trước vậy TC? Ất tượng trưng cho cái chi thế?
Câu này quả là khoai quá đi mất, cần phải hỏi những người có kiến thức về âm dương ngũ hành, biết cách tính lịch. Tp dạo qua một vòng trên net và tổng hợp về đây cho bạn vây:
- Đầu tiên xin cắt nghĩa về chữ Dậu Ở Vn hiện nay đang tồn tại song song hai loại lịch là Âm lịch và Tây lịch, hầu hết các hội hè chuyền thống cho đến những cách tính ngày rằm, ngày lễ tết đều dựa theo âm lịch do vậy có thể nghĩ rằng âm lịch ở ta rất được coi trọng. Hết một năm tính theo âm lịch sẽ là một cái tết Nguyên Đán và mỗi năm thế này người ta lại nghênh đón một con vật biểu trưng cho năm. Và có cả thảy 12 con vật biểu chưng cho từng năm, cũng có nghĩa là sau 12 năm một con vật sẽ quay trở lại. Người ta gọi những con vật biểu trưng cho năm đó là con giáp, và 12 năm được tính là 1 giáp Năm nay là năm Dậu - hay còn gọi là năm con gà.
Âm Dương Ngũ Hành gắn liền với tư duy Dịch lý là nền tảng để xây dựng các quan điểm trong đó có thiên văn . Người xưa xuất phát từ quan sát thực tiễn để định dạng sự vật :
+ Âm là thái âm tức là Mặt trăng
+ Dương là Thái dương tức là Mặt trời
+ Ngũ hành là Kim , Mộc , Thuỷ , Hỏa ,Thổ
Là năm hành tinh mà người cổ đại sớm nhận biết được cuả hệ mặt trời . Bên cạnh đó , quan niệm Trời = cha , Ðất= mẹ và quan niệm về một vũ trụ hài hoà cũng đóng vai trò quan trọng đối với người xưa . Và như vậy Trời = thiên là dương , Ðất = địa là âm , thượng giới và hạ giới được phân định , trật tự của vũ trụ được xác lập và trật tự xã hội cũng theo đó được hình thành . Trong xã hội có quan hệ vua - tôi , quân tử - tiện dân , có nội trị - ngoại giao , trong - ngoài ,trên - dưới , trước - sau , phải - trái , đúng - sai , thật- giả . tất cả đều được quy tụ vào phạm trù âm dương , được quy vào các phẩm chất ngũ hành . Tuy nhiên , sự phân chia âm - dương không phải thùân tuý máy móc mà nó xuất phát từ nguyên lý của dịch học : : "Dịch có thái cực , thái cực sinh lưỡng nghi , lưỡng nghi sinh tứ lượng , tứ lượng sinh bát quái " , nghĩa là trong sự xếp đặt đó đã bao hàm một sự vận động biện chứng , đặc biệt là quan niệm trong "âm có dương , trong dương có âm " trỡ thành nguyên tắc cấu trúc sự vật . Do đó , khát vọng về một cuộc sống hiền hòa , một xã hội ổn định , một trạng thái cân bằng là giấc mộng đẹp và là đích hướng tới , của người xưa . Vậy thì quan niệm âm dương ngũ hành có liên quan gì đến mười hai con giáp .
Theo sự phân tích của người xưa , mưòi hai con vật được tuyển chọn , bao gồm cả vật nuôi lẫn thú vật hoang dã , vừa có thật vừa tưởng tượng , đều đáp ứng nguyên tắc âm dương , chẵn lẽ . Ở đây cũng cần nói thêm về dương cơ , âm ngẫu , cơ là số lẽ , ngẫu là số chẵn . Các con vật được chọn đều có phẩm chất chẵn lẽ mang đặc trưng loài của chúng , thể hịên qua số ngón chân của chúng . Cụ thể là :
Tý = con chuột = 5 ngón = lẻ = dương .
Sửu = con trâu (trong thiên văn Trung Quốc nghĩa là ngưu = con bò ) = 2 ngón = chẵn = âm
Ngọ = con ngựa = một ngón = lẻ = dương
Mùi = con dê = hai ngón = chẵn = âm
Thân = con khỉ = năm ngón = lẻ = dương
Dậu = con gà = bốn ngón = chẵn = âm
Tuất = con chó = năm ngón = lẻ = dương
Hợi = con lợn = bốn ngón = chẵn = âm
Như vậy , số ngón tối đa là 5 , tối thiểu là 1 , còn lại là 2 và 4 . Tuyệt nhiên không có số 3.
Số 3 được đưa vào hệ tam tài : Thiên - Ðịa - Nhân , hệ tọa độ quan trọng mà người xưa xác nhập được nhằm khẳng định vai trò của nó trong vũ trụ . Con người luôn có ý thức dùng kích thước vũ trụ để đo bản thân . Vì thế , người Hy Lạp cổ mới mãn nguyện về việc "con người sánh tựa thần linh " , và họ sáng tạo ra thế giới điêu khắc có một không hai để ca ngợi vẻ đẹp này . Con người không hề ích kỷ khi cố gắng hoàn thiện bức tranh vũ trụ . Họ đưa các con vật thực vừa huyền thoại tạo ra sự đúng lúc cho thế giới nhân quần , nhưng đồng thời đó cũng là những con vật mà họ thuần hoá hoặc những con vật họ thường gặp và thường gây những nguy hiểm cho họ .
Như vậy , tiêu chuẩn số chẵn lẻ của ngón chân đã gíup các loài vật được chọn làm 12 con giáp . Nhưng số ngón chẵn lẻ cũng như cái tên chuột , mèo , rồng , rắn .của chúng chưa đủ để đưa chúng vào vũ trụ . Con người lại phải gán cho chúng các phương vị :
Tý = Bắc Ngọ = Nam
Mão = Ðông Dậu = Tây
Và hàng đêm khi quan sát sao Bắc Ðẩu , người ta thấy cái đuôi của nó cứ quay đều đặn trên tinh cầu theo một vòng tròn , duy có điều nó giống kim đồng hồ quay ngược . Vòng tròn đó được chia theo phương vị 12 cung và 12 con giáp được trấn giữ 12 phương vị này .
Chuyện vẫn chưa hết .Trong những phát hiện quan trọng của thời tối cổ có việc phát hiện ra đường hoàng đạo -đường dịch chuyển của mặt trời .Vòng Hoàng đạo được chia làm phù hợp với mười hai tháng của năm .Và 12 con giáp lại được trấn giữ 12 cung Hoàng đạo này . Tuy nhiên con số 12 được người xưa chọn không phải là một con số tuỳ tiện mà là một con số hoàn toàn khoa học và để hiểu được diều đó thì không đơn giản một tẹo nào cả.
-
Cắt nghĩa về chữ Ất Chữ Ất ở đây liên quan đến khái niệm về
Can chi. Can chi là hệ đếm số 60,nó phối hợp các hệ đếm cơ số 2,10,12 và một hệ đếm liên quan tới nhiều nền văn minh cổ . Người Babilon cách đây 3000 năm với hệ đếm 60 đã chính xác một năm có 360 ngày . Với hệ đếm 60 hệ can chi dẫn đến các tiện lợi cho phép tính thời gian vì 60 là bội số của nhiều số như :
Số 3 = số tháng trong một quí
Số 6 = số tháng trong nửa năm
Số 10 = số ngày trong một tuần trăng (âm lịch)
Số 12 = số tháng của một năm -số năm của một con giáp
số giờ trong một ngày (giờ âm lịch)
Số 15 = số ngày trong một tiết
Số 30 = số ngày của một tháng.
Hệ đếm này xuất hiện từ lâu, được ghi lại trong giáp cốt văn.
Can có nghĩa là thân cây có gốc ở Trời (nên gọi là Thiên can) . Người ta dùng ngũ vận để tính Thiên can : tức là 2 x 5=10 Thiên can . Bản thân Thiên can cũng có âm dương :
Dương can :Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm.
Âm can : Ất, Ðinh, Kỷ, Tân, Quí.
Chi có nghĩa là cành (cây) bị lìa khỏi thân, là cành nơi mặt đất (nên gọi là Ðịa chi). Ðiạ chi được tính theo lục khí là 2 x 6=12 . Ðịa chi cũng có âm dương .
Dương chi : Tý,Dần, Thìn,Ngọ,Thân,Tuất.
Âm chi :Sửu,Mão,Tỵ,Mùi,Dậu,Hợi.
Ngyên tắc phối hợp can chi là dương hợp dương , âm hợp âm ,thiên can là cha(cũng có nghĩa là dương ), đứng trước địa chi (có nghĩa là âm )đứng sau.
Ta có:
Giáp tý......................
.....................Ất sửu
Bính dần...............
....................Ðinh mão . Cứ thế tiếp tục mãi. Song thiên vì can thiên có 10 , Ðịa chi có 12, nên một vòng can chi là 60 . Số 60 được gọi là lục thập hoa giáp , Nguyên tắc dương kết hợp với dương ,âm kết hợp với âm là bất di bất dịch, vì vậy không bao giờ có Giáp sửu , Mậu dần cả , nguyên tắc kết hợp này cho phép từ dương tạo ra dương , từ âm tạo ra âm, trong 60 ngày thì có 30 ngày âm, 30 ngày dương tạo ra nhịp vận động của thời gian , tạo ra sự thăng giáng .
Cách gọi can chi trước tiên là để chỉ ngày,sau đó vì tính tiện ích tổng hợp của nó , nó được dùng gọi giờ , tháng và năm. Như vậy can chi trở thành đơn vị thời gian âm lịch . Nếu có điều kiện để kiệm thì các nhận xét về bệnh tật của các con giáp đã nêu ở trên , cho phép thừa nhận sự chặt chẽ và khoa học hệ đếm can chi này .
Ðể hiểu rõ hơn trước hết ta tìm hiểu ý nghĩa của can chi . Nguồn gốc của can chi đều từ cây :
Thiên can:
1. Giáp=cây cỏ đội đất nẩy mầm,dương cốt âm bì.
2. Ất =cây cỏ mới mọc yếu ớt, cong gập.
3. Bính=là cán , như mặt trời sáng chói , mọi vật đều sáng rõ.
4. Ðinh=cây cỏ trưởng thành mạnh mẽ , như người lớn đã trưởng thành "tráng đinh".
5. Mậu=rậm rạp ,nghĩa là cây cỏ phát triển rậm rạp
6. Ky=là ghi chép. Các con vật từ cong(Ất) nay đã thẳng dậy, nên ghi chép lại.
7. Canh=thay đổi , lúc này là mùa thu , mùa hái lượm , thu cất,tất cả hẹn mùa sau.
8. Tân=là mới muôn vật thay đổi , hoa quả mới thành . Tân cũng có thể là hợp chất của kim loại , là vị cay , quả chuyển vị , vật thành có vị.
9. Nhâm=là thai nghén , dương khí tiềm ẩn trong đất,mọi vật đang kỳ thụ thai.
10. Quí=là đỏ ,mọi vật mang mầm thai đang ẩn tàng, bản thân thai mầm đang từng bước chuyển hoá.
Ðịa chi :
1. Tý=là mầm cây , là hạt giống cây cỏ đang hút nước trong đất để nẩy mầm , là hiện tương hạt trương nước để khởi đầu một mầm dương .
2. Sửu=mầm nảy trong đất , trạng thái cong queo , đang chờ đội đất để mọc lên .
3. Dần=phát triển,từ chỗ uốn gấp , mầm đón ánh sáng để đội đất vươn lên .
4. Mão= rậm tốt , mặt trời từ phương đông toả sáng rực rỡ giúp muôn loài sinh trưởng tươi tốt
5. Thìn =chấn động,dương khí tràn về , muôn vật thoả sức phát triển .
6. Tỵ=vươn dậy và phát triển sung mãn , âm khí đã hết , thuần dương .
7. Ngọ=muôn vật đã trưởng thành đầy đủ , dương khí đầy đặn , mùa gặt hái đã về .Âm khí đã bắt đầu hình thành .
8. Mùi = là vị , quả đã chín và có vị ngọt .
9. Thân = thân thể ,vật đã trưởng thành
10. Dậu = co lại phát triển bên ngoài ngừng .
11. Tuất = diệt cành khô lá úa héo cây cỏ úa tàn sinh khí không còn.
12. Hợi = bóp chết , âm khí tràn ngập , mọi vật chìm trong chết chóc.
Người ta dùng can chi để đặt tên cho năm, và cứ 60 năm lại quay trở lại 1 vòng tròn. Và một vòng tròn 60 năm như thía người ta gọi là một
hội hoặc một
hoa giáp. Năm 2005 là năm Ất Dậu, thía cũng có nghĩa là quay trở lại 40 năm về trước tức vào năm 1945, năm nổi tiếng trong lịch sử Vn ta mà sau này mọi người hay nói đến nạn đói năm Ất Dậu - cũng chính là năm này.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.02.2005 01:35:11 bởi Tiêu Phong >