CẤT BƯỚC TRÊN LỐI MÒN
Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 39 bài trong đề mục
tueuyen 12.01.2009 21:46:14 (permalink)
0
HAI MƯƠI NĂM SAU:  TRÊN BỜ HỒ BAIKAL II
 
07.06.2006
 
Bây giờ là năm giờ chiều và tôi đang nhìn dòng nước trôi đi.  Tôi xuôi theo một dòng suối nhỏ cho đến khi nó chảy đến một trong những nơi xinh đẹp nhất trên trái đất:  Hồ Baikal ở Tây Bá Lợi Á (Siberia).  Một dòng sông không bao giờ chảy qua cùng một nơi hai lần,”  triết gia đã nói như thế.  “Đời sống như một dòng sông,”  một triết gia khác nói,  điều ấy đã đưa chúng ta đến một kết luận rằng đây là một ẩn dụ gần nhất đến ý nghĩa của đời sống.
 
Nhưng hôm nay tôi vừa khám phá ra một điều gì đấy khác biệt:  có một dòng sông bên trong một dòng sông, một dòng sông chỉ lối để đi theo, tâm linh của dòng nước bên cạnh tôi trong ngôi làng nhỏ bé này nơi tôi có thể vẫn nhìn thấy một giếng nước mà những cư dân đến để lấy nước.  Đã bao lâu rồi kể từ lần cuối tôi nhìn thấy một cái giếng thật sự, một cái giếng đã cho cả làng nước để uống?
 
Tôi suy tư về dòng sông một lần nữa, cố gắng để giống nó, và để thấy những bài học mà nó đang dạy cho tôi bây giờ:
 

A- Chúng ta luôn luôn kinh nghiệm lần đầu tiên.  Trong khi chúng ta đi qua từ điểm phát xuất (sinh) đến nơi chốn của chúng ta (chết), phong cảnh sẽ luôn luôn mới mẻ với chúng ta.  Chúng ta phải đối diện với tất cả những điều mới lạ này với niềm vui sướng hơn là sợ hãi – bởi vì thật vô ích để lo lắng những điều không thể tránh khỏi.  Một dòng sông chẳng bao giờ ngừng tuôn chảy.
 
B- Trong một thung lũng chúng ta bước đi chậm rãi hơn.  Khi mọi thứ chung quanh chúng ta trở nên thoãi mái hơn, dòng nước tĩnh lặng; chúng ta phát triển rộng rãi hơn, cởi mở hơn, hào phóng hơn.
 
C- Bờ  bãi của chúng ta luôn luôn phì nhiêu phong phú.  Thực vật không chỉ mọc lên ở những nơi có nước.  Bất cứ ai đến gặp chúng ta cần phải hiểu rằng chúng ta ở đây để cho những người đang khát thức gì để uống.
 
D- Những tảng đá phải được tránh.  Dĩ nhiên, nước mạnh hơn đá hoa cương, nhưng điều ấy đòi hỏi nhiều thời gian.  Thật vô ích để chính mình bị khống chế bởi những chướng ngại mạnh hơn, hay cố gắng để chiến đấu với chúng -  điều ấy chỉ phung phí năng lượng.  Điều tốt nhất là phải hiểu nơi nào là lối thoát, và di chuyển theo hướng dẫn ấy. 
 
E- Chán nản tìm đến kiên nhẫn. Đột nhiên dòng sông chảy vào trong một lỗ hổng nào đấy và dừng trôi chảy một cách thích thú như trước đây.  Tại những thời khắc như vậy cách duy nhất để thoát là tin tưởng vào sự giúp đở của thời gian.  Khi đúng thời cơ đến, lỗ hổng đầy ấp và dòng nước có thể di chuyển về phía trước.  Thay vì là một lỗ hỗng không sinh khí xấu xí và đáng ghét , bây giờ có một hồ nước mà những người khác có thể ngắm nhìn với hạnh phúc sướng vui.
 
F- Chúng ta là duy nhất. Chúng ta sinh ra trong một nơi dành cho chúng ta và nó sẽ luôn luôn giữ duy trì sự cung cấp cho chúng ta đầy đủ nước vì thế khi chúng ta đối diện với sự chán nản chúng ta có thể cần thiết phải kiên nhẫn hay mạnh mẽ tiến tới phía trước.  Chúng ta dĩ nhiên bắt đầu tiến trình của mình trong một phương cách hiền hòa và yếu đuối, có khi ngay cả một tờ lá giản đơn cũng có thể làm ngưng lại hành trình của chúng ta.  Tuy vậy, khi chúng ta tôn trọng nguyên ủy huyền bí đã sản sinh ra chúng ta, và tin tưởng trong tuệ giác vĩnh cữu ấy, từng ly từng tí chúng ta thu hoạch được tất cả những gì cần thiết để tiếp tục con đường của chúng ta.
 
G- Mặc dù chúng ta là duy nhất, chẳng bao lâu chúng ta sẽ là nhiều.  Khi chúng ta du hành tiếp tục, những dòng nước từ những nguồn khác sẽ đến với chúng ta, bởi vì nó là lối mòn tuyệt hảo để đồng hành.  Vì thế chúng ta không còn duy nhất nữa, nhưng nhiều lắm – và cũng có khi nó sẽ đến một thời điểm khi chúng ta cảm thấy lạc lối.  Tuy vậy, như lời cổ nhân nói, “tất cả những dòng sông cùng chảy ra biển cả’’.  Thật không thể duy trì mãi trong tình trạng cô đơn tĩnh mịch,  tuy nhiên dường như có thể có vẻ lãng mạn.  Khi chúng ta chấp nhận sự hòa nhập không thể tránh được với những nguồn khác, chúng ta cuối cùng hiểu rằng điều này làm chúng ta mạnh mẻ hơn nhiều và chúng ta vượt qua những chướng ngại hay làm cho đầy ấp khoảng trống dễ dàng hơn nhiều và trong một thời gian ngắn hơn.
 
H- Chúng ta là một phương tiện giao thông vận chuyển.  Trong lá cây, tàu thuyền, ý tưởng.  Xin cho dòng nước của chúng ta lúc nào cũng rộng rãi, xin cho chúng ta luôn luôn mang về phía trước tất cả mọi thứ hay những con người cần sự giúp đở của chúng ta.
 
I- Chúng ta là cội nguồn của cảm hứng.  Và như thế, hãy cho chúng ta để lại những lời cuối cùng của nhà thơ Ba Tây Manuel Bandeira:
 
“Hãy là dòng sông trôi chảy
Im lặng giữa đêm khuya
Không khiếp sợ bóng đêm đen tối,
Phản chiếu bất cứ ngôi sao nào ở trên bầu trời.
Và nếu bầu trời đầy mây bao phủ,
Mây cũng là nước, như dòng sông
Cũng phản chiếu chúng mà không hối tiếc trong sự im lặng thâm sâu.
 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.01.2009 21:47:26 bởi tueuyen >
#16
    tueuyen 13.01.2009 22:22:10 (permalink)
    0

    HAI MƯƠI NĂM SAU:  FRANCIS
     
    Tôi đang dùng cà phê sân thượng một khách sạn ngắm nhìn về phía một lâu đài, một lâu đài khổng lồ trong ngôi làng bé bỏng này với một vài ngôi nhà trong tỉnh Navarra của Tây Ban Nha.  Màn đêm đã buông xuống nhưng không có bóng trăng.  Tôi đang lập lại chuyến hành hương bằng xe hơi đến Santiago de Compostela để kỷ niệm đệ nhị thập chu niên của lần đầu tiên tôi du hành trên con đường này.
     
    Ngôi làng nơi tôi tự tìm ra, tuy thế, không là một phần của lộ trình, mà đã qua khỏi hơn 19 cây số từ nơi này.   Tôi đã dự tính viếng thăm nó, và bây giờ tôi ở đây.  Năm trăm năm trước một người đàn ông tên là Francisco đã sinh ra tại nơi này.  Ông ta chắc là đã nô đùa rất nhiều trên những cánh đồng chung quanh lâu đài.  Ông ta chắc là phải bơi lội trong dòng sông chảy gần bên.  Người con trai của cha mẹ giàu có, ông ta rời làng mình để hoàn thành việc học vấn ở trường đại học nổi tiếng Sorbonne ở Ba Lê.  Tôi nghĩ rằng đấy là chuyến du hành đầu tiên cuả ông ta.
     
    Francis là một lực sĩ, bảnh trai, thông minh và được sự ái mộ cũng như ganh tị của tất cả những sinh viên khác – ngoại trừ một người, cũng đến từ một tỉnh xa của Tây Ban Nha và tên của người ấy là Ignatius.  Ignatius nói với ông ta rằng: “Francis, anh nghĩ về anh quá nhiều.  Tại sao anh không dâng hiến mình để nghĩ về những việc khác, thí dụ như Tạo Hóa chẳng hạn?  Tôi không biết tại sao, nhưng Francis, người sinh viên hảo tướng và can trường nhất của Sorbonne đã bị thuyết phục bởi Ignatius.   Họ cùng với những sinh viên khác thành lập một đoàn thể để chọc cười những tất cả những người khác, và những người khác ấy ngay cả viết trên cửa phòng nơi họ hội họp:  Đoàn thể của Giê-Su.  Thay vì bực mình khó chịu, họ lấy ngay tên ấy.  Và từ lúc ấy trở đi, Francis bắt đầu một chuyến hành trình không bao giờ quay trở lại.
     
    Ông ta đi đến La Mã với Ignatius và thỉnh cầu Giáo Hoàng công nhận “đoàn thể” ấy.  Giáo Hoàng đồng ý tiếp kiến những học sinh, và để động viên họ Ngài ban bố sự đồng thuận.  Francis – người kinh khiếp với những chiếc thuyền và biển cả -  tiến hành đơn độc đến phương Đông, thấm nhuần với những gì ông chú tâm đến là sứ mệnh của ông.  Trong mười năm kế tiếp ông đã viếng thăm Phi Châu, Ấn Độ, Sumatra và Moluccas (Indonesia-Nam Dương), và Nhật Bản.  Ông học những ngôn ngữ mới, thăm bệnh viện, lao tù, thành phố, và làng mạc.  Ông viết nhiều lá thư, nhưng không, thật sự không một lá thư nào – nói đến nhưng nơi mà ông đã đi qua.  Ông chỉ bàn luận về sự cần thiết để mang đến một ngôn từ về can đảm và hy vọng đến những ai thiếu đặc ân hay quyền lợi.
     
    Ông ta đã chết ở một  vùng xa ngôi làng nơi mà tôi đang ngồi uống cà phê bây giờ, và ông được chôn cất ở Goa.  Ở vào thời điểm khi mà thế giới bao la, khoảng cách dường như không thể đo lường và người ta đang sống trong chiến tranh, Francis nghĩ rằng ông ta nên quan tâm đến thế giới như một ngôi làng địa cầu.  Ông đã vượt thắng nổi sợ hãi của mình về biển cả và tàu thuyền và sự đơn côi, bởi vì ông ta tỉnh thức rằng cuộc sống ông ta có ý nghĩa.  Trong khi du hành qua phương Đông, ông không biết rằng những bước chân của ông không bao giờ bị quên lãng và rằng tất  cả những gì ông đã gieo trồng sẽ đơm hoa kết trái; ông ta đang làm tất cả bởi vì đây là huyền thoại cá nhân của ông, con đường ông đã chọn để dẫn lối cho đời sống của ông.
     
    Năm trăm năm sau, ở thành phố Ahmedabad của Ấn Độ, một giáo viên hỏi học trò của ông ta về tiểu sử của Francis.  Một trong những học trò ấy viết: “ông ta là một kiến trúc sư vĩ đại, bởi vì khắp phương Đông có những ngôi trường do ông xây dựng nên và chúng đã mang tên ông.”
     
    Antonio Falces, hiệu trưởng một trong những trường đại học cộng đồng này nói với tôi rằng ông ta đã nghe hai người bàn tán với nhau:
     
    “Francis là người Bố Đào Nha,”  một người nói.
     
    “Tất nhiên không phải.  Ông ta sinh ra và chôn cất ở đây, Goa,” người kia trả lời.
     
    Cả hai đều sai, và cả hai đều đúng:  Francis đến từ một ngôi làng bé nhỏ ở Navarra, nhưng ông ta là một người của thế giới, và mọi người nghĩ rằng ông là một phần của nhân dân họ.  Ông ta cũng không là một kiến trúc sư đặc biệt trong việc xây dựng trường học, nhưng, như một trong nhưng nhà viết tiểu sử về ông đã nói, “ông ta như mặt trời, nên không thể tiến về phía trước mà không tỏa ánh sáng cùng hơi ấm bất cứ nơi nào nó đi qua.”
     
    Tôi nghĩ về Francis: ở đây, du hành khắp thế giới, làm cho tên tuổi của ngôi làng nhỏ bé này được biết thật nhiều nơi và người ta tin tưởng nó là “họ” của ông ta.  Đối diện với sự sợ hãi của ông ta, bỏ lại sau lưng tất cả để đeo đuổi ước mơ của ông- có lẻ sự cảm hứng và phụng sự này là một tấm gương cho tôi, người đã học trong một trường đại học cũng gọi là “đoàn thể của Giê-Su”,  Jesuit schools, như chúng được biết.
     
    Tôi đang ở đây, trong làng Javier.  Cả Francisco và Ignatius đến từ một làng nhỏ bé khác tên là Loyola, được phong thánh cùng ngày – 12 tháng ba năm 1622, vào buổi sáng ấy một biểu ngữ được treo trên tường Vatican:
     
    “Thánh Francis Javier đã làm nhiều phép mầu.  Nhưng những phép lạ của thánh Ignatius thì vĩ đại hơn: Francis Javier.”
    #17
      tueuyen 13.01.2009 22:46:34 (permalink)
      0
      CON ĐƯỜNG VÀ Ý NGHĨA
       
      10.06.2006
       
      Tôi đã trên bước  đường du hành từ ngày hai mươi tháng ba, đây là cách tôi chọn để kỷ niệm đệ nhị thập chu niên lần hành hương đầu tiên của tôi trên đường đến Santiago.  Chuyến du hành đã đưa tôi đến ba lục địa khác nhau ( Âu châu, Phi châu, và Viễn Đông) và giúp tôi có thể tiếp cận trực tiếp với hàng nghìn độc giả của tôi, vì trong khoảnh khắc tôi quyết định rằng thật là không thể tổ chức bất cứ điều gì mà không có sự hiện diện của họ.
       
      Ở Puente de la Reina tôi bắt đầu một buổi tặng chữ ký đầu tiên của tôi vào buổi chiều mà không có “chương trình định trước”, và từ đấy tôi hoạch định kết hợp một vài cuộc gặp gở có tổ chức với những người khác phải chắc chắn thật thoải mái.  Tất cả những buổi chiều tặng chữ ký được tiếp theo với những buổi tiệc  nơi chúng tôi cùng nhau kỷ niệm ý nghĩa mà con đường đã nói lên là: gặp gở.  Để tưởng nhớ, kỷ niệm, thảo luận, khiêu vũ, và tôn vinh huyền bí của đời sống, nhưng cùng lúc để hiểu rằng chúng ta không đơn côi trong sự huyền bí này và rằng chúng ta cần chia sẻ sự đam mê của chúng ta với những người khác những người thông hiểu phương cách suy nghĩ của chúng ta.
       
      Vào ngày mười chín tháng tư, tôi tạo ra chương trình này với Paula Branconnot, vì thế tất cả những kinh nghiệm này có thể vượt xa không gian vật lý và cũng có thể tiến vào không gian thực tại.  Tôi muốn nhân cơ hội này để cảm ơn Paula vì sự chuyên môn, sự yêu mến và sự cống hiến của cô, nhờ đấy mà vượt qua tất cả những khó khăn về kỷ thuật.
       
      Nơi dừng lại kế tiếp của tôi trước khi trở về nhà sẽ là Đức Quốc, nơi tôi sẽ dự Cúp Thế Giới như một khách mời của FIFA.  Như tôi không nghĩ rằng tôi sẽ có thể nói bất cứ gì về bóng đá, hôm nay tôi đang kết thúc những bài vở này.  Bất cứ những lời bình luận nào cũng sẽ được hoan nghênh nồng hậu, vì thế chúng ta có thể hoàn thiện ý tưởng có một chương trình cho những cơ hội đối thoại.
       
      Vào ngày hai mươi tháng sáu, tôi sẽ trở lại nơi điểm khởi hành của tôi, nhà máy xay cổ trong rặng Pyrenees, và ngay sau đấy tôi sẽ trở lại Ba Tây.
       
      Trên một trong những nơi dừng chân đầu tiên của tôi trong chuyến hành hương này, tôi đã tìm đến một làng quê Tây Ban Nha.  Nơi ấy tôi viết bài phía trên, Francis .  Tôi tin rằng, không cần biết chúng ta đến từ nơi nào, chúng ta luôn luôn có thể tiến xa hơn những gì chúng ta tưởng tượng.  Đây là thí dụ mà Francis đã cho chúng ta, thí dụ mà chúng ta nên đi theo.
       
      Tôi xin dâng hiến con đường này đến những độc giả của tôi. Vô vàn cảm ơn đến sự hổ trợ mà quý vị gởi gắm tất cả cho tôi, và những đêm mà tôi đã dành để đọc những thông điệp của quý vị, những điều luôn luôn động viên tôi tiến bước trên hành trình của mình. Ý nghĩa của con đường ở nơi mọi người, và chúng ta luôn luôn thấy thế giới tốt đẹp hơn khi chúng ta cho phép sự huyền bí trong sự gặp gở của chúng ta vén mở.  Như câu cuối trong quyển Hành Hương nói rằng: “con người luôn luôn xuất hiện khi họ được nhắc đến.”
       
      Bước đường du hành, đã tưới tẩm tâm hồn tôi đầy những kinh nghiệm vô cùng lý thú, một trong những khoảnh khắc mầu nhiệm nhất đến mỗi đêm khi tôi đọc những lời bình luận trao đổi với độc giả.  Mặc dù không thể trả lời tất cả, nhưng tôi muốn chư thiện hữu biết rằng nó rất quan trọng đối với tôi, để biết rằng tôi không đơn độc trên lối mòn này.  Muôn vàn cảm tạ đến sự hổ trợ của tất  cả các hiền hữu cùng những ý kiến và những từ ngữ bây giờ đã ghi khắc vào lòng tôi.
       
      PAULO COELHO
       
      ---
       
      HẾT TẬP MỘT

       
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.01.2009 00:23:42 bởi tueuyen >
      #18
        tueuyen 15.01.2009 21:10:15 (permalink)
        0
        CẤT BƯỚC TRÊN LỐI MÒN - TẬP II

        Nguyên tác: WALKING THE PATH

        Tác giả: Paulo Coelho

        Dịch giả: Tuệ Uyển


        -------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

         
        TRÊN ĐƯỜNG ĐẾN SANTIAGO
         
        31.07.2006
         
        “Đám mây u ám này phải đến hồi tan biến”, tôi đã nghĩ trong khi vất vả khám phá những dấu màu vàng trên những tảng đá và cây cối trên Đường.  Gần nữa giờ đồng hồ điều trông thấy này đã được khép lại với số không, và tôi bắt đầu hát để xua đuổi sự sợ hải trong khi đợi chờ cho những điều lạ thường xảy ra. Ẩn dấu trong làn sương, tất cả riêng chỉ có trong không khí hư ảo ấy, một lần nữa, tôi bắt đầu thấy Con Đường đến Santiago giống như nó một cuộn phim, ngay thời điểm, khi bạn thấy một anh hùng hành động những gì mà không ai làm, trong khi xem hay nghe bạn nghĩ rằng những hành động này chỉ xảy ra trên phim ảnh.  Nhưng ở đấy tôi đang sống với hoàn cảnh này trong cuộc đời thực.  Rừng núi đang lớn lên im lặng hơn và tĩnh mịch hơn và sương mù đang dần tan biến.  Có lẽ nó đang chấm dứt, nhưng ánh sáng đang chói lòa trong mắt tôi, và tô điểm mọi thứ chúng quanh tôi trong những màu sắc huyền bí và kính sợ.
         
        Đột nhiên, giống như một màn ảo thuật, sương mù hoàn toàn biến mất.  Ở đấy, ngay trước mắt tôi là đỉnh núi thiêng liên rực sáng.
         
        Tôi nhìn chung quanh và thấy  một biển mây mà tôi đã nói đến và một biển mây khác nữa ở trên đầu tôi.  Giữa hai đại dương mây  của ngọn núi cao nhất và đỉnh Cebruiro là biểu tượng thiêng liêng, như người phương Đông có nói, núi cao có tiên thì có tiếng, và mọi tôn giáo đều lấy đỉnh cao để đặt những biểu tượng, thánh tượng, thánh giá.  Tôi cảm thấy tràn dâng một niềm cảm xúc để nguyện cầu.
         
        Mặc dù đầy ước vọng, tôi đã không cố gắng để nói một lời nào.  Hàng trăm thước, một ngôi làng với mười lăm ngôi nhà và một ngôi thánh đường nhỏ bắt đầu bật sáng những ngọn đèn của nó.  Ít nhất  tôi cũng có nơi nào đấy để nghĩ lại qua đêm.  Một con cừu lạc đàn leo lên đỉnh đồi và nằm giữa tôi cùng thánh tượng.  Nó nhìn tôi, trông có vẻ sợ hãi. Qua một hồi lâu tôi nhìn đăm đăm vào bầu trời gần như đen kịt, thánh tượng,  và con cừu trắng ngay dưới chân thánh tượng.
         
        “Đấng thủ hộ chúng sinh”, cuối cùng tôi nói.  “Con không bị đóng đinh trên thánh giá, con cũng không thấy Ngài ở đó.  Chỉ có sự trống không và vì thế nó sẽ ngự trị mãi mãi, bởi vì thời gian của tử sinh đã từng đi qua.  Sự trống không là biểu tượng của năng lực nguyên sơ vô cùng tận mà tất cả chúng con cùng có, chẳng ai có thể đóng đinh và giết hại được.  Bây giờ năng lực này lại trổi dậy trong cuộc sống, bởi vì chúng con đã đi trên lối mòn của những con người bình thường, Ngài đã đến để dạy tất cả rằng chúng con có thể, và chúng con đã không chấp nhận điều này.  Ngài chỉ cho chúng con rằng năng lực và vinh quang là trong tầm tay của mọi người, và viễn kiến đột nhiên này về khả năng chúng con thật là quá sung mãn.  Chúng con đóng đinh Chúa trên thập tự thánh giá không phải vì chúng con không biết ơn đến đứa con của thiên đàng, (nhưng thế thì chúng con là con của ai?) nhưng cũng bởi vì chúng con quá sợ hãi để chấp nhận khả năng của chúng con.  Với thời gian và truyền thống, Ngài lại trở thành chỉ là một vị thần thánh xa xôi, và chúng con trở lại số phận của những con người.
         
        “Không có tội lỗi nào đã xảy ra. Với nửa tá bài thực tập và một lỗ tai chú ý là chúng con có thể nhận ra hầu hết những giấc mơ không tưởng đó của mình.”
         
        Con cừu đứng lên và tôi đi theo nó.  Tôi đã biết nó sẽ dẫn tôi đi đến chỗ nào, và mặc dù thế gới những đám mây bên ngoài như những đám mây vọng tưởng bên trong cũng không che lấp ánh sáng của chân tâm trong tôi.  Mặc dù tôi không thấy cầu vồng ánh sáng của những vì sao trên bầu trời, tôi chắc chắn rằng nó tồn tại để chỉ cho mọi người Con Đường đến Santiago.  Tôi đi theo con cừu, bây giờ nó đang hướng đến ngôi làng nhỏ cũng gọi là Cebreiro, như một ngọn núi.   Một phép lạ đã xảy ra nơi ấy một lần rồi – phép mầu của đổi thay những gì bạn làm thành những gì bạn tin tưởng.  Bí mật của thanh gươm và con đường kỳ lạ đến Santiago.
         
        Khi tôi đi xuống triền núi, tôi nhớ lại một câu chuyện.  Một nông dân từ một làng lân cận lên đây để nghe một buổi lễ ở Cebreiro một ngày nọ giữa một cơn bảo.  Buổi lễ được tổ chức bởi một tu sĩ với tấm lòng bé tí người đã khinh thị thái độ thành tâm của người nông dân.  Nhưng vào thời điểm dâng lễ, bánh thánh biến thành thân thể Chúa Kitô và rượu vang biến thành máu Ngài.  Di tích vẫn còn đấy, được giữ trong thánh đường nho nhỏ ấy, một kho tàng lớn hơn tất cả sự giàu có của Vaticant.
         
        Tôi vào trong ngôi thánh đường nhỏ ấy được xây dựng bởi người nông dân và vị tu sĩ người đã bắt đầu tin tưởng trong những gì mình làm.  Chẳng ai biết họ là ai.  Hai bia mộ vô danh, trong nghĩa trang gần đấy đánh dấu nơi hài cốt họ được chôn cất.  Nhưng không thể biết ngôi mộ nào là của tu sĩ và ngôi mộ nào là của nông dân.  Bởi vì, để cho phép lạ xảy ra, cả hai năng lực phải chiến đấu cho một trận chiến Tuyệt hảo.
         
        Thế rồi từ lúc ấy trở đi, bất cứ khi nào tôi phải đối diện với một thử thách quan trọng, tôi nhớ lại câu chuyện phép lạ ở Cebreiro.  Tín ngưỡng đôi khi phải được kích thích trước khi nó có thể tự biểu hiện.
         
        Trong năm nay, tôi kỷ niệm đệ nhị thập chu niên cuộc hành hương mà đã thay đổi đời tôi.  Năm tới, vào ngày 25 tháng bảy, chúng tôi kỷ niệm Ngày Santiago de Composta.  Nếu bạn có thể, hãy nguyện cầu tôn vinh Đất Trời Thánh Thiện.

         

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.01.2009 06:57:28 bởi tueuyen >
        #19
          tueuyen 17.01.2009 07:05:44 (permalink)
          0
          NGƯỜI MÙ VÀ ĐỈNH EVEREST
           
          02.08.2006
           
          Từng tí từng tí chúng ta dường như đã quá quen thuộc với những ẩn dụ của đời sống.  Vào thời gian về trước tôi đã viết “Kỷ thuật leo núi”, và không ngờ tôi đã gặp một độc giả ở Hamburg, người quyết định chia sẻ với tôi kinh nghiệm của ông ta về leo núi trong thực tế đời sống.  Ông ta khám phá khách sạn tôi đang ở, và có bình phẩm gì đấy về những bài vở của tôi trên internet.  Sau khi tặng một vài lời phê phán khe khắt, ông ta hỏi:
           
          “Ông không phiền nếu tôi chụp một tấm hình với bạn gái tôi chứ?”
           
          Dĩ nhiên là không.  Ông ta lấy máy điện thoại cầm tay, bấm một nút, chẳng nói gì, và bạn gái ông ta xuất hiện một phút sau đó.
           
          Sau khi chụp hình xong là một câu hỏi khác kích thích hơn:
           
          “Một người mù có thể leo lên đỉnh Everest chứ?”
           
          “Tôi không nghĩ như vậy”, tôi trả lời.
           
          “Tại sao ông không trả lời là ‘có thể’?”
           
          Tôi gần như chắc chắn là mình đang gặp phải trường hợp của một sự “lạc quan ép buộc’’.  Một thứ là sự hứng thú của cả vũ trụ cho một giấc mơ trở thành hiện thực, trong khi thứ kia hoàn toàn là một nơi mà chính bạn đối diện với  với một thử thách hoàn toàn không cần thiết, điều nào có dẫn đến cái chết hay sự thất bại không thể đoán được.
           
          Tôi giải thích là tôi phải đi vì một cuộc hẹn, những độc giả ấy không chịu buông tha.
           
          “Người mù có thể leo lên đỉnh Everest, ngọn núi cao nhất trên thế giới (8.848 thước).  Không phải họ có thể làm điều ấy, nhưng tôi đã biết ít nhất một người mù đã làm được việc ấy.  Tên ông ta là Erik Weihenmayer.  Cái hẹn của ông có thể chờ thêm tí chứ?”
           
          Vì ông ta cho tôi biết tên tuổi, phải có một câu chuyện hấp dẫn ở đấy.  Dĩ nhiên là tôi có thể trì hoãn buổi hẹn của tôi.
           
          “Vào năm 2001, Weihenmayer đã được một kỳ công.  Trong khi người ta phàn nàn rằng họ không thể cung cấp một chiếc xe hơi khá hơn, áo quần thanh lịch hơn, và lương bổng thích ứng với khả năng của họ.”
           
          “Ông có chắc không?”
           
          “Hãy nhìn trên internet.  Nhưng những gì hấp dẫn mê hoặc tôi là Weihenmayer biết chắc chắn những gì ông ta muốn: ông ta thay đổi đời sống ông ta thành những gì ông ta nghĩ là nó nên là thế.  Ông ta có can đảm mạo hiểm mọi thứ để có sự hiệp sức của toàn vũ trụ trong những gì ông thích.”
           
          Tôi đồng ý.  Độc giả tiếp tục, như thể thái độ của tôi chẳng còn quan tâm gì tới ông ta.
           
          “Nếu ông biết những gì ông muốn trong đời, thế thì ông có tất cả những gì ông cần để cố gắng làm cho ước mơ minh thành hiện thực.  Chính ông đã nói như thế có phải không?”
           
          Dĩ nhiên.  Những có những sự giới hạn, thí như người mù leo lên đỉnh núi cao nhất trên trái đất.
           
          “Và nếu con người không có ước mơ, người ta phải làm gì?”
           
          “Hãy nghĩ đến việc gì đấy mà họ muốn làm, và rồi thì khởi sự bước đầu tiên,”  tôi trả lời.  “Không sợ vấp phải sai sót.  Không sợ làm bực mình những ai ‘lo ngại’ về thái độ của họ.”
           
          “Vâng chính thế!” độc giả nói,  đây là lần đầu tiên xác chứng ý kiến của tôi một cách rõ ràng.  “Thế thì chúng ta  nhận thức rằng để đạt đến những gì chúng ta muốn chúng ta phải thực hiện những điều liều lĩnh.  Ông không nói như thế trong sách của ông chứ?”
           
          Tôi không chỉ nói thế, mà tôi cũng cố gắng để bảo vệ những lời của tôi.  Nhưng chúng tôi bị gián đoạn trong cuộc đối thoại; đây là lúc cho cuộc hẹn mà đã đưa tôi đến Hamburg.  Tôi cảm ơn cho sự chú ý của ông ta, nhắc ông ta gởi cho tôi những gợi ý qua máy điện toán, chúng tôi chụp một bức ảnh nữa và rồi  thì nói lời từ giã.
           
          Vào lúc ba giờ sáng, trở lại sự kiện ấy, tôi mò trong túi mình để tìm chìa khóa phòng và khám phá một mãnh giấy viết tên người mù.  Mặc dù biết rằng tôi sẽ đi Cairo trong một vài giờ nữa, tôi đã mở máy điện toán, và đấy là:
           
          “Vào ngày 25 tháng 5, năm 2001, ở vào tuổi 32, Erik Weihenmayer trở thành người mù đầu tiên leo lên đến đỉnh núi cao nhất trên thế giới.  Một cựu giáo viên phổ thông cấp ba đã nhận phần thưởng ESPN (Entertainment and Sports Programming Network-Hệ Thống Chương Trình Giải Trí Thể Thao) và IDEA vì sự can đảm của ông ta trong việc vượt qua những trở ngại giới hạn mà những điều kiện thân thể cho phép.  Bên cạnh Everest, Erik Weihenmayer đã leo bảy ngọn núi cao nhất khác trên thế giới, bao gồm Aconcaqua ở Á Căn Đình (Argentina) và Kilimanjaro ở Tanzania.”
           
          Nếu bạn không tin nó, thì tìm xem.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.01.2009 09:15:27 bởi tueuyen >
          #20
            tueuyen 17.01.2009 21:38:49 (permalink)
            0

            CÂU LẠC BỘ LỐI MÒN ACHILLES” LEO NÚI KILIMANJARO
             
            Người Tường Thuật:  Họ leo lên  một trong những ngọn núi cao nhất -  Nhóm những người khuyết tật leo núi từ vùng Nửu Ước.  Đấy là một câu chuyện đạt đến đỉnh cao mới, và vượt thắng những chướng ngại lớn.  Monica Pellegrini giới thiệu chúng tôi đến những người lực sĩ gây cảm hứng này.
             
            Vận động viên 1:  tôi nghĩ một vài lần rằng tôi không thể leo nổi…um…tôi gần như muốn bỏ cuộc hai lần.
             
            Monica Pellegrini:  Núi Kilimanajaro, ở miền bắc một quốc gia Phi Châu, Tanzania.  Leo lên nó không phải là chuyện nhỏ cho những người leo núi trung bình, nhưng cho một nhóm bảy người từ câu lạc bộ Lối Mòn Achilles ở Nửu Ước, nó là một sự thử thách lớn hơn nhiều.  Tất cả họ là những người khuyết tật trong cách nào đấy.  Năm người mù, một người điếc và hen suyễn. Còn người nữa thì vừa thoát ung thư và cụt chân.
             
            Vận động viên 2:  Nó quả thật khó khăn nhiều hơn tôi nghĩ.  Ah… một sự leo núi khó khăn, và chiều cao của nó quả thật đã ảnh hưởng rất nhiều lên chúng tôi.  Nhưng chúng tôi kiên nhẫn, và đa số các vận động viên có thể tiếp tục đến cùng.
             
            Monica Pellegrini:  Sự thành công làm cho một nhóm đông nhất những vận động viên khuyết tật lần đầu tiên leo lên đến đỉnh núi  Kilimanjaro – một cuộc mạo hiểm mà họ gọi là một chúc thư gởi đến tâm linh con người, và một cơ hội tăng cường năng lực cho chính họ và những người khác.
             
            Vận động viên 3: Tôi muốn với tay thật sâu, và vận dụng tất cả năng lượng mà tôi có, và tiếp tục.  Bởi vì phía sau việc hoàn thành này là sự thử thách thân thể cho chính tôi, tôi biết có một thông điệp to lớn hơn mà chúng tôi mang theo.
             
            Monica Pellegrini:  Nhóm leo núi ghi chép hằng ngày hành trình của họ trên mạng. và ngay cả khi gặp khó khăn, họ cố gắng, bặm môi, quay sang những người bên cạnh tìm sự cảm hứng và truyền cho nhau năng lực trong khi họ tiếp tục trên lối mòn lên đỉnh.
             
            Vận động viên 4:  Tôi đã nghe là nó sẽ khó khăn.  Tôi chỉ là không nghĩ nó sẽ quá gay go như thế.
             
            Monica Pellegrini:  Vâng, khó khăn gay go thật, nhưng một kinh nghiệm mà nó sẽ không bị quên lãng một cách mau chóng.
             
            Vận động viên 1:  Khi chúng ta kinh nghiệm qua khoảng không gian rộng mở này, gió, ánh nắng, năng lựơng của mặt trời mà chúng tôi chưa từng được cảm nhận như thế…
             
            Monica Pellegrini:  Cuộc mạo hiểm bắt đầu vào ngay 28 tháng tám và chấm vào chúa nhật tuần rồi, khi một nhóm, cùng theo có 18 người tự nguyện hướng dẫn từ Câu lạc bộ Lối Mòn Achilles,  đặt chân lên đỉnh núi.
             
            Kilimanjaro là một ngọn núi ở Tanzania, Đông Phi Châu. Đây là ngọn núi cao nhất Phi Châu 19.340 bộ (5.895 thước). Vì nó ở khoảng 200 dặm phía nam đường xich đạo, khí hậu của Kilimanjaro thì khắc nghiệt, với thời tiết nhiệt đới ở chân núi và  khí tượng vùng cực ở đỉnh như nhiệt độ và gió mạnh.
             
            Achilles là một nhân vật thần thoại Hy Lạp nổi tiếng và nhược điểm của ông là một nơi yếu huyệt hay làm khốn đốn cho ông là ở gót chân.  Tên ông và  nhóm chữ “gót chân Achilles” trở thành đồng nghĩa với những vấn đề và chướng ngại khó khăn mà người ta đối diện trong cuộc sống của họ.
            #21
              tueuyen 17.01.2009 21:50:21 (permalink)
              0
              TRÈO LÊN ĐỈNH KILIMANJARO
               
              -Ngày thứ nhất:
               
              Các bạn ở Nửu Ước thân mến,
               
              Chào mọi người!  Chúng tôi đang ở chân núi diệu kỳ này.  Nó cao hơn 5.895 mét.  Đó là 19.340 bộ.  Đây sẽ là một thử thách lớn nhất mà tôi chưa từng làm bao  giờ, nhưng tôi đã thực sự quyết tâm để thành công.  Tôi nghĩ rằng chúng tôi mang theo một thông điệp của cảm hứng và hy vọng.  Tôi không đang trong tình trạng khỏe lắm, nhưng tôi đã dặt một mục tiêu cao độ cho tôi bất cứ giá nào.  Nếu tôi đến đỉnh, có thể những người khác sẽ cố gắng để làm giống như thế.
               
              Từ nơi này, phong cảnh thật tuyệt vời.  Có một số ngôi nhà rải rác chung quanh chân các ngọn đồi.  Những con chim buông cánh xuống chung quanh tôi.  Điều này đẹp đẻ quá!
               
              -Ngày thứ ba:
               
              Tất cả mọi người thân mến,
               
              Chúng tôi đã dành hai ngày để làm quen với độ cao.  Không khí thì loãng ở trên này!  Sau một ngày leo núi.  Tôi rã rời trên chỗ nằm tối qua.  Khi tôi mở lều buổi sáng này,  tôi thấy một nhân vật từ xa.  Lúc đầu tôi không nhận ra cô ta, nhưng khi tôi gọi lớn, “Hello,”  cô ta đáp ứng bằng cách vẩy tay.  Đấy là một trong những vận động viên khác.  Cô ta đang trầm trồ thán phục với sự xinh đẹp của tia sáng mặt trời lên.  Thật là một khoảnh khắc đầy cảm hứng.  Bây giờ tôi không thể chờ đợi để tiếp tục!
               
              Tôi đang cùng nhận ra lẫn nhau với nhiều người khác.   Họ luôn luôn bình luận về những việc tôi làm tốt và nói với tôi rằng tôi khỏe thế nào, cả thân thể lẫn tinh thần.  Nhưng người hướng dẫn là những người leo núi rất mạnh mẻ và họ cho chúng tôi sự hổ trợ vật lý khi cần,  và dĩ nhiên tôi cần điều ấy.
               
              -Ngày thứ năm:
               
              Chào tất cả mọi người,
               
              Tôi không tin rằng tôi đang viết điều này, nhưng mục tiêu thì rất gần.  Chỗ này thật ngoạn mục và hùng vĩ.  Tôi rất mừng vui vì đã quyết định là một thành phần trong chương trình này.  Và bây giờ sự kiên trì của chúng tôi đã được đền trả.  Tôi sẽ có thể nói rằng như một người sống sót của ung thư, tôi đã leo lên một trong những đỉnh núi cao nhất trên thế giới!
               
              Đôi khi dường như người ta nhìn những người khuyết tật với sự cảm thương.  Những người khác gần như ồn ào rằng chúng tôi cố gắng làm những việc mà họ nghĩ là không thể được.  Đúng như họ đang phán xét chúng tôi một cách tiêu cực vì không hành động vô tích sự hay những gì giống như thế.  Họ chắc chắn không có nghĩa là muốn làm tổn thương chúng tôi, những đôi khi cũng khó mà phớt lờ họ.
               
              Nhưng bây giờ, tôi nghĩ rằng mặc dù với tất cả hạn chế của chúng tôi, chúng tôi đã làm được những gì thật đặc biệt -  những gì thật khó khăn mà bất cứ người nào cũng có thể tìm cách thực hiện được.  Tôi cảm thấy thật tự hào vì những đồng đội của tôi đã thật can trường.  Tôi nghĩ rằng chúng tôi đang mang một thông điệp truyền năng lực đến mọi người những ai muốn vượt thắng một thử thách khó khăn.
               
              -Ngày thứ bảy:
               
              Chào tất cả mọi người,
               
              Hãy sẵn sàng để nghe một tin vui…Chúng tôi ở đây!  Chúng tôi ở tại đỉnh núi!  Khi chúng tôi đến đỉnh, chúng tôi đã chụp một tấm hình của cả nhóm như một bằng chứng mà chúng tôi đã làm được!  Rồi thì chúng tôi thả một túi lông chim vào không gian, tượng trưng cho câu chuyện của chúng tôi sẽ đi đến với những người khác.  Đây thật là một kinh nghiệm lạ lùng, nhưng các bạn có thể không tin rằng nó khó khăn thế nào.  Tôi không thể tin rằng chúng tôi có thể làm được điều này.  Tuần rồi chúng tôi đang ở chân núi, và chúng tôi không biết điều gì đang chờ đợi chúng tôi.  Đỉnh cao thật là khó khăn để đối diện, nhưng chúng tôi đã không bỏ cuộc!
               
              Những con chim bay vút lên phía dưới chúng tôi, và không khí trong lành.  Tôi muốn nhớ mãi ngày hôm nay.


              <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.01.2009 21:57:35 bởi tueuyen >
              #22
                tueuyen 18.01.2009 21:30:41 (permalink)
                0
                CHIẾN SĨ CỦA TUỆ SÁNG VÀ CHIẾN LƯỢC
                 
                16.08.2006
                 
                -Chiến Sĩ của Tuệ Sáng và Chiến Lược
                 
                Thanh gươm có thể tồn tại một thời gian ngắn, nhưng Chiến Sĩ của Tuệ Sáng phải tồn tại lâu dài.  Đấy là tại sao anh ta phải hướng dẫn chính mình một cách không ngu ngơ bởi khả năng của chính anh ta và vì thế được thực hiện thành công một cách ngạc nhiên không ngờ.  Mỗi thứ anh ta hành động là đúng giá trị mà nó có.
                 
                Thường thường, khi anh ta đối diện với những vấn đề nghiêm trọng, những tiếng thì thầm như quỷ ám bên tai anh ta: “Đừng chán nản điều ấy, điều ấy không nghiêm trọng.”
                 
                Nhưng lúc khác, khi anh ta đối diện với những việc tầm thường, tiếng thì thầm lại vang lên: “Bạn cần dành hết năng lượng để giải quyết vấn đề này.”
                 
                Chiến Sĩ của Tuệ Sáng không nghe theo những tiếng tà mị thì thầm bên tai.  Anh ta là chủ nhân ông thanh gươm của anh ta.
                 
                -Hãy Lưu Tâm Đến Những Đồng Minh của Bạn
                 
                Chiến sĩ không liên kết với những ai muốn anh ta bị tổn thương.  Cũng không muốn thấy trong đội ngũ của mình những ai muốn “vuốt ve dỗ dành” mình.
                 
                Anh ta tránh bất cứ ai chỉ ở bên cạnh anh trong những thời điểm của thất bại.  Những ngưởi bạn giả dối này muốn chứng tỏ rằng sự yếu đuối có phần thưởng của nó.  Họ luôn luôn mang theo những tin tức xấu.  Họ luôn luôn cố gắng triệt tiêu niềm tin của người chiến sĩ,  bằng ngụy trang của sự “đoàn kết”.
                 
                Khi họ thấy anh ta bị thương họ đổ nước mắt, nhưng trong thâm tâm họ vui mừng bởi vì người chiến sĩ đã thất bại một cuộc chiến.  Họ không hiểu rằng đấy là một phần của cuộc chiến.
                 
                Những bạn đồng hành chân chính của chiến sĩ luôn ở về phía anh ta tại mỗi thời mỗi lúc, trong những thời gian cả khó khăn lẫn dễ dàng.
                 
                -Đàm Phán với Kẻ Thù
                 
                Khi những thời điểm của chiến trận đã tiến đến gần, Chiến Sĩ của Tuệ Sáng chuẩn bị cho mọi tình huống.  Anh ta phân tích mỗi điều có thể xảy ra và tự hỏi mình: “Tôi sẽ phải làm gì nếu tôi phải chiến đấu chống lại chính mình?”
                 
                Đây là cách làm thế nào để khám phá những nhược điểm của anh ta.
                 
                Tại thời điểm tiếp cận với đối phương, mang trong lòng đầy những hứa hẹn, những thỏa thuận, và những thương nghị.   Anh ta có đề  nghị lôi cuốn và phương cách thoải mái để đưa ra.
                 
                Chiến sĩ phân tích từng đề nghị này; anh ta cũng tìm một thỏa thuận, nhưng không để mất chân giá trị của mình.  Nếu anh ta tránh chiến trận, không phải bởi anh ta hèn nhát – nhưng đúng hơn là sự quyết định rằng đây là chiến lược tốt nhất.
                 
                Một Chiến Sĩ của Tuệ Sáng không nhận những món quà của kẻ thù.

                 
                -Với Sự Phòng Thủ và Trên Sự Tấn Công
                 
                Chiến sĩ thật cẩn trọng với những người nghĩ rằng họ có thể điều khiển thế giới, quyết định từng bước đi của chính họ, và chắc chắn rằng họ biết đúng con đường.  Họ luôn luôn quá tin tưởng vào khả năng của chính quyết định cuả họ rằng họ không nhận thấy sự trớ trêu với số phận đã viết nên kiếp sống mỗi người.
                 
                Chiến Sĩ của Tuệ Sáng có những ước mơ.  Những ước mơ đưa anh ta tiến về phía trước.  Nhưng anh ta chẳng bao giờ phạm phải sai lầm để nghĩ rằng con đường thì dễ dàng và cánh cửa rộng mở.
                 
                Anh ta biết rằng hoạt động của vũ trụ như thuật giả kim (alchemy): solve et coagula (phân tán và kết tụ), những bậc thầy đã nói thế.  “Tập trung và phân tán năng lượng của chúng ta tùy theo hoàn cảnh.”
                 
                Có những thời điểm để hành động và những thời điểm để chấp nhận.
                 
                -Trong Bộ Mặt của Thất Bại
                 
                 Chiến Sĩ của Tuệ Sáng biết làm thế nào khi thất bại.  Anh ta không ôm giữ thất bại như những gì không quan trọng, dùng những mệnh đề như “tốt thôi, nó không quan trọng gì cả”, hay “nói đúng thì, tôi cũng không thật sự muốn điều đó.”
                 
                Anh ta chấp nhận thất bại như là một thất bại; anh ta không cố gắng để thay đổi nó thành một chiến thắng hay một kinh nghiệm.  Anh ta khổ sở vì nhức nhối của vết thương, sự thờ ơ lãnh đạm của những bạn bè và niềm cô đơn của mất mát.  Tại những thời điểm như thế anh ta nói với chính mình: “Mình đã chiến đấu cho điều gì ấy, và mình đã thất bại trong việc đạt đến mục tiêu.  Mình đã thua trong trận chiến đầu tiên.”
                 
                Mệnh đề này sẽ ban cho anh ta một sức mạnh.  Anh ta tỉnh thức rằng không có ai chiến thắng trong mọi thời – nhưng sự can trường luôn luôn chiến thắng lúc sau cùng.
                #23
                  tueuyen 19.01.2009 04:30:45 (permalink)
                  0
                  TRÊN TÍNH VĨNH CỮU
                   
                  30.08.2006
                   
                   
                  Con người đáp ứng thế nào với đổi thay hay vô thường?
                   

                  Một cách tệ hại.  Luôn luôn rất tệ hại.  Một trong những sự huyền bí phổ biến nhất trên toàn thế giới – bí ẩn của ma cà rồng – phản chiếu ý tưởng này.
                   
                  Ma cà rồng (vampire) là gì?  Đấy là những kẻ tại một thời điểm nào đấy trong sự hiện hữu của họ trở thành vĩnh cữu.  Nói cách khác, sau một thời điểm thân thể của họ không còn theo tiến trình thông thường của tự nhiên; họ sẽ trở nên trẻ mãi, và họ có thể sống lâu như thế nào nếu họ thích mà không phải đối diện với những vấn đề làm cho phải già đi.
                   
                  Sự kiêng khem duy nhất của một vampire là một ít máu mỗi ngày, và sự cẩn thận duy nhất với làn da của họ là tránh tiếp xúc với ánh sáng mặt trời – nhưng đây là tất cả, điều này là một cái giá rất nhỏ phải trả để hưởng thụ tất cả những gì có thể của một kiếp sống bất tận.
                   
                  Ngoại trừ một điều:  vampire dừng lại đúng lúc, trong khi thế giới xảy ra những đổi thay.  Mọi thứ họ thường luôn bắt đầu để thay đổi, và mặc dù họ luôn luôn phải thích ứng đến sự đổi thay này trên thế giới, họ khao khát vĩnh cữu đúng mức hoàn toàn bởi vì họ hạnh phúc với thế giới mà họ sống.  Họ không quan tâm trong việc sánh bước với những đổi thay này.
                   
                  Hãy tưởng tượng một kẻ nào đấy trở thành một vampire ngay sau chung kết của cúp bóng đá thể giới 1986.  Kẻ ấy có thể hút thuốc trên máy bay, không cần lo tới việc chọn một băng tần truyền hình nào để xem – sự chọn lựa thật quá giới hạn.  Kẻ ấy là một nữ minh tinh cho một biểu tượng sex, hiểu tất cả về những bộ phận chế hòa khí và chiến đấu cho những ý tưởng xã hội của mình, thuyết phục Liên Bang Sô Viết sớm có thêm những thủ lĩnh có khả năng,và  sự mong mõi của nhân dân (gọi là giai cấp vô sản) cuối cùng sẽ được tôn trọng.
                   
                  Một ngày đẹp trời nào đấy kẻ bổng ngã vào tình yêu với một sinh viên xã hội học hai mươi hai  tuổi.   Anh ta cảm mến sự xinh đẹp, lòng nhiệt tình, lý tưởng của cô ta.  Anh ta dự định biến cô ta thành một vampire, những cô nàng từ chối -  cô đã xem quá nhiều phim kinh hoàng.  Cô nàng cũng yêu và không muốn mất anh ta, nhưng cô đặt một điều kiện duy nhất để tiếp tục sự quan hệ của họ:  anh ta sẽ không bao giờ hút máu cô ta.  Anh ta một vampire không có lựa chọn nào khác hơn là giữ lời hứa của mình.  Họ thành hôn tại một văn phòng để tránh cây thập ác ghê gớm.
                   
                  Hai mươi năm trải qua – thật sự bay nhanh qua, bởi vì một cúp quốc tế lại bắt đầu.  Sinh viên ngày xưa bây giờ đã bốn mươi hai tuổi, làm việc trong một ngân hàng (thất nghiệp)  hay  viết luận án thạc sĩ và tiến sĩ chẳng thể dùng vào việc gì cả và những nghị luận đơn thuần minh chứng đời sống cô ta như một sinh viên chuyên môn. Những bộ chế hòa khí đã biến mất trên bề mặt của trái đất.  Trong sợ hải ông ta lật qua những trang một tạp chí và thấy biểu tượng sex già cỗi, khuôn mặt với hàng tấn son phấn. Ông ta cảm thấy tội lỗi vì có 300 băng tần và chỉ xem cùng những đài từ lâu xưa.
                   
                  Liên Bang Sô Viết đã sụp đổ. Ông ta bị buộc phải bỏ những điếu thuốc yêu mến của mình (mặc dù nó không ảnh hưởng tới sức khỏe ông ta, đừng quên rằng vampire là vĩnh cữu), bởi vì hút thuốc đã trở nên không thể được nữa, do bởi luật pháp hay do bởi những đôi mắt người ta nhìn ông ta trong nhà hàng.  Và tệ hơn cả là : mọi người đang nói về chat, internet, iPod, bình phẩm, v.v…Vampire cố gắng để theo kịp những tiến bộ hàng ngày của cuộc sống, nhưng mọi thứ dường như phức tạp quá phức tạp, làm phát cáu và chẳng có ý nghĩa gì.  Ông ta nhìn vào máy điện toán giống như ông ta đang nhìn vào một tép tỏi -  với một sự lẫn lộn của kinh khủng và bất lực.  Ông ta sẽ chẳng bao giờ điều khiển được những thứ ấy, mặc dù ông đã cố gắng nhiều lần.
                   
                  Những bè bạn ông ta đã nghĩ hưu, dành thời gian để chơi bài – họ cũng không biết làm thế nào với những máy điện toán, nhưng họ chẳng màng tới, cả nhóm đã cùng già đi, họ có cùng những sự thích thú và có thể chia sẻ những kinh nghiệm.
                   
                  Vampire vẫn trẻ mãi.  Vĩnh cữu.  Bây giờ ông ta đối diện với những căng thẳng ngoại tại.  Ông ta định tự ải, đi ngoài ánh sáng và nhìn vào cây thập ác, nhưng chỉ khám phá rằng những thứ này là phép mầu tạo nên bởi nhà thờ và chẳng có thể làm gì hại ông ta được.
                   
                  Ông ta chỉ còn một điều có thể an ủi:  cón một nhân vật chính trị nổi tiếng mà ông ta biết rành rẻ (bởi vì tất cả những lĩnh tụ chính quyền trên thế giới đã thay đổi).
                   
                  Nhưng thời đại Fidel Castro rồi cũng sẽ qua đi.  Và thế là chẳng còn gì, chẳng còn gì, sẽ tồn tại trên thế giới mà vampire đã một lần mến yêu vô cùng tận.
                  #24
                    tueuyen 19.01.2009 04:39:22 (permalink)
                    0
                    NHỮNG CÂU CHUYỆN CỦA TÍNH KIÊU CĂNG
                    Kiêu căng hay tự hào, Kiêu hảnh hay can trường?
                     
                    13.09.2006
                     
                    -Năng lực của Kiêu Hảnh
                     
                    Vị thầy và người môn đệ đang nói chuyện tại một góc đường rồi thì một bà lão đến và nói với họ:
                     
                    “Đi chỗ khác, tránh cửa sổ của tôi!”  bà lão la lối.  “Các người làm khách hàng khó chịu”.
                     
                    Họ tiếp tục nói chuyện cho đến khi một cảnh binh đến và nói:
                     
                    “Chúng tôi yêu cầu các ông rời khỏi vỉa hè này.  Ngài bá tước sẽ đến đây trong một vài phút nữa.”
                     
                    “Hãy để ông ta dùng lề đường phía bên kia,”  vị thầy trả lời, mà không rời đi.
                     
                    Rồi thì ông quay lại với người môn đệ và nói rằng:  “Đừng quên:  không bao giờ kiêu hảnh đến người khiêm hạ.  Và chẳng bao giờ khiêm tốn đến kẻ kiêu căng.”
                     
                    -Sự Kiêu Hảnh Thánh Thiện
                     
                    Một thiền sinh thiền định mười năm trong một hang động, cố gắng tìm ra con đường đến chân lý.  Trong khi ông ta đang nguyện cầu vào một buổi chiều, một con khỉ đến với ông ta.  Tu sĩ cố gắng để tập trung, nhưng con khỉ đến gần hơn và định cướp lấy đôi dép của ông ta.
                     
                    “Con khỉ tinh ranh này!” nhà ẩn tu nói.  “Tại sao ngươi đến đây để quấy rầy buổi thiền định của ta?”
                     
                    “Tôi đói,”  con khỉ nói.
                     
                    “Cút đi!  Ngươi đang làm rối sự đối thoại của ta với chân lý!”
                     
                    “Ông làm thế nào có thể nói chuyện với chân lý nếu ông không thể tìm được cách để đối thoại với một tạo vật khiêm hạ như tôi?  Con khỉ nói.
                     
                    Tu sĩ xin lỗi, và cảm thấy hổ thẹn.
                     
                    - Sức Mạnh của Kiêu hảnh-Can Trường
                     
                    Ngôi làng bị đe dọa bởi một bộ lạc hung tợn.  Những cư dân lìa bỏ nhà cửa của họ và tìm đến một nơi an toàn hơn.  Vào cuối một năm tất cả dân làng đã rời đi -  ngoại trừ  một nhóm tu sĩ.
                     
                    Nhóm người hung tợn tiến vào làng mà không có một kháng cự nào và họ mở một buổi tiệc lớn để mừng chiến thắng.  Giữa buổi ăn uống chè chén, một tu sĩ xuất hiện.
                     
                    “Các ông đến đây và làm mất sự yên bình của làng xóm này.  Tôi xin các ông hãy rời đây lập tức.”
                     
                    “Tại sao ngươi chưa đi khỏi nơi này?”  tên thủ lĩnh nhóm người hung tợn nói hét lớn.  “Ngươi không thấy là ta có thể đâm một nhát gươm xuyên qua thân ngươi mà không chớp mắt chứ?”
                     
                    Vị tu sĩ trả lời một cách điềm tĩnh rằng:
                     
                    “Ông không thấy là tôi có thể để một nhát gươm xuyên qua thân tôi mà không chớp mắt chứ?”
                     
                    Ngạc nhiên với sự bình thản trước cái chết như thế, thủ lĩnh và nhóm người hung tợn của ông ta đã bỏ đi khỏi làng ấy ngay ngày hôm sau.
                     
                    -Sự Kiêu Căng của Đố Kỵ
                     
                    Trong sa mạc của Syria, satan nói với đồ đệ rằng:  “Loài người luôn luôn quan tâm về ước muốn những thứ của người khác hơn là làm những việc tốt cho chính họ.”
                     
                    Và để chứng minh những gì ông ta đang nói, ông ta quyết định thử hai người đang ngơi nghĩ gần bên.
                     
                    “Ta đến để làm cho những điều mong ước của các ngươi thành sự thật,” ông nói với một người trong họ.  “Bất cứ thứ gì ngươi muốn sẽ được ban cho.  Bạn ngươi sẽ nhận được cùng thứ như thế - nhưng gấp đôi.”
                     
                    Người ấy im lặng một hồi lâu, và rồi cuối cùng nói rằng:
                     
                    “Bạn tôi sẽ mãn nguyện bời vì sẽ nhận được gấp đôi, chẳng kể là người bạn tôi ước gì.  Nhưng tôi đã chuẩn bị một cái bẫy:  ước muốn của tôi là ông làm cho tôi bị mù một mắt.”
                     
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 19.01.2009 04:40:49 bởi tueuyen >
                    #25
                      tueuyen 19.01.2009 04:51:08 (permalink)
                      0
                      NHÂN VẬT KHÓ QUÊN CỦA TÔI
                       
                      26.09.2006
                       
                      Ngày xưa còn bé tôi thường đọc một tạp chí mà cha mẹ tôi đặt mua dài hạn, nó có một mục gọi là “Nhân vật khó quên của tôi” cho những người bình thường nói về những người bình thường đã ảnh hưởng đến đời sống của họ.  Dĩ nhiên, ở vào tuổi ấy, (chín hay mười) gì đấy, tôi cũng đã tạo nên một biểu tượng ảnh hưởng đến cá nhân của mình.  Về mặt khác, tôi chắc chắn rằng trải qua bao năm kiểu mẫu ấy đã thay đổi, vì thế tôi quyết định không viết về tạp chí và trình bày ý kiến của tôi (ngày nay tôi tự hỏi làm thế nào trong những ngày tháng ấy chúng có thể nhận sự cộng tác của những ai đấy cùng lứa tuổi của tôi).
                       
                      Thời gian đã trôi qua, tôi đã từng gặp nhiều người hấp dẫn đã giúp tôi vào những thời điểm khó khăn và truyền cảm hứng cho tôi và chỉ cho tôi những con đường được tôi du hành qua.  Tuy thế, sự huyền bí lớn nhất trong thời thơ ấu luôn luôn chứng tỏ mạnh mẻ hơn;  chúng đi qua những thời điểm mất giá, tranh cải và lãng quên, nhưng chúng tồn tại, xuất hiện trong những trường hợp cần thiết với những giá trị, tấm gương, và quan điểm của chúng.
                       
                      Nhân vật khó quên của tôi tên là José, người em trai trẻ nhất của ông tôi.  Ông ta chưa bao giờ kết hôn, làm việc như một kỷ sư nhiều năm, và khi về hưu ông quyết định sống ở Araruama, một thành phố gần Rio de Janeiro.  Đấy là nơi mà cả gia đình thường đi đến vào những ngày nghĩ lễ mùa hè với con cái trong gia đình.  Ông chú José là một người độc thân, vì thế chắc chắn ông không có nhiều kiên nhẫn với sự ồ ạt đông đảo chiếm cứ như thế, nhưng đấy là thời khắc duy nhất khi mà ông có thể chia sẻ một ít về sự cô đơn của ông với những đứa cháu trai, cháu gái.  Ông cũng là một nhà sáng tạo,  và để có chỗ trọ cho chúng tôi ông quyết định cất nên một căn nhà nơi những cái phòng chỉ xuất hiện trong mùa hè mà thôi!  Ông ấn một nút và những bức tường buông xuống từ mái nhà, những chiếc giường hiện ra từ bức tường bên ngoài, và ở đấy chúng tôi có bốn phòng ngủ là nơi ở cho những kẻ mới đến!  Khi những ngày nghĩ hè qua đi, những bức tường được kéo lên, bàn ghế tủ giường biến vào những bức tường bên ngoài và ngôi nhà một lần nữa biến thành một kho trống không được dùng để chứa những vật dụng cho xưởng làm việc của ông.
                       
                      Ông chế tạo xe hơi.  Không chỉ thế, mà ông còn làm một chiếc xe đặc biệt để mang cả nhà đến hồ Araruama – một sự phối hợp của xe jeep và xe lửa trên bánh xe hơi.  Chúng tôi đi bơi, sống gần với thiên nhiên, dành trọn ngày để nô đùa, và tôi luôn luôn tự hỏi:  “Nhưng tại sao ông sống ở đây một mình?  Ông có tiền, ông có thể sống ở Rio!”  Ông kể chuyện về chuyến đi thăm Hoa Kỳ của ông , nơi ông làm việc trong một mõ than và mạo hiểm đến những nơi chưa từng đến bao giờ.  Gia đình thường nói rằng: “Tất cả những điều đó là bịa đặt”.  Ông luôn luôn ăn mặc như một người thợ máy, và tất cả bà con bình luận: “Ông nên trang phục cho mình những bộ đồ lịch sự hơn.”  Chẳng bao lâu khi máy truyền hình đến Ba Tây, ông mua cho mình một máy và đặt nó trên vỉa hè cho mọi người cả con đường có thể xem những chương trình.
                       
                      Ông dạy tôi nên yêu mến mọi thứ bằng trái tim của mình.  Ông chỉ cho tôi sự quan trọng của việc làm những gì mình muốn, và đừng để ý những gì kẻ khác nói.  Ông che chở tôi khi tôi có vấn đề với cha mẹ tôi vì những bốc đồng của tuổi thanh niên.  Một ngày nọ ông nói với tôi:  “Ông đã chế tạo một hộp số tự động của xe hơi.  Ông đã đến Detroit và tiếp xúc với hãng General Motor; họ chịu mua với giá 15.000 đô la cho sáng chế hay một đô la cho mỗi chiếc xe bán ra với hệ thống mới này.  Ông đã lấy một lần tiền và sống những năm tuyệt vời nhất trong đời ông.”
                       
                      Gia đình thường nói rằng:  “Ông chú José luôn luôn sáng chế ra những thứ gì ấy, đừng tin ông”.  Và mặc dù tôi cảm thấy hào hứng vô cùng với sự mạo hiểm của ông, nhưng với phong cách sống ấy, với sự hào phóng ấy, tôi chẳng tin câu chuyện đó.  Tôi nói với phóng viên Fernando Morais về nó chỉ vì Ông chú José là một nhân vật khó quên của tôi.
                       
                      “Bộ hộp số tự động đầu tiên đã được sáng chế bởi anh em Sturtevant ở Boston trong năm 1904.  Hệ thống đó không hoàn hảo bởi vì nó quá nặng.  Nhưng nó được sáng chế bởi người Ba Tây Fernando de Lemos và   José Braz Araripe, đã bán cho GM năm 1932, sáng chế ấy, sự phát triển của hệ thống hộp số xe hơi tự động tung ra thị trường bởi hãng GM năm 1939. 
                       
                      Với hàng triệu xe hơi tự động sản xuất hàng năm, gia đình chẳng bao giờ tin bất cứ điều gì và nghĩ rằng Ông Chú José ăn mặc xốc xếch có thể phải có một vận số khó lường.  Chà thật không biết hay ho thế nào để biết rằng Ông Già  José đã tận hưởng những năm tháng hạnh phúc với món tiền sáng chế ấy.
                      #26
                        tueuyen 19.01.2009 22:14:25 (permalink)
                        0
                        NGƯỜI TA LUÔN LUÔN BIẾT NHỮNG GÌ TỐT ĐẸP NHẤT CHO CHÚNG TA.
                         
                        11.10.2006
                         
                        -Phòng Ngừa Chứng Thấp Khớp
                         
                        Con rết quyết định hỏi nhà thông thái của một khu rừng, một con khỉ, cách nào tốt nhất để chửa trị cho chứng đau nhức trên chân của nó.
                         
                        “Đó là chứng thấp khớp,” con khỉ nói.  “Ngươi có quá nhiều chân.  Ngươi nên giống như ta, chỉ có hai chân, chứng thấp khớp khó có thể xuất hiện”.
                         
                        “Và tôi phải làm gì nếu chỉ có hai chân?”
                         
                        “Đừng làm phiền ta với những chi tiết đó,” con khỉ trả lời.  “Một người thông thái chỉ cho một lời khuyên bảo tốt nhất; phần còn lại tùy nhà ngươi giải quyết vấn đề.”
                         
                         
                        -Tôi Có Thể Giúp Gì Chứ?
                         
                        Chẳng bao lâu khi mở cửa nhà thờ, vị linh mục thấy một người phụ nữ đến, ngồi trên hàng đầu, và đặt đầu giữa hai tay của bà ta.  Hai giờ sau, ông ta chú ý rằng người đàn bà vẫn ở ngay vị trí ấy.
                         
                        Ông ta lo lắng và đến gần bà ta và hỏi:
                         
                        “Tôi có thể giúp điều gì không ?”  ông hỏi.
                         
                        “Cảm ơn, không ạ,”  bà ta trả lời.  “Tôi vừa nhận được tất cả những gì tôi cần giúp khi Ngài làm gián đoạn suy tư của tôi”.
                         
                        Jesuit Anthony Mello bình luận:  “Trong một tu viện không ai viết ‘Đừng nói với bảng thông cáo’.  Những gì được viết là  ‘Chỉ nói nếu bạn có thể làm cho sự yên lặng tốt hơn’.”
                         
                        -Tôi Biết Những Gì Đúng
                         
                        Trên đường trở về nhà một nông dân thấy một con lừa trên cánh đồng.
                         
                        “Tôi không phải là một con lừa,”  con vật nói.  “Tôi là nhà tiên tri sinh ra.  Tôi sống hơn hai nghìn năm, và tôi vẫn sống để minh chứng cho điều này.”
                         
                        Sợ hãi, người nông dân chạy đến thánh đường và nói nói với linh mục chính xứ.  “Không thể có điểu đó được!”, ông nói.  Người nông dân nắm tay ông và đưa ông đến nơi con lừa đứng.  Con vật lập lại những gì nó nói trước đấy.
                         
                        “Tôi lập lại: thú vật không thể nói,”  linh mục nói.
                         
                        “Nhưng chúng ta vừa nghe nó nói!”, người nông dân thêm vào.
                         
                        “Ông ngu đần thế nào ấy! Ông đúng là tin một con lừa hơn tin một linh mục!”
                         
                        -Điều Này Cũng Sẽ Làm Cho Chúng Ta
                         
                        Một câu chuyện ngụ ngôn của nhà văn Li-Băng Mikail Naaimé là một sự minh họa tốt về nguy hiểm của việc theo phương pháp của những người khác, không kể là nó dường như cao quý như thế nào:
                         
                        “Chúng ta cần phải làm cho chúng ta tự do chứ không làm nô lệ cho những kẻ khác,” một con bò nói với những con bò cùng đàn với nó.“Qua bao năm chúng ta đã lắng nghe con người nói rằng cánh cửa đến tự do phải nhuộm máu của những kẻ tử vì đạo nghĩa.  Hãy khám phá cánh cửa đó và hạ nó xuống với sức mạnh của những chiếc sừng của chúng ta.”
                         
                        Qua bao ngày và đêm chúng bước đi trên đường cho đến khi chúng thấy một cánh cửa dính đầy máu.
                         
                        “Đây là cánh cửa đến tự do”, chúng nói.  “Chúng ta biết rằng anh chị em chúng ta đã hy sinh tại nơi này.”
                         
                        Từng con bò đi qua cánh cửa.  Và tất cả chúng nó vào hết bên trong, thì đã quá muộn, khi chúng nhận ra rằng nó là cánh cửa của lò sát sinh.
                         
                        -Quyết Định Số Phận của những Kẻ Khác.
                         
                        Malba Tahan kể câu chuyện của một người đã đi qua một sa mạc gặp một thiên thần và cho anh ta nước.  “Ta là thần chết và đã từng tìm kiếm ông,”  thần chết nói.  “Nhưng bởi vì anh đã từng là một người tốt, ta sẽ cho anh mượn Quyển Sách Định Mệnh trong năm phút;  anh có thể thay đổi bất cứ gì anh muốn.”
                         
                        Thiên thần đưa anh ta quyển sách.  Lật qua những trang sách, người ấy đọc đời sống của những hàng xóm anh ta.  Anh ta bất mãn: “Những người này không xứng đáng với những việc tốt như thế,”  anh ta nghĩ.   Bút trong tay, anh ta bắt đầu viết lại đời sống của họ cho tệ hại hơn.
                         
                        Cuối cùng anh ta gặp trang sách về số phận chính anh ta.  Anh ta thấy thảm kịch kết thúc, nhưng đúng lúc anh ta định thay đổi, quyển sách biếtnmất.  Năm phút đã qua.
                         
                        Và thế là ngay lúc ấy thần chết bắt lấy linh hồn của người đó.
                        #27
                          tueuyen 19.01.2009 22:24:59 (permalink)
                          0
                          ĐỐI THOẠI VỚI JOSHUA
                           
                          25.10.2006
                           
                          Tôi không phải là một người hay nhai lại quá khứ; tôi nghĩ rằng hiện tại là kết quả của tất cả những gì mà chúng ta đã từng sống, và nhìn thấy chúng ta hành động thế nào ngay thời điểm này đủ để chúng ta hiểu những phúc lành của chúng ta và điều chỉnh những nghiệp xấu ác trong tương lai.
                           
                          Những bây giờ cuộc sống của tôi đang bị đảo lộn bởi phóng viên-tiểu sử Fernando Morais, tôi cũng quyết định xem lại một số ghi chép về việc học hỏi của tôi với Joshua, người bạn và cũng là thầy trong truyền thống RAM (the Regnus Agnus Mundi).  Hầu hết những ghi chép này được ghi trong khoảng thời gian giữa năm 1982 và 1986.  Đã nhiều năm qua tôi đã xuất bản một số những đối thoại trong chương trình này.  Và mặc dù sự đáp ứng từ những độc giả là tuyệt vời, nên tôi nghĩ thế là quá đủ.  Tuy nhiên, sau khi đọc lại những quyển tập ghi lại đã phủ đầy bụi (tôi không ghi chép lại và cũng không viết nhật ký nữa), tôi đã khám phá ra một số việc rất đặc biệt.  Trong bốn mục tiếp theo tôi sẽ sao chép lại những gì đã gây cho tôi sự quan tâm thích thú nhất.
                           
                          Một buổi chiều nọ, ngồi trong một quán cà phê ở Copacabana sau một tuần dài thực tập tâm linh mà chẳng có kết quả gì, tôi hỏi:  “Tôi thường nghĩ rằng tôi bị Trời Đất lãng quên, mặc dù tôi biết rằng Đất Trời vẫn ở đây bên cạnh tôi.  Tại sao quá khó để mở một cuộc đối thoại với Thần Thánh thiêng liêng?”
                           
                          “Một mặt chúng ta biết rằng thật quan trọng để tìm kiếm sự thiêng liêng.  Mặt khác, đời sống làm chúng ta cách xa với Thánh Thần -  bởi vì chúng ta cảm thấy rằng chúng ta bị Thần Thánh lãng quên, hay khác hơn bởi vì chúng ta quá bận rộn với đời sống hằng ngày của chúng ta.  Điều này làm chúng ta cảm thấy rất tội lỗi; cả chúng ta cảm thấy rằng chúng ta xa lánh cuộc đời quá nhiều bởi vì một đấng thiêng liêng, hay khác hơn là chúng ta cảm thấy rằng chúng ta đang xa lánh đấng thiêng liêng quá nhiều do bởi cuộc đời.  Luật nhị trùng này hiển nhiên là một ý tưởng kỳ quái: thiêng liêng ở trong đời sống, và đời sống là ở trong sự thiêng liêng. Nếu chúng ta tìm được cách thẩm thấu sự hòa hiệp thánh thiện trong sự hiện hữu của đời sống hằng ngày, chúng ta sẽ luôn luôn ở trên con đường đúng, bởi vì nghĩa vụ hằng ngày của chúng ta cũng là nghĩa vụ của Thánh Thần thiêng liêng.  Cho đến khi chúng ta thực chứng tính bất nhị.”
                           
                          “Nhưng loại thực tập nào tôi có thể thực hành mà nó sẽ làm cho tôi thật sự tin tưởng những gì ông nói với tôi?”
                           
                          “Hãy thong thả.  Khi chúng ta bắt đầu hành trình tâm linh, chúng ta muốn vô cùng thành khẩn để được nói chuyện với Thánh Thần và cuối cùng chúng ta chẳng nghe thấy gì cả.  Đấy là tại sao khôn ngoan là phải thong thả một ít.  Nó không dễ dàng:  chúng ta luôn luôn có khuynh hướng làm những việc gì đúng, và chúng ta nghĩ rằng chúng ta sẽ cải thiện tâm linh chúng ta là phải hành động không ngừng nghĩ.”
                           
                          “Có phải ông đang nói rằng tôi nên thụ động và không cố gắng cải thiện chính mình?”
                           
                          “Điều đó tùy thuộc vào việc ông thấy việc làm của ông thế nào.  Chúng ta có thể cảm thấy rằng đấy là tất cả, ngày mai đời sống này sẽ cho chúng ta điều gì là để lập lại những gì chúng ta đã làm hôm qua và hôm nay.  Nhưng nếu chúng ta chú ý chúng có thể thấy rằng không có ngày nào giống ngày nào.   Mỗi và mọi buổi sáng đem đến một sự gia ân kín đáo, một ân huệ và chỉ tốt cho ngày đặc biệt ấy mà thôi, vì nó không thể được giữ để dùng lại.  Nếu chúng ta không tận dụng sự mầu nhiệm của hôm nay, nó sẽ bị mất.”
                           
                          “Nhưng không có một phương pháp bảo đảm thiết lập sự đối thoại này với Thánh Thần, với chân lý, thí dụ như thiền định chẳng hạn chứ?  Hay nổ lực để làm chúng ta tốt hơn mỗi ngày?”
                           
                          “Câu hỏi của ông làm hiện ra một người liên hệ đến một ý tưởng, và nếu câu hỏi ấy có thể luôn luôn được giữ trong hiện tại, mọi thứ sẽ thích hợp với nhau.  Những điều kiện lý tưởng mà ông dang tìm kiếm không tồn tại.  Chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể tránh xa những khuyết điểm nào đấy.  Bắng cách dựa trên sự biết rằng mặc dù tất cả những sai lầm của chúng ta, chúng ta có một nguyên nhân để hiện diện ở đây, và chúng ta phải kinh khiếp lý do ấy.
                           
                          “Hãy cố gắng vượt lên trên những giới hạn mà chúng ta thường có.  Mươi, mười lăm phút một ngày, làm người mà chúng ta luôn luôn muốn là.  Nếu trở ngại là hổ thẹn, khuyến khích một cuộc đối thoại.  Nếu trở ngại là mặc cảm tội lỗi, hãy cảm thấy được chấp nhận.   Nếu ông nghĩ là thế giới lãng quên ông, hãy cố gắng có ý thức để lôi cuốn sự chú ý của mọi người.  Ông sẽ kinh nghiệm tình trạng khó khăn phụ thuộc, nhưng nó đáng để làm.  Nếu mươi mười lăm phút một ngày ông có thể điều khiển để là những gì ông mơ ước, ông đã làm nên một tiến trỉnh lớn lao.”
                           
                          Tôi quyết định kích thích ông bằng trích dẫn một đoạn kinh về sáu điều khó khăn để sống trong một căn nhà:  những việc làm liên hệ trong việc xây cất nên nó, làm nhiều việc hơn để vẫn để trả cho cho việc duy trì nó,  luôn luôn phải làm để sửa chữa nó, sự rủi ro có thể nó bị sung công cho chính quyền,  ngôi nhà thường xuyên đầy những khách viếng thăm và những khách không muốn, và ngôi nhà đang dùng như một nơi trốn tránh cho những hành động bị lên án.
                           
                          Cũng theo cùng một kinh ấy, có sáu điều thuận lợi để sống dưới một cây cầu:  ông có thể đễ dàng được tìm thấy, dòng sông chỉ cho chúng ta rằng cuộc sống là lưu chuyển, chúng ta tránh cảm giác thèm khát, chúng ta không cần những hàng rào, người mới đi ngang qua để có một cuộc tán gẩu, và chúng ta không phải trả tiền thuê.
                           
                          Tôi đã kết thúc bằng cách nói rằng nó là một triết lý tuyệt đẹp, nhưng tối thiểu tại xứ sở của tôi, chúng tôi nhìn những người sống dưới những cầu cây cầu và cầu cạn, chúng ta biết chắc rằng những ý tưởng này là sai lầm.
                           
                          Joshua trả lời:  “Những ý tưởng này là tuyệt đẹp, nhưng trong hoàn cảnh của chúng ta là sai.  Tuy thế, điều này nên có tác dụng cung cấp cho cảm giác tội lỗi của chúng ta.  Chúng ta cảm thấy tội lỗi vì tất cả là xác thực trong chúng ta – lương bổng, ý tưởng, kinh nghiệm, khát vọng kín đáo và cung cách chúng ta nói năng – chúng ta ngay cả cảm thấy tội lỗi cho cha mẹ và anh chị em chúng ta.
                           
                          “Và kết quả là gì?  Tình trạng tê liệt.  Chúng ta sinh xấu hổ khi làm bất cứ điều gì khác với những gì mà những người khác ngóng trông.  Chúng ta không dám trình bày những ý kiến của chúng ta, chúng ta không yêu cầu giúp đở.  Chúng ta bào chửa bằng cách nói rằng:  “Giê-Su đã khổ đau, và thế nên đau khổ là cần thiết.  Giê-Su đã trải qua nhiều hoàn cảnh khổ đau khác nhau, nhưng Ngài không bao giờ chủ trương nín lặng trong những tình thế như vậy.  Tính hèn nhát không thể che đậy cho loại bào chửa này, mặt khác toàn bộ thế giới sẽ thất bại để tiến về phía trước.  Đó là tại sao, nếu chúng ta thấy ai đấy sống dưới gầm cầu, hãy đến giúp đở họ, bởi vì họ là một phần của thế giới.
                           
                          “Hãy tin tưởng.  Tin tưởng rằng nó có thể, và tất cả những hiện thực chung quanh chúng ta sẽ bắt đầu thay đổi.”
                           
                          “Đôi khi chúng ta bình phẩm sự thiếu tin tưởng ở những người khác.  Chúng ta không thể hiểu những tình trạng mà niềm tin này đã bị mất đi, chúng ta cũng không cố gắng làm nhẹ bớt niềm khổ đau của anh chị em chúng ta – và điều này là nguyên nhân làm ghê sợ và hoài nghi với năng lực của Thần Thánh.
                           
                          Nhà nghiên cứu khoa học nhân văn Robert Owen du hành khắp Anh Quốc để đối thoại với Đấng Tạo Hóa.  Trong thế kỷ 19, dùng trẻ con trong những việc nặng nhọc là chuyện thường, và một buổi chiều Owen dừng lại tại một mõ than nơi một cậu bé mười ba tuổi thiếu ăn đang kéo lê một bao gạch nặng nề.  ‘Tôi ở đây để giúp cậu nói chuyện với Thượng Đế, Owen nói.  ‘Cảm ơn nhiều, nhưng tôi không biết ông ta.  Ông ta chắc phải làm việc ở một mõ than khác’, cậu bé trả lời.  Làm thế nào ông có thể mong đợi một cậu bé trong những điều kiện như thế đó có thể tin tưởng ở Thượng Đế?”
                           
                          “Hãy để tôi trở lại câu hỏi.  Làm thế nào để làm cho cho điều ấy có thể?”
                           
                          “Bên cạnh tin tưởng, có kiên nhẫn.  Hãy hiểu rằng ông không cô đơn khi ông muốn Công lý của Thần Thánh làm nó tự hiện ra trên trái đất này.  Trong thời đại Trung Cổ những vương cung thánh đường được xây dựng qua nhiều thế hệ.  Tác động nối dài này giúp những thành phần tham dự thiết lập tư tưởng của họ, để gởi lời cảm ơn và để ước mơ.  Ngày nay chủ nghĩa lãng mạn đã chấm dứt, và tuy thế, những khát vọng để xây dựng vẫn duy trì trong tim họ, nó chỉ là vấn đề sống cởi mở để gặp những người thích hợp.
                          #28
                            tueuyen 20.01.2009 08:06:03 (permalink)
                            0
                             
                            THIẾT LẬP LỜI THỈNH CẦU
                             
                            08.11.2006
                             
                            Ở đây tôi tiếp tục sao chép những điều rút ra từ  những ghi chép tôi đã viết từ 1982 đến 1986 trong cuộc đối thoại của tôi với Joshua, người bạn và cũng là thầy trong truyền thống RAM.  Tôi nhớ rằng tôi đã luôn luôn hỏi ý kiến cho bất cứ quyết định nào mà tôi muốn thi hành.  Joshua thường giữ yên lặng một lúc trước khi nói:
                             
                            “Con người là thành phần đời sống hằng ngày của chúng ta có thể cho chúng ta một lời gợi ý quan trọng cho những quyết định mà chúng ta cần phải hành động.  Nhưng cho mục tiêu này tất cả cần đến là một cặp mắt sắc bén và một đôi tai chú ý bởi vì những người đã có giải pháp rồi thì thường hoài nghi.
                             
                            “Thật rất nguy hiểm để yêu cầu cho một lời khuyên.  Thật rất liều lĩnh để cho thêm một lời chỉ bảo, nếu chúng ta có một cảm nhận trách nhiệm tối thiểu đối với người khác.  Nếu họ cần giúp đở, tốt nhất là hãy nhìn những người khác giải quyết thế nào – hay không giải quyết – những vấn đề của họ.  Những thiên thần  của chúng ta thường dùng những đôi môi của người khác để nói cho chúng ta điều gì đấy, nhưng câu trả lời này đến ngẫu nhiên, thường tại một thời điểm khi chúng ta không để cho những lo lắng của chúng ta che lấp sự nhiệm mầu của đời sống.  Hãy để thiên thần của chúng ta nói lên trong cung cách mà thiên thần thường làm, điều này tại thời điểm thiên thần thấy rằng cần thiết.  Lời khuyên hay   cố vấn chỉ là lý thuyết; cuộc sống luôn luôn rất khác biệt.
                             
                            Rồi thì ông ta lại kể cho tôi một câu chuyện hấp dẫn:
                             
                            Đạo sư  Kais đi trên sa mạc với những môn đệ và ông ta đi ngang qua một nhà ẩn sĩ đã sống ở đấy nhiều năm.  Những môn đệ bắt đầu trút xuống ông ta những câu hỏi trên vũ trụ -  nhưng cuối cùng họ khám phá rằng ẩn sĩ không có tất cả tuệ trí mà ông ta dường như sở hữu.  Khi họ đề cập điều này  với Kais, ông trả lời:
                             
                            “Đừng bao giờ thăm dò ý kiến một người lo lắng, không kể là người cố vấn ấy giỏi như thế nào; đừng yêu cầu một người kiêu hảnh tự hào giúp đở, bất cứ ông ta dường như thông minh thế nào.  Bởi vì lo lắng và kiêu căng làm mờ tối tri thức.  Trên tất cả, không tin những ai sống trong cô đơn tĩnh mịch; thường họ không có ở đó bởi vì họ từ bỏ mọi thứ nhưng đúng hơn bởi vì họ chẳng bao giờ biết sống với những người khác như thế nào.  Tuệ trí nào chúng ta có thể mong đợi từ những loại người như vậy?”
                             
                            Joshua đi ra phi trường và tôi ở lại để quán chiếu lại cuộc đối thoại của chúng tôi.  Tôi cần giúp đở, bời vì tôi luôn luôn phạm phải những lỗi lầm giống nhau lần này rồi lần khác.  Đời sống của tôi quẩn quanh với những sai lầm cũ rích mãi, và ngay bây giờ và sau này tôi đối diện với những rắc rối tôi đã trãi qua quá nhiều lần trong trước đây.  Điều đó đã làm tôi căng thẳng.  Nó làm tôi cảm thấy rằng tôi không thể đặt ra một   chương trinh nào cho mình.  Tôi quyết định đến quán cà phê mà tôi vẫn thường đến, hôm nay, chỉ ngồi đấy và quán sát mọi thứ chúng quan tôi.    Tôi chẳng thấy gì mới, thật sự chẳng có gì, và tôi bắt đầu nghĩ buông bỏ.
                             
                            Tôi quyết định nhìn vào một tờ báo mà ai đấy đã để lại trên bàn gần bên, và bắt đầu lật bừa qua những trang giấy.  Tôi khám phá mục tóm lược một quyển sách cũ của Gurdjerff vừa được tái bản; nhà phê bình dùng một đoạn rút ra từ trong sách:
                             
                            Nhận thức tín ngưỡng là tự do.
                            Bản năng tín ngưỡng là nô lệ.
                            Máy móc tín ngưỡng là điên khùng.
                            Nhận thức hy vọng là sức mạnh.
                            Cảm xúc hy vọng là hèn nhát.
                            Máy móc hy vọng là bệnh hoạn.
                            Nhận thức yêu thương thức tỉnh thương yêu.
                            Cảm xúc yêu thương thức tỉnh bất định.
                            Máy móc yêu thương thức tỉnh hận thù.
                             
                            Ở đấy ghi câu trả lời: cùng những yếu tố (tín ngưỡng, hy vọng và thương yêu) với những sắc thái của chúng, luôn luôn dẫn đến những kết quả khác nhau.  Tôi bắt đầu thức tỉnh rằng lập lại những kinh nghiệm phục vụ cho một mục tiêu: chúng dạy chúng ta những gì chúng ta chưa học.     Từ ngày đấy trở đi, tôi luôn luôn tìm kiếm cho một giải pháp khác nhau cho mỗi khó khăn lập lại – và từ tí từng tí tôi tìm ra con đường của tôi.
                             
                            Khi chúng tôi gặp lại,  tôi hỏi  những gì tôi nên làm để thiết lập một ít  cho lời thỉnh cầu tâm linh của tôi; điều dường như không dẫn đến đâu.  Đây là   những gì ông ta trả lời:
                             
                            “Đừng cố gắng thực thi nguyên tắc cứng nhắc ở mọi thời; khám phá sự hân hoan với một sự ngạc nhiên cho chính mình.  Sống nguyên tắc là phải luôn luôn đeo một cà vạt tương ứng với giày vớ của mình.  Nó có nghĩa là bắt buộc để giữ cho ngày mai những ý kiến mà chúng ta có hôm nay.  Thế giới là gì, điều mà luôn luôn thay đổi chuyển động?  Miễn là không làm tổn hại đến ai, thay đổi ý tưởng của chúng ta bây giờ và tiếp tục, và mâu thuẫn với chính mình mà không cảm thấy hổ thẹn -  chúng ta có quyền để làm thế!  Chẳng hề gì đến những người khác dù họ có nghĩ gì đi nữa – bởi vì họ sẽ nghĩ như thế ấy chẳng kể là gì.”
                             
                            “Nhưng chúng ta đang nói về tín ngưỡng.”
                             
                            “Chính xác!  Tiếp tục làm những gì ông đang làm, nhưng hãy cố gắng đặt yêu thương   hành động:  điều ấy sẽ đủ để thiết lập lời thỉnh cầu của ông.  Thông thường chúng ta không thêm vào giá trị đến những việc chúng ta làm hằng ngày, nhưng đấy là những thứ thay đổi thế giới chúng quanh ta.  Chúng ta nghĩ tín ngưỡng là một nghĩa vụ to lớn, nhưng chỉ đọc một vài trang tiểu sử của bất cứ một người thánh thiện nào và chúng ta sẽ khám phá một người thật sự bình thường -  ngoại trừ sự kiện rằng họ quyết định chia sẻ những gì tốt đẹp nhất của họ với những người khác.
                             
                            “Nhiều cảm xúc làm rung động trái tim con người khi nó quyết định cống hiến chính nó đến con đường tâm linh.  Đây là một lý do “cao quý” – như tín ngưỡng, yêu thương  của những hàng xóm chúng ta, hay từ thiện.  Hay nó chỉ là một ý tư tưởng chợt nẩy ra, sự sợ hãi cô đơn, tò mò, hay sợ hãi sự chết.  Những thứ ấy chẳng nhầm gì.  Lối mòn tâm linh chân thật thì mạnh hơn những lý do đã đưa chúng ta đến nó từng tí từng tí nó cáng đáng chính nó với yêu thương, nguyên tắc và chân giá trị.  Một thời khắc đến khi chúng ta nhìn ngược trở lại,  nhớ sự khởi đầu hành trình của chúng ta, và cười với chính mình.  Chúng ta đã xoay sở để lớn lên, mặc dù chúng ta du hành con đường cho những lý do rất đầy đủ.”
                             
                            “Làm thế nào để biết tối thiểu rằng tôi đang đi trên con đường này với yêu thương và chân giá trị?”
                             
                            “Tạo Hóa dùng sự cô đơn để dạy chúng ta về sự sống quây quần với nhau.   Đôi khi Ngài dùng giận dữ vì điều đó chúng ta có thể hiểu giá trị vô biên của hòa bình.  Vào lúc khác Ngài dùng sự tẻ nhạt, khi Ngài muốn chỉ chúng ta sự quan trọng của mạo hiểm và lìa bỏ mọi thứ sau lưng.
                             
                            “Tạo Hóa dùng sự im lặng để dạy chúng ta về trách nhiệm những gì chúng ta nói.  Những lúc Ngài dùng mệt mỏi vì điều đó chúng ta có thể hiểu giá trị của tỉnh thức.  Vào lúc khác Ngài dùng bệnh hoạn để chỉ chúng ta về sự quan trọng của sức khỏe.
                             
                            “Tạo Hóa dùng lửa để dạy chúng ta về nước. Đôi khi Ngài dùng đất vì nó chúng ta có thể hiểu về giá trị của không khí.  Và tại những lúc Ngài dùng sự chết khi Ngài muốn dạy chúng ta về sự quan trọng của đời sống.”
                             
                            “Và chúng ta làm gì về cảm giác tội lỗi mà chúng ta cùng chia sẻ?”
                             
                            “Tại một trong những thời khắc bi thảm nhất bị đóng đinh và cây thập ác, một trong những tên trộm chú ý rằng người đang chết bên cạnh hắn là Con Trai của   Thượng Đế.  Chúa ơi, hãy nhớ đến tôi khi Ngài ở trên Thiên đàng, tên trộm nói thế.  Sự thật, ngày nay ông sẽ cùng với ta trên Thiên đàng, Giê-Su nói thế, biến kẻ cướp thành vị thánh đầu tiên của Ki Tô Giáo: Thánh Dimas.
                             
                            “Chúng ta không biết tại sao Dimas bị lên án chết.  Thánh Kinh nói với chúng ta rằng ông ta xưng tội và   rằng ông ta bị  đóng đinh vì tội đó.  Hãy giả sử rằng ông ta làm gì đó rất nghiêm trọng, kinh khiếp đủ để kết thúc đời sống ông ta trong kiểu như thế; tuy vậy, ngay cả thế, trong giây phút cuối cùng của đời sống ông ta chuộc tội  - và ca ngợi – bằng một hành động tín ngưỡng.
                             
                            “Hãy nhớ rằng thí dụ này cho những lý do nào đấy khi chúng ta cảm thấy không thể tiếp tục trên con đường của chúng ta.”
                            #29
                              tueuyen 29.01.2009 06:19:36 (permalink)
                              0
                              ĐỌC TRUYỆN TRÊN INTERNET
                               
                              22-11-2006
                               
                              Tôi nghe từ người cháu  tôi rằng quyển sách mới của tôi "Người đẹp Portobello", ngay cả trước khi nó được in, thì nó đã đuọc lưu hành toàn bộ trên internet.  Tôi hơi ngạc nhiên, làm thế nào điều ấy có thể xãy ra?
                               
                              Bước tiếp theo, một cách tự nhiên,  tôi xem trong tất cả  những kỷ thuật tìm kiếm nơi nào mà bản thảo của tôi có thể được tìm thấy.  Kết quả là:  không có nơi nào cả.  Ngay cả thế, cháu tôi chỉ cho tôi thấy nguyên bản.  Tôi tưởng rằng nó phải được gởi đến bởi một trong năm người mà tôi thường chỉ bài vở của tôi trước khi phát hành.  Nhưng điều ấy sẽ có nghĩa là tôi đổ sự nghi ngờ của tôi lên những ngươi mà tôi quý mến, hơn thế nữa, tôi đã gởi bản thảo của tôi cho họ trươc khi xuất bản hằng năm, và không có điều gì đã bao giờ, mà chúng tôi nói rằng, "tiết lộ" đến công chúng rộng rãi.  Nó cũng không thể bị tiết lộ ra ngoài qua ngã nhà xuất bản,vì họ chẳng hề thích thú đề làm chuyện cho không ấy, khi mà đấy là những gì nằm trong sự thu nhập của họ.
                               
                              Tôi quyết định để vấn đề mặc nó.  Cuối cùng, internet là một con đường làm cho văn hóa thật sự dân chủ.  Nhưng tôi khuyến cáo rằng người cháu tuổi gần ba mươi đã nói với tôi nơi xoay sở để tìm ra bản thảo ấy.  Sau nhiều sự bất đắc dĩ, người cháu tiết lộ với tôi một chuyện tế nhị rằng, tôi, người đã từng điều khiển trang web đã tám chín năm, đã không hoàn toàn cảnh giác về điều ấy và rằng thật sự không thể kiểm soát (tôi sẽ giải thích vào lúc cuối, mặc dù tôi cảm thấy rằng nhiều người đọc về điều này biết tôi đang nói về những gì).
                               
                              Vì thế, thấy rằng thật vô ích để cưỡng lại những gì không thể, tôi yêu cầu được thăm viếng trang Web ấy.  Trong một ngôn ngữ khác, năm tiếng đồng hồ tôi trở nên một "kẻ trộm" của chính mình.  Người cháu tôi nói thêm rằng không có gì sai, rằng đây là văn hóa Internet, rằng đây là những gì thay đổi thế giới, không là sự biểu hiện chống lại sự toàn cầu hóa trong diễn đàn thế giới.
                               
                              Văn hóa Internet là gì?  Theo người cháu của tôi, chúng ta có những quyền căn bản về tin tức và vui thích.  Nếu chúng ta có tiền để mua một quyển sách, hãy tiến lên và mua nó -  thật lịch sự hơn nhiều để đọc trên một bản in.  Nhưng nếu chúng ta không có tiền, những quyền chúng ta vẫn tiếp tục - và chúng ta phải tìm cách để hành động với chúng.
                               
                               
                              Thế nào?  Có một phạm vi lạ lùng trên mạng gọi là "tương đương đến tương đương".  Tôi tìm một sự diễn dịch (trong một quyển Từ Điển trên Internet), và và điều này nghĩa là những gì giống như "từ người này đến người kia".
                               
                              Nó đã bắt đầu thế nào?  Người cháu tôi đã trả lời vấn đề bằng ngôn ngữ của mình.  Lúc đầu nó chỉ là muốn tán gẩu (chat) với những người khác.  Thế rồi sự cần thiết tán gẩu với vài người cùng một lúc.  Nhưng tán gẩu chưa đủ - chúng ta phải chia sẽ âm nhạc, quyển sách hay một cuốn phim mà chúng ta thích.  Khi không có luật lệ nào ngăn cấm nó, thông tin này được trao đổi một cách tự do.  Cuối cùng, khi công nghiệp kỷ nghệ giải trí nhảy vào và sự kiểm soát để dẹp bỏ bắt đầu, những người say mê Internet luôn luôn xoay sở để giữ từng bước tiến lên phía truóc, và mọi việc lại tiếp tục.
                               
                              Những nhận thức cũng thay đổi: nó dùng để chia sẽ những gì chúng ta cảm hứng với những người đồng cảm, bây giờ nó cho mọi người những gì chúng ta cảm thấy nên chia sẻ.
                               
                              Cơ cấu hành động hoặc nhiều hay ít hơn như thế này:  tôi mua một quyển sách, và tôi thích nó. và tôi làm một bản photocopy điện toán với những trang của nó và đặt vào máy điện toán của tôi, và cùng lúc mở đường dây cho bất cứ ai vào đấy để xem và copy nó.  Về phía tôi, tôi vào đường dây này và đế những máy điện toán của những người khác để lấy những gì tôi thích thú (thường là âm nhạc và phim ảnh).  Từng tí từng tí sản phẩm này được lan truyền khắp thế giới, và chẳng ai quản lý để ngăn chặn nó bị copy nữa.

                               
                              Rồi thì người cháu chỉ cho tôi rằng chỉ trong một mục trong nhiều  mục "tương đương đến tương đương" (Peer 2 Peer) tôi có 325 tác phẩm, trong vài ngôn ngữ, trong hàng trăm hay hàng nghìn máy điện toán.    Tôi thú nhận rằng tôi cảm thấy vinh dự bằng sự chứng minh này rằng những độc giả thật sự là những công cụ thiết yếu cho sự phát hành một tác phẩm, ngay cả điều này không được hoàn thành bằng một tập quán thông thường. 
                               
                              Dĩ nhiên, tôi sẽ không chỉ bất cứ người nào làm sao để vào mục như thế -  điều ấy liên hệ đến một loạt những cơ cấu hợp pháp mà có thể làm phức  tạp cuộc sống của tôi.  Nó cũng không dùng bất cứ kỷ thuật điện toán biểu hiện trong việc tìm kiếm cơ cấu: người ta không dạy chúng ta mối liên hệ.  Nhưng chúng ta có ai đấy ở nhà vào khoảng 18 tuổi, có thể đã liên hệ đến việc sưu tầm những bài hát từ những mục ấy.  Hãy hỏi những đứa con, những đứa cháu, v.v...
                               
                              Nhưng đừng nói với chúng rằng tôi vừa khám phá điều này bây giờ: chúng sẽ nói rằng tôi thì quá già , và tôi sẽ mất một độc giả.
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 39 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9