TÂM VÀ CHUYỂN HÓA
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 26 bài trong đề mục
tueuyen 26.01.2009 01:32:01 (permalink)
0

  

TÂM VÀ CHUYỂN HÓA

---

His Holiness The Dalai Lama
Tuệ Uyển chuyển ngữ
***
***


“Từ quan điểm của đạo Phật, tất cả là do tâm. Những hành động và sự kiện lệ thuộc một cách sâu đậm trên động cơ. Một ý thức thật sự của sự đánh giá về loài người, từ bi và thương yêu là những chìa khoá. Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hoá hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng, kết quả sẽ lợi ích hơn. Với một động cơ thích đáng những hành động này có tthể giúp nhân loại, nếu không nó sẽ đi theo hướng khác. Điều này để thấy, tại sao tư tưởng từ bi thì rất rất quan trọng cho loài người. Mặc dù khó khăn để mang đến sự thay đổi từ bên trong để làm phát khởi từ tâm, nhưng chắc chắn nó xứng đáng để cố gắng.”
 
Đấy là một trích đoạn trong bài: “Tất Cả Đều Do Tâm” hay “Ý Nghĩa Đản Sinh, Thành Đạo và Niết Bàn” của Đức Dalai Lama.  Nhưng tâm là gì, là những gì mơ hồ trừu tượng không nắm bắt được hay là những gì có thể bàn luận để cải thiện tốt đẹp hơn cho đời sống hiện tại và tương lai, cho bản thân và những người chung quanh, xin hãy đọc qua những bài viết của Đức Dalai Lama:
 
-   Tất Cả Đều Do Tâm - Ý Nghĩa Đản Sinh, Thành Đạo và Niết Bàn.
-   Tâm là gì?
-   Nghiệp – Hạnh Phúc – Tâm
-   Chết - Trung Ấm Thân - Tái Sinh
-   Bốn Chân Lý Cao Quý.
-   Tìm Một Nơi Trú Ẩn Nội Tại
-   Tám Đề Mục Chuyển Hóa Tâm
-   Những Từ Ngữ Chân Thành
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.02.2009 00:47:50 bởi tueuyen >
#1
    tueuyen 26.01.2009 07:33:06 (permalink)
    0
    Ý Nghĩa đại lễ Tam hiệp Vesak - Đản Sinh, Thành Đạo và Niết Bàn.


    TẤT CẢ ĐỀU DO TÂM
     


    ***
    Thông điệp của Đức Dalai Lama tại Saka Dawa
    ***
    ...

    Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đản sinh như một hoàng tử của bộ tộc Thích Ca ở Ấn độ. Ngài đã giác ngộ và thành đạo ở tuổi 36 và nhập niết bàn ở tuổi 81. Có 3 sự kiện trọng đại xãy ra cùng một ngày hơn 2.500 về trước, mà hôm nay chúng ta kỷ niệm đại lễ Tam hiệp của mùa Vesak.

    Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thức và quấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở. Tuyên bố của Đức Phật, căn cứ trên kinh nghiệm thực chứng của ngài, rằng tất cả chúng sinh trãi qua khổ đau mặc dù chúng sinh không muốn như vậy. Cùng lúc chúng sinh cũng tiềm tàng khả năng bẩm sinh để đạt được hạnh phúc của giải thoát.

    Điều thực chứng này đã hình thành nên căn bản toàn bộ những lời dạy của ngài. Bởi vì lời Phật dạy là tuệ trí thâm sâu và tuyệt diệu trong ý nghĩa, Đức Phật được tôn xưng như một vị hướng đạo tối thượng.

    Mặc dù, thế giới chúng ta đã thay đổi vô vàn một cách chắc chắn kể từ thời Đức Phật, nhưng căn bản những lời dạy của ngài vẫn liên hệ đến hôm nay như 2.500 năm trước. Nhiều trường phái Phật giáo đã xuất hiện ở nhiều vùng đất khác nhau. Tất cả những phương pháp đều để giải thoát khỏi u mê và đau khổ.

    Lời Phật dạy đơn giản tuyên bố rằng, hãy tránh làm tổn hại đến kẽ khác và nếu có thể thì giúp đở họ. Chúng ta có thể bắt đầu để làm điều này bằng sự nhìn nhận rằng mọi người đều như chúng ta trong điều là họ cũng muốn hạnh phúc và không thích khổ đau. Tìm hạnh phúc và tự do từ khổ đau là quyền lợi của tất cả chúng sinh. Nhưng hạnh phúc cá nhân thì rất tuỳ thuộc vào việc chúng ta liên hệ với người khác thế nào. Bằng sự phát triển khã năng tôn trọng những người khác và sự quan tâm quyền lợi kẽ khác, chúng ta có thể giảm bớt trung tâm tự ngã của chúng ta, đấy chính là căn bản của tất cả mọi vấn đề của chúng ta, và làm nổi bật đức tính thương yêu, thân ái, đấy là bản chất tự nhiên của hạnh phúc.

    Những tiến bộ trong thời đại chúng ta là vĩ đại. Chúng ta để nhiều động lực vào sự phát triển khoa học kỹ thuật và vật chất. Những chương trình này là quan trọng, nhưng tự nó thì không thể đem đến sự mãn nguyện rốt ráo. Ám ảnh bởi sức mạnh kinh tế và chính trị, chúng ta quên đi cảnh tượng những ảnh hưởng của những hành động chúng ta trên kẽ khác. Trung tâm tự ngã hẹp hòi của chúng ta tập trung kết quả trong sự lan rộng khổ đau và tàn phá môi trường thiên nhiên. Chúng ta cần đánh giá lại động cơ và thái độ của chúng ta trong ánh sáng của ý thức về trách nhiệm toàn cầu.

    Từ quan điểm của đạo Phật, tất cả là do tâm. Những hành động và sự kiện lệ thuộc một cách sâu đậm trên động cơ. Một ý thức thật sự của sự đánh giá về loài người, từ bi và thương yêu là những chìa khoá. Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hoá hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng, kết quả sẽ lợi ích hơn. Với một động cơ thích đáng những hành động này có tthể giúp nhân loại, nếu không nó sẽ đi theo hướng khác. Điều này để thấy, tại sao tư tưởng từ bi thì rất rất quan trọng cho loài người. Mặc dù khó khăn để mang đến sự thay đổi từ bên trong để làm phát khởi từ tâm, nhưng chắc chắn nó xứng đáng để cố gắng.

    Chúng tôi xin ngõ lời chào mừng đến tất cả anh chị em tham dự đại lễ Tam hiệp Vesak...Và nguyện cầu mỗi chúng ta, hãy đem lời dạy của Đức Phật vào trong sự thực tập của đời sống hằng ngày chính chúng ta, để có thể góp phần tạo dựng một thế giới hạnh phúc hơn và hoà bình hơn.

    ---
     
     

    THÍCH CA MÂU NI TA BÀ THỊ HIỆN TUYÊN DIỆU ĐẠO
    NĂNG NHÂN TỊCH MẶC LỘC UYỂN SƠ KỲ CHUYỂN PHÁP LUÂN
     

    <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.02.2009 05:38:22 bởi tueuyen >
    #2
      tueuyen 27.01.2009 20:37:18 (permalink)
      0
      TÂM LÀ GÌ?
      His Holiness the Dalai Lama
      Tuệ Uyển chuyển ngữ
      ---
      Có sự đồng ý nhỏ giữa những khoa học gia Tây phương về tính tự nhiên và chức năng của tâm và ý thức - hay ngay cả về vấn đề có những sự kiện như vậy hiện hữu. Tuy vậy những giải thích rộng rãi của Đạo Phật thật vững vàng với kinh nghiệm giá trị của những luận giải triết lý sau 25 thế kỷ. Trên đây Đức Dalai Lama giải thích những nhận thức của đạo Phật về tâm đến những thành viên của Hội nghị chuyên đề Khoa học về tâm tại trường Đại Học Harvard University, Cambridge, Massachusetts, USA.
       

      _________________
       

      Lập trường chính yếu của đạo Phật chính là sự tương duyên khởi thỉ hay tính duyên khởi. Ý nghĩa của lời tuyên bố này là tất cả những hiện tượng cả chủ thể kinh nghiệm và đối tượng bên ngoài, cùng tồn tại tuỳ thuộc trên những nguyên nhân và điều kiện, không có điều gì tồn tại mà không có nguyên nhân. Đưa ra nguyên tắc này, nó trở nên điều cốt yếu để hiểu điều gì là nguyên nhân và có những loại nguyên nhân nào.


      HIÊU BIẾT NGUYÊN NHÂN RẤT QUAN TRỌNG
       
      Theo sự giải nghĩa của đạo Phật, có hai loại nguyên nhân chính được đề cập đến:
       
      1) Những nguyên nhân ngoại tại: hình sắc vật lý và những hiện tượng, và
      2) Những nguyên nhân nội tại: như nhận thức, hiểu biết, và những hiện tượng tâm linh, tinh thần.
       
      Lý do cho một sự hiểu biết nguyên nhân trở nên rât quan trọng trong tư tưởng và thực hành của đạo Phật vì -rằng nó liên hệ một cách trực tiếp đến những cảm giác khổ đau và hạnh phúc của tất cả chúng sinh và những kinh nghiệm khác -rằng nó vượt trội hơn, chiếm ưu thế trong đời sống của chúng sinh, điều mà vươn lên không chỉ từ trong cơ chế nội tại nhưng cũng từ những nguyên nhân và điều kiện ngoại tại. Vì vậy điều quan yếu để thấu hiểu không chỉ từ những hoạt động của những nguyên nhân tâm linh và nhận thức nội tại mà còn là sự liên hệ của chúng với thế giới vật chất ngoại tại.
       
      Sự kiện là những kinh nghiệm nội tại của hạnh phúc và khổ đau là trong tự nhiên của những trạng thái của chủ thể tâm linh và nhận thức thì rất rõ ràng đối với chúng ta. Nhưng làm thế nào những hiện tượng chủ thể nội tại liên hệ đến những sự kiện ngoại tại và thế giới vật chất để tạo ra những vấn đề nguy hại.
       
      DUY THỨC - DUY TÂM - DUY VẬT ?
       
      Câu hỏi của hoặc là có một hiện thực vật lý ngoại tại của nhận thức và tâm của chúng sinh đã từng được bàn đến bởi những nhà tư tưởng Phật giáo. Cố nhiên có những quan điểm khác nhau trên vấn đề này trong số những trường phái khác nhau của tư tưởng.
       
      Một trường phái (Duy thức) khẳng định, quả quyết rằng không có hiện thực ngoại tại, không có ngay cả những đối tượng ngoại tại, và rằng thế giới vật chất mà chúng ta nhận biết trong bản chất chỉ là một sự phản chiếu của tâm chúng ta. Từ nhiều quan điểm, kết luận này vượt trội hơn hẳn, là tột bực. Một cách triết lý, và cho vấn đề thuộc nhận thức này, nó dường như hợp lý hơn để duy trì một vị thế chấp nhận hiện thực không chỉ thế giới chủ thể của tâm mà còn của đối tượng ngoại tại của thế giới vật lý.
       
      KHỞI NGUYÊN CỦA NHỮNG KINH NGHIỆM HẠNH PHÚC HAY KHỔ ĐAU?
       
      Bây giờ, nếu chúng ta trắc nghiệm khởi nguyên của những kinh nghiệm nội tại và của những vấn đề ngoại tại, chúng ta thấy rằng có một sự đồng thể cơ bản tự nhiên của sự tồn tại của chúng trong điều mà cả hai cùng bị chi phối ảnh hưởng bởi nguyên nhân chính yếu. Đúng như trong thế giới tâm linh nội tại và những sự kiện tri thức, mỗi giây phút của kinh nghiệm đến từ sự có trước liên tục của nó và tiệm tiến cho đến vô tận. Cũng như thế, trong thế giới vật lý mỗi đối tượng và sự kiện phải có một sự liên tục trước đáp ứng như nguyên nhân của nó, từ điều là sự hiện diện của giây phút hiện tại của vấn đề ngoại tại tiến đến sự tồn tại, hiện hữu.
       
      Trong một vài tài liệu Phật giáo, chúng ta tìm thấy phát sinh của sự tiếp diễn liên tục của nó, thế giới vĩ mô của thực tại vật lý của chúng ta cuối cùng có thể ngược dòng đến trạng thái trong điều mà tất cả chất điểm vật chất được súc tích trong điều mà chúng ta được biết như "hạt không gian" hay vi trần. Nếu tất cả những vấn đề vật lý của thế giới vũ trụ vĩ mô của chúng ta có thể truy tìm đến một trạng thái nguyên thỉ như thế, rồi thì câu hỏi được nêu lên là làm thế nào để những hạt bụi vi trần này phối hợp với nhau về sau và tiến triển thành thế giới vĩ mô điều mà có thể trực tiếp sản sinh ra trên những chúng sinh những kinh nghiệm nội tại của hạnh phúc hay khổ đau.
       
      HOẠT ĐỘNG VÔ HÌNH CỦA NGHIỆP
       
      Để trả lời cho điều này, giáo nghĩa đạo Phật đã hướng đến lý thuyết về nghiệp báo, những hoạt động vô hình của tạo tác và hiệu quả, điều này cung cấp một sự giải thích, làm thế nào những hạt vi trần vô tri giác tạo nên những biểu hiện khác nhau.
       
      Những hoạt động vô hình của nghiệp nhân, hay nghiệp lực (karma: nghiệp: nghĩa là hành động: action), liên kết với động cơ của tâm thức con người và chính điều ấy cho phép khởi lên những hành động ấy. Vì vậy một sự hiểu biết về tâm thức tự nhiên của con người và vai trò của nó là chủ yếu đối với sự thấu hiểu về kinh nghiệm và sự liên hệ giữa tâm và vật, giữa tâm thức và sự kiện.
       
      Chúng ta có thể thấy từ kinh nghiệm của chính chúng ta là trạng thái tâm thức chúng ta thể hiện một vai trò phần lớn trong kinh nghiệm hằng ngày và trong trạng thái vật lý hay tâm lý tốt đẹp của chúng ta. Nếu một người có một tâm tĩnh lặng và vững vàng, điều này ảnh hưởng đến thái độ và quan điểm của người ấy với quan hệ cùng những người khác. Nói một cách khác, nếu ai đấy duy trì một trạng thái tâm thức tĩnh lặng, thanh thản, và hoà bình, hoàn cảnh chung quanh hay điều kiện bên ngoài có thể chỉ làm quấy nhiễu một cách hạn chế. Nhưng điều này cực kỳ khó khăn cho những người mà trạng thái tâm thức tháo động, bồn chồn, áy náy, không yên để được an tĩnh và vui vẻ ngay cả chung quanh họ là những điều kiện thuận tiện nhất hay là những bằng hữu thân thiết nhất. Điều này chỉ cho thấy rằng quan điểm của tâm thức chúng ta là nhân tố chủ yếu trong sự quyết định kinh nghiệm hoan hỉ và hạnh phúc, và vì vậy cũng là sức khỏe tốt.
       
      SỰ LIÊN HỆ GIỮA TÂM LÝ VÀ VẬT LÝ
       
      Để tổng kết, có hai nguyên nhân tại sao là quan trọng để hiểu tính tự nhiên của tâm.
       
      1- Bởi vì có một sự liên hệ mật thiết giứa tâm thức và nghiệp quả.
      2- Trạng thái của tâm đóng một vai trò chủ yếu trong kinh nghiệm của chúng ta về khổ đau và hạnh phúc.
       
      Nếu hiểu tâm thì rất quan trọng,, rồi thì cái gì là tâm, và cái gì là tính tự nhiên của tâm?
      Tài liệu của đạo Phật, cả hiển giáo và mật tông, chứa đựng những luận giải rộng rãi về tâm và tính tự nhiên của nó. Đặc biệt trong mật tông tantra, luận giải về những cấp độ khác nhau về sự vi tế của tâm và thức (tâm thức, nhận thức, ý thức) . Kinh điển hiển giáo không nói nhiều về sự liên hệ giữa trạng thái khác nhau của tâm và trạng thái sinh lý tương ứng của chúng. Tài liệu của tantra, về phương diện khác, là đầy đủ với sự chỉ dẫn đến những sự tỉ mỉ khác nhau của những cấp độ của tâm thức và sự liên hệ như thế với những tình trạng sinh lý như những trung tâm năng lực sinh động của cơ thể, những kinh mạch năng lượng, nơi những năng lượng lưu chuyển trong ấy,...Mật điển tanra cũng giải thích, làm thế nào, bằng cách vận động những nhân tố sinh lý thông qua những thiền tập yoga đặc hữu, một người có thể tác động ảnh hưởng trên trạng thái của tâm thức.
       
      KHÁCH TRẦN PHIỀN NÃO – TỊNH QUANG – KHẢ NĂNG GIÁC NGỘ (PHẬT TÍNH)
       
      Theo mật điển tantra, cơ bản tự nhiên của tâm là tinh khiết một cách căn bản. Tính tự nhiên nguyên sơ này được gọi một cách kỷ thuật là "ánh sáng trong suốt", là tịnh quang (clear light). Những cảm xúc phiền não khác nhau như khát ái, thù ghét và ghanh tị là những sản phẩm của điều kiện (khách trần phiền não). Chúng không là phẩm chất nội tại của tâm bởi vì tâm có thể tẩy sạch được chúng (bởi vì chúng là khách trần phiền não). Khi tịnh quang tự nhiên này của tâm bị hạn chế hay bị che phủ sự biểu hiện bản chất chân thật của nó bởi những điều kiện của những cảm xúc và tư tưởng phiền não, người ta được nói là bị vướng mắc trong sự hiện hữu của vòng luân hồi. Nhưng khi, do sự áp dụng và thực tập những kỷ năng thiền tập thích hợp, cá nhân có thể hoàn toàn kinh nghiệm tự tại tịnh quang tự nhiên của tâm từ những ảnh hưởng và điều kiện của những trạng thái phiền não, người ấy đang tiến trên con đường của sự giải thoát chân thật và hoàn toàn giác ngộ.
       
      Vì thế, từ quan điểm của đạo Phật, cả ràng buộc và tự tại chân thật tuỳ thuộc vào những trạng thái khác nhau của tâm tịnh quang này, và trạng thái kết quả mà thiền giả cố gắng để thâm nhập qua áp dụng những kỷ năng thiền tập khác nhau là một trong những điều mà tính cơ bản tự nhiên của tâm hoàn toàn chứng tỏ tất cả những khã năng giác ngộ khẳng định của nó, hay Phật tính, Phật quả. Một sự thông hiểu tâm tịnh quang vì vậy trở nên cốt yếu trong phạm vi của nổ lực tâm linh.
       
      BA ĐIỀU KIỆN: NHÂN (TÂM THỨC), DUYÊN (TRẦN CẢNH), CĂN (VẬT LÝ)
       
      Thông thường, tâm có thể được định nghĩa như một thực thể, một sự tồn tại có tính tự nhiên đơn thuần kinh nghiệm, nó là, "sáng sủa và thông hiểu", tịnh quang và tuệ giác. Nó là sự thông hiểu tự nhiên, tuệ giác bản nhiên, hay năng lực, nó được gọi là tâm và điều này không là vật chất. Nhưng trong phạm trù của tâm cũng có tất cả những cấp độ, như những tri giác cảm xúc, những thứ không thể hoạt động hay vươn lên hiện hữu ngoài sự tuỳ thuộc trên những bộ phận sinh vật lý như các cơ quan cảm xúc của chúng ta (mắt, tai, mũi,...). Và trong phạm trù của sáu thức, tâm thức, có nhiều sự phân chia khác nhau, hay những loại tâm thức hết sức lệ thuộc trên căn cứ sinh vật lý, bộ não của chúng ta, cho sự khởi lên của chúng. Những loại tâm thức này không thể được thấu hiểu trong sự cô lập hay tách rời với những cơ quan sinh vật lý.
       
      Bây giờ một câu hỏi căn bản được nêu lên: Làm thế nào mà những loại khác nhau của sự kiện nhận thức - tri giác cảm xúc, trạng thái tâm lý, v.v...- có thể tồn tại và chiếm hữu sự hiểu biết tự nhiên này, quang minh - trong sáng ? Theo khoa học Phật giáo về tâm, những sự kiện nhận thức này chiếm hữu sự hiểu biết tự nhiên, tuệ giác bản nhiên bởi vì tự nhiên cơ bản của quang minh ở dưới (nền tảng) tât cả những sự kiện nhận thức. Đây là điều mà chúng tôi diễn tả sớm hơn như cơ bản tự nhiên của tâm, quang minh tự nhiên của tâm, hay tuệ giác bản nhiên.
       
      Vì vậy, khi những trạng thái khác nhau của tâm được diễn tả trong kinh luận Phật giáo, chúng ta sẽ tìm thấy những luận giải về những loại khác nhau của những điều kiện đã khiến khởi lên những sự kiện nhận thức.Thí dụ, trong trường hợp của những tri giác cảm xúc, đối tượng bên ngoài hoạt động như những điều kiện hay nguyên nhân khách quan, khoảnh khắc ngay trước của ý thức là điều kiện trực tiếp; và cơ quan cảm giác là điều kiện sinh vật lý hay điều kiện vượt trội hơn. Nó dựa trên căn bản của tập họp ba điều: điều kiện nguyên nhân, điều kiện trực tiếp (duyên), và điều kiện sinh lý - mà những kinh nghiệm như những tri giác cảm xúc xãy ra.
       
      TÂM QUÁN TÂM
       
      Một nét đặc trưng khác nữa của tâm là nó có khã năng quán sát chính nó. Vấn đề khã năng của tâm quán sát và thể nghiệm chính nó đã là một câu hỏi triết học từ lâu. Thông thường, có nhiều cách khác nhau trong điều mà tâm có thể quán sát chính nó. Thí dụ, trong trường hợp trắc nghiệm những kinh nghiệm quá khứ, như những việc xãy ra hôm qua chúng ta có thể gợi lại kinh nghiệm ấy và trắc nghiệm nó, vì vậy vấn đề rắc rối không khởi lên. Nhưng chúng ta cũng có những kinh nghiệm trong lúc - điều mà tâm quán sát trở nên tỉnh giác tự chính nó trong khi vẫn bận rộn trong sự quán sát kinh nghiệm của nó.
       
      Ở đây, bởi vì cả tâm quán sát và tình trạng trí óc quán sát hiện diện cùng một lúc, chúng ta không thể giải thích hiện tượng tâm vừa tự tỉnh giác, vừa là chủ thể và vừa là đối tượng xãy ra đồng thời, thông qua viện dẫn đến nhân tố của khoảng cách thời gian.
       
      Vì vậy thật quan trọng để hiểu rằng khi chúng ta nói về tâm, chúng ta đang nói về một mạng lưới cao cấp phức tạp của những sự kiện và trạng thái tinh thần khác nhau. Thông qua những đặc tính nội quán, tự trắc nghiệm của tâm chúng ta có thể quán chiếu, thí dụ, những tư tưởng đặc hữu nào trong tâm chúng tại một thời điểm được định, những đối tượng nào tâm chúng ta đang nắm giữ, những loại khái niệm nào chúng ta có, v.v.và v.v...Trong trạng thái thiền định, thí dụ, khi chúng ta đang thiền tập và phát triển nhất tâm, chúng ta liên tục áp dụng khã năng nội quán tự trắc nghiệm để phân tích tinh thần (tâm thức) chú ý của chúng ta là có tập trung nhất tâm trên đối tượng hay không, hay có bất cứ một sự uể oải, giải đãi nào xâm chiếm, hoặc chúng ta có bị tán loạn hay không,v.v và v.v...Trong trường hợp này chúng ta đang áp dụng những nhân tố tâm thức khác nhau và nó không như là một tâm đang được trắc nghiệm chính nó. Đúng hơn là, chúng ta đang áp dụng nhiều nhân tố tinh thần (tâm thức) để trắc nghiệm tâm chúng ta.
       
      BỘ NÃO THỨ HAI
       
      Như một câu hỏi là có một trạng thái tinh thần (tâm thức) duy nhất có thể quán chiếu và trắc nghiệm chính nó hay không, điều này đã là một câu hỏi hết sức quan trọng và khó khăn trong Phật học về tâm. Một vài nhà tư tưởng Phật giáo từng xác nhận rằng có một khã năng của tâm gọi là "tự ý thức" hay "tự tỉnh thức". Nó có thể được nói rằng đây là một khã năng nhận thức đầy đủ (tổng giác) của tâm, một tâm có thể quán sát chính nó. Nhưng nội dung này vẫn là điều đã và đang được bàn cãi. Đấy là những ai xác nhận rằng có một sự tồn tại khã năng tổng giác phân biệt hai khía cạnh trong tinh thần hay nhận thức, sự kiện; một là ngoại tại và đối tượng trong cảm giác rằng có sự phân hai của chủ thể và đối tượng, trong khi điều kia là nội quán tự nhiên và nó là điều cho phép tâm tự quán chiếu chính nó. Sự hiện hữu của khã năng tự nhận thức tổng giác của tâm đã và đang được bàn cải, đặc biệt trong trường phái tư tưởng triết học Phật giáo Prasanghika * (*Prasanghika: Một nhánh của trường phái Madhyamika, do nhà hiền triết Phật giáo Buddhapajita -môn đồ của Ngài Long Thọ - sáng lập -/- Tuệ Uyển).
       
      Trong những kinh nghiệm hằng ngày, chúng ta có thể quán chiếu điều ấy, đặc biệt trên cấp độ tổng quát, tâm chúng ta tương quan với và tuỳ thuộc trên tình trạng sinh vật lý của cơ thể. Đúng như trạng thái của tâm chúng ta, phiền muộn hay hân hoan, ảnh hưởng đến sức khoẻ vật lý, và tình trạng vật lý cũng rất ảnh hưởng đến tâm chúng ta.
       
      Như chúng tôi đã lưu ý trước đấy, Mật điển Phật giáo tantric lưu tâm đến những trung tâm năng lượng đặc biệt trong cơ thể mà chúng tôi nghĩ rằng, chúng có thể có một vài nối kết với điều mà một vài chuyên gia sinh học thần kinh gọi là bộ não thứ hai, hệ thống miễn nhiễm và đề kháng bền bĩ. Những trung tâm năng lượng này đóng một vai trò quan yếu trong sự gia tăng hay giảm thiểu những trạng thái khác nhau của cảm xúc trong tâm chúng ta. Nó là bởi vì trong sự quan hệ mật thiết giữa tâm và thân thể, và sự tồn tại của trung tâm sinh vật lý đặc hữu trong cơ thể chúng ta mà những luyện tập yoga vật lý và sự thực tập những kỷ năng thiền định đặc biệt xoáy vào sự luyện tâm có thể có những tác động trên sức khoẻ. Nó đã cho thấy rằng, thí dụ, bằng vào việc áp dụng những kỷ năng thiền tập thích hợp, chúng ta có thể kiểm soát, điều khiển hơi thở của chúng ta và làm tăng hay giảm nhiệt độ cơ thể của chúng ta.
       
      ĐẠO PHẬT: MỘT KHOA HỌC VỀ TÂM
       
      Xa hơn nữa, cũng đúng như thế khi chúng ta có thể áp dụng những kỷ năng thiền tập khác nhau trong thời gian của trạng thái tỉnh thức, trên căn bản sự thấu hiểu sự liên hệ tế nhị giữa tâm và thân thể, có thể chúng ta thực tập những thiền định khác nhau trong khi chúng ta trong những trạng thái của giấc mộng. Sự liên hệ của những khã năng của những thực tập như thế là ở tại một trình độ nhất định nó có thể cách ly tất cả những cấp độ của nhận thức tâm lý với tất cả những trạng thái vật lý và hướng đến tại một cấp độ tinh vi, tế nhị hơn của tâm và thân thể. Trong một ngôn ngữ khác, chúng ta có thể cách ly tâm chúng ta với cơ thể vật lý thô thiển. Chúng ta có thể, thí dụ, tách rời tâm độc lập với thân thể chúng ta trong thời gian ngũ và có thể làm thêm những việc mà chúng ta không thể làm trong thân thể thông thường. Tuy vậy, chúng ta có thể không được đền trả cho những việc làm như thế.
       
      Vì vậy chúng ta có thể thấy ở đây dấu hiệu rõ rệt của một sự liên kết gần gũi giữa thân thể và tâm: chúng có thể bổ sung cho nhau. Trong ánh sáng của vấn đề này, chúng tôi rất vui để thấy rằng một số khoa học gia đã tiến hành những sự nghiên cứu đầy ý nghĩa, đáng chú ý trên tâm/thân/sự liên hệ và sự quan hệ mật thiết của chúng cho sự hiểu biết của chúng ta về tính tự nhiên của tinh thần và vật chất được tốt đẹp. Ban của chúng tôi là bác sĩ Benson [Herbert Benson, MD, Associate Professor of Medicine, Harvard Medical School], trong vài năm nay đã và đang tiến hành những thí nghiệm trên những thiền giả Tây tạng. Những thí nghiệm tương tự như thế cũng đang được tiến hành ở Czechoslovakia. Đánh giá cho những tìm tòi của chúng ta cho đến bây giờ, chúng tôi cảm thấy tin tưởng rằng vẫn có một khối lượng lớn việc sẽ được hoàn tất trong tương lai.
       

      Với sự thẩm thấu và sáng suốt mà chúng ta có được từ những nghiên cứu như thế, không nghi ngờ gì nữa là sự hiểu biết của chúng ta về tâm và cơ thể, và cũng là của sức khỏe tâm lý và vật lý, sẽ được giàu có một cách bao la hơn. Một số khoa học gia hiện đại diễn tả đạo Phật không như là một tôn giáo mà là một khoa học về tâm, và dường như có được một vài sở cứ cho lời tuyên bố này.
      ---

      THẾ GIỚI VÔ THƯỜNG QUÁN CHIẾU ĐỀ SINH TỬ SỰ ĐẠI
      VÔ HÌNH HÀNH NGHIỆP VIỄN LY TỨC CHỨNG NGỘ NIẾT BÀN
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.01.2009 03:32:37 bởi tueuyen >
      #3
        tueuyen 29.01.2009 20:21:32 (permalink)
        0
        NGHIỆP - HẠNH PHÚC - TÂM
        ***
        HIS HOLINESS THE DALAI LAMA
        TUỆ UYỂN CHUYỂN NGỮ
        ---
         
        SỰ THẬT VĨNH CỮU: NHÂN LÀNH QUẢ LÀNH, NHÂN XẤU QUẢ XẤU!
         
        Hàng tỉ năm trôi qua giữa thời khởi thỉ của thế giới này và khi sự sống lần đầu tiên xuất hiện trên mặt đất Sau đấy là khoảng thời gian dài lâu để cho sự sống hình thành trở nên trưởng thành trong suy tư- trong sự phát triển và hoàn thiện năng lực tuệ trí của chúng; và ngay cả từ trong thời gian loài người đạt đến sự trưởng thành như hiện tại, hàng nhiều nghìn năm đã trôi qua. Xuyên qua thời gian bao la này thế giới đã chịu đựng những sự đổi thay không ngớt, để nó có thể ở trong trạng thái tiếp diễn liên tục. Ngay cả hiện tại, thuyết tương đối phát sinh gần đây cho biết điều xuất hiện trong thời gian ngắn duy trì tĩnh tại được thấy đã trãi qua sự thay đổi trong từng khoảnh khắc. Người ta có thể tự hỏi điều gì đã được duy trì không thay đổi khi mà mỗi loại vật chất và hiện tượng tâm linh dường như là chủ thể lúc nào cũng thế cho chương trình chuyển biến, của tính thay đổi. Tất cả những thứ ấy là mãi mãi khởi sinh, phát triển và biến mất. Trong cơn lốc của tất cả những sự thay đổi này, có một Sự Thật đơn độc duy trì liên tục và không thay đổi được-trong ngôn ngữ khác, đấy là, Sự Thật Chính đáng thì đi kèm với kết quả lợi ích, và sự thật của những hành động xấu ác thì đi kèm với kết quả tổn hại. Một nhân lành sẽ sinh quả lành, một nhân xấu sẽ sinh quả xấu. Tốt hay xấu, lợi ích hay tổn hại, mỗi kết quả tất yếu phải có một nhân. Nguyên tắc độc hành này là vĩnh cữu, không thay đổi và liên tục. Điều này là một sự thật đã hiện hữu lâu xa trước khi một người bước vào thế giới này, trong thời điểm bình minh của sự hiện diện của người ấy, trong thời gian hiện tại, và nó sẽ tiếp tục theo đuổi với thời gian tương lai vô cùng tận.
         
        CÓ ĐÚNG LÀ NHỮNG NHÂN TỐ NGOẠI TẠI DUY NHẤT CHỊU TRÁCH NHIỆM?
         
        Tất cả chúng ta khao khát hạnh phúc và né tránh khổ đau cùng bất cứ thứ gì không hài lòng.Như chúng ta đã biết, niềm vui thích và đớn đau sinh khởi từ một nguyên nhân. Không kể là những hậu quả hiển nhiên nào đấy là do một nguyên nhân hay bởi nhiều nguyên nhân đã được quyết định bởi bản chất tự nhiên của hậu quả ấy. Trong vài trường hợp, ngay cả nếu những nhân tố nguyên nhân không quá mạnh cũng không quá áp đảo, nó vẫn có thể làm cho nhân tố kết quả xãy ra. Bất cứ phẩm chất của nhân tố kết quả như thế nào, hoặc là chúng tốt hay xấu, sự to lớn và cường độ của chúng tương ứng một cách trực tiếp với số lượng và mãnh lực của nhân tố nguyên nhân. Vì vậy, để thành công trong việc tránh những điều khổ đau không mong đợi và gặt hái được những niềm vui thích khát khao, vấn đề này tự nó không phải nhỏ, đấy là sự từ bỏ một khối lượng lớn những thu thập nhân tố nguyên nhân được yêu cầu.
         
        Trong sự phân tích bản chất tự nhiên và trạng thái của hạnh phúc, nó được biểu hiện rõ ràng qua hai phương diện. - Một là niềm vui tức thời (tạm thời); và thứ hai là niềm vui tương lai (cơ bản).
         
        Niềm vui tạm thời bao gồm sự nhàn hạ và thích thú , là những điều con người ao ước như nơi cư trú tốt, vật dụng đáng yêu, thức ăn ngon miệng, hợp tác tốt đẹp, đối thoại vui lòng, v.v và v.v... Nói một cách khác, sự thoả mãn tạm thời là những điều mà con người vui thích trong đời sống này. Câu hỏi là không biết sự hưởng thụ của những hoan lạc và thỏa lòng này có nhận được một cách trong sạch từ những (nhân tố) nhu cầu ngoại tại được thể nghiệm trong ánh sáng của luận lý lôgic rõ ràng không. Nếu nhân tố ngoại tại chịu trách nhiệm một mình để cho hưng khởi những cảm hứng khoái lạc như vậy, một người sẽ vui sướng khi những điều này hiện diện, và ngược lại họ sẽ buồn phiền khi chúng vắng mặt. Tuy nhiên, điều này không phải như vậy. Bởi vì, ngay cả trong khi vắng mặt những điều kiện ngoại tại đưa đến sự khoái cảm, một người vẫn có thể vui vẻ và yên bình. Điều này chứng minh rằng, những nhân tố ngoại tại không chịu trách nhiệm một mình nó cho sự kích thích hạnh phúc con người. Có đúng là những nhân tố ngoại tại duy nhất chịu trách nhiệm hay chúng là toàn bộ điều kiện để cho sự hưng khởi của hoan lạc và hạnh phúc không, nếu vậy một người sở hữu một sự giàu có những nhân tố này sẽ có một sự hỉ lạc không hạn chế. điều này không luôn luôn có nghĩa như vậy.
         
        Điều đúng là những nhân tố ngoại tại này thật sự công hiến một phần để tạo nên sự hoan lạc trong đời sống con người. Tuy vậy, nếu tuyên bố rằng những nhân tố ngoại tại là tất cả, là cần thiết và vì vậy là nguyên nhân độc nhất của hạnh phúc trong khoảng thời gian ngắn ngủi của đời sống con người là phát biểu trì trệ và phi lý. Nó có nghĩa không chắc chắn là sự hiện diện của những nhân tố ngoại tại như vậy sẽ tạo nên sự vui thích. Trên phương diện ngược lại, căn cứ trên những gì xãy ra như kinh nghiệm của hạnh phúc to lớn nội tại -mặc dù vắng mặt toàn bộ những hoan lạc có được do những nhân tố ngoại tại, và thường vắng mặt vui sướng mặc dù chúng (nhân tố ngoại tại) hiện diện-, một cách rõ ràng chi cho thấy nguyên nhân của hạnh phúc tuỳ thuộc trên một tập hợp khác nhau của những điều kiện (nhân tố).
         
        NHÂN TỐ NỘI TẠI VÀ HẠNH PHÚC
         
        Nếu chúng ta bị lầm lạc rằng, bởi những điều bàn luận về những (nhân tố ngoại tại) điều kiện được đề cập ở trên là nguyên nhân duy nhất cấu thành của hạnh phúc cho đến sự loại trừ bất cứ những điều kiện nào khác tạo ra , điều ấy hàm ý rằng (kết quả) hạnh phúc thì liên đới với những (nhân tố) nguyên nhân bên ngoài một cách không thể tách rời. Sự hiện diện hay vắng mặt của hạnh phúc được quyết định độc quyền bởi chúng. Sự việc thực tế rõ ràng không đủ chứng cớ chứng tỏ rằng nguyên nhân ngoại tại không cần thiết hay hoàn toàn chịu trách nhiệm đến kết quả của (hiện tượng) hạnh phúc.
         
        Bây giờ, điều gì khác của tập hợp những nguyên nhân nội tại? Chúng được giải thích như thế nào? Là những Phật tử, tất cả chúng ta tin ở luật nghiệp báo- luật tự nhiên của nhân và quả. Bất cứ những (điều kiện) nguyên nhân nội tại của người nào đấy xuyên qua trong đời sống tiếp theo là kết quả từ những tích tập từ những hành động của cá nhân trong những đời sống trước đây. Khi năng lực nghiệp báu của những hành vi quá khứ chín muồi, một người cảm nhận vui thích hay ưu phiền. Chúng không gì khác hơn mà chỉ là hậu quả của những hành động của người ấy trong quá khứ. Điều quan trọng nhất để hiểu là, khi những kết quả thích đáng của những nghiệp báu từ tất cả những hành động quá khứ xuất hiện, những nhân tố ngoại tại của người ấy liên kết như những thuận duyên. Điều xãy đến liên hệ với những điều kiện xuyên qua hành động (nghiệp) và những nhân tố ngoại tại sẽ sản sinh trạng thái tinh thần thoãi mái. Về mặt khác, nếu thiếu vắng điều kiện thiết yếu cho kinh nghiệm vui thích nội tại thì sẽ không có cơ hội cho những nhân tố bên ngoài thích ứng, hay ngay cả nếu những nhân tố bên ngoài hiện diện, sẽ không thể làm cho một người được kinh nghiệm vui thích. Điều này chỉ cho thấy rằng nhân tố nội tại là căn bản trong những điều này, và đấy là nhân tố chính quyết định hiện thực của hạnh phúc hay ngược lại. Vì vậy, để đạt được những kết quả khao khát, điều khẩn thiết cho chúng ta là phải tích tập cùng lúc cả hai nguyên nhân-tạo nên nhân tố ngoại tại và nguyên nhân-tạo nên nhân tố nội tại ( nghiệp ).—( Hay nguyên nhân nội tại là nhân và nguyên nhân ngoại tại là duyên.)
         
        Để phát biểu vấn đề một cách đơn giản hơn, cho sự tích tập cuả nhân tố lành nội tại (thiện nghiệp), những gì cần thiết chính như những phẩm chất như là một ít nhu cầu, sự toại ý, sự nhún nhường, sự giản dị, và những đức tính quý báu khác. Thực hành những nhân tố nội tại này sẽ thuận tiện ngay cả chuyển biến những nhân tố ngoại tại đã kể trước đây chúng sẽ biến đổi thuận tiện ngay cả chuyển hoá những ích lợi đặc trưng cho sự sinh khởi của hạnh phúc. Sự vắng mặt của những nhân tố nội tại thích đáng, như có một ít nhu cầu của sự toại ý, nhẫn nại, tha thứ, v.v... sẽ ngăn trở người ấy hưởng thụ sướng vui, hạnh phúc ngay cả khi tất cả những nhân tố ngoại tại hiện diện. Bên cạnh điều ấy, người ta còn phải có nguồn năng lực của công nghiệp và đức hạnh tích tập trong những đời quá khứ. Nếu khác đi, những hạt giống hạnh phúc không thể tạo thành quả phúc được.
         
        DỤC TRI TIỀN THẾ NHÂN , KIM SINH THỌ GIẢ THỊ
         
        Vấn đề có thể phát biểu theo một cách khác. Sự vui thích và sự thất vọng, hạnh phúc và khổ đau kinh nghiệm bởi mỗi cá nhân là những kết quả lợi ích không thể tránh được và hoặc là những hành động xấu mà người ấy đã gây ra, vì vậy được thêm vào tàng thức người ấy.
         
        Nếu tại một thời điểm nhất định trong đời sống hiện tại này những quả lành do những thiện nghiệp chín muồi người ấy sẽ thể nhận được, nếu đấy là một người thông thái, thì đấy là những quả phúc của những hành vi sáng suốt đáng khen trong quá khứ. Điều này sẽ tưởng thưởng và khuyến khích người ấy đạt thêm công nghiệp.
         
        Một cách đơn giản, khi người nào xãy ra kinh nghiệm khổ đau hay không hài lòng, người ấy có thể chịu đựng một cách trầm tĩnh nếu người ấy duy trì một sự tin chắc không giao động rằng, cho dù người ấy có nguyện ước (thệ nguyện) hay không, người ấy phải đau khổ và mang lấy những hậu quả của chính những hành vi người ấy đã làm trong quá khứ, mặc dù sự thật bình thường người ấy thường thấy rằng cường độ và mức độ,của sự thất vọng thì rất khó để chịu đựng, hay mang lấy. Bên cạnh, nhận thức rằng chúng không là gì nhưng chỉ là kết quả của những hành động vụng về trong quá khứ sẽ làm người ấy đủ thông minh chừa bỏ những hành động vụng về từ nay trở đi. Giống như vậy, tư tưởng hài lòng rằng,- với sự chín muồi của những nghiệp xấu trong quá khứ, và phần quả xấu bởi những hành động xấu trong quá khứ đã hiện ra,- sẽ là niềm an ủi, khích lệ lớn lao cho người ấy.
         
        Một sự đánh giá đúng đắn tuệ trí này sẽ góp phần hiểu thấu bản chất để đạt được yên bình cho thân và tâm. Thí dụ, giả sử một người bất ngờ bị đau khổ với chấn thương vật lý trầm trọng qua một nhân tố ngoại tại. Nếu, chỉ là năng lực tuyệt đối của ý chí ( căn cứ trên sự tin chắc rằng người ấy tự chịu trách nhiệm cho những bất hạnh và khổ đau hiện tại), người ấy có thể vô hiệu hoá sự tăng gia khổ đau rồi thì tâm tư người ấy sẽ thoãi mái và yên tĩnh.
         
        CHUYỂN NGHIỆP - HẠNH PHÚC - TU TÂM
         
        Bây giờ để chúng tôi giải thích điều này trong một trình độ khá hơn, cao hơn. Sự quan tâm, sự phấn đấu, và thực thi này là điều có thể làm một cách có hệ thống để tiêu huỷ những điều bất như ý và nguyên nhân của chúng.
        Như đã nói ở trước, vui sướng hay khổ đau, hạnh phúc hay bất như ý là kết quả của những hành động tốt hay xấu của một người. Những hành động tốt hay xấu (nghiệp) không là những hiện tượng ngoại tại. Chúng tuỳ thuộc một cách có căn bản vào tình trạng của tâm. Làm những cố gắng tích cực để tạo dựng mọi thứ có thể của thiện nghiệp và đẩy xa chúng ta những vết tích của bất thiện nghiệp, là con đường để sáng tạo hạnh phúc và tránh sự tạo đớn đau và khổ sở. Đấy là điều vẫn thường thấy rằng một kết quả vui vẻ theo sau một nhân lành và hậu quả xây dựng bởi nguyên nhân vụng về là khổ đau.
         
        Vì vậy, quan trọng nhất, chúng ta cố gắng mọi ý nghĩa có thể để gia tăng phẩm chất và khối lượng của những hành động thiện xảo và làm những hành động tương ứng cắt xén bớt những hành động vụng về của chúng ta.
        Làm thế nào để việc này được hoàn thành? Những nguyên nhân đáng khen thưởng và ngược lại, kết quả hạnh phúc và khổ đau không tương đồng với đối tượng bên ngoài. Thí dụ, trong cơ thể con người hệ thống gồm những phần khác nhau như phổi, tim, và những bộ phận khác có thể thay thế bằng những bộ phận mới. Nhưng điều này không như vậy với những hành động của nghiệp, điều tịnh hoá tâm. Sự thu thập công nghiệp tươi tốt và sự tiêu huỷ những nhân xấu, là quá trình tịnh hoá tâm linh. Chúng không thể đạt được với bất cứ sự giúp đở nào ở bên ngoài. Phương pháp duy nhất để hoàn thành là bằng sự kiểm soát và luyện tập tâm chưa thuần hoá (cho đến nay). Cho điều này, chúng ta đòi hỏi một sự nhận thức đầy đủ hơn yếu tố gọi là TÂM.
         
        TÍNH BẢN NHIÊN CỦA TÂM
         
        Qua những cánh cửa của năm giác quan một chúng sinh thấy, nghe, ngữi, nếm và dẫn đến sự tiếp xúc với các hình sắc tiếp nhận bên ngoài, các đối tượng, ấn tượng. Hãy để hình sắc, âm thinh, mùi hương, vị nếm, tiếp xúc(va chạm) và những sự kiện tinh thần, những điều liên hệ với sáu thức cảm giác được đóng lại. Khi điều này được hoàn tất sự thu thập của những sự kiện quá khứ trên điều tâm hướng đến để động não (suy nghĩ ủ ê, nghiền ngẫm), sẽ hoàn toàn bị đoạn dửt và dòng chảy của ký ức bị cắt đứt. Một cách đơn giản, những dự tính cho tương lai và sự dự định hành động tương lai không được phép hưng khởi.
         
        Cần thiết phải tạo một không gian, nơi tâm trở nên rỗng không với tất cả những trình tự như trên, trong nơi của tất cả những chương trình như vậy của tư tưởng (dự tính,dự định,dự kiến).Tự tại với tất cả những trình tự như vậy nơi ấy duy trì một tâm tinh khiết, trong sáng, rõ rệt và tịch tĩnh. Bây giờ hãy để chúng ta kiểm nghiệm những đặc điểm nào cấu thành "tâm" khi nó đạt đến trạng thái này.
         
        Một cách chắc chắn rằng chúng ta sở hữu điều gọi là "tâm", nhưng làm thế nào để chúng ta thể nhận được sự hiện hữu của nó? Thực tế và bản chất của "tâm", điều được tìm thấy khi toàn bộ gánh nặng của những điều trở ngại và lầm lạc nói chung (nhận thức của các giác quan, ký ức suy tư.v.v...) được làm sạch bóng. Thấy rõ, sâu sắc diện mạo này của thật tâm, chúng ta sẽ khám phá rằng, không giống như những đối tượng ngoại tại, thật tính bản nhiên của nó là xa rời hình thức hay màu sắc, mà có thể chúng ta cũng không tìm thấy bất cứ căn bản nào chính xác cho những điều sai lầm và những khái niệm lừa dối như vậy như: "tâm" vốn dĩ từ điều này hay điều kia, hay là "tâm" di chuyển từ nơi này đến nơi nọ, hay là "tâm" được xác định vị trí ở nơi như vậy và như vậy.
         
        Đến khi tiếp xúc được với không đối tượng tâm giống như một điều trống không rộng rãi vô biên, hay như một đại dương bình lặng, trong sáng và vô tận. Khi thình lình chạm trán với một đối tượng nó lập tức nhận ra ngay đối tượng của nó, như một tấm gương lập tức phản chiếu một người đứng trước nó. Bản chất thật sự của tâm không chỉ gồm có nhận thức rõ ràng đối tượng nhưng cũng truyền đạt kinh nghiệm cụ thể của đối tượng đến người kinh nghiệm qua nó. (* Đây là hai khía cạnh, thể nhận tri thức và truyền đạt kinh nghiệm liên hệ để biết điều gì là đối tượng và cảm giác, nếm, thấy,...thế nào).
         
        Một cách bình thường, những hình thức của các tri giác của chúng ta như: nhận thức của mắt, nhận thức của tai, v.v... diễn tả những chức năng trên những hiện tượng bên ngoài trong thái độ liên hệ méo mó toàn bộ. Kiến thức kết quả trên nhận thức cảm giác, căn cứ trên toàn bộ những hiện tượng bên ngoài, cũng là toàn bộ thiên nhiên. Khi toàn bộ kích thích loại này bị đóng kín và khi những kinh nghiệm cụ thể và nhận thức trong sáng khởi lên từ trong ấy, tâm thể hiện đặc tính trống không vô tận giống như không gian vô biên.
         
        Nhưng cái "không" này không được xem như thật tính tự nhiên của tâm. Chúng ta phải trở nên thật quen thuộc với sự nhận thức đến hình thể và màu sắc của toàn bộ những đối tượng, khi chúng ta tập trung sự tự quán sát bên trong đến tính bản nhiên của tâm, nó là, như chúng tôi đã nói, được tìm thấy là một sự trống không vô tận tự tại với bất cứ sự u tối vô minh hay những chướng ngại nào khác. Tuy vậy, điều này không có nghĩa là chúng ta đã thấy rõ thật tính tinh tế bản nhiên của tâm. Những điều được giải thích ở trên liên quan đến trạng thái của tâm trong sự liên hệ với kinh nghiệm cụ thể và nhận thức trong sáng bởi tâm, những điều là chức năng của nó, nhưng nó chỉ diễn tả tính bản nhiên tương đối của tâm .
         
        NỀN TẢNG THỰC SỰ CỦA TÂM
         
        Thêm một vài khía cạnh và trạng thái khác của tâm. Trong ngôn ngữ khác, thể nhận tâm ở mức độ căn bản nhất, có nhiều thuộc tính liên hệ đến nó. Chỉ như củ hành bao gồm những lớp chồng chất lên nhau và có thể bóc ra, vì vậy mỗi một đối tượng có vô số lớp chồng chất; và điều này không sai với tính bản nhiên của tâm được giải thích ở đây; nó cũng vậy, có lớp này trong lớp nọ, trạng thái này trong trạng thái kia.
         
        Tất cả những sự, những vật được hợp thành là những đối tượng để tan rã. Tự bao giờ, những kinh nghiệm và kiến thức là vô thường và là đối tượng để tan rã, "tâm", của điều là những chức năng (tự nhiên), không phải là điều gì ấy được duy trì bất biến và vĩnh cữu. Từ từng khoảnh khắc nó phải thay đổi và tàn hoại. Sự chuyển biến này của tâm là khía cạnh tự nhiên của nó.
         
        Tuy vậy, khi chúng ta quán sát, thật tính tự nhiên của tâm có nhiều khía cạnh, bao gồm những nhận thức của những kinh nghiệm cụ thể và tri thức của những đối tượng. Bây giờ chúng ta hãy thể nghiệm xa hơn để hiểu thấu ý nghĩa tinh tế căn bản của một tâm như thế. Tâm hiện hữu bởi nguyên nhân của chính nó. Để phủ nhận căn nguyên của tâm tuỳ thuộc vào một nguyên nhân, hay nói rằng nó được mệnh danh như một ý nghĩa được thừa nhận tự nhiên của tập hợp tâm, thì không đúng.
         
        Với sự quán sát nông cạn của chúng ta, tâm, điều có kinh nghiệm cụ thể và nhận thức rõ rệt như tính tự nhiên của nó, xuất hiện như một thực thể toàn năng, độc lập, thống trị một cách hoàn toàn ở khắp nơi. Tuy nhiên, phân tích sâu hơn sẽ thấy rằng tâm này, sở hữu như nó làm chức năng của kinh nghiệm và nhận thức, nó không là một thực thể tự sáng tạo nhưng lệ thuộc vào những nhân tố khác cho sự tồn tại của nó. Vì lý do này nó tuỳ thuộc vào những điều khác hơn chính nó. Phẩm chất không độc lập này của căn bản của tâm là thực tính tự nhiên của nó trong điều khiến đấy là nền tảng thực sự của chính nó.
         
        Ở hai khía cạnh này, thật tính cơ bản tự nhiên của tâm và một kiến thức của thực tính cơ bản tự nhiên đấy, điều trước là căn bản và điều kế tiếp là thuộc tính. Tâm (tự nó) là căn bản và tất cả nhũng trạng thái khác nhau của nó là những thuộc tính. Tuy vậy, căn bản và những thuộc tính, điều căn bản-đầu tiên có cùng thể chất với từng đơn vị-những thuộc tính. Sự sáng tạo vô ngã (tuỳ thuộc trên một nguyên nhân khác chính nó) thực thể tâm (nền tảng căn bản) và bản chất của nó, tính không, có sự tồn tại một cách không ngừng như một thực chất , giống nhau, không thể tách rời từ khởi nguyên vô thỉ. Tính tự nhiên của tính không toả khắp tất cả mọi yếu tố. Bây giờ khi chúng ta và từ khi chúng ta không thể hiểu thấu hay nhận thức thấu đáo sự bền bỉ, tự nhiên, nền tảng thực sự (tính không) của tâm chúng ta, chúng ta tiếp tục liên luỵ vào những sai lầm và những thiếu sót của chúng ta vẫn cứ dai dẳng.
         
        NỔ LỰC TỐI ĐA VÌ MỘT TÂM KHÔNG CÓ CHỖ CHO NHỮNG NGHIỆP KHÔNG LÀNH
         
        Nhận tâm như chủ thể và thực tại cơ bản của tâm như đối tượng của nó, chúng ta sẽ đạt đến một sự lĩnh hội thích đáng với bản chất thực tính của tâm... thực tại tột cùng của tâm. Và khi, sau một thời gian dài kiên nhẫn thiền định, chúng ta sẽ nhận biết và hiểu thấu thực tại tột cùng của tâm, là điều lìa xa những đặc tính của nhị nguyên, chúng ta sẽ dần dần có thể làm rỗng không ảo tưởng và những khiếm khuyết của những tư tưởng trung tâm và phụ thuộc như giận dữ, thích phô trương, ghanh ghét, thèm muốn, v.v...
        Thất bại trong việc nhận diện tính bản nhiên của tâm chúng ta sẽ mất cơ hội đạt được năng lực nhận biết thực tại cơ bản của tâm. Điều này sẽ xoay việc nhỗ gốc của khát dục và thù ghét và tất cả cội rễ của những vọng tưởng phụ thuộc khác của chúng ta từ căn bản. Vì thế, không có chỗ để tích tập những nghiệp không lành.
         
        Theo những nghĩa này việc tạo những ác nghiệp ảnh hưởng cho những đời sống tương lai sẽ bị loại trừ; chúng ta sẽ có thể gia tăng chất lượng và số lượng của điều kiện nguyên nhân công hạnh lành và để trừ tiệt gốc sự tạo tác điều kiện nguyên nhân tổn hại ảnh hưởng những đời sống tương lai-ngoài những nghiệp xấu tích tập trước đây ra.
         
        Trong việc thực hành để đạt được kiến thức toàn hảo của thực tính bản nhiên của tâm, đòi hỏi những cố gắng tích cực và tập trung tinh thần để nhận biết thấu đáo đối tượng. Trong những điều kiện bình thường của chúng ta như hiện tại, khi tâm chúng ta tiếp xúc với bất cứ gì nó liền bị lôi cuốn tức thì. Điều này khiến sự nhận hiểu bất lực. Vì vậy, để đạt được năng lực tịch tĩnh to lớn của tinh thần, sự nổ lực thật tối đa là đòi hỏi cấp thiết nhất. Thí dụ như, một dòng sông lớn trôi chảy qua một vùng mở rộng sẽ có rất ít năng lực, nhưng khi nó xuyên qua một dốc núi hẹp tất cả nước tập trung trong một không gian hẹp và vì vậy nó tuôn chảy với một mãnh lực lớn. Với một lý do đơn giản tất cả những điều xao lãng của tinh thần, điều lôi cuốn tâm xa rời với đối tượng quán chiếu được tránh và tâm duy trì kiên định không chuyển trên đối tượng. Ngoại trừ điều này được hoàn tất, sự thực hành để đạt được một sự thấu hiểu thích đáng thực tính bản nhiên của tâm sẽ hoàn toàn thất bại.
         
        CON ĐƯỜNG ĐỂ ĐẠT HẠNH PHÚC TRỰC TIẾP-TỨC THỜI-GẦN NHẤT
         
        Làm cho tâm thuần thục ngoan ngoản, là điều căn bản cho chúng ta rèn luyện và kiểm soát nó tốt đẹp. Lời nói và hành động của thân là điều tương ứng với trình tự của tinh thần, tuyệt không cho phép nó diễn tiến trong chiều hướng vô ý, thả lỏng, và bừa bãi. Chỉ như một huấn luyện viên luyện tập và trầm tĩnh một con ngựa hoang bướng bỉnh bằng khuất phục nó và sự rèn luyện dài lâu. Vì vậy những hành động hoang dã, rong ruỗi, bừa bãi phải được thuần hoá và làm chúng ngoan ngoản, chính đáng, và thiện xảo. Vì vậy những lời Dạy của Đức Thế Tôn bao gồm trong ba chủ đề, đó là giới (rèn luyện đạo đức cao thượng), định (rèn luyện thiền định cao thâm) và tuệ trí (rèn luyện tuệ trí cao xa), tất cả đấy là để dành cho rèn luyện tâm.
        Bằng việc học tập, thiền định và thực hành tam vô lậu học trong phương pháp này, chúng ta hoàn thành tiến trình thực chứng. Một người luyện tập sẽ được phú cho phẩm chất tuyệt vời của khã năng có thể chịu đựng một cách kiên nhẫn những bất hạnh và khổ đau, những điều là kết quả những nghiệp chướng quá khứ của người ấy.
         
        Người ấy sẽ quan tâm sự bất hạnh của chính họ như chuyện không may mà lại hoá may, làm cho người ấy sáng tỏ ý nghĩa của nghiệp báo và làm cho người ấy nhận thức thấy sự cần thiết để tập trung tiến hành duy chỉ những hành động đạo nghiệp xứng đáng mà thôi. Nếu nghiệp xấu quá khứ của người ấy chưa trổ quả, nó sẽ vẫn có thể được xoá sạch những nghiệp chưa chín này bằng việc sử dụng sức mạnh của bốn năng lực:
         
        1- Quyết định đạt đến Phật quả;
        2- Quyết định tránh làm những hành vi sai trái lỗi lầm, ngay cả cái giá của một đời sống;
        3- Tiến hành những hành vi tốt lành;
        4- Sám hối.
         
        Đấy là con đường để đạt được hạnh phúc trực tiếp,tức thời, gần nhất, để mở đường cho đạt đến giải thoát và giúp chúng ta tránh tích tập những lỗi lầm xa hơn.

        ---
         
        NHẤT NIỆM TRẦN TÂM VÔ SỞ TRỤ
        TAM THỪA ĐỒNG CHỨNG DIỆU PHÁP THÂN
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.02.2009 00:27:51 bởi tueuyen >
        #4
          tueuyen 01.02.2009 20:18:42 (permalink)
          0
          CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH
          - His Holiness the Dalai Lama-
          -Tuệ Uyển chuyển ngữ-
          ---
          1-      CHẾT

          Qua những khổ đau của khát vọng, thù ghét và u mê, nghiệp ô nhiễm được hình thành, nó sản sinh những năng lực mạnh mẽ trong tâm trong hình thức của những khuynh hướng. Khi một đời sống chấm dứt, một người có những khuynh hướng như thế nào sẽ được sinh lại trong vòng luân hồi với một tâm linh và thân thể qua những khuynh hướng nguyên nhân này.

          Một số người chết trong lúc hoàn toàn kiệt lực trong sự thúc đẩy của hành động nào đó, điều mà trong đơi sống khác,nó sẽ dựa trên nền tảng của điều này. Những người khác chết mà chưa hết thời gian thọ mạng của họ, trong tình trạng chưa đầy đủ những nhân tố của đời sống, như là thiếu thốn hay những sự cần thiết. Đấy gọi là chết yểu, hay chết trong sự tiêu phá công nghiệp, bởi sự thúc đẩy của những hành động thực hiện trong đới sống hiện tại này, nhưng những trường hợp phù hợp ngoại tại đạt được qua những hành động đạo hạnh trong đời trước đã không hiển lộ.

          Một người chết với một tâm đạo đức, không đạo đức hay trung tính. Trong trường hợp đầu tiên, cái chết của một người có thể đem đến trong tâm một đối tượng đạo đức- như Tam bảo (Phật, lời Phật dạy, và cộng đồng tâm linh) hay đạo sư của người ấy, vì thế sinh ra một tâm tin thành. Người ấy có thể phát triển vô lượng tĩnh lặng yên bình, trở nên tự tại với khát dục và thù hận trước bất cứ chúng sinh nào, hay thiền định trên tính không hay phát triển từ bi. Điều này có thể được hoàn thành hoặc là xuyên qua sự nhớ lại những hành động như thế hay qua sự cảnh tỉnh của người khác. Nếu những thái độ như thế được phát triển tại thới điểm của lâm chung, một người chết với một tâm đạo đức, điều ấy sẽ được tăng cường trong kiếp tiếp theo. Thật là tốt lành để chết trong cách này.

          Tuy vậy, thỉnh thoảng, nó xãy ra những thứ khác, ngay cả mặc dù không chủ tâm tìm kiếm sự khuấy động giận hờn, phiền muộn người sắp chết với sự sợ hãi, khủng hoảng, vì vậy  làm họ giận hờn. Đôi khi, bạn bè hay thân nhân tập trung chung quanh giường bệnh khóc than, ai oán trong hoàn cảnh như vậy họ đã khơi dậy niềm khát ái. Dù là khát ái hay thù hận, nếu một người chết trong tâm trạng vướng mắc, tội lỗi, hoặc những việc không lành mà người ấy rất quen thuộc, điều ấy rất nguy hiểm.
           
          Một số người chết với thái độ trung tính, không có đối tượng đạo đức cũng không phát sinh khát ái hay thù hận.

          Đây là ba thái độ -đạo đức, không đạo đức và trung tính- xuất hiện trong tâm vi tế khi lâm chung. Theo kinh điển, thời điểm tâm vi tế cuối cùng này cần thiết trung tính, không giống Tantra Yoga tối thượng, kinh điển không diễn tả kỷ năng để chuyển hoá tâm vi tế thành tình trạng đạo đức, chỉ là những chỉ bảo thô thiển. Tuy vậy,một hành giả Tantra đúng phẩm chất, có thể chuyển hoá tâm vi tế liên hợp với cái chết thành một nhận thức con đường  đạo đức. Tại thời điểm ấy hành giả phải rất thâm sâu.

          Trong bất cứ mọi trường hợp, quan kiến tâm linh trong lúc lâm chung rất quan trọng, ngay cả một hành giả thuần thục ôn hoà nếu bị quấy rầy lúc này, khát ái và thù hận hiển nhiên sẽ được phát sinh. Điều này là bởi vì tất cả chúng ta đều có những khuynh hướng đã thiết lập bởi những hành động quá khứ không đạo đức, những điều sẳn sàng bị kích động khởi dậy khi gặp những điều kiện bất lợi. Những khuynh hướng này cung cấp sự thúc đẩy cho những đời sống như súc sinh,v.v...Một cách đơn giản, chúng ta có những khuynh hướng thiết lập bởi những hành động đạo đức quá khứ, khi gặp những điều kiện thuận lợi, sẽ cung cấp sự thúc đẩy cho những đời sống hạnh phúc như loài người,v.v...

          Những khã năng này đã có sẳn trong liên tục tâm của chúng ta, chúng được nuôi dưỡng bởi vướng mắc chấp thủ và sự tham đắm, dẫn đến một sự tái sinh tốt hay xấu. Vì vậy, nếu khuynh hướng do nghiệp xấu được hoạt động, một đời sống như súc sinh, quỷ đói hay địa ngục sẽ là kết quả.

          Một cách đơn giản, nếu một người thường cư xử sai trái khi lâm chung với một quan kiến đạo đức, người ấy chắc chắn được tái sinh trong một hoàn cảnh tốt. Vì vậy, rất quan trọng cho cả người lâm chung và những người chung quanh để tránh tạo những hoàn cảnh của khát ái hay thù hận và tốt hơn là nuôi dưỡng những tình trạng đạo đức của tâm. Chúng ta cần biết điều này.

          Những ai lâm chung trong quan kiến đạo đức có nhận thức đi ngang qua một vùng tối đến vùng sáng, tự do với phiền giận và cảm thấy thoãi mái xuất hiện. Có nhiều trường hợp của những người bệnh nặng, gần với cái chết, nói năng trong trạng thái thật thoãi mái bất chấp bệnh tình của họ. Những người khác bệnh tình dù không nặng nhưng rơi vào sự sợ hải vô cùng, với hơi thở nặng nề. Những người đó cuối cùng chìm trong những tư tưởng không đạo đức, có nhận thức đi ngang qua từ vùng sáng đến vùng tối và thấy những hình trạng không dễ chịu.

          Một số người nhiệt độ thân thể bị giảm do bệnh, trở nên khao khát sức nóng vì vậy làm mạnh thêm khuynh hướng cho sự tái sinh như một chúng sinh trong địa ngục nóng, ngay lúc đó họ bị tái sinh trong một nơi cực kỳ nóng. Những người khác trở nên vướng mắc trong một ao ước cảm giác mát lạnh, thí dụ, uống nước, họ củng cố thêm khuynh hướng bị sinh làm một chúng sinh trong địa ngục lạnh, vì vậy nó liên hệ với một sự tái sinh như thế. Do đó rất quan trọng để tránh những tư tưởng khao khát trong lúc lâm chung và hướng tâm trực tiếp đến những đối tượng có tác dụng tốt.

          Trong đời sống hằng ngày, thái độ khát ái, thù hận, ghen tị, v.v..., những tư tưởng mà chúng ta đã quá quen thuộc, dễ dàng hiển lộ chỉ với sự khiêu khích nhỏ; nhưng những thứ mà khi chúng ta có một chút  hiểu biết, thì phải có sự khiêu khích to tát, như là sự viện dẫn lý lẽ đến tranh luận, để  tự chính chúng hiển lộ. Một cách đơn giản, lúc lâm chung, thái độ quen thuộc lâu dài thường ưu tiên và trực tiếp ảnh hưởng   đến sự tái sinh. Cùng lý do này, những sự vướng mắc-chấp trước mạnh mẽ thì tự nó sinh khởi, từ đó một người sợ hải rằng tự người ấy đang trở nên không tồn tại (họ sợ rằng chết là hết, vì mối lo sợ ấy dẫn đến tái sinh ) . Sự chấp trước này phục vụ như sự liên kết đến trạng thái trung gian giữa những đời sống (thân trung ấm), sự ưa mến một thân hình, trong sự chuyển biến, hành động như một nguyên nhân thiết lập thân thể của sự tồn tại trung gian.

          Đối với những kẽ liên hệ mạnh mẽ với những hành động không đạo đức, sức nóng trước hết rút lui ở phần trên của cơ thể và rồi mới đến những phần khác; nhưng trái lại những ngươi liên hệ mạnh mẽ với những hành động đạo đức, sức nóng trước tiên rút lui ở chân. Trong cả hai trường hợp, sức nóng cuối cùng hội tụ tại tim, nơi mà ý thức xuất ra. Những phần nhỏ đấy của nguyên nhân, kết hợp tinh dịch và máu, dẫn đến điều mà ý thức ban đầu thâm nhập và bầu thai của bà mẹ tại lúc bắt đầu của đời sống, trở thành trung tâm của trái tim; và từ thời điểm vô cùng sớm đấy của nhận thức-sau rốt khởi hành tại sự chết.
           
          2-      TRẠNG THÁI TRUNG GIAN (TRUNG ẤM THÂN)

          Ngay lập tức sau đó, trạng thái trung gian bắt đầu- ngoại trừ những ai tái sinh trong thế giới không hình dáng-vô sắc giới cúa không gian vô tận (không vô biên xứ), nhận thức vô biên (thức vô biên xứ), vô sở hữu xứ hay tột đỉnh của vòng luân hồi (phi tưởng phi phi tưởng xứ), cho những ai kiếp sống mới bắt đầu lập tức ngay sau khi chết. Những kẽ sinh trong thế giới của khát ái và hình sắc bắt buộc phải qua một giai đoạn của trạng thái trung gian (trung ấm thân), trãi qua điều một chúng sinh có hình thể của con người như người ấy sẽ tái sinh. Chúng sinh trung ấm thân có tất cả 5 giác quan, nhưng cũng có thần thông và tính khiêm tốn kín đáo và khã năng đến ngay lập tức bất cứ nơi nào họ muốn đến. Người ấy thấy những chúng sinh trung ấm thân cùng loại với chính họ - địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nhân loại, a tu la hay chư thiên, và có thể thấy bằng thần thông.

          Nếu một vị trí để sinh thích hợp cho khuynh hướng của người ấy chưa tìm ra, một "cái chết nhỏ" sẽ xãy ra trong 7 ngày và người ấy sẽ sinh trong một thân trung ấm khác. Điều này có thể xãy ra tối đa sáu lần, với kết quả của thời điểm dài nhất dành cho trạng thái trung ấm là 49 ngày.
           
          3-      TÁI SINH

          Điều này có nghĩa rằng những chúng sinh, ngay cả chết sau một năm, báo cáo rằng họ không tìm ra một địa điểm sinh không trong trạng thái trung ấm nhưng đã sinh như một tâm linh.

          Nếu tái sinh như một con người, người ấy thấy bố và mẹ tương lai khi họ nằm chung với nhau. Nếu người ấy được sinh là nam, sự sinh này với cách nhìn khát ái với bà mẹ bao nhiêu thì ghét bỏ người bố bấy nhiêu-  điều trái ngược lại với người được sinh ra là nữ. Trong sự khao khát, người ấy lao đến nơi để dấn thân trong sự giao hợp, nhưng lúc đến đấy, người ấy chỉ thấy bộ phận sinh dục của người phối ngẫu. Điều này tạo nên sự giận dữ, điều ấy khiến chấm dứt trạng thái trung ấm và tạo nên liên kết với kiếp sống mới. Người ấy đi vào bào thai của bà mẹ và bắt đầu một cuộc sống con người. Khi tinh trùng người bố và máu của người mẹ phối hợp với  đời sống này hay ý thức, chúng từ từ một cách tự nhiên phát triển thành những yếu tố của con người.

          Người ấy bị hấp dẫn lôi cuốn một cách khao khát đến địa điểm sinh tương lai, ngay cả nếu nó là địa ngục. Thí dụ, một người đồ tể, có thể thấy con cừu trong khoảng cách khi trong mộng, trong sự lướt tới để giết chúng, sự kiện xuất hiện nhoà nhạt đi, khiến người ấy giận dữ, ngay lúc đó trạng thái trung ấm ngừng lại và kiếp sống trong địa ngục bắt đầu. Cũng vậy, như đã nói ở trước, những kẽ bị tái sinh trong địa ngục nóng bị hấp dẫn bởi sức nóng; và trong địa ngục lạnh thì với cái mát lạnh. Trạng thái trung ấm của một người bị tái sinh trong chiều hướng xấu thì tự nó rất khủng khiếp; và cuối cùng, họ xốc tới địa điểm tái sinh và , khi sự ao ước không đạt được, họ giận dữ, ngay sau đó trạng thái trung ấm dừng lại và kiếp sống mới bắt đầu.

          Sự liên kết với một kiếp sống, vì vậy, được tạo ra dưới ảnh hưởng của khát ái, thù hận, và u mê. Cho đến khi vượt thoát được những phiền não này, người ta bị trói buộc trong xiềng xích và không có tự do. Quả thực có những sự tái sinh tốt và xấu, nhưng, trong khi một người vẫn còn bị xiềng xích, người ấy phải mang gánh nặng của cả toàn bộ tâm lý và vật lý, những điều dưới sự ảnh hưởng của những hành động cấu nhiễm và phiền não. Điều này không phải được làm một lần, nhưng cứ lập đi lập lại không ngừng nghĩ.
          Để vượt thoát khổ đau của sinh, già, bệnh, và chết ;- khát ái, thù hận, và hổn loạn phải được vượt thoát. Gốc rễ của chúng là vô minh si ám u mê--- nhận thức tồn tại vốn gắn liền với con người và những hiện tượng khác. Thuốc men bên ngoài làm giảm bớt những khổ đau ở bề mặt, nhưng không thể chửa trị cốt lõi của vấn đề. Những sự thực hành nội tại thì hữu ích hơn---như là dùng đến những loại thuốc giải đặc trị đối với khát ái và thù hận, nhưng sự tác dụng của chúng thì tạm thời, tuy nhiên nếu một người có phá tan màn vô minh si ám u mê--gốc rễ của chúng--thì tất cả những phiền não theo chúng sẽ đồng thời dừng lại.

          Nếu vô minh si ám u mê được loại trừ, rồi thì những hành động cấu nhiễm tuỳ thuộc trên nó sẽ dừng lại.

          Xa hơn nữa, không có vô minh, sự bám chặc (chấp trước) và những xu hướng sản sinh bởi những hành động trước đây dừng mở rộng, ngay khi vòng luân hồi cuả tái sinh không kiểm soát chấm dứt.
          ---
          THIÊN KINH DIỆU NGHĨA TẬN TRI VÔ NHẤT TỰ
          ỨC KIẾP LUÂN HỒI LIỄU NGỘ BỔN LAI KHÔNG
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.02.2009 00:29:28 bởi tueuyen >
          #5
            tueuyen 04.02.2009 20:58:18 (permalink)
            0
            BỐN CHÂN LÝ CAO QUÝ
            His Holiness the Dalai Lama
            Tuệ Uyển chuyển ngữ
            ---
               Khi Đấng Đạo sư vĩ đại của hoàn vũ Phật Thích Ca lần đầu tiên thuyết giảng về giáo Pháp trên mãnh đất tôn quý Ấn Độ, Ngài đã dạy về bốn chân lý cao quý:  sự thật của khổ đau, nguyên nhân của khổ đau, sự chấm dứt khổ đau và con đường để chấm dứt khổ đau.  Từ ấy đến nay, nhiều quyển sách chứa đựng những bàn luận về bốn chân lý cao quý bằng Anh ngữ,  chúng (được biết nhiều là Bát chánh đạo) rất phổ biến.  Bốn chân lý này chứa đựng tất cả, bao gồm nhiều vấn đề trong ấy.
             
            Lưu tâm đến bốn chân lý cao quý một cách thông thường phổ biến và sự kiện là không ai trong chúng ta muốn khổ đau và tất cả chúng ta khao khát hạnh phúc, chúng ta có thể nói về một quả và một nhân của cả phương diện phiền não và phương diện giải thoát.  Những khổ đau thực sự và những nguyên nhân thực sự là quả và nhân trên những thứ mà chúng ta không muốn, sự chấm dứt thực sự và con đường đúng thực là tác động hiệu ứng và nguyên nhân trên những thứ mà chúng ta khao khát.
             
            SỰ THẬT VỀ KHỔ ĐAU
             
            Chúng ta trải qua kinh nghiệm nhiều loại khác nhau về khổ đau.  Tất cả bao gồm ba thứ:  khổ của khổ (khổ khổ, khổ của đổi thay (hoại khổ)và khổ lan tràn cùng khắp tất cả (hành khổ).
             
            Khổ của khổ liên hệ đến những thứ như nhức đầu và v.v và v.v…  Ngay cả những thú vật cũng có thể nhận biết loại khổ này và, giống như chúng ta, muốn thoát khỏi khổ đau đó.  Bởi vì hữu tình chúng sinh có sợ hải và kinh nghiệm không thoải mái từ những loại khổ này, chúng sinh dấn thân vào nhiều loại hành động khác nhau để xóa bỏ chúng.
             
            Khổ của đổi thay liên hệ đến những hoàn cảnh nơi chốn, thí dụ, chúng ta đang ngồi thư giản rất thoải mái và khởi đầu mọi thứ dường như tốt đẹp, nhưng sau một lúc chúng ta mất cảm giác ấy và trở nên áy náy không yên và không thoải mái.
             
            Trong những xứ sở nào đấy chúng  ta thấy một số lượng áp đảo của nghèo nàn và bệnh tật:  đó là những thứ khổ của loại một – khổ của khổ.  Mọi người nhận thức rằng đó là khi những điều kiện khổ đau được loại trừ và tiến bộ phát triển ở trên đấy.  Trong nhiều nước phương Tây, nghèo khổ có thể không là một vấn đề, nhưng chúng ta ở nơi có trình độ phát triển vật chất cao  có những vấn đề thuộc loại khác.  Thoạt tiên chúng ta có thể vui sướng vì vượt qua những vấn đề khó khăn mà chúng ta đối diện trước đây, nhưng chẳng bao lâu khi chúng ta giải quyết những vấn đề nào đấy, những khó khăn khác lại xuất hiện.  Chúng ta có hàng khối tiền của, vô vàn thực phẩm và nhà cửa đẹp đẻ, nhưng bởi chú trọng quá mức giá trị của những thứ này chúng cuối cùng chúng ta làm cho chúng trở nên vô giá trị.  Loại kinh nghiệm này là khổ của đổi thay.
             
            Một người nghèo khổ thuộc tầng lớp dưới có thể nghĩ rằng thật là tuyệt vời nếu có một chiếc xe hơi hay một truyền hình và nên làm thế nào kiếm được chúng, người ấy sẽ trước hết cảm thấy rất hạnh phúc và hài lòng.  Bây giờ đây, nếu những hạnh phúc như thế là thường tại, chỉ cần người ấy có xe hơi và truyền hình người ấy sẽ vẫn vui vẻ.  Nhưng vấn đề không như vậy, niềm hạnh phúc ấy sẽ qua đi.  Sau vài tháng người ấy muốn một loại xe khác, nếu có tiền, người ấy sẽ mua một truyền hình mới.  Những thứ củ kỷ, cùng những đối tượng đã từng cho người ấy biết bao vui thích hài lòng, giờ đây là nguyên nhân làm cho người ấy bất mãn.  Đó là tính tự nhiên của đổi thay, vô thường; đó là vấn nạn của khổ đau thay đổi, vô thường.
             
            Khổ đau lan tràn cùng khắp là loại khổ đau thứ ba.  Nó gọi là khổ đau làn tràn cùng khắp, khổ đau pha lẫn phức hợp đa phương, bởi vì nó hoạt động như căn bản của hai thứ trước.
             
            Có thể có những người, ngay cả ở những xứ sở phát triển, muốn được giải thoát khỏi thứ khổ đau thứ hai, khổ đau của thay đổi, vô thường.  Chán nản với những cảm xúc nhiễm ô, họ tìm những cảm giác thư thái, thanh thản, tĩnh lặng, điều này có thể hướng dẫn đến tái sinh trong những thế giới vô sắc tướng, không có hình dáng rõ rệt, chỉ có những cảm xúc như thế.
             
            Giờ đây, khao khát giải thoát khỏi hai loại khổ đau đầu tiên không phải là động cơ chính để tìm kiếm sự giải thoát (từ thế giới luân hồi); Đức Phật dạy rằng gốc rể của ba loại khổ đau là loại thứ ba: khổ đau lan tràn cùng khắp.  Một số người muốn tự tử; họ nghĩ rằng có khổ đau đơn giản chỉ vì có đời sống con người và bằng sự chấm dứt đời sống thì sẽ không còn gì nữa.  Điều thứ ba này, lan tràn cùng khắp, khổ đau dưới sự điều khiển của nghiệp quả và tâm phiền não vọng tưởng.  Chúng ta có thể thấy, ngoại trừ tư duy sâu sắc, rằng đây là dưới sự điều khiển của nghiệp quả và tâm phiền não vọng tưởng của đời sống trước, hay tiền kiếp:  giận tức và vướng mắc, chấp trước khởi lên đơn giản chỉ vì chúng ta có cái tập hợp này hiện hữu.  Tích tập phức hợp những hiện tượng giống như một khả năng cho chúng ta sản sinh nghiệp chướng và những tâm phiền não vọng tưởng; đó gọi là nhận lấy một vùng xấu.  Bởi vì rằng những hình thức nào liên hệ đến việc tiếp xúc một vùng xấu của tâm phiền não vọng tưởng và bị dưới sự điều khiển của chúng, nó hổ trợ sự sản sinh những tâm phiền não và ngăn trở chúng ta với đạo đức.  Tất cả những khổ đau của chúng ta có thể truy nguyên đến những tích tập của chấp trước, bám víu và vướng mắc.
             
            Có thể, khi chúng ta nhận thấy rằng những tích tập của chúng ta là nguyên nhân của tất cả những khổ đau của chúng ta, chúng ta có thể nghĩ rằng tự tử là con đường để thoát khỏi khổ đau hiện tại.  Thôi được, nếu không có sự tiếp diễn của tâm, không có đời sống tương lai, tốt đấy – nếu chúng ta có can đảm chúng ta có thể tự chấm dứt đời sống tức thì.  Nhưng theo quan điểm của Đạo Phật, điều đó không phải như thế,  ý thức của chúng ta sẽ tiếp tục.  Ngay cả nếu chúng ta tự kết liễu đời sống của chính mình, kiếp sống này, chúng ta sẽ tiếp nhận một thân thể khác và một lần nữa nó sẽ là cơ sở của khổ đau.  Nếu chúng ta thực sự muốn lìa xa tất cả mọi khổ đau, tất cả những khó khăn mà chúng ta trải qua trong đời sống hiện tại, chúng ta phải gạt bỏ được nguyên nhân căn bản, điều đã cho phép hưng khởi những tích tập  căn bản của tất cả khổ đau.  Giết hại chính mình không đi đến giải quyết những vấn đề của chính ta.
             
            Bởi vì đúng như thế, bây giờ đây chúng ta phải khảo sát nguyên nhân của khổ đau: có một nguyên nhân hay không?  Nếu có, nguyên nhân nào là nó: một nguyên nhân tự nhiên , điều không thể bị xóa bỏ, hay một nguyên nhân lệ thuộc trên chính nguyên nhân của nó và vì vậy có thể loại trừ?  Nếu có một nguyên nhân có thể vượt qua, là có thể cho chúng ta vượt thắng nó chứ?  Vì vậy chúng ta qua đến sự thật thứ hai, chân lý về nguyên nhân của khổ đau.
             
            SỰ THẬT VỀ NGUYÊN NHÂN CỦA KHỔ ĐAU
             
            Phật tử nhớ rằng không có một đấng tạo hóa ngoại tại và mặc dù Đức Phật là một Đấng tối thượng, ngay cả một Đức Phật cũng không có năng lực tạo nên đời sống mới.  Vì vậy, bây giờ đây, điều gì là nguyên nhân của khổ đau?
             
            Một cách phổ quát, nguyên nhân căn bản là tâm; tâm bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng tiêu cực như giận tức, chấp trước, vướng mắc, ghen tỵ v.v… và v.v…là nguyên nhân chính của SINH và tất cả những vấn đề như thế.  Tuy nhiên, không có một khả năng nào tự chấm dứt tâm, làm gián đoạn dòng lưu chuyển ý thức.  Xa hơn nữa, không có gì sai trong bản chất chiều sâu của tâm, nó chỉ đơn giản là bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng tiêu cực.  Vì vậy, câu hỏi là chúng ta có thể hay không có thể tranh thủ và giành quyền kiểm soát  đối với giận tức, chấp trước, vướng  mắc và những tâm thức phiền não tiêu cực khác.  Nếu chúng ta nhổ tiệt gốc những thứ đó, chúng ta sẽ chỉ còn lại với một tâm tinh khiết giải thoát khỏi những nguyên nhân của khổ đau.
             
            Điều này đưa chúng ta đến với những tâm thức phiền não tiêu cực, đó là những nhân tố tinh thần.  Có nhiều phương thức khác nhau hiện hữu để luận giải về tâm, nhưng, thông thường, tâm tự nó là những gì đơn thuần trong sáng và tỉnh giác.  Khi chúng ta nói năng trong thái độ phiền não bối rối như giận tức và chấp trước, chúng ta phải thấy chúng có thể ảnh hưởng và làm nhiễm ô tâm như thế nào; sự kiện là, điều gì là tính tự nhiên của chúng?  Thế thì, đây là những luận giải về nguyên nhân của khổ đau.
             
            Nếu chúng ta hỏỉ những dính mắc, chấp trước và giận tức khởi lên như thế nào?  Câu trả lời là chúng chắc chắn được hổ trợ bởi sự tham đắm những thứ vốn thực sự đúng là của chúng ta.  Thí dụ, khi chúng ta giận tức với những điều gì đấy, chúng ta cảm nhận rằng đối tượng ở ngoài đó, chắc chắn, thật sự và không gá ghép, và tự chúng ta giống như những gì chắc thật và có thể tìm thấy.  Trước khi chúng ta giận tức,  đối tượng xuất hiện bình thường, nhưng khi tâm thức ta bị tác động bởi giận dữ, đối tượng lại được thấy là xấu xa,  hoàn toàn ghê tởm, đáng ghét; những gì đấy chúng ta muốn thoát khỏi lập tức – nó xuất hiện thật sự để hiện hữu trong cách ấy: chắc thật, độc lập và rất là không hấp dẫn.  Điều xuất hiện ấy của “sự thật xấu xa” đổ dầu vào lửa giận của chúng ta.  Tuy vậy khi chúng ta thấy cùng đối tượng ấy ngày hôm sau, khi sự giận tức của ta đã tàn lụi, nó dường như xinh đẹp hơn ngày trước đấy; cùng đối tượng nhưng dường như nó không tệ như vậy.  Điều này chỉ cho thấy rằng giận tức và dính mắc đã ảnh hưởng thế nào bởi sự bám víu của chúng ta vào những thứ như hiện hữu thật sự và  không thuộc tính.
             
            Vì vậy, luận giải triết học Con đường Trung đạo (trung quán luận) tuyên bố rằng gốc rể của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực bám víu lấy sự tồn tại thực hữu; điều này hổ trợ chúng và đưa chúng đến hành động; rằng tâm thức si mê bám víu những thứ như tồn tại cố hữu,  thật sự hiện hữu là nguồn gốc căn bản của tất của những khổ đau của chúng ta.  Căn cứ trên sự bám víu này như sự tồn tại thực sự chúng ta phát triển tất cả những thứ tâm thức phiền não tiêu cực và tạo nên vô số nghiệp nhân tiêu cực.
             
            Học giả Ấn Độ Chandrakirti, một trong những đại biểu quan trọng của trường phái Trung Ðạo vào thế kỷ thứ tám, ông đã có ảnh hưởng rất lớn trong việc truyền bá trường phái Trung Ðạo vào đất Tây Tạng. Trong tác phẩm Nhập Trung Đạo [Madhyamakavatara] ông nói rằng, đầu tiên có sự dính mắc vào tự thân, điều rồi thì đi theo bởi sự bám víu những thứ, những việc và trở nên dính mắc với chúng như “cái của tôi”. Trước tiên có một “cái tôi” rất chắc thật, độc lập; nó rất lớn -  lớn hơn mọi thứ khác, đây là cơ sở.  Từ điều này dần dần đến “đây là của tôi; đây là của tôi; đây là của tôi”. Rồi thì “chúng tôi, chúng tôi, chúng tôi”. Rồi, do bởi sự chọn lựa phía này, đến “những kẻ khác, kẻ thù của chúng ta”.  Đối với “cái tôi” và “cái của tôi”, sự dính mắc khởi lên.  Đối với ông ấy, bà ấy và họ, chúng ta cảm thấy có khoảng cách và giận tức, rồi thì ganh tỵ và tất cả những cảm giác ganh đua khởi lên.  Vì vậy, cuối cùng, vấn đề là: đây là cảm giác của “tôi” – không đơn thuần “cái tôi” nhưng “cái tôi” với điều mà chúng ta trở nên bị ám ảnh.  Điều này cho phép khởi lên giận dữ và tức tối, cùng với những lời nói cay nghiệt độc ác và tất cả những biểu lộ vật lý của ác cảm và thù ghét.
             
            Tất cả những hành động tiêu cực này (của thân, miệng và ý) tích lũy nghiệp xấu . Giết hại, trộm cắp, và tất cả những hành động tiêu cực cũng là kết quả từ những động cơ xấu hay bất thiện.  Ở cấp độ thứ nhất là tinh thần thuần túy, những tâm thức tiêu cực; cấp độ thứ hai những tâm thức tiêu cực biểu lộ chính chúng trong những hành động, nghiệp.  Lập tức không khí bị nhiễu loạn, quấy rầy, mất yên tĩnh.  Với giận tức, thí dụ, không khí trở nên căng thẳng, mọi người cảm thấy không thoải mái, bứt rứt, khó chịu.  Nếu ai đấy trở nên giận dữ, điên tiết, những người hòa nhã, lịch thiệp cố gắng tránh xa người đó.  Cuối cùng, người giận dữ cũng cảm thấy bối rối, ngượng ngịu và xấu hổ vì đã nói tất cả những thứ vô lý, ngớ ngẩn, lố bịch, bất cứ điều gì thoáng qua tâm tư người ấy.  Khi chúng ta tức giận, không có không gian cho tình lý hay lý trí, người ấy trở nên thật sự cuồng dại.   Sau đấy, khi tâm tư ta trở lại bình thường, chúng ta cảm thấy xấu hổ. Không có gì tốt đẹp với giận dữ, tức tối và dính mắc, chấp trước; không có gì kết quả tốt đẹp từ đấy.  Chúng có thể khó khăn để kiểm soát, nhưng mọi người có thể nhận thấy rằng không có gì tốt đẹp về chúng.  Thế thì, điều này là sự thật chân lý thứ hai.  Bây giờ đây, câu hỏi đề ra là những loại tâm thức tiêu cực này có thể hay không thể loại trừ hay chuyển hóa.
             
            CHÂN LÝ VỀ SỰ CHẤM DỨT KHỔ ĐAU
             
            Gốc rể cuả tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.  Vì vậy, chúng ta phải khảo sát tâm thức chấp trước này là đúng hay nó bị thiên kiến, bóp méo, lệch lạc và nhìn những sự kiện sai lầm.  Chúng ta có thể làm việc  này bằng sự khảo nghiệm làm thế nào để những sự kiện nó được quán sát, lĩnh hội, nhận biết hiện hữu một cách đúng thực như nó là.  Tuy nhiên, vì rằng tâm thức này tự nó không thể nhận biết hoặc là nó thấy rõ những đối tượng một cách đúng thực hay không, chúng ta phải dựa trên một loại tâm thức khác.  Nếu, trên sự khảo sát, chúng ta khám phá nhiều phương thức giá trị khác để quán sát những thứ, sự kiện, sự vật và rằng tất cả những thứ mâu thuẫn hay phủ định này (phương cách mà tâm thức chấp thủ hay dính mắc với  chân lý hiện  hữu) nhận định hay lĩnh hội những đối tượng của nó, chúng ta có thể nói rằng tâm thức này không thấy thực tại.
             
            Vì vậy,  với tâm thức có thể phân tích nguyên tắc cơ bản, chúng ta phải cố gắng để quyết định hoặc là tâm thức chấp trước những sự kiện có thể khám phá thực sự là đúng hay không.  Nếu nó là đúng, tâm thức phân tích có thể cuối cùng tìm ra những sự kiện chấp trước. Duy tâm luận [Cittamatra], hay Duy thức luận, và đặc biệt là, Trung quán luận chứa đựng nhiều đoạn nghị luận của sự tiến hành những khảo nghiệm như thế .  Theo những điều này, khi chúng ta khảo sát để thấy hoặc là tâm thức chấp trước sự việc như vốn đã khám phá là đúng hay không, chúng ta thấy rằng nó không đúng, rằng nó bị bóp méo, thiên lệch – chúng ta không thể thật sự tìm thấy những đối tượng tại điều nó chấp trước, níu lấy.  Vì lẽ tâm thức này bị đánh lừa bởi đối tượng của nó và nó phải được loại trừ.
             
            Vì vậy. qua khảo nghiệm chúng ta thấy không có giá trị hổ trợ cho tâm thức chấp trước nhưng chúng ta tìm thấy một sự hổ trợ của sự suy luận hợp lý cho tâm thức, tâm mà nhận thấy rằng tâm thức chấp trước không có giá trị.  Trên mặt trận tâm linh, tâm thức được hổ trợ bởi sự hợp lý (logic) thì luôn luôn thắng lợi trước tâm thức không có sự hổ trợ hợp lý.  Sự hiểu biết rằng không có sự kiện như những cấu trúc tồn tại thật sự có thể tìm thấy trong tính tự nhiên trong suốt sâu thẩm của tâm; tâm thức chấp trước những sự kiện khi sự thực có thể khám phá là cạn cợt trên bề mặt và thoáng qua.
             
            Khi chúng ta loại trừ những tâm thức phiền não tiêu cực, nguyên nhân cuả tất cả khổ đau, chúng ta cũng loại bỏ được khổ đau như vậy.  Đây là sự giải thoát, hay sự chấm dứt khổ đau; chân lý cao quý thứ ba.  Vì lẽ nó có thể đạt đến điều này, giờ đây, chúng ta phải  xem xét đến phương pháp.  Điều này đưa chúng ta đến chân lý cao quý thứ tư.
             
            CHÂN LÝ VỀ CON ĐƯỜNG CHẤM DỨT KHỔ ĐAU
             
            Khi chúng ta nói về những con đường thông dụng của ba thừa Đạo Phật – Tiểu thừa, Đại thừa và Kim cương thừa – chúng ta liên hệ đến ba mươi bảy nhân tố hay 37 phẩm trợ đạo, điều đưa đến giác ngộ.  Khi chúng ta nói một cách đặc biệt đến những con đường của bồ tát thừa [Mahayana] chúng ta liên hệ đến mười trình độ (thập địa) và sáu siêu việt toàn hảo (lục ba la mật).
             
            Chúng ta thấy sự thực hành của Theravada Thượng tọa bộ thông dụng hầu hết ở Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan,v.v…Nơi đây, hành giả được thúc đẩy bởi sự khát khao đạt đến giải thoát từ chính sự khổ đau của họ.  Quan tâm cho chính họ đơn độc, họ thực hành ba mươi bảy yếu tố giác ngộ, điều này liên hệ đến năm con đường:  tứ chính cần (con đường cận tiến), tứ như ý túc và tứ niệm xứ (con đường tích lũy), ngủ căn và  ngủ lực (con đường chuẩn bị), thất giác chi (con đường quán sát) và bát chính đạo (con đường thiền định).  Trong phương  pháp này, họ có thể hoàn toàn chấm dứt những tâm thức phiền não tiêu cực và đạt đến sự giải thoát cá nhân.  Đây là con đường và kết quả của Thinh văn giác.
             
            Quan tâm chính của những hành giả đạo Phật phát triển  là không chỉ vì sự giải thoát của chính họ, nhưng là sự giác ngộ vì tất cả chúng sinh.  Với động cơ của tâm giác ngộ hay tâm bồ đề - con tim của họ, thâm tâm của họ được khuyến tấn, đề khởi đạt đến sự giác ngộ với một ý niệm tuyệt hảo để hổ trợ những người khác – những hành giả này thọ trì sáu siêu việt toàn hảo và tiến trình dần dần qua mười trình độ cuả bồ tát  cho đến khi người ta hoàn toàn vượt thắng cả những loại chướng ngại và đạt đến giác ngộ tối thượng của Phật quả.  Đây là con đường và kết quả của đạo Phật phát triển.
             
            Căn bản thiết yếu của thực hành sáu siêu việt toàn hảo là sự kết hợp của phương pháp và tuệ trí vì vậy hai thân giác ngộ - sắc thân và pháp thân – (rupakaya  và dharmakaya) có thể đạt đến. Vì lẽ họ có thể đạt đến chỉ cùng một lúc, những NHÂN của họ phải được tu dưỡng phát triển cùng một lúc.  Vì vậy, tổng hợp chúng ta phải xây dựng lên một kho tàng công đức – như là NHÂN của sắc thân, thân thể sắc tướng (rupakaya  ) -và một kho tàng của sự tĩnh giác thâm sâu  hay sự hiểu thấu sáng suốt bên trong- như là NHÂN của pháp thân (dharmakaya), thân thể của tuệ trí.  Trong Ba la mật thừa (Paramitayana, hay  Kinh thừa, Toàn thiện thừa), chúng ta thực hành phương pháp được hiểu thấu bởi tuệ trí và tuệ trí được hiểu thấu bởi phương pháp,  nhưng trong Kim cương thừa chúng ta thực hành phương pháp và tuệ trí như là một trong tính tự nhiên.
             
            ---
             
            LẮNG TRONG TỰ TÍNH, NĂNG ĐOẠN NÃO PHIỀN, VUNG GƯƠM TRÍ TUỆ.
            NGHE TIẾNG THÂM TÂM, BAN NIỀM VÔ UÝ, PHẤT PHƯỚN TỪ BI.
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.02.2009 00:31:00 bởi tueuyen >
            #6
              tueuyen 09.02.2009 00:56:58 (permalink)
              0

               
              TÌM MỘT NƠI TRÚ ẨN NỘI TẠI
              SEEKING AN INNER REFUGE

              HH. the Dalai Lama - Tuệ Uyển chuyển ngữ
              ---
               
              MỤC TIÊU CỦA ĐẠO PHẬT
               
              Theo quan điểm của đạo Phật, tâm của những người bình thường thì yếu đuối và bị bóp méo do bởi vọng tưởng và những xúc tình mà nó chứa đựng.  Như một kết quả, chúng ta không thể thấy những sự vật, sự kiện như chúng thực sự hiện hữu, những gì chúng ta thấy chỉ là những hình ảnh hay quan điểm đã bị đóng khuôn hay bóp méo và định nghĩa bởi chính cảm tình hay thành kiến của chúng ta.
              Mục tiêu của đạo Phật là để lìa xa những sự bóp méo, thiên kiến hay đóng khuôn của tâm và vì vậy thuận tiện cho những nhận thức giá trị hưng khởi.  Cho đến khi nào chúng ta chưa nhổ được gốc rể của những vọng tưởng,  nhận thức của chúng ta vẫn duy trì sự nhiễm ô; khi chúng ta tịnh hóa chúng thì chúng ta thể nhập vào trạng thái luôn luôn trực nhận thực tại như nó là.  Rồi thì, bởi vì tâm chúng ta vốn là hiện hữu trong tuệ trí toàn hảo và giải thoát, thân và khẩu chúng ta tự động hành xử trong những phương hướng thiện hảo, lành mạnh, tráng kiện.  Điều này không chỉ lợi ích cho chúng ta mà cũng cho những người khác, cho cả đời sống hiện tại và những đời sống tiếp theo trong tương lai.  Vì vậy, đạo Phật được cho là một con đường không đơn thuần là tín ngưỡng mà cũng là một thành phần của lý trí và tri thức.
               
              LÀM THẾ NÀO ĐỂ HỌC PHẬT
               
              Người Tây Tạng may mắn được sinh ra trong một xã hội nơi tri thức tâm linh cả thuận lợi sẵn sàng lẫn được đề cao giá trị.  Đã được sinh trưởng trong một xã hội giàu có về tâm linh như thế thì chúng ta có thể thụ hưởng gia tài tâm linh ấy, không nhiều thì ít.  Chính Đức Phật đã từng nói rằng: “Hãy thử nghiệm lời ta nói như người thợ kim hoàn thử vàng trước khi chấp nhận nó”.  Đức Phật đã dạy mọi người của tất cả mọi chủng tính và mọi trình độ hiểu biết trong một thời gian dài.  Bởi vậy cho nên, mỗi lời Phật dạy phải chứa đựng đầy đủ một cách cẩn thận những ý nghĩa và giá trị để quyết định hoặc nó là giáo nghĩa chân thật hay chỉ là biểu tượng ẩn dụ vậy.  Nhiều lời dạy được tuyên thuyết trong những trường hợp đặc biệt  hay được biểu lộ trong những sự hiểu biết giới hạn.  Chấp nhận bất cứ một giáo thuyết nào hay một quan điểm nào mà không trước hết nghiên cứu phân tích nó một cách cẩn thận thì giống như xây dựng một lâu đài trên băng tuyết – sự thực hành sẽ không vững chắc kiên định và thiếu vắng căn bản của chiểu rộng lẫn chiều sâu.
               
              SỰ THỰC HÀNH GIÁO PHÁP
               
               “Sự thực hành giáo pháp” nghĩa là gì?  Nghĩa đen được dịch, có nghĩa " những sự cầm giữ nào đấy "; hay là sự thọ trì;  pháp là tâm linh giáo nghĩa là điều gìn giữ và hướng dẫn chúng ta vượt thoát khổ đau.  Đạo Phật quả quyết rằng tại một thời điểm mà tâm chúng ta bị bao trùm bởi năng lực của vọng tưởng phiền não và ảo ảnh thiên lệch,một cách căn bản có một phương diện của tâm là thanh tịnh bản nhiên và không nhiễm ô, và bởi sự phát triển sự thanh tịnh này và tẩy xóa những sự lu mờ u ám của tinh thần, chúng ta được ngăn lại hay tách rời với khổ đau và những kinh nghiệm không hài lòng.
               
              Đức Phật đã dạy về tiềm năng thanh tịnh của tâm như giáo nghĩa căn bản của Đạo Phật, và Pháp Xứng* (Dharmakirti), một luận sư Ấn độ xuất hiện một thiên niên kỷ sau, đã đề xuất một cách hợp lý giá trị của nó.  Khi hạt giống giác ngộ này được phát triển một cách đầy đủ thích đáng, chúng ta thể nhận kinh nghiệm của niết bàn, ngài Pháp Xứng đã làm cho có giá trị một cách hợp lý toàn bộ hình ảnh phổ quát của giáo nghĩa đạo Phật, kể cả luật nghiệp báo, nhận thức tái sinh, khả năng giải thoát và sự toàn thiện, toàn hảo, toàn trí, tính bản nhiên của ba điều quý báu hay tam bảo: Phật, Pháp và Tăng.
               
              Để cho phương thức thực hành thực tế, thật là sai lầm khi thọ trì mà không có một sự hiểu biết tương ứng hợp lý về giáo thuyết.  Chúng ta phải nên biết rõ ràng chúng ta đang làm gì và tại sao, đặc biệt những ai trong chúng ta là nam nữ tu sĩ và đã nguyện cống hiến trọn đời mình để thực hành giáo pháp; chúng ta nên thận trọng một cách đặc biệt để thực hành một cách toàn thiện.  Tăng già rất quan trọng cho sự ổn định bền bỉ của giáo thuyết, vì vậy, chúng ta nên hành động một cách tuyệt hảo, tích cực nhất để noi gương chính đức Phật.  Những ai quan tâm đến đời sống xuất gia nên trước hết suy tính rõ ràng; không cần thiết để trở nên một tu sĩ chỉ là một tu sĩ thấp kém.  Tăng già có trách nhiệm để biểu hiện hiển lộ giáo nghĩa và giới luật.  Nếu muốn hướng đến một đời sống bình thường, hãy để đời sống tự viện cho những ai thiên về tâm linh mạnh mẻ to lớn hơn và đơn giản hành trì như một cư sĩ thật tốt như chúng ta có thể làm.
               
              Tất cả những tôn giáo trên thế giới giống nhau trong điểu là chúng cung cấp những phương pháp để phát triển những khía cạnh tích cực,bổ ích, lành mạnh của tâm linh và trừ khử những thứ tiêu cực, độc hại, bệnh hoạn.  Đạo Phật là một tôn giáo phong phú một cách đặc biệt bởi vì được phát triển ở Ấn Độ khi xứ sở này ở vào thời cao điểm của tâm linh và triết lý, nó giới thiệu hoàn toàn cả một phạm vi của những quan điểm tâm linh lẫn một cách tiếp cận hợp lý tới những phương pháp của sự phát triển tâm linh.  Điều này đặc biệt quan trọng trong kỷ nguyên hiện đại, khi tâm thức lý trí được gởi gắm một niềm tin như thế.
               
              Vì khía cạnh lý trí này, đạo Phật đã chỉ có một ít khó khăn khi đối diện với thế giới hiện đại.  Quả vậy, nhiều khám phá của khoa học hiện đại, như vật lý nguyên tử, điều được xem như là những khám phá mới, đã từng được bàn luận trong kinh điển đạo Phật từ lâu xưa.  Bởi vì Đức Phật dạy những đệ tử trong Di giáo rằng, không nên chấp nhận bất cứ điều gì bằng sự tin tưởng tín ngưỡng đơn thuần, mà chỉ khi qua khảo sát hợp lý của lý trí.  Thế giới của đạo Phật luôn luôn xem xét để giữ gìn tâm linh thẩm sát rất sống động trong phạm vi của nó.  Điều này không giống như nhiều những tôn giáo khác, điều này đòi hỏi trên sự thật hay chân lý và vì vậy không bao giờ cho phép bất cứ một loại thẩm sát nào dường như đe dọa sự diễn tả giới hạn thực tại.
               
              BA NƠI NƯƠNG TỰA TÔN QUÝ
               
              Cho dù bạn có là một Phật tử hay không được quyết định do bởi bạn quy y ba ngôi tôn quý – Phật, Pháp và Tăng - hay không, một cách thuần túy, từ trong chiều sâu của con tim của chúng ta.  Đơn giản tụng kinh, lần chuỗi hay đi kinh hành chung quanh chùa viện không làm cho chúng ta trở thành một người Phật tử.  Ngay cả con khỉ có thể được dạy để làm những việc ấy.  Giáo Pháp là vấn đề của tâm và tinh thần, không phải là những hành động bên ngoài.  Vì vậy, để là một Phật tử, chúng ta phải hiểu chính xác thế nào là “Nương tựa ba ngôi tôn quý” và sự liên hệ của Tam quy với đời sống tâm linh.
               
              Với sự tôn kính nương tựa nơi Phật bảo, chúng ta nói về NHÂN quy y Phật – tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai, bậc thích đáng thiết yếu nhất với chúng ta là Phật Thích Ca – và QUẢ quy y Phật – nương tựa nơi khả năng giác ngộ của chính chúng ta, Đức Phật mà mỗi chúng ta sẽ trở thành. Khi quy y Pháp bảo, nương tựa nơi giáo pháp, nương theo lời Phật dạy, có giáo nghĩa được tuyên thuyết trong kinh điển và điều tâm linh thực chứng theo những gì đã được dạy.  Và cuối cùng, chúng ta quy y Tăng bảo, cả phàm Tăng, nam nữ tu sĩ, những người là biểu tượng của Tăng già, và những Thánh Tăng -  đấy là những người đã đạt được kinh nghiệm thiền định tối thượng kiểu mẫu của chân lý.  Vì vậy, chúng ta nói rằng Phật bảo là thầy, giáo Pháp là con đường, và Tăng già là cộng đồng tâm linh hổ trợ.
               
              Trong ba điều này, quan trọng nhất đối với chúng ta như những điều độc đáo riêng biệt là giáo Pháp, một cách tối thiết yếu chỉ chúng ta mới có thể giúp ích, hổ trợ, cứu độ chính chúng ta – không ai khác có thể hoàn thành hay thực hiện giác ngộ hay ban cho chúng ta điều ấy.  Giác ngộ chỉ đến với những người thực hành giáo Pháp một cách toàn hảo, những ai đem giáo Pháp và áp dụng nó để phát triển tâm linh của người ấy liên tục lớn mạnh.  Vì vậy, trong ba điều tôn quý, giáo Pháp là sự nương tựa hay quy y căn bản tối thượng.  Bằng sự lắng nghe, tư duy và thiền định qua giáo Pháp đời sống chúng ta có thể trở thành một với Pháp, với lời Phật dạy và giác ngộ một khả năng trực tiếp gần nhất.
               
              NGHIỆP
               
              Tất cả những bậc đạo sư Kadampa vĩ đại trong quá khứ nhấn mạnh rằng quy y phải được thực hành trong giáo điển với một sự tỉnh giác nhiệt thành mạnh mẻ trong luật nhân và quả; nó đòi hỏi phải quán chiếu luật nghiệp báo như một sự hổ trợ cho việc thực hành.  Đức Phật đã nói rằng: “Chúng ta là người hộ vệ chính chúng ta và là kẻ thù của chính chúng ta”.  Đức Phật không thể bảo vệ chúng ta; chỉ sự quán chiếu luật nghiệp báo của chính chúng ta mới có thể bảo vệ chúng ta.  Nếu chúng ta giữ gìn sự quy y của chúng ta một cách thuần khiết và sống phù hợp nhất trí với nghiệp, chúng ta trở thành người hộ vệ chính chúng chúng ta; nếu không,  nếu chúng ta sống trong một phương thức trái ngược với con đường tâm linh, chúng ta trở thành kẻ thù tệ hại nhất của chúng ta, tổn hại chính chúng ta trong những kiếp sống hiện tại và tương lai.
               
              Tâm của người thường hay phàm phu thì vô kỷ cương, vô tổ chức, không có khuôn phép, không thể kiểm soát.  Để thể nhập vào những  sự thực hành Phật Pháp cao hơn, như thiền định tam muội (Samadhi), tuệ trí thể nhập tính không hay những phương pháp yoga của nhiểu hệ thống tantra mật tông, chúng ta phải trước hết phát triển một tâm thuần hóa kỷ luật, một tâm được điều khiển kiểm soát.  Trên căn bản của sự quy y nương tựa và kỷ cương nể nếp tự tâm chúng ta phát triển một cách dễ dàng những kinh nghiệm gia tăng liên tục trong những thực hành giáo Pháp cao hơn nhưng nếu không có nền tảng của kỷ cương khuôn phép nội tâm hay điều tâm những thực tập cao hơn sẽ không đạt được kết quả.
               
              NÂNG CAO THỰC HÀNH
               
              Tất cả chúng ta muốn thực hành những kỷ năng cao nhất nhưng trước hết chúng ta phải tự hỏi chính mình rằng chúng ta đã quán triệt hay vượt qua những điểu kiện đòi hỏi thấp hơn chưa, như kỷ cương tự tâm hay điều tâm chẳng hạn.  Tập trung vào sự quy y là để chuyển hóa một phàm nhân thành một vị Phật; khi điểu này được hoàn toàn mục tiêu của quy y cũng hoàn thành.  Thời điểm tâm chúng ta trở thành Phật, từ ngữ chúng ta trở thành Pháp và thân thể chúng ta là Tăng.  Tuy nhiên, đạt đến địa vị này tùy thuộc vào sự thực hành giáo Pháp của chính chúng ta.  Xa rời sự thực hành hay để người khác thực hành trong khi nguyện cầu, hy vọng những lợi ích tâm linh cho chính mình là một mơ mộng hảo huyền không tưởng.
               
              Để tịnh hóa tâm thức nghiệp cảm và tri giác sai lầm và để phát triển những phẩm chất giác ngộ trong dòng suối hữu tình chúng sinh của chính mình, chúng ta phải tự mình thực hành những tiến trình tu tập và kinh nghiệm những trạng thái tâm linh.  108 quyển lời Phật dạy được dịch sang tiếng Tây Tạng có một đề tài chính yếu là:  tịnh hóa tâm và phát sinh những phẩm chất nội tại.  Không nơi nào nói rằng những ai khác sẽ làm điều này cho chúng ta.  Vì vậy, trong một con đường, trong một phương pháp, những Đức Phật phần nào đó bị giới hạn – các Đức Phật có thể giải thoát chúng ta chỉ trong ý nghĩa của sự truyền cảm hứng, chuyển năng lượng để chúng ta tu tập thực hành lời dạy của các Ngài.  Vô số các Đức Phật đã thành trước giờ những chúng ta vẫn hiện đang ở trong vòng sinh tử luân hồi.  Điều này không phải những Đức Phật thiếu lòng từ bi với chúng ta nhưng bởi vì chúng ta không thể thực hành lời dạy của các Ngài.  Sự tiến bộ cá nhân trên con đường tâm linh tùy thuộc vào những tác động ảnh hưởng của tự chính những cá nhân ấy.
               
              MƯỜI HÀNH ĐỘNG ĐẠO ĐỨC
               
              Tiến trình tự phát triển có nhiều trình độ.  Tuy vậy,với những người bắt đầu,  sự cần thiết trước nhất là tránh xa mười hành động không đạo đức và quán chiếu ngược lại chúng, mười hành động đạo đức. 
              Ba trong mười hành động này là vật lý, thuộc về thân:  thay vì giết hại chúng nên tôn trọng và yêu mến sự sống; thay vì trộm cắp chúng ta nên bố thí ban cho những gì có thể để giúp đở người khác; và thay vì tà dục hay ngoại tình chúng ta nên tôn trọng cảm xúc của người phối ngẫu. 
              Bốn hành động quan tâm đến ngôn ngữ hay lời nói: thay vì nói dối chúng ta nên nói sự thật;  thay vì những nguyên nhân làm mất hòa hiệp bằng những lời vu khống, phỉ báng người khác chúng ta nên can đảm  đạo đức bằng cách nói về những phẩm chất tốt đẹp của họ; thay vì nói năng cay nghiệt, chỉ trích gay gắt từ ngữ chúng ta nên dịu dàng, lịch sự và yêu thương; và thay vì những lời tráo trở bất nghĩa chúng ta nên liên hệ đến những hành động đầy ý nghĩa.
               
              Cuối cùng, ba trong mười hành động quan tâm đến tâm: chúng ta nên thay thế vướng mắc bằng sự không vướng mắc; ý chí bệnh hoạn trước những người khác bằng những cảm xúc yêu thương và từ bi; và những tin tưởng sai lầm bằng những thái độ thực tế.
               
              Mỗi người Phật tử nên thực tập theo mười nề nếp căn bản này còn gọi là thập thiện giới.  Không thực hiện như thế trong khi dấn thân vào điều gọi là những phương pháp tantra mật tông cao hơn đơn giản chỉ là tự đùa cợt hay dại dột với chính mình.  Mười điều này là những thực tập, quán chiếu đơn giản mà mỗi người có thể làm theo, tuy nhiên chúng là những bước  đầu tiên cho bất cứ ai muốn thực hiện đối với những yoga đầy năng lực sẽ mang đến giác ngộ trong một đời sống.
               
              Khi chúng ta thọ nhận quy y, là thể nhận nơi an trụ, hay tiếp nhận nơi trú ẩn và trở thành một Phật tử chúng ta nên vinh danh gia đình của những Đức Phật.  Liên hệ trong bất cứ điều nào của mười điều không đạo đức – thập bất thiện nghiệp – sau khi quy y là làm hổ thẹn đạo Phật.  Không ai yêu cầu chúng ta phải trở thành Phật tử, chúng ta là Phật tử bởi vì chúng ta lựa chọn để trở thành.  Vì vậy, chúng ta nên định tính phẩm chất chính mình tương ứng, và hạn chế tối thiểu để tránh xa mười điều bất thiện và phát triển mười điều đạo đức.  Phải công nhận rằng, không ai toàn hảo, nhưng nếu chúng ta muốn tự gọi là Phật tử, chúng ta phải cố gắng một ít tác động ảnh hưởng.  Khi những gì đấy là nguyên nhân của chấp trước vướng mắc hay giận tức khởi lên trong ta, tối thiểu chúng ta nên hành động là làm một tác động ảnh hưởng để không bị xách động bởi trạng thái giao động thiên lệch đang bao phủ  tâm ta và thay vào đó là duy trì một thái độ tự tại và yêu thương.
               
              TU DƯỠNG TÂM TÍNH, HAY TRAU DỒI TUỆ TRÍ
               
              Căn bản thiết yếu của giáo Pháp là tu dưỡng tâm bởi vì tất cả những nghiệp lành tích cực và nghiệp xấu tiêu cực của thân thể và lời nói đều phát xuất nguyên ủy và được chuyển trực tiếp bởi tâm.  Nếu chúng ta không tu dưỡng phát triển tỉnh giác, tỉnh thức, tỉnh táo tiến trình tinh thần của chúng ta và khả năng cắt đứt dòng tư tưởng tiêu cực khi chúng khởi lên, hai mươi năm thiền định trong một hang sâu, nơi thâm sơn cùng cốc chỉ có giá trị nho nhỏ chút ít.   Trước khi tìm kiếm một hang động để tu, chúng ta nên tìm kiếm những phẩm chất tốt đẹp trong tâm ta và phát triển khả năng để sống theo giáo Pháp.  Rồi thì, ngồi trong hang sẽ chỉ khá hơn một con gấu ngủ vào mùa đông.  Nói về khóa tu thực hành mật tông tantric trong khi mười nền tảng (thập thiện giới) của giáo PHÁP vẫn xa vời với chúng ta thì chỉ là tự làm nên một trò cười cho chính mình.
               
              LÀM CUỘC SỐNG NÀY TRỞ NÊN HỮU ÍCH
               
              Như những con người, chúng ta có khả năng để đạt đến giác ngộ trong chỉ một đời.  Tuy vậy, đời sống thì ngắn ngủi và phần lớn đã qua đi rồi.  Chúng ta phải tự hỏi minh rằng chúng ta đã hành động được bao nhiêu cho tiến trình tâm linh.  Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào và khi nó đến chúng ta phải lìa bỏ mọi thứ sau lưng ngoại trừ những dấu ấn tâm linh của đã được tích tụ trong đời sống chúng ta vừa qua.  Nếu chúng ta đã thực hành và cố gắng sống theo giáo Pháp trong đời sống, hay ngay cả đạt đến thực chứng, nguồn năng lượng ấy sẽ lưu lại trong tâm ta.  Mặt khác, nếu chúng ta dành đời sống mình trong những tư tưởng tiêu cực, không đạo đức và ký ức của những con đường luân hồi sẽ chiếm cứ nhận thức của chúng ta khi nó đi đến đời sống tương lai tiếp theo.
               
              Vì vậy, bây giờ đây, khi chúng ta có khả năng, chúng ta nên thực hành giáo Pháp một mạnh mẻ, sâu sắc và thuần khiết.   Sự thực hành giáo Pháp sẽ mang đến bình an và hòa hiệp cho chính chúng ta và những người chúng quanh, ngay trong đời sống này, và, chúng ta nếu không đạt đến giác ngộ trong đời này, nó sẽ cho chúng ta một nguyện ước trân quý hoàn thành mà chúng ta sẽ mang theo trong những đời sống tương lai để giúp chúng ta tiếp tục trên con đường tâm linh.
               
              Một cách căn bản, tương lai chúng ta nằm trong tay chúng ta.  Hầu hết mọi người chuẩn bị những chương trình hấp dẫn cho tuần tới, tháng tới và năm tới, nhưng điều gì được tính toán thiết thực nhất cho việc thực hành giáo Pháp ngay bây giờ.  Nếu chúng ta làm điều này, tất cả sự tập trung của chúng ta sẽ hoàn thành.  Khi chúng ta tu dưỡng phát triển những hành động đạo đức hôm nay,  những định luật của tùy thuộc tương liên hưng khởi bảo đảm chắc chắn rằng một dòng suối tích cực của chuyển hóa đã bắt đầu vận hành.  Đây là tính chất quý báu của con người:  chúng ta có thể tác động ảnh hưởng một năng nổ sôi nổi tình trạng  tương lai của con người chúng ta bằng sự áp dụng tuệ trí vô phân biệt đến tất cả những hành động của thân thể, ngôn ngữ, và tâm ý chúng ta.  Sử dụng và tu dưỡng phát triển tuệ vô phân biệt này là chắc lọc phần rất cơ bản thiết yếu của đời sống con người
               
              ---
               
              NÃO PHIỀN THÙ HẬN NGHÌN ĐỜI THỀ XÓA TẬN
              TUỆ GIÁC TỪ BI MUÔN KIẾP NGUYỆN ĐẮP XÂY
              #7
                tueuyen 10.02.2009 00:56:03 (permalink)
                0
                TÁM ĐỀ MỤC CHUYỂN HOÁ TÂM
                The Eight Verses of Thought Transformation 
                By His Holiness the Dalai Lama - Tuệ Uyển chuyển ngữ

                ---
                Tám đề mục chuyển hoá tâm, một văn bản của Kadampa hành giả Langri Tangpa giải thích tuệ trí và phương pháp thực hành của Ba la mật thừa (Paramitayana ), bảy đề mục đầu nói về phương pháp - từ bi yêu thương, tâm giác ngộ hay tâm bồ đề - đề mục thứ tám nói về tuệ trí.
                 
                1- Quyết định đạt đến lợi ích to lớn nhất có thể cho tất cả chúng sinh, những người quý báu hơn những viên ngọc ước, tôi sẽ luôn luôn ôm ấp họ như những người thân thương nhất.
                 
                Tự chính chúng ta và tất cả những chúng sinh khác muốn hạnh phúc và hoàn toàn thoát khỏi khổ đau.  Trong điều này chúng ta thật sự bình đẳng.  Tuy vậy, mỗi chúng ta chỉ là một cá thể, trong khi những chúng sinh khác là vô lượng.
                Giờ đây, có hai thái độ để quan tâm:  đó là vị kỷ yêu mến chính chúng ta và đó là yêu mến những những người khác.  Thái độ tự yêu mến một cách vị kỷ làm cho chúng ta cứng nhắc, chúng ta nghĩ là chúng ta cực kỳ quan trọng và khao khát căn bản của chúng ta là cho chính chúng ta được hạnh phúc và cho mọi thứ diễn tiến tốt đẹp cho chúng ta.  Tuy vậy, chúng ta không biết làm thế nào để đem đến điều này.  Trên thực tế là hành động yêu mến vị kỷ không bao giờ làm cho chúng ta hạnh phúc.
                Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đở người khác trên tát cả những thứ khác.  Và, hành động trong cách này, ngẩu nhiên tự họ trở nên rất hạnh phúc.  Thí dụ, những chính trị gia chân thành quan tâm giúp đở hay phục vụ người khác thu hoạch những thành tích với sự tôn trọng, trong khi những ai đó luôn luôn lợi dụng và làm những việc xấu cho những người khác hạ bệ như những thí dụ của những kẻ xấu.
                Tạm thời bỏ qua một bên tôn giáo, đời sống tái sinh và niết bàn, ngay cả trong đời sống hiện tại những người vị kỷ đem đến những phản ứng tiêu cực ngược lại cho chính họ bởi những hành động của vị kỷ của họ.  Về phương diện khác, những người như mẹ Teresa, người chân thành cống hiến cả cuộc đời và năng lực vô vị lợi phục vụ cho những người nghèo túng, khốn cùng, và neo đơn, luôn luôn được ghi nhớ bởi những hành động cao quý của họ, với sự kính trọng; những người khác không có bất cứ điều gì tiêu cực để nói về họ.  Thế thì, điều này là kết quả của sự yêu mến những kẻ khác:  cho dù chúng ta có muốn hay không, ngay những kẻ không phải là người thân của chúng ta luôn luôn yêu thích chúng ta, cảm thấy vui vẻ với chúng ta và có một cảm giác ấm áp đối với chúng ta.  Nếu chúng ta là loại người luôn luôn nói năng lich sự trước mặt những người khác những lại nói xấu sau lưng họ, dĩ nhiên, không ai thích chúng ta.
                Vì vậy, trong đời sống này, nếu chúng ta cố gắng giúp đở kẻ khác bằng nổ lực tối đa mà chúng ta có thể làm và có ít nhất những tư tưởng ích kỷ, chúng ta sẽ có nhiều kinh nghiệm của hạnh phúc.  Đời sống chúng ta không quá dài; một trăm năm là tối đa.  Nếu trãi qua đời sống này chúng ta cố gắng ân cần, với một trái tim ấm áp, lưu tâm  cho lợi ích của những người khác và ít vị kỷ cùng giận tức, điều ấy sẽ thật tuyệt vời, xuất sắc, điếu ấy thật sự là nguyên nhân của hạnh phúc.  Nếu chúng ta ích kỷ, luôn luôn đặt chính mình trước nhất và những kẻ khác là thứ yếu,  kết quả chắc chắn  là chúng ta sẽ hoàn tất cuối cùng.  Trong ý nghĩ đặt chúng ta sau cùng và những người khác trước nhất là con đường để chúng ta  tiến ra phía trước.
                Vì vậy đừng lo lắng về kiếp sống tới hay niết bàn; những việc này sẽ tiến đến dần dần.  Nếu trong kiếp sống này chúng ta duy trì là một người tốt, ấm áp, không ích kỷ, chúng ta sẽ là một công dân tốt của thế giới.  Cho dù chúng ta là một Phật tử, một Ki tô hữu hay là một người cộng sản không quan hệ; điều quan trọng là khi nào chúng ta vẫn là một con người chúng ta nên là một con người tốt.  Đấy là giáo nghĩa của Đạo Phật;  đấy là thông điệp của tất cả mọi tôn giáo trên thế giới.
                Tuy nhiên, giáo nghĩa của Đạo Phật chứa đựng mọi kỷ năng để loại trừ và nhổ gốc rể vị kỷ và biến thành hiện thực thái độ yêu mến người khác. Thí dụ, văn bản tuyệt diệu của Tôn giả Bình Thiên  (Shantideva), "Hướng dẫn về đời sống của con đường Bồ tát", rất hữu ích cho điều này.  Tự chính chúng tôi thực hành theo quyển sách ấy;  nó hữu dụng một cách tuyệt vời.   Tâm tư chúng ta cực kỳ giảo quyệt và rất khó kiểm soát, nhưng nếu chúng ta tiến hành những tác động ảnh hưởng liên tục và kiên định, hành động không mệt mõi với suy luận hợp lý và phân tích cẩn thận, chúng ta sẽ có thể kiểm soát và chuyển hoá nó tốt hơn.
                Một số triết gia Tây phương nói rằng chúng ta không nên đàn áp sự giận tức của chúng ta mà bày tỏ nó - rằng chúng ta nên thực tập giận tức!  Tuy nhiên, chúng ta nên có một sự phân biệt rõ ràng quan trọng ở đây giữa những vấn đề tinh thần nên bày tỏ, biểu lộ  và những vấn đề không nên làm như vậy.   Thỉnh thoảng chúng ta có thể có những sai lầm thật sự và thật đúng đắn để chúng ta bày tỏ để gở mối day dứt,tự thán thay vì để nó trở thành một nội kết phiền muộn trong tâm ta.  Nhưng chúng ta không nên biểu lộ nó bằng sự giận dữ.   Nếu chúng ta nuôi dưỡng, ấp ủ những tâm tư phiền não tiêu cực như giận tức chúng sẽ trở thành một thành phần của cá nhân chúng ta;  mỗi lần chúng ta biểu lộ giận dữ nó trở nên dễ dàng để biểu lộ như thế một lần nữa.  Chúng ta cứ làm như thế lần này rồi lần khác cho đến khi chúng ta đơn giản chỉ là một người cuồng dại hoàn toàn không thể kiểm soát.  Vì vậy, trong phạm trù của những vấn đề tinh thần, có những vấn đề nào đấy thích đáng để bày tỏ còn những vấn đề khác thì không nên.
                Trước tiên chúng ta cảm thấy khó khăn trong việc cố gắng để kiểm soát những tâm tư phiền não tiêu cực.  Ngày đầu tiên, tuần đầu tiên, tháng đầu tiên chúng ta không thể kiêm soát chúng tốt đẹp được.  Nhưng với sự liên tục tác động những tiêu cực của chúng ta sẽ dần dần giảm xuống.  Tiến trình trong sự tu dưỡng phát triển tâm không phải đến từ việc dùng thuốc uống hay những thứ hóa chất khác; nó tùy thuộc vào việc kiểm soát tâm.
                Vì vậy chúng ta có thể thấy rằng nếu chúng ta muốn hoàn thành những nguyện ước của chúng ta, là tạm bợ tức thời hay căn bản rốt ráo, chúng ta nên hướng thệ nguyện đến những chúng sinh khác nhiều hơn cả là những viên ngọc ước và luôn luôn yêu mến họ trên tất cả những thứ khác.
                Câu hỏi: Có phải tất cả những mục tiêu của việc thực tập này để tu dưỡng phát triển tâm chúng ta hay thực sự là làm những việc để giúp đở những người khác?  Điều nào là quan trọng hơn?
                Trả lời: Cả hai đều quan trọng.  Trước tiên, nếu chúng ta không có động cơ trong sạch, bất cứ những gì chúng ta làm có thể không hài lòng.  Vì vậy, việc trước nhất chúng ta nên làm là phát triển động cơ trong sạch. Nhưng chúng ta không phải chờ cho đến khi động cơ ấy hoàn toàn phát triển trước khi thật sự hành động giúp đở những kẻ khác.  Dĩ nhiên, để giúp đở những kẻ khác trong những phương thức hữu hiệu nhất có thể chúng ta phải hoàn toàn giác ngộ như những Đức Phật.  Ngay cả giúp đở những người khác trong những phương thức rộng lớn bao quát cùng khắp chúng ta cần đạt đến những tầng bậc của một vị Bồ tát, đấy là, phải có kinh nghiệm trực tiếp, nhận thức vô phân biệt thực tại của tính không và phải đạt đến những năng lực ngoài những giác quan cảm giác thông thường, hay thần thông.  Tuy vậy, có nhiều trình độ khác nhau để giúp đở những người khác.  Ngay cả trước khi chúng ta đạt đến những phẩm chất này chúng ta có thể hành động như những vị Bồ tát, nhưng thông thường những hành động của chúng ta kém hiệu quả hơn những vị ấy.  Vì vậy, không phải đợi cho đến khi chúng ta đấy đủ hoàn toàn những phẩm chất, chúng ta có thể phát sinh những động cơ tốt đẹp, hảo thiện và với sự cố gắng đấy để giúp đở những kẻ khác trong những phương thức tốt nhất mà chúng ta có thể hành động.  Điều này là một sự tiếp cận cân bằng hơn và tốt hơn là chỉ đơn giản ẩn trú một nơi cô lập nào đấy để thiền định và tụng niệm.  Dĩ nhiên, điều này tủy thuộc rất nhiều trên từng cá nhân.  Nếu chúng ta tin tưởng rằng an trú tại một nơi biệt lập chúng ta có thể đạt được những sự thực chứng rõ rệt  trong một thời điểm nào đấy, đó lại là chuyện khác.  Có lẻ tốt nhất nên dành phân nửa thời gian của chúng ta để hoạt động và phân nửa kia để thực tập thiền định.
                 
                Câu hỏi:  Tây Tạng là một xứ sở Phật giáo.  Nếu những giá trị mà Ngài đã diễn tả là của Đạo Phật, tại sao có rất nhiều thứ không cân bằng trong xã hội Tây Tạng.
                 
                Trả lời:  Con người yếu đuối.  Mặc dù Tây Tạng đúng thực là một xứ sở Phật giáo, nó cũng có những người xấu hay hư đốn.  Ngay cả trong những cơ sở chùa chiền, tu viện, cũng có thể trở thành thối nát hay biến thành nơi bị lợi dụng.  Nhưng tất cả đều giống nhau, so sánh với nhiều xã hội khác, Tây Tạng thanh bình hơn, hòa hiệp hơn và ít có những vấn nạn hơn.
                 
                2- Khi kết thân với những người khác, tôi sẽ xem như  tự mình là thấp nhất trong tất cả, và từ chiều sâu của con tim ôm ấp những người khác thân thương và quan trọng nhất.
                 
                Không kể chúng ta là ai với chúng ta, chúng ta thường nghĩ những việc như, “Tôi mạnh hơn người kia, “ tôi đẹp hơn người kia”, tôi thông minh hơn người kia,” tôi giàu có hơn”, tôi xứng đáng hơn người kia rất nhiều”, v.v và v.v…-  chúng ta phát sinh rất nhiều tự hào.  Điều này không tốt.  Thay vì vậy, chúng ta nên luôn luôn duy trì khiêm tốn.  Ngay cả khi chúng ta giúp đở những kẻ khác và tham gia vào hoạt động từ thiện, chúng ta không nên  xem chính mình trong cách kiêu căng như những người hộ vệ vĩ đại lợi ích những kẻ yếu. Điều này cũng là kiêu ngạo.  Tốt hơn, chúng ta nên liên hệ trong những hành động như thế một cách thật khiêm tốn và nghĩ rằng chúng ta dâng hiến sự phụng sự của chúng ta đến mọi người.
                Khi chúng ta so sánh chúng ta với những con thú, thí dụ, chúng ta có thể nghĩ, “ta có thân thể một con người” hay “ta là người thọ giới” và cảm thấy cao hơn những người khác.  Cũng từ quan kiến ấy, chúng ta có thể nói rằng chúng ta có thân thể con người và đang thực hành lời Phật dạy và vì vậy chúng ta thật rất là hơn hẳn những côn trùng.  Nhưng bằng cách khác, chúng ta có thể nói rằng những côn trùng thì thật vô tội  và chẳng bao giờ lừa đảo, nhưng trái lại chúng ta thường dối trá , xuyên tạc, bóp méo chính mình trong trong những cách không thành thật để đạt đến mục tiêu cuối cùng hay tự làm mình hơn những người khác.  Từ quan kiến này chúng ta  phải nói là chúng ta thật tệ hơn những côn trùng, điều mà chúng chỉ tiến đến những hành động của chúng mà không giả vờ bất cứ điều gì.  Đây là một phương pháp rèn luyện trong khiêm tốn nhún nhường.
                 
                3-  Thận trọng, tỉnh giác, thời khắc một vọng tưởng xuất hiện trong tâm tôi, nguy hại cho chính mình và những người khác, tôi sẽ đối diện và ngăn ngừa nó không chút chậm trễ.
                 
                Nếu khảo sát tâm chúng ta tại những thời điểm mà chúng ta thật ích kỷ và bận rộn với chính mình để loại trừ những người khác, chúng ta sẽ thấy rằng tâm thức phiền não tiêu cực là gốc rể của thái độ này.  Vì lẻ chúng quấy rầy tâm chúng ta cực độ, thời điểm chúng ta để ý rằng chúng ta đang tiến đến gần sự ảnh hưởng của chúng, chúng ta nên áp dụng một số biện pháp hóa giải chúng.  Đối thủ phổ thông với tất cả những tâm thức phiền não là thiền định trên tính không, nhưng cũng có thuốc giải đến từng loại  đặc hữu mà chúng ta những người mới bắt đầu có thể áp dụng.  Vì vậy, đối với chấp ngã, thủ trước, dính mắc, chúng ta thiền định trên tính xấu xí; với giận tức , trên yêu thương; với mù quáng si mê, trên duyên khởi; cho nhiều tư tưởng phiền não, trên hơi thở và năng lựơng của gió.
                 
                Hỏi:  Điều gì là tùy thuộc hưng khởi hay duyên khởi?
                 
                Trả lời: Mười hai khoen nhân duyên, hay nguyên khởi tùy thuộc tương liên.  Chúng bắt đầu bằng vô minh và đi qua đến  già và chết.  Trên những trình độ vi tế hơn chúng ta có thể dùng duyên khởi như một nhân để chứng minh rằng mọi sự, mọi vật thì trống rỗng  trong sự hiện hữu thật sự.
                 
                Hỏi:  Tại sao chúng ta nên thiền định trên tính xấu xí để vượt thắng chấp ngã, thủ trước, hay dính mắc?
                 
                Trả lời:  Chúng ta phát triển sự chấp trước đến những sự kiện, sự vật bởi vì chúng ta thấy chúng như là rất hấp dẫn.  Cố gắng để nhìn chúng như là không hấp dẫn, hay xấu xí, làm nó mất tác dụng hay hóa giải nó.  Thí dụ, chúng ta có thể phát triển chấp trước đến thân thể một ai đấy, thấy hình dáng người ấy rất hấp dẫn.  Khi chúng ta bắt đầu phân tích sự dính mắc này chúng ta thấy rằng nó chỉ căn cứ trên hình ảnh đơn thuần của làn da.  Tuy nhiên, tính tự nhiên của thân thể này xuất hiện đến chúng ta như  đẹp đẻ là thịt, máu, xương, da v.v…của điều nó tập hợp.  Giờ đây hãy phân tích làn da con người:  thí dụ, lấy của chính chúng ta.  Nếu một mãnh da rơi ra và chúng ta để nó trong một ngăn khoảng vài ngày nó trở nên ghê gớm thật sự.  Đây là tính tự nhiên của da.  Tất cả những phần khác của thân thể cũng như vậy.  Không có sự xinh đẹp trong từng mãnh thịt, của con người;  khi chúng ta thấy máu chúng ta có thể cảm thấy sợ, không vướng bận.  Ngay cả một khuôn mặt mỹ miều xinh đẹp:  nếu nó bị trầy xước không có gì đẹp đẻ về nó;  rửa sạch phấn son – không còn gì cả!  Xấu xí là tính tự nhiên của thân thể vật lý.  Xương người, cả bộ xương người, cũng là ghê sợ; hình ảnh sọ người cùng xương chéo X có một ý nghĩa thật tiêu cực và dữ dội.
                 
                Vâng đấy là phương pháp để phân tích đối với những gì mà chúng ta dính mắc, ái luyến, hay yêu mến -  sử dụng ngôn ngữ này trong ý nghĩa tiêu cực của sự dính mắc khao khát ước vọng.  Hãy suy nghĩ thêm những đối tượng về phương diện xấu xí; phân tích tính tự nhiên của con người hay sự vật từ quan điểm này.  Ngay cả nếu điều này không kiểm soát sự vướng mắc, chấp trước của chúng ta hoàn toàn, tối thiểu nó cũng giúp chúng ta giảm bớt sự dính mắc một ít.  Đây là mục tiêu của thiền định hay thiết lập nên thói quen quán sát khía cạnh xấu xí của những sự vật.
                 
                Một loại yêu thương khác, sự ân cần tử tế, nó không căn cứ trên lý do rằng “những người như vậy và như thế là xinh đẹp, vì vậy, tôi  phải tôn trọng và tử tế.”  Căn bản thiết yếu của lòng yêu thương tinh khiết  là, “Đây là một chúng sinh muốn vui tươi hạnh phúc, không muốn phiền muộn khổ đau và có quyền để hạnh phúc.  Vì vậy, tôi nên cảm nhận yêu thương và từ bi.”  Loại yêu thương này hoàn toàn khác biệt với loại yêu thương đầu tiên, điều căn cứ trên sự si mê vô minh và vì vậy hoàn toàn không lành mạnh, không chính đáng.  Đấy là những lý do của lòng yêu thương rộng lớn hay từ bi là lành mạnh, chính đáng, đúng đắn.  Với tình yêu căn cứ trên sự chấp trước , hay dính mắc, nếu có một sự thay đổi nhỏ trên đối tượng, như một tí thay đổi của thái độ, lập tức là nguyên nhân để chúng ta đổi thay.  Đấy là bởi vì cảm xúc của chúng ta chỉ căn cứ những gì trên bề mặt rất cạn cợt.  Lấy một thí dụ,  một cuộc hôn nhân mới mẻ.  Thường thì sau vài tuần, vài tháng, hay vài năm cặp hôn nhân trở thành những kẻ thù và cuối cùng đi đến ly dị.  Họ đã kết hôn trong sự yêu thương sâu lắng – không ai chọn thành thân với sự thù ghét – nhưng sau một thời gian ngắn mọi thứ thay đổi.  Tại sao?  Do bởi căn cứ cạn cợt trên bề mặt của mối quan hệ; một sự thay đổi nhỏ của một người là nguyên nhân cho một sự thay đổi hoàn toàn thái độ của người kia.
                Chúng ta nên nghĩ, “người kia là một con người như tôi.  Chắc chắn là tôi muốn hạnh phúc; vì vậy, cô ta /cậu ta cũng phải muốn hạnh phúc.  Như một chúng sinh tôi có quyền để hạnh phúc; cùng lý do ấy, người kia cũng thế, có quyền để hạnh phúc an lạc.  “Lý do chính đáng này cho khởi lên một lòng yêu thương và từ bi.  Thế thì không cần biết quan niệm của chúng ta với sự thay đổi của người kia là thế nào – từ tốt đến xấu đến vô cùng tệ hại -  người kia luôn luôn căn bản là một chúng sinh.  Vì vậy, lý do chính để hiển lộ lòng từ bi yêu thương là luôn luôn ở đấy, cảm nhận của chúng ta đối với người kia là kiên định một cách toàn hảo.
                 
                Thuốc giải độc cho sân hận-giận tức là thiển định về yêu thương, bởi vì sân hận-giận tức là một tâm thức rất thô lổ, sống sượng, cộc cằn vì thế cần được làm dịu dàng, mềm mỏng với tình yêu thương.
                 
                Khi chúng ta vui thích với những đối tượng mà chúng ta nối kết, gắn bó, hay dính mắc, chúng ta chắc chắn trải qua kinh nghiệm hân hoan, khoái lạc hay thú vị; nhưng như Tổ Long Thọ đã từng nói, điều ấy như có một mụn ngứa và gảy ngứa; nó cho chúng ta sự thích ý nhưng chúng ta sẽ khá hơn nếu trước tiên chúng ta đừng có cái mụn ngứa ấy. Cũng giống như thế, khi chúng ta nhận được những thứ mà với chúng ta bị ám ảnh, mê thích chúng ta cảm thấy vui sướng, nhưng chúng ta sẽ khá hơn nếu chúng được tự do với điều mà chúng ta bị dính mắc,vướng bận, mong mỏi  và là nguyên nhân để chúng ta trở nên bị ám ảnh với những thứ ấy.
                 
                4- Bất cứ khi nào tôi thấy những chúng sinh xấu xa, tệ ác, nguy hại một cách tự nhiên và tràn ngập bởi những hành vi bạo động tiêu cực và khổ đau, tôi sẽ ôm ấp những người yêu mến hiếm hoi như vậy, y như là tôi vừa tìm thấy một kho tàng trân quý.
                 
                Nếu chúng ta quán sát những người như bởi tự nhiên rất bạo ác, thô lỗ, tục tằn và khó chịu, phản ứng thông thường của chúng ta là lẫn tránh người ấy.  Trong những trường hợp như thế tình yêu thương của chúng ta hướng đến người khác có khả năng bị giảm sút.  Thay vì cho phép tình yêu thương của chúng ta đến người khác yếu đuối bởi suy nghĩ rằng kẻ kia là một người xấu ác hay tội lổi, chúng ta nên thấy người ấy như một đối tượng đặc biệt của tỉnh thương và từ bi và yêu mến người ấy dường như là chúng ta tình cờ bắt gặp một kho tàng quý giá, khó khăn để tìm thấy.
                 
                5-  Khi, vì sự thèm muốn, đố kỵ, ghen tỵ, những người khác ngược đãi tôi với sự lạm dụng, xỉ vả hay gièm pha,…,tôi sẽ chấp nhận thua cuộc và dành thắng  lợi cho những kẻ khác.
                 
                Nếu có những người xỉ vả, ngược đãi hay bình phẩm, chỉ trích chúng ta, nói rằng chúng ta kém cõi, bất tài, không đủ khả năng làm bất cứ việc gì, v.v…,  chúng ta chắc là có thể rất giận dữ và phản bác lại những gì người kia nói.  Chúng ta không nên hành động như vậy, thay vì thế, với sự khiêm tốn và bao dung, chúng ta nên chập nhận những gì đã được phát biểu.
                 
                Nơi mà nói rằng chúng ta nên chấp nhận thất bại và nhường sự thắng lợi cho người khác,  chúng phải phân làm hai loại khác nhau của tình trạng.  Nếu một mặt, chúng ta bị ám ảnh với lợi ích của chính chúng ta và động cơ rất là ích kỷ, chúng ta nên chấp nhận thua cuộc và nhường chiến thắng cho kẻ khác, ngay cả có thể đời sống chúng ta bị lâm nguy.  Nhưng có thể về phương diện khác, trường hợp tình trạng như vậy mà quyền lợi của những kẻ khác bị lâm nguy, chúng ta phải hành động thật  năng nổ và đấu tranh vì quyền lợi của những người khác, và không chấp nhận thua cuộc với bất cứ giá nào.
                 
                Một trong bốn mươi sáu thệ nguyện của một vị Bố tát liên hệ đến một trường hợp khi mà ai đấy làm những hành vi rất là tai hại và chúng ta phải dùng đến những biện pháp vũ lực hay bất cứ cách nào khác cần thiết để chấm dứt những hành vi bạo ngược của kẻ ấy lập tức – nếu chúng ta không hành động, chúng ta vị phạm lời thệ nguyện ấy.  Có thể thấy rằng lời thệ nguyện của một vị Bố tát và đề mục thứ năm này, nói rằng một người nên chấp nhận thua cuộc và nhường thắng lợi cho kẻ khác, là mâu thuẫn, nhưng không như vậy.  Thệ nguyện của một vị Bố tát đáp ứng với một tình trạng mà điểm chính yếu là sự quan tâm của một người đối với quyền lợi của những kẻ khác: nếu ai đấy đang làm những hành vi cực kỳ tai hại và nguy hiểm thì thật là sai lầm nếu không có những hành động mạnh mẻ để chấm dứt chúng, nếu cần thiết.
                 
                Ngày nay, ngay trong những xã hội tranh đua, những hành động tự vệ mạnh mẽ hay tương tự như thế thì thường luôn luôn được đòi hỏi.  Động lực như thế này không nên  bị ích kỷ nhuốm màu nhưng là những cảm giác rộng rãi bao la của ân cần và từ bi yêu thương đối với kẻ khác.  Nếu chúng ta hành động với những cảm nhận, ý thức như thế để hổ trợ, cứu giúp kẻ khác tránh khỏi tai họa do những nghiệp cảm tiêu cực tạo ra, điều này hoàn toàn đúng đắn.
                 
                HỎI:  Nếu đôi khi có thể cần thiết để có những hành động mạnh mẻ khi chúng ta thấy những điều gì ấy là sai, nhưng phán đoán của ai mà chúng ta có thể tin tưởng đối với những quyết định như thế?  Chúng ta có thể dựa trên nhận thức của chính chúng ta đối với thế giới không?
                 
                ĐÁP:  Điều ấy thật phức tạp.  Khi chúng ta quyết định nhận lấy phần thua cho chính mình, chúng ta phải thấy hoặc nhường phần thắng cho kẻ kia sẽ lợi ích cho họ căn bản hay chỉ tạm thời.  Chúng ta cũng phải quan tâm ảnh hưởng mà khi nhận phần thua trên chính mình sẽ có trên khả năng hay năng lực của chúng ta để hổ trợ kẻ khác trong tương lai.  Nó cũng có thể là bằng việc hành động điều gì ấy mà tai hại đến kẻ khác ngay bây giờ, chúng ta tạo nên một công đức to lớn và nó sẽ có thể hổ trợ cho chúng ta làm những việc lợi ích rộng lớn hơn cho những kẻ khác về lâu về dài; đây là một nhân tố khác chúng ta phải tiếp nhận vào trong nhận thức và tạng thức, về tầm quan trọng của nó.
                 
                Như đã nói trong “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bố tát” (Bodhicaryavatara ), chúng ta phải thử nghiệm, cả bề mặt và chiều sâu, không biết những lợi ích của những hành động vốn vị cấm đoán là có nhiều tác dụng hơn là nhược điểm hay không.  Tại những thời điểm khi nó thật khó khăn để mà phán quyết, chúng ta nên kiểm soát lại động cơ thúc đẩy. Trong Toát yếu Giáo nghĩa Đạo Phật (Shiksa-Samuccaya), Bình Thiên Tôn giả nói rằng những lợi ích của những hành động được làm với tâm bố đề có tác dụng nhiều hơn là những tiêu cực đối với khi hành động không có động cơ như thế.  Mặc dù nó cực kỳ quan trọng, những có thể đôi khi thật khó khăn để thấy lằn ranh giữa điều gì nên làm và điều gì không nên làm, vì vậy, chúng ta nên học hỏi những kinh luận giải thích về những điều như thế.  Trong những luận giải thấp hơn nó sẽ nói rằng những hành vi nào đấy là bị cấm đoán trong khi những luận giải cao hơn nói với chúng ta rằng cũng cùng những hành vi ấy nhưng được cho phép.  Càng thông hiểu hơn về tất cả những điều này nó càng dễ dàng hơn, nó sẽ được quyết định điều gì nên làm trong bất cứ mọi trạng huống.
                 
                6- Khi những ai đấy mà tôi đã từng làm lợi ích đến và trong những ai đấy tôi đã từng có những niềm hy vọng lớn lao lại mang đến cho tôi những tai họa khủng khiếp, tôi sẽ nhìn người ấy như bậc đạo sư thánh thiện của tôi.
                 
                Thông thường chúng ta dự tưởng rằng những ai đấy mà mình từng giúp đở những gì to tát là phải rất biết ơn chúng ta và nếu họ lại hành động đến mình với sự vô ơn chắc là chúng ta phải giận dữ.  Trong những trường hợp như thế, chúng ta không nên khó chịu nhưng thay vì thế phải thực hành nhẫn nại.  Hơn thế nữa, chúng ta nên thấy những người như thế là những vị thầy thử thách sự nhẫn nhục của chúng ta và vì thế nên đối xử với họ một cách tôn trọng.  Đề mục này chứa đựng tất cả trong “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bố tát” về nhẫn nhục.
                 
                7- Trong vắn tắt, cả trực tiếp và gián tiếp, tôi xin dâng hiến mọi niềm hạnh phúc, an lạc và lợi ích đến tất cả những bà mẹ của tôi.  Tôi sẽ gánh vác một cách bí mật trên tôi tất cả những hành động tai hại và khổ đau của họ.
                 
                Điều này hướng đến việc thực hành gánh vác trên chính chúng ta tất cả những khổ đau của những người khác và dâng hiến đến họ tất cả những niềm hạnh phúc, an lạc của chúng ta, động cơ thúc đẩy bởi lòng từ bi và yêu thương mạnh mẽ.  Tự chính chúng ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau và có thể thấy rằng tất của hữu tình chúng sinh cũng cảm nhận như thế.  Chúng ta cũng có thể thấy rằng những hữu tình chúng sinh khác ngập tràn khổ đau nhưng không biết làm thế nào để lìa xa chúng.  Vì vậy, nên phát sinh ý niệm gánh vác tất cả những khổ đau và nghiệp báo tiêu cực và nguyện cầu cho nó chin muồi, trổ quả trên chính chúng ta ngay lập tức.  Giống như thế, rõ ràng những hữu tình chúng sinh trống vắng hạnh phúc, họ tìm kiếm nhưng không biết làm thế nào để gặp được hạnh phúc.  Vì vậy, không có chút gì bỏn xẻn xan lẫn, chúng ta nên dâng hiến cho họ tất cả những hạnh phúc của chúng ta – thân thể, phú quý và công đức – và cầu nguyện cho những điều này chin muồi, kết quả trên họ ngay lập tức.
                 
                Dĩ nhiên, không chắc rằng chúng ta thật thực sự có thể gánh vác những khổ đau của kẻ khác và trao tặng hạnh phúc của chúng ta cho họ.  Khi những hoán chuyển như thế giữa những hữu tình chúng sinh thật sự xảy ra, nó là kết quả của một số liên hệ nghiệp quả liên tục rất mạnh mẻ nào đấy từ quá khứ kiếp.  Tuy thế, sự thiền định đề mục này là rất mãnh liệt có ý nghĩa của việc xây dựng nên sự can đảm trong tâm chúng ta và vì thế là một thực hành có lợi ích cao thượng.
                 
                Trong “Bảy điểm chuyển hóa tâm” nói rằng chúng ta nên luân phiên thực hành “cho và nhận” và trang bị chúng trên từng hơi thở.  Và ở đây, Langri Tangpa nói rằng những điều này nên được hoàn thành một cách bí mật.  Khi nó được giải thích trong “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bố tát”, điều thực hành này không thích hợp với tâm lý những Bố tát sơ tâm – nó là những gì được chọn lựa ở một số ít hành giả.  Vì thế, nó được gọi là bí mật.
                 
                HỎI:  Trong “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bố tát”, Bình Thiên Tôn Giả nói rằng: “…nếu vì lợi ích của kẻ khác mình làm tổn hại chính mình, tôi sẽ đảm nhận tất cả, điều ấy thật cừ khôi, trác tuyệt.  Mặt khác, Tổ Sư Long Thọ nói rằng, chúng ta không nên hành hạ thân thể mình.  Thế thì, trong phương thức nào của Tôn Giả Bình Thiên lại có ý nghĩa một người nên làm tổn hại chính mình?
                 
                ĐÁP:  Điều này không có nghĩa là chúng ta phải tự đánh vào đầu mình hay những việc tương tự.  Tôn Giả Bình Thiên (Shantideva) đang nói rằng tại nhưng thời điểm khi những tư tưởng tự luyến ái khởi lên mảnh liệt chúng ta phải tranh luận rất mạnh mẻ với chính mình và dùng những ý nghĩa sinh động đầy sức thuyết phục để chinh phục hay làm dịu chúng xuống; trong ý nghĩa khác, chúng ta phải tự làm tổn hại hay hao mòn tâm thức tự ngã ái luyến chính mình.  Chúng ta phải phân biệt rõ ràng giữa cái "tôi" hoàn toàn bị ám thị với những quyền lợi của chính nó và cái "tôi" sẽ trở nên giác ngộ:  đấy là một sự khác biệt lớn lao.  Và chúng ta phải thấy câu này của “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bố tát”, trong văn bản với những dòng này trước và thực hành theo.  Có nhiều cách khác nhau cái "tôi" được bàn cải: sự vướng mắc chấp trước chính là đặc tính của cái "tôi", ái luyến tự ngã, cái "tôi" mà chúng ta phối hợp với nó trong sự quán sát những sự kiện từ quan điểm của những kẻ khác và v.v...Chúng ta phải thấy sự bàn luận về tự ngã trong những luận giải khác nhau.
                Nếu nó thật sự lợi ích cho người khác, nếu nó lợi ích ngay cả cho một chúng sinh, nó xứng đáng cho chúng ta đảm đương trên chính mình những khổ đau hiện hữu trong tam giới hay đi đến một trong những địa ngục, và chúng ta nên có sự can đảm, dõng cảm để làm điều này.  Để đạt đến giác ngộ vì lợi ích của chúng sinh chúng ta nên hoan hỉ, quyết tâm và tự nguyện để sống ở địa ngục thấp nhất, ngục A tỳ, trong thời gian vô tận.  Đây là ý nghĩa của việc đảm đương những tổn hại, điều làm khổ sở, đớn đau,ưu phiền của kẻ khác trên chính chúng ta.
                 
                HỎI:  Chúng ta phải làm gì để vào địa ngục thấp nhất?
                 
                ĐÁP: Điểm để phát triển lòng quả cảm, can đảm, dõng mãnh là quyết tâm tự nguyện để đi đến một trong những địa ngục; nó không có nghĩa là chúng ta thật sự phải đi đến đấy.  Khi hành giả Kadampa geshe Chekawa đang sắp viên tịch, ngài đột nhiên gọi đệ tử của ngài và yêu cầu họ làm những sự cúng dường, những đàn tràng và cầu nguyện cho ngài bởi vì những sự hành trì của ngài đã không thành tựu.  Những đệ tử rất bất an bởi vì họ nghĩ rằng có điều gì kinh khiếp không lành sẽ xảy ra.  Tuy nhiên, ngài giải thích rằng, mặc dù suốt cuộc đời ngài đã từng cầu nguyện để được sinh ra trong những địa ngục vì lợi ích của kẻ khác, giờ đây, ngài tiếp nhận một linh cảm thuần khiết của những gì sẽ tiếp diễn - ngài sẽ được tái sinh ở cõi Tịnh Độ thay vì ở địa ngục - và đấy là tại sao ngài bối rối.  Cũng như thế, nếu chúng ta phát triển một nguyện ước mãnh liệt, chân thành để tái sinh trong những cảnh giới thấp nhất vì lợi ích của những chúng sinh khác, chúng ta sẽ tích tập được một công đức to lớn vô biên và điều ấy sẽ mang đến những kết quả ngược lại.
                 
                Đó là tại sao chúng tôi nói rằng, nếu chúng ta ích kỷ thì chúng ta nên ích kỷ một cách thông minh.  Thực tế, hay hẹp hòi, ích kỷ làm nguyên nhân chúng ta đi xuống; thông minh ích kỷ đưa chúng ta đến Phật quả. Điều ấy thật sự thông tuệ!  Bất hạnh thay, điều chúng ta thường làm trước nhất là đến với Phật quả.  Theo kinh điển, chúng ta hiểu rằng để đạt đến Phật quả chúng ta cần tâm bố đề và nếu không có nó chúng ta không thể trở nên giác ngộ; vì vậy chúng ta nghĩ, "tôi muốn quả Phật, vì thế tôi phải thực hành bố đề tâm."  Chúng ta không quá quan tâm nhiều đến bố đề tâm cũng như Phật quả.  Điều này là sai lầm một cách chắc chắn.  Chúng ta phải làm ngược lại; hãy quên động cơ ích kỷ và thật sự nghĩ làm thế nào để giúp kẻ khác.
                 
                Nếu chúng ta đến địa ngục chúng ta không thể giúp đở cho người khác hay chính mình.  Chúng ta làm thế nào để giúp?  Không phải chỉ bằng bố thí cho họ vài thứ gì đấy hay thi thố thần thông, nhưng bằng diễn giảng giáo pháp.  Tuy nhiên,  trước nhất chúng ta phải có đủ năng lực để giảng dạy.  Hiện tại chúng ta không thể giải thích toàn bộ con đường - tất cả những sự hành trì và kinh nghiệm mà một người phải tiến từng bước từ trình độ thứ nhất đến cuối cùng, giác ngộ.  Có thể chúng ta có thể giải thích một vài cấp độ sơ cơ qua kinh nghiệm của chính chúng ta, nhưng không thể nhiều hơn thế.  Để có thể hổ trợ những người khác trong phương pháp rộng rãi nhất bằng sự hướng dẫn họ theo toàn bộ con đường giác ngộ, trước hết chúng ta phải giác ngộ cho chính mình.  Vì lý do này chúng ta nên thực hành tâm bố đề.  Điều này hoàn toàn khác biệt với cách suy nghĩ thông thường của chúng ta, khi mà chúng ta bị buộc phải nghĩ về những người khác và dâng hiến trái tim của chúng ta cho họ do bởi sự quan tâm ích kỷ về sự giác ngộ của chính chúng ta.  Cách này hướng về những thứ hoàn toàn sai lạc, một loại lừa phỉnh.
                 
                HỎI: Tôi đọc trong một quyển sách nói rằng chỉ bằng thực hành giáo pháp chúng ta ngăn ngừa chín thế hệ thân quyến của chúng ta phải sinh vào địa ngục.  Điều ấy có đúng không?
                 
                ĐÁP:  Đấy là một ít phô trương!  Thật sự khã dĩ những việc như thế có thể xãy ra, nhưng thông thường nó không quá đơn giản như thế.  Thí dụ, chúng ta trì niệm mật ngôn OM MANI PADME HUM và dâng hiến công đức ấy cho sự nhanh chóng đạt đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.  Chúng ta có thể nói rằng chỉ bằng sự trì niệm mật ngôn chung ta sẽ tốc chứng giác ngộ, nhưng chúng có thể nói rằng những sự thọ trì như thế hành động như sự đóng góp cho NHÂN của giác ngộ.  Giống như thế, trong khi sự thực hành giáo pháp của chúng ta sẽ không tự hổ trợ thân quyến của chúng ta không đến những sự tái sinh thấp hơn, nhưng nó có thể hoạt động như một sự góp phần cho NHÂN này.
                 
                Cho dù đây không phải là trường hợp, nếu sự hành trì của chúng ta hoạt động như nguyên nhân chính yếu của một kết quả kinh nghiệm bởi những người khác, nó sẽ mâu thuẩn với luật nghiệp báo, sự liên hệ giữa nguyên nhân và hiệu quả.  Thế thì chúng ta chỉ giản dị ngồi lại và nghĩ ngơi thoãi mái và để chư Phật cùng các vị Bồ Tát làm mọi thứ cho chúng ta; chúng ta sẽ không phải nhận lấy một trách nhiệm nào đối với lợi ích của chính mình.  Tuy thế, Đấng giác ngộ hoàn toàn đã từng nói rằng tất cả những gì ngài có thể làm là giảng dạy, chỉ dẫn chúng ta giáo pháp, con đường giải thoát khỏi khổ đau, và thế là nó tuỳ thuộc vào chúng ta đặt mình vào sự thực hành - Ngài đã rửa tay của Ngài đối với trách nhiệm ấy!  Như đạo Phật đã dạy rằng không có đấng tạo hoá và rằng chúng ta tạo dựng mọi thứ cho chính chúng ta, vì thế chúng ta là đạo sư của chính chúng ta -  trong giới hạn của luật nhân quả.  Và đây là luật nghiệp báo dạy rằng nếu chúng ta làm việc lành chúng ta sẽ trải qua kết quả kinh nghiệm lành và nếu chúng ta làm việc xấu chúng ta sẽ phải trải qua những kinh nghiệm của bất hạnh, khổ đau.
                 
                HỎI:  Làm thế nào để phát triển nhẫn nhục?
                 
                ĐÁP:  Có rất nhiều phương pháp.  Tri thức và tin tưởng vào luật nghiệp báo tự chinh nó sinh ra nhẫn nhục.  Chúng ta nhận thức rằng, "điều khổ đau này tôi đang gánh chịu là lỗi lầm của tôi hoàn toàn, kết quả của những hành động của chính tôi tạo nên trong quá khứ.  Vì rằng tôi không thể tránh khỏi nó tôi phải sống với nó.  Tuy vậy,  nếu tôi muốn tránh khổ đau trong tương lai tôi cũng có thể hành động bằng sự phát triển đạo đức như nhẫn nhục chẳng hạn.  Tức tối hay giận dữ với khổ đau này sẽ chỉ tạo nên những nghiệp tiêu cực, nguyên nhân của bất hạnh tương lai". Đây là một cách thực hành nhẫn nhục.
                 
                Một việc khác chúng ta có thể làm là thiền định trên sự khổ đau tự nhiên của thân thể:  "Thân thể và tâm thức này là cơ sở của tất cả những khổ đau, nó là tự nhiên và không có cách nào trông mong rằng khổ đau ơi, đừng khởi lên."  Loại nhận thức này hổ trợ rất hiệu quả cho việc phát triển nhẫn nhục.
                 
                Chúng ta cũng có thể nhắc lại những gì đã nói trong  “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bố tát” (Bodhicaryavatara):
                Tại sao không vui vẻ với những gì
                Nếu nó có thể được cứu chửa?
                Và điều gì là thói quen của chúng sinh không vui vẻ về những gì
                Nếu nó không thể được cứu chửa?

                 
                Nếu có một phương pháp vượt thoát khổ đau hay một cơ hội để làm như thế, chúng không phải lo lắng.  Nếu thật sự không có gì chúng ta có thể làm để thoát khổ, lo lắng không giúp được gì cả.  Điều này thật đơn giản và rất rõ ràng.
                 
                Những gì khác chúng ta có thể làm là suy tư sự bất lợi của tức giận và thuận lợi của thực hành nhẫn nhục.  Chúng ta là những con người - một trong những phẩm chất hơn hẳn của chúng ta là khã năng suy nghĩ và phán đoán của chúng ta.  Nếu chúng ta mất nhẫn nại và lại tức giận, chúng ta mất đi khã năng để thực hiện những phán xét cụ thể và vì thế mất đi một trong những công cụ hiệu lực nhất mà chúng ta có để giải quyết những vấn nạn: đấy là tuệ trí của con người.  Đây là những gì mà thú vật không có.  Nếu chúng ta mất đi nhẫn nhục, và lại cáu tức chúng ta đang làm tổn hại đến công cụ quý giá này.  Chúng ta nên nhớ điều này; nó càng tốt hơn nhiều để có can đảm và quyết định và đối diện với khổ đau bằng nhẫn nhục.
                 
                HỎI: Làm thế nào chúng ta có thể khiêm tốn hay bình thường trong khi cùng lúc hiện thực về những phẩm chất tốt đẹp mà chúng ta sở hữu?
                 
                ĐÁP:  Chúng ta phải phân biệt giữa sự tin tưởng vào những khã năng và tự hào của chúng ta.  Chúng ta phải nên tin tưởng vào bất cứ những phẩm chất và khã năng thiện xảo mà chúng ta có và sử dụng chúng một cách quả cảm, can trường, nhưng chúng ta không  nên có cảm xúc kiêu căng, ngạo mạn, tự mãn về chúng.  Hiện hữu khiêm tốn hay bình thường không có nghĩa là cảm thấy hoàn toàn bất tài, kém cõi, và không tự lo liệu được.  Sự khiêm tốn nhún nhường được phát triển như sự đối lập với tự kiêu, nhưng chúng ta nên sử dụng bất cứ những phẩm chất tốt đẹp nào mà chúng ta có đến sự trọn vẹn của nó.
                 
                Một cách lý tưởng, chúng ta nên có một sự đáp ứng rộng rãi của lòng can trường, quả cảm và năng lực nhưng không phải là sự khoác lác, niềm kiêu hảnh hay làm một sự phô trương lớn về nó.  Rồi thì, những khi cần, chúng ta nên vươn lên đến những trường hợp cụ thể và chiến đấu một cách dõng mảnh cho những gì đúng.  Điều này là toàn hảo.  Nếu chúng ta không có những phẩm chất tốt đẹp này mà lại khoác lác mọi nơi rằng chúng ta vĩ đại thế nào và trong khi cần thiết lại co đầu rút cổ lại một cách hoàn toàn, chúng ta chỉ là ngược lại.  Người thứ nhất thì rất can đảm,quả cảm nhưng không tự hào; người kia thì rất tự kiêu nhưng không có can trường, dũng cảm.
                 
                8- Thuần khiết trước những vết nhơ của sự mê tín, vướng mắc trên tám sự lưu tâm thế gian, nguyện cho tôi, bằng sự nhận thức tất cả những hiện tượng như ảo tưởng, được giải thoát khỏi sự trói buộc của vướng mắc, chấp trước.
                 
                Đề mục này tương ứng với tuệ trí.  Tất cả những thực hành trước không nên bị nhuốm bẩn bởi những vết nhơ của mê tín, vướng mắc đối với tám pháp thế gian (Bát phong: khổ - vui, được – mất, hơn – thua, khen – chê).  Tám điều này có thể liên hệ như trắng, đen hay lẫn lộn.   Chúng tôi nghĩ rằng nó sẽ hoàn hảo nếu chúng tôi giải thích đề mục này từ quan điểm của những sự thực hành được hoàn tất mà sự hiện hữu của chúng không bị nhuốm bẩn bởi nhận thức sai lạc của vưởng mắc đến sự tồn tại thật sự- sự mê tín, chấp trước của tám  pháp thế gian.
                 
                Làm thế nào một người có thể tránh bị nhuốm bẩn sự thực hành của mình trong cách này?  Bằng sự nhận thức tất cả sự hiện hữu hay tồn tại như ảo tưởng và không liên hệ với sự tồn tại thật sự.  Trong cách này, một người được giải thoát khỏi trói buộc của loại liên hệ hay bám víu này.
                 
                Để giải thích ý nghĩa của "ảo tưởng" ở đây:  sự tồn tại thật sự xuất hiện trong khía cạnh của nhiều đối tượng khác nhau,  bất cứ nơi nào chúng là rõ ràng hiển nhiên, nhưng thực tế không có sự tồn tại thật sự ở đó.  Sự tồn tại thật sự xuất hiện, nhưng không có gì-  nó là một ảo tưởng.  Mặc dù mọi thứ tồn tại xuất hiện như sự hiện hữu một cách thật sự, nó thì trống rỗng, một sự tồn tại trống rỗng.  Thấy những đối tượng là trống rỗng của hiện hữu - rằng ngay cả sự tồn tại thật sự xuất hiện, không có gì, nó là ảo ảnh, hảo huyền, không thực có - một người phải nên định rõ sự hiểu biết về ý nghĩa của tính không: tính không xuất hiện rõ ràng, sự xuất hiện rõ ràng của tính không.
                 
                Trước nhất một người nên chắc chắn rằng tất cả mọi hiện tượng là trống không của sự tồn tại thật sự.  Rồi thì về sau, khi mà có điều thuần tuý tự nhiên xuất hiện là tồn tại một cách thật sự, người ấy phản bác lại sự tồn tại thật sự bằng sự nhắc lại điều hiểu biết chắc chắn của mình trước đây là hoàn toàn vắng bóng của sự tồn tại thật sự.  Khi chúng ta đặt hai điều này chung với nhau - sự hiện hữu của sự tồn tại thật sự và tính không của nó như kinh nghiệm trước đây - chúng ta khám phá sự ảo tưởng của mọi hiện tượng.
                 
                Tại thời điểm này không cần một sự giải thích về phương thức những sự kiện xuất hiện như ảo tưởng tách rời với những điều vừa trình bày. Bài này chì giải thích đến sự thiền định trên tính không.  Mật tông tantric giảng dạy như Guhyasamaja tantra, rằng điều gọi là ảo tưởng thì hoàn toàn riêng biệt; trong đề mục này. điều được gọi là ảo tưởng không phải được biểu hiện một cách riêng biệt.  Vì vậy, sự tồn tại thật sự của điều hoàn toàn tự nhiên là đối tượng của sự phản bác và nên bị bẻ lại.  Khi những sự kiện, sự vật xuất hiện dứơi phương thức ảo tưởng hưng khởi một cách gián tiếp: chúng dường như là tồn tại một cách thật sự nhưng chúng không như thế.
                 
                HỎI:  Làm thế nào những thứ không thể tìm thấy và tồn tại một cách đơn thuần bởi sự đổ vấy cho cơ chế vận hành?
                 
                ĐÁP: Điều ấy thật khó khăn.  Nếu chúng ta có thể nhận thức rằng chủ thể và hành động tồn tại bởi lý do của sự hiện hữu tùy thuộc hưng khởi, tính không sẽ xuất hiện trong sự tùy thuộc hưng khởi hay duyên khởi.  Đây là điều khó khăn nhất để hiểu.
                 
                Nếu chúng ta đã từng nhận thức rõ vô hữu thực hữu tồn tại, kinh nghiệm của đối tượng tồn tại nói lên chính nó.  Rằng chúng tồn tại bởi tự nhiên bị bác bỏ một cách hợp lý (logic), và chúng ta có thể chắc chắn một cách hợp lý rằng những sự kiện không (tồn tại) -  không có cách nào chúng có thể (tồn tại) – tồn tại một cách cố hữu.  Tuy nhiên chúng hiện hữu một cách rõ rệt bởi vì chúng ta biết, thấy, cảm nhận, và kinh nghiệm chúng.  Vậy thì chúng tồn tại như thế nào?   Chúng tồn tại một cách đơn thuần bởi năng lực của danh xưng.  Điều này không đang nói rằng chúng không tồn tại; nó chưa bao giờ nói rằng những sự kiện không tồn tại.  Thế thì điều gì được nói là chúng tồn tại bởi năng lực của danh xưng.  Đây là một điểm khó; những gì mà chúng ta có thể hiểu một cách chậm rãi, một cách chậm rãi qua kinh nghiệm.
                 
                Trước nhất chúng ta phải phân tích hoặc là những thứ tồn tại thực sự hay là không, thật sự có thể tìm thấy hay không: chúng ta không thể tìm thấy chúng.  Nhưng nếu chúng ta nói rằng chúng thật không tồn tại gì cả, đây là một lỗi lầm, bởi vì chúng ta quả có kinh nghiệm về chúng.  Chúng ta không thể chứng minh qua lý luận hợp lý (logic) rằng những sự kiện tồn tại một cách có thể tìm thấy, nhưng chúng ta quả biết qua kinh nghiệm rằng chúng tồn tại.  Vì vậy, chúng ta có thể làm một kết luận rõ ràng rằng những thứ ấy quả tồn tại.  Bây giờ, nếu những thứ ấy tồn tại chỉ có hai cách trong điều chúng có thể làm như thế:  hoặc là từ căn bản của  chính chúng hoặc là bởi dưới sự kiểm soát của những nhân tố khác, đấy là, hoàn toàn độc lập hoặc là một cách lệ thuộc.  Vì lý luận hợp lý không thể chứng minh rằng những thứ ấy tồn tại một cách độc lập, thì chỉ còn cách là chúng có thể tồn tại một cách tùy thuộc.
                 
                Trên điều gì làm những thứ ấy tùy thuộc cho sự tồn tại cuả chúng?  Chúng tùy thuộc trên căn bản được gắn nhãn hiệu và sự tư duy những nhãn hiệu ấy.  Nếu chúng có thể tìm thấy được khi truy tầm, chúng phải tồn tại bởi tính tự nhiên của chính chúng, và vì vậy Trung Quán Luận nói rằng, những thứ ấy không tồn tại bởi tinh tự nhiên của chính chúng, sẽ là sai.  Tuy nhiên, chúng ta không thể tìm thấy những thứ ấy khi truy tầm chúng.  Những gì chúng ta tìm thấy tồn tại dưới sự khống chế của những nhân tố khác, vì vậy điều được nói là tồn tại chỉ đơn thuần trong danh xưng.  Từ ngữ  “đơn thuần” ở đây chỉ cho biết là những thứ gì ấy đang bị cắt đứt: nhưng điều gì đang bị cắt đứt thì không phải là danh xưng, nó cũng không là điều có một ý nghĩa và là đối tượng của một tâm thức có căn cứ.  Chúng ta không đang nói rằng không có ý nghĩa gì đến những thứ khác hơn là những danh xưng của chúng, hay là ý nghĩa không phải là danh xưng không là đối tượng của một tâm thức có sở cứ.  Điều gì bị cắt đứt là điều mà nó tồn tại bởi những thứ khác hơn là năng lực của những danh xưng.  Những thứ tồn tại đơn thuần bởi năng lực của danh xưng, nhưng chúng có ý nghĩa, và ý nghĩa ấy là đối tượng của một tâm thức có sở cứ.  Nhưng tính tự nhiên của những thứ ấy là chúng tồn tại thường là bởi năng lực của danh xưng.
                Không có cách nào khác, chỉ là năng lực của danh xưng.  Điều ấy không có nghĩa là bên cạnh danh xưng không có gì.  Có sự kiện, có một ý nghĩa và có một danh xưng.  Ý nghĩa là gì?  Ý nghĩa cũng tồn tại đơn thuần trong danh xưng.
                 
                HỎI:  Tâm là những gì mà tồn tại một cách thật sự hay nó cũng chỉ là một ảo tưởng?
                 
                ĐÁP:  Nó cũng giống như thế.  Theo trường phái Trung Quán Prasangika, quan điểm tối thượng, chính xác nhất, nó cũng giống như thế cho dù nó là một đối tượng bên ngoài hay là nhận thức bên trong hiểu rõ, thấy rõ, nhận thức thấu đáo nó: cả hai tồn tại bởi năng lực của danh xưng; không có thứ nào thật sự tồn tại.  Tư duy tự nó tồn tại đơn thuần trong danh xưng; tính không, Phật, tốt, xấu, và trung tính cũng thế thôi.  Mọi thứ tồn tại duy chỉ bởi năng lực của danh xưng.
                 
                Khi chúng ta nói “duy chỉ danh xưng” thì không có cách nào để hiểu nó có ý nghĩa gì khác hơn là nó cắt đứt những ý nghĩa mà những ý nghĩa không chỉ là danh xưng.  Thí dụ, nếu chúng ta lấy một người thật sự và một người ảo tưởng, cả hai là giống nhau trong điều họ tồn tại chỉ đơn thuần là danh xưng, nhưng có một sự khác nhau giữa họ.  Bất cứ điều gì tồn tại hay không tồn tại chỉ đơn thuần là nhãn hiệu gắn lên, nhưng trong danh xưng, có những thứ tồn tại và những thứ khác không tồn tại.
                 
                Theo trường phái Duy Tâm (hay duy thức) những hiện tượng bên ngoài xuất hiện vốn dĩ tồn tại, nhưng thực tế là sự tồn tại bên ngoài vốn dĩ trống không, trong khi ấy tâm là thật sự tồn tại (Thị chư thức chuyển biến, Phân biệt sở phân biệt, Do thử bỉ giai vô, Cố nhất thiết duy thức).  Đến đây, chúng tôi nghĩ rằng điều này cũng đủ về giáo lý đạo Phật.
                 
                HỎI:  Có phải “tâm” và “thức” là những thuật ngữ tương đương?
                 
                ĐÁP: Có những sự phân biệt trong tiếng Tây Tạng, nhưng thật khó khăn để nói có hay không những từ ngữ tiếng Anh mang cùng ý nghĩa.  “Tâm”  (mind) liên hệ đến thức chính yếu  (tâm vương) nó hầu như giống với “thức” ( bát thức-consciousness).  Trong tiếng Tây Tạng, “tỉnh thức”  (awareness) là thuật ngữ thông dụng nhất và được phân chia thành thức chính yếu (tâm vương) và những nhân tố tinh thần thứ yếu ( tâm sở), cả hai có những sự phân chia thêm nữa.  Cũng thế, khi chúng ta nói về tỉnh thức thì có tỉnh thức của tinh thần và tỉnh thức của giác quan, và trước đây có nhiều sự phân chia thành những trình độ của thô và vi tế.  Có hay không những từ ngữ tiếng Anh tương ứng với thuật ngữ Tây Tạng một cách chính xác …thì thật khó khăn để nói.
                #8
                  tueuyen 10.02.2009 01:05:04 (permalink)
                  0



                  NHỮNG TỪ NGỮ CHÂN THÀNH
                  A Prayer Composed by:
                  His Holiness Tenzin Gyatso The Fourteenth Dalai Lama of Tibet
                  Tuệ Uyển chuyển ngữ
                  ---


                   
                  Lời Cầu nguyện này, “NHỮNG TỪ NGỮ CHÂN THÀNH”, được viết bởi
                  bởi Đức Dalai Lama Tenzin Gyatso Thứ mười bốn của Tây Tạng vào 29 Tháng chín 1960 tại trụ sở tạm thời  của Ngài trong Ashram Swarg tại Dharamsala, Khu Kangra, .bang Himachal, Ấn Độ.  “NHỮNG TỪ NGỮ CHÂN THÀNH” này cho cầu nguyện cho sự phục sinh hoà bình và quyển tự quyết của những người Tây tạng hồi phục những giáo huấn Phật, và văn hóa quê hương được viết do những yêu cầu bởi chính phủ Tây tạng cùng với sự đồng ý nhất trí của những cộng đồng tu sĩ và cư sĩ.  Và “NHỮNG TỪ NGỮ CHÂN THÀNH” xin được làm chủ đề cho tập họp một số Thi kệ Mật Tông Tây Tạng .
                  Những Từ Ngữ Chân Thành, HH. The Fourteenth Dala Lama, Tuệ Uyển dịch

                  ---
                   

                  NHỮNG TỪ NGỮ CHÂN THÀNH
                  A Prayer Composed by:
                  His Holiness Tenzin Gyatso The Fourteenth Dalai Lama of Tibet

                   


                  Ô chư Phật, chư Bồ tát và các hàng đệ tử
                  của quá khứ, hiện tại và tương lai.
                  Có phẩm cách phi thường tuyệt diệu
                  Không thể đo lường như biển cả bao la
                  Những người đang quán sát chúng sinh
                  Như đứa con duy nhất không ai giúp đỡ
                  Xin thương tưởng lời nguyện cầu chân thành của chúng con.

                  Lời Phật dạy xua tan khổ đau cho trần thế
                  Hiển hiện và tự toả ánh hoà bình
                  Nguyện giáo nghĩa hiển dương lan toả
                  phồn thịnh và hạnh phúc khắp cả thế giới này
                  Ô những người thủ trì giáo pháp
                  và những ai thực hành thành tựu
                  Nguyện cho sự thực hành mười điều lành đức hạnh 
                  của các ngài chiếu soi

                  Những chúng sinh phước bạc bị đoạ đày
                  với khổ đau không bao giờ ngưng nghĩ
                  bị che lấp hoàn toàn không dứt
                  bởi những hành vi tiêu cực dữ dội vô cùng
                  Nguyện cho tất cả những sự sợ hãi
                  từ chiến tranh không thể chịu đựng,
                  đói khát, và bệnh tât được yên bình.
                  Để thở tự do trong đại dương của hạnh phúc và cát tường.
                  Và riêng cho những người hiếu đạo trên vùng đất tuyết',
                  qua nhiều ý nghĩa khác nhau,
                  bị tàn hại một cách nhẫn tâm 
                  bởi lũ người tàn ác bên màn đen tối.
                  Nguyện từ ái để năng lực từ bi hưng khởi
                  Để nhanh chóng đẩy lui nước mắt và máu tuôn tràn.

                  Những kẽ nhẫn tâm tàn ác đó, đối tượng của từ bi,
                  Nổi điên cuồng vì ám ảnh của tai ương
                  Cố tình tàn hại kẽ khác và chính họ
                  Nguyện cho họ đạt được con mắt của từ bi
                  Thông suốt những gì phải được làm và không nên làm
                  Và tồn tại trong vinh quang của của hữu nghị và yêu thương.

                  Tâm nguyện này xin cho sự tự do hoàn toàn của Tây tạng
                  Điều được đợi chờ suốt cả thời gian dài
                  được thanh thoát tự nhiên toại nguyện
                  Nguyện chóng được điều may mắn để mừng vui
                  Lễ hội hạnh phúc tinh thần với lệ thường trần thế

                  Ô đấng hộ vệ Quán Tự Tại, từ bi thương xót cho
                  Những ai đó đang chịu đựng vô vàn gian khổ
                  Hoàn toàn hy hiến cuộc sống thật đáng yêu, 
                  thân thể và tài vật,
                  vì lợi ích của giáo nghĩa, hành giả, 
                  dân tộc và quốc gia.

                  Vì vậy, đấng hộ vệ Quán Tự Tại đã phát lời nguyện rộng sâu
                  Trước chư Phật, chư Bồ tát,
                  Để hoàn toàn hộ trì non nước Tuyết
                  Nguyện cho quả lành của những lời cầu nguyện này xuất hiện nhanh
                  bởi sự thâm sâu của tương thuộc tính không 
                  và hình thể tương liên.
                  Kết hợp với năng lực của từ bi vĩ đại
                  trong ba ngôi tôn quý và những Từ ngữ của chân lý 
                  Và qua năng lực
                  của quy luật không sai chạy của hành động và kết quả
                  Xin cho lời cầu nguyện chân thành này không bị trở ngại
                  và nhanh chóng toại nguyện.

                   
                  ---
                   
                   
                  THẾ GIAN CẦN BẬC GIÁC NGỘ
                   
                  Không thối thất khi tin tưởng như là tri kỷ
                  Đại dương của ba nơi nương tựa quang vinh
                  Và tuệ trí của tất cả các hàng chiến thắng
                  Bản toát yếu của người là diễn giả của người cha duy nhất,
                  phẩn nộ và hoà bình Văn Thù Sư Lợi,
                  Sở hữu từ bi vô lượng của bản nhiên
                  Chúng con thiếu may mắn là những người không ai bảo vệ
                  Xin nghe lời than khóc tuyệt vọng của chúng con
                  Và cho chúng con nương tựa để hoàn thành nguyện ước (của chúng con)
                   
                  Lời của đấng giác ngộ là hoàn toàn tinh khiết
                  Ngài giữ gìn những lời giáo huấn của tuệ tri thâm diệu
                  Không thể so lường và chiến thắng muôn phương
                  Ngài biểu hiện hành vi giác ngộ tối cao
                  Khi giáo huấn của Phật và đấng cha lành
                  bị suy tàn qua mốc thời gian
                  Ngài là tràng hoa vinh dự của người giữ gìn chánh pháp
                  Niềm kính mến vô tư của tất cả  chúng sinh.
                   
                  Khi nhớ lại thân trang nghiêm rực rở
                  đã giải thoát khỏi tầm nhìn nhân thế,
                  Giọng thâm trầm như kỷ nhạc thiên cung
                  Phẩm cách bất động của tâm thậm thâm tôn giả
                  Tóc chúng con đứng thẳng lúc cuối cùng
                  với tin tưởng và  phi thường kỳ diệu
                   
                  May mắn thế nào để được học dưới gót chân sen
                  của người bạn tinh thần không thể sánh và vô cùng tuyệt hảo
                  Đạo sư của vô số trân bảo kinh tạng và mật thừa
                  Ba huấn luyện cấp cao và hai tầng địa vị.
                   
                  Đấng hộ vệ khi ngài vào cõi yên bình
                  Qua những lệ thuộc khởi lên từ công đức và hành vi
                  Một khi nếu giải thoát khỏi lòng thương xót từ bi (của ngài)
                  Niềm mến tiếc khiến tâm hồn (chúng con) thơ thẩn
                   
                  Tuy vậy, nếu bản chất bao la và thậm thâm của những lời giáo huấn (của ngài)
                  Trên những điểm của con đường hoàn thành trong kinh tạng và mật thừa
                  được chứa đựng trong thu thập của niềm tin vững chãi
                  Những làn sóng của gia bị sẽ chắc chắn thấm sâu vào tâm khảm.
                   
                  Vì vậy bởi phân tích và định thiền bất động
                  Trên con đường của không tính và từ bi
                  Và thể nhập vào thế giới của đạo sư
                  Nguyện cho mục tiêu vĩ đại của bà mẹ chúng sinh được đạt đến.
                   
                  Qua sự gần gũi thân mật với từ bi vô cùng tận
                  Những đức Phật chẳng bằng lòng ở mãi cõi bình yên.
                  Ôi, đấng Hộ vệ ban niềm vui đến đôi mắt chúng con
                  Nhanh chóng trong hình dáng tuổi thanh xuân.
                   
                  Vô lượng chúng sinh vướng trong rừng của khổ đau và nhân quả
                  là thống thiết vì thiếu người hướng đạo;
                  Xin giữ hoàn cảnh chúng trong trái tim từ ái (của ngài)
                  Nhanh chóng hiện hảo hình nguồn tối thượng của ngài.
                   
                  Trong vắn tắt, chúng con sự trung thành với những lời ngài thuyết giảng
                  Bị dày vò bởi ảnh hưởng của năm sự suy tàn
                  Xin để ánh sáng của dáng hình vật lý của ngài
                  Hiện buổi bình minh như nơi nương tựa và hổ trợ duy nhất của chúng con
                   
                  Xa hơn nữa, qua nghe nhiều, nhiệt tình thực hành và chẳng bao lâu
                  Phẩm hạnh của những bậc Thánh được hoàn toàn thành tựu
                  Xin những điều kiện ưu thắng cho ngài thành bất diệt (với)
                  Những hành vi của những bậc tiền bối của ngài.
                   
                  Những đại dương của những bậc hộ trì chánh pháp
                  cùng tính chất bởi những lời thệ nguyện từ thuở xa xưa
                  Xin hành động tại mọi thời để hoàn thành
                  Tất cả nguyện ước của Đạo sư tôn quý.
                   
                  Bởi năng lực của thực tại bất động của sinh khởi và tính không
                  Và năng lực của kết quả chân lý và tam bảo hộ trì 
                  Và năng lực của những mục tiêu trong sạch của chúng con
                  Nguyện cho mục tiêu những lời cầu nguyện được hoàn toàn toại nguyện.

                   
                  -
                   
                  A Prayer for the Quick Return of Kyabje Ling Rinpoche
                  By His Holiness the Dalai Lama 

                   
                  ---
                   
                   

                  GIAI ĐIỆU CAM LỒ BẤT DIỆT
                  prayer for the long life of the Dalai Lama

                  -Jamyang Khyentse Chokyi Lodro-


                   
                  Hướng nguyện kiết tường toàn hảo!
                  Trong tình thương bao la và tuệ trí nguyên sơ của chư Phật
                  Tất cả là hiện thân của Quán Tự Tại, trắng tinh như núi tuyết rực rở,
                  Tối thượng và thánh chúa của toàn thế giới. Ngài là bản nguyên, 
                  Đạo sư của mỗi một và tất cả chúng sinh trong ba cõi: 
                  Hướng nguyện ngài đấng chiến thắng!

                  Diệu kỳ và vô tỉ trong ba cõi;
                  Toàn trí và như hoa ưu đàm bát vô song,
                  Tràng hoa trân bảo vĩ đại cho những giáo huấn và tất cả chúng sinh trên trái đất:
                  Đấng chiến thắng tối thượng, nắm giữ hoa sen--
                  Chúng con nguyện cầu ngài trường thọ!

                  Luôn luôn và mãi mãi giác ngộ, tuy thế trong thời đại xung đột này
                  Ngài đã tập họp chúng sinh trong vòng tay của ngài,
                  Sự kiên định và thệ nguyện của ngài vững chắc như kim cương
                  Đại thánh chúa trong hàng thập địa---
                  Chúng con nguyện cầu ngài trường thọ!

                  Tất cả các sự chứng ngộ của các địa trên con đường giác ngộ
                  Hoà hiệp làm một với thân mật, khẩu mật, ý mật của ngài,
                  Tuệ trí và từ bi của ngài là không thể nghĩ bàn:
                  Đức Phật thứ nhì của Bắc phương --
                  Chúng con nguyện cầu ngài trường thọ!

                  Của giáo huấn, luận giải và sáng tạo, sự tinh thông của ngài là vẹn toàn,
                  Trong ngài tám kho tàng trân bảo của quang minh được rộng rãi mở mang ,
                  Với sự thông hiểu toàn triệt diệu kỳ, ngài triển khai giáo nghĩa:
                  Ngài là đấng chiến thắng trong muôn phương--
                  Chúng con nguyện cầu ngài trường thọ!

                  Qua sự luận giải, hoàn thành và hành động, ngài trãi rộng
                  Sự giác ngộ của những lời giáo huấn quý báu của 
                  Tổ sư Tông Khách Ba trong bách phương,
                  Phá tan những lý lẽ dối lừa của ác tâm chống đối,
                  Sư tử vô uý của thuyết pháp, Văn Thù Sư Lợi-
                  Chúng con cầu nguyện ngài trường thọ!

                  Trên con đường thành tựu mật ngôn của ba trực quan và ba mật bản,
                  Như bốn mạn đà la được hấp thụ qua sự thâm sâu những du già của bốn sự ban bố năng lực.
                  Ngài đã thực chứng trực tiếp tuệ trí của bốn thân:
                  Đấng toả khắp Kim Cương Trì--
                  Chúng con kính nguyện ngài trường thọ!

                  Đại thủ ấn là tính bản nhiên của toàn vũ trụ, 
                  Thậm thâm không tính, trong sáng và không thể cắt chia:
                  Với ánh sáng của tuệ trí vô sư, ngài đã xua tan bóng tối của sinh tử và niết bàn:
                  Đại hành giả du già, Milarepa--
                  Chúng con kính nguyện ngài trường thọ!

                  Từ kho tàng trân bảo của tất cả nhiệm mầu trong đại dương Mật tạng
                  Ngài làm dòng nước tuyệt diệu trong bốn sông trưởng thành và giải thoát
                  Chảy vào trong những cánh đồng những đệ tử diễm phúc thân thương:
                  Kim Cương Thủ, Thánh chúa Bí mật--
                  Chúng con kính nguyện ngài trường thọ!

                  Mọi thứ trong luân hồi và niết bàn đều diễn biến tương liên
                  Khởi sinh tuy thế nguyên thỉ chưa sinh, trạng thái của hoàn toàn hoà bình 
                  Bậc thầy thông tuyệt của Trung quán thậm thâm 
                  là tự tại với tất cả quan niệm sáng tạo công phu
                  Thánh chủ của loài rồng - Tổ sư Long Thọ -
                  Chúng con kính nguyện ngài trường thọ!

                  Kulika Pundarika, thiện xảo và toàn hảo diễn giải Kalachakra
                  Với sự không thể tách rời trong, ngoài và tuần tự vòng xoay của nó
                  Hiện diện trên đất Tây tạng trong hình thể của người bạn tinh thần:
                  Ngài là bản chất nguyên sơ của Phật, Kalachakra--
                  Chúng con kính nguyện ngài trường thọ!

                  Tất cả những hiện tượng của luân hồi và niết bàn
                   là sự mở rộng của quang minh thể tính--
                  Vững chắc, rõ ràng vĩ đại toàn hảo:
                  Trong sự tự giải thoát, vượt trên tất cả hành động,
                  Ngài thể nhập vào thế giới thành quả chứng,
                  Thánh chúa nguyên sơ Phổ Hiền--
                  Chúng con kính nguyện ngài trường thọ!

                  Vô uý và không pha tạp hay làm chúng rối,
                  Ngài hướng cỗ xe vĩ đại giáo nghĩa tất cả chư Phật;
                  Nơi nương tựa cho những lời giáo huấn và tất cả chúng sinh:
                  Đấng Thánh chúa Tenzin Gyatso--
                  Chúng con kính nguyện ngài trường thọ!

                  Hàng trăm lần với sự tôn sùng và kính ái,
                  Những đấng trân bảo thượng thủ toàn năng của ba cõi,
                  Kính lạy đến những luân xa kiết tường bàn chân sen của ngài:
                  Đấng Pháp vương vĩ đại:
                  Chúng con kính nguyện ngài trường thọ!

                  Như thánh chúa của hàng thiên chúng, tiêu diệt tà lực của bọn a tu la
                  Với hàng trăm sắc bén kim cương của năng lực, sinh lực và cường lực,
                  Phá tan những quan kiến hư đốn, sai lầm nhiều như hàng núi đá,
                  Đấng đáng sợ hãi Heruka--
                  Chúng con kính nguyện ngài trường thọ!

                  Cho đến khi trái đât này, núi Tu di, mặt trời và trăng còn tồn tại,
                  Kính nguyện ngài vẫn kiên cố, tất thắng trên kim cương toạ
                  Trong cung điện báu Phổ đà la, niềm an lạc của Quán Tự Tại,
                  Thân mật, khẩu mật và ý mật của ngài là vĩnh cữu không bao giờ thay đổi!

                  Qua ân huệ cố của ba bổn tôn tối thượng của trường thọ,
                  Và năng lực chân thực của các bậc đạo sư, hoá thần, chư Phật và bồ tát,
                  Chúng con nguyện cầu tất cả để được gia hộ,
                  Và vì vậy được hoàn toàn sở nguyện không chướng ngại!

                  ---
                   


                  BẢY NIỀM HOAN HỈ
                  Bài hát đem những hoàn cảnh khó khăn vào con đường tu tập

                   


                  Khi tâm niệm cảm thấy và một sự nhận thức
                  Cám dỗ tâm ta vọng động và bối rối
                  Ta không đóng cửa các giác quan để thiền định 
                  Nhưng tiến thẳng vào điểm chính yếu của chúng
                  Chúng như những đám mây trong bầu trời; có ánh sáng lung linh nơi chúng bay
                  Tâm niệm bừng lên, cho ta niềm hoan hỉ hoàn hảo!

                  Khi những điều bất toàn dẫn lối cho ta và sự nóng bỏng của chúng làm ta cháy bỏng
                  Ta không cố gắng trừ khử để hướng chúng đúng đường
                  Như một liều thuốc độc tôi luyện chuyển kim loại thành vàng
                  Những gì dựa trên sức mạnh của những điều bất toàn để tìm chỗ trọ
                  là niềm vui không bị tiêm nhiễm và hoàn toàn không cấu nhiễm
                  Điều bất toàn khởi dậy, hoan hỉ hoàn toàn!

                  Khi ta bị buồn rầu bởi thiên tai hay bị tà mị lung lay
                  Ta không xua đuổi chúng ra bằng nghi lễ hay thần chú
                  Điều bị tống khứ đi là tâm tư vị ngã
                  Xây dựng trên ý tưởng của "cái ta"
                  Điều này sẽ chuyển hàng ngũ của ma vương thành sức mạnh tuyệt hảo của chính ta
                  Khi chướng ngại trổi dậy, hoàn toàn hoan hỉ!

                  Khi vòng luân hồi với những nổi thống khổ của nó làm ta lăn lộn trong sự đau khổ
                  Thay vì đắm mình trong những nổi thống khổ
                  Ta để gánh nặng xuống con đường vĩ đại để du hành
                  Và để từ bi xếp đặt lối đi
                  Để mang lên chính ta những khổ đau của kẻ khác
                  Khi nghiệp trổ quả, hoan hỉ!

                  Khi thân thể ta không chống nổi với sự tấn công của đớn đau bệnh tật
                  Ta không quan tâm đến thuốc men cứu chửa
                  Nhưng lấy sự bệnh tật như một phương thuốc và bằng năng lực của nó
                  Xóa đi sự mờ mịt đang che lấp tâm ta
                  Và dùng nó để động viên những phẩm chất xứng đáng
                  Khi bệnh tật ngẩng đầu lên, hoan hỉ hoàn toàn!

                  Khi đến lúc lìa bỏ thân này, ảo giác hổn tạp này
                  Đừng khiến ta bối rối và nối tiếc
                  Việc ta nên luyện tập và soi sáng cho chính ta là
                  Không có đỉều gì như là chết để mà xong.
                  Nó chỉ là ánh sáng trong suốt của mẹ và ánh sáng trong suốt của con hoà hiệp 
                  Khi tâm từ bỏ xác thân, hoan hỉ hoàn toàn!

                  Khi toàn thể không hoạt động, mọi thứ tuần tự chống lại ta
                  Đừng cố gắng tìm cách để thay đổi tất cả
                  Đây là điểm làm sự thực hành của ta hoàn toàn trái ngược điều ta thấy chúng,
                  Đừng cố gắng làm nó dừng lại hay để cải thiện.
                  Đối nghịch lại những điều kiện xãy ra, khi chúng làm nó quá say mê
                  Chúng làm một bài hát nho nhỏ của sự hoàn toàn hoan hỉ!

                  ---
                   

                  GIẢI QUYẾT VỚI HẬN THÙ
                  *Gởi và nhận*
                  Langri Tangpa (1054-1123)
                  -Tám đoạn thơ luyện tâm-

                   


                  Quan tâm yêu mến tất cả chúng sinh
                  như là tuyệt diệu ngay cả là viên ngọc ước
                  để hoàn thành mục tiêu cao cả nhất
                  nguyện cho chúng con luôn luôn ôm ấp  chúng sinh như người thân yêu nhất

                  Khi cùng đồng hành với những người khác
                  Chúng con luôn nghĩ mình là người thấp kém nhất
                  Và từ chiều sâu của trái tim chúng con
                  Ôm ấp tất cả thân thương và quan yếu nhất

                  Thận trọng, khoảnh khắc một ảo giác xuất hiện
                  Điều nguy hiểm cho chúng con và người khác
                  Chúng con nên đối mặt và phá tan nó
                  Không chút chậm trể.

                  Khi chúng con thấy những kẽ tính tình độc ác
                  Ngập tràn bởi những hành động bạo tàn và đau khổ
                  Chúng con nên ôm ấp những chúng sinh hiếm hoi thân mến như vậy,
                  Như là lúc chúng con vừa tìm thấy một kho trân bảo.

                  Khi những kẽ khác,  đầy thèm khát và ghen tị, ngược đãi chúng con,
                  Lăng mạ chúng con hay những điều như vậy,
                  Chúng con nên chấp nhận thất bại
                  Và nhường chiến thắng cho kẽ khác.

                  Khi những người chúng con từng giúp ích cho
                  Và trong những kẽ chúng con ngập tràn hy vọng
                  Cho chúng con tổn thương khủng khiếp
                  Chúng con nên coi kẽ ấy như người bạn tinh thần thánh thiện.

                  Cả trực tiếp và gián tiếp, chúng con nguyện dâng
                  Mọi lợi ích và hạnh phúc cho tất cả chúng sinh, những bà mẹ của chúng con;
                  Nguyện cho chúng con bí mật gánh tất cả trên chúng con
                  Tất cả những hành động tai hại và khổ đau của tất cả.

                  Nguyện cho tất cả không bị ô nhiểm bởi những khái niệm
                  Của tám điều liên quan trần tục (bát phong)
                  Và thức tỉnh rằng tất cả mọi sự là hão huyền

                  Nguyện cho tất cả, không bám chặc tham lam, và tự tại với mọi sự ràng buộc. 
                   
                  ---
                   


                  NGUYỆN CẦU
                  Poetry of the Karmapa 

                   


                  Đến từ mặt trời của những đức Phật tôn quý.
                  Mĩm cười toả chiếu ánh sáng lời Phật dạy.
                  Mang đến những hoa sen rộ nở của vườn Tăng già, cộng đồng chúng trung tôn.
                  Nguyện xin ba cõi hé mở tất cả những xinh tốt của vinh quang thuận lợi.
                  Trong năm này xin cho hoà bình và thịnh vượng trên toàn trái đất. 
                  Nguyện cho tất cả sống trường thọ và không tật bệnh bất cứ loại nào.
                  Nguyện cho tất cả hoàn toàn thành tựu mọi thứ chúng ta làm.

                   
                  With prayers from Karmapa Ogyen Trinley Dorje, Buddha year of 2049, Western Year of 2005, Tibetan 1st month and 1st day of Wood Bird Year
                  ---
                   

                  ĐẠI THỦ ẤN
                  HƯỚNG NGUYỆN ĐẠO SƯ 

                   


                  Chúng con kính nguyện đến ngài, 
                  đạo sư quý báu, đạo sư từ bi, đạo sư pháp vương, 
                  chúng con dâng lời cầu nguyện đến ngài với lòng ước ao, khao khát. 
                  Đối với chúng con, những chúng sinh phàm phu thấp hèn, phước bạc, 
                  ngài là niềm hy vọng duy nhất của chúng con. 

                  Đạo sư quý báu, chúng con kính nguyện đến ngài, 
                  Thọ nhận sự gia hộ của ngài 
                  để tâm chúng con xa rời niềm tin ngã chấp 
                  Gia hộ chúng con 
                  để niềm hoan hỉ dâng tràn như dòng suối trong tâm chúng con 
                  Gia hộ chúng con để những suy tư phi pháp có thể dừng lại. 

                  Thọ nhận sự gia hộ của ngài 
                  để Tâm chúng con có thể được thực chứng như bất sinh. 
                  Thọ nhận sự gia hộ của ngài 
                  để vọng tưởng có thể tự chìm lắng xuống 
                  Thọ nhận sự gia hộ của ngài để những hiện tượng xuất hiện có thể được liễu ngộ là Pháp thân. 
                  Đạo sư quý báu, chúng con kính nguyện đến ngài. 


                   

                  ĐẠI THỦ ẤN 
                   


                  Kính lễ Đạo sư 
                  Những Đạo sư, Hoá thần, bổn tôn của các vũ trụ mạn đà la, 
                  tất cả các đấng Chiến thắng và quyến thuộc của các ngài 
                  trãi suốt ba thời, khắp trong mười phương 
                  xin thương tưởng đến chúng con với lòng từ bi thương xót của ngài 
                  và ban bố sự gia hộ của ngài 
                  để lời nguyện ước của chúng con có thể trở thành sự thật. 

                  Những hành động của chính chúng con và vô lượng chúng sinh 
                  xuất phát từ núi tuyết của tất của những mục tiêu trong sạch 
                  là những dòng sông của tích tập đạo nghiệp không nhiễm ô gấp ba lần, 
                  nguyện cho tất cả tuôn chảy vào đại dương bốn thân* của những đấng Chiến thắng. *(tự tính thân, tuệ trí thân, báo thân, và hoá thân) 

                  Cho đến khi đạt được điều này, đời nối tiếp đời trong tất cả những đời sống khác của chúng con 
                  nguyện cho chúng con ngay cả những tiếng "tội lỗi" và "khổ đau" cũng không nghe đến 
                  nguyện cho chúng con được hưởng đủ đầy cả một đại dương của hạnh phúc và điều lành. 

                  Nguyện cho chúng con đạt được những sự tự tại và những trân bảo quý báu tốt đẹp nhất, phú quý nhất tồn tại trong loài người: 
                  Là người với niềm tin, cần mẫn và thông minh, 
                  nguyện cho chúng con được nương trên một thiện hữu tri thức tâm linh, 
                  tiếp nhận những tinh hoa của những lời hướng dẫn 
                  không gặp những chướng ngại đến mục tiêu tu tập 
                  nguyện cho chúng con thường được thực hành 
                  những lời dạy thiêng liêng trong tất cả mọi kiếp sống. 

                  *Học tập những kinh điển và những lý do chính đáng 
                  những đám mây u ám vô minh được tiêu tan 
                  *tư duy bản chất những lời truyền trao 
                  bóng tối của nghi ngờ được chinh phục. 
                  *Trong ánh sáng được sinh ra từ thiền định 
                  trạng thái tự nhiên chiếu soi rỏ ràng từ tự thể 
                  Nguyện cho quang minh của ba trí tuệ được tăng trưởng hơn bao giờ hết. 

                  Nguyện cho chúng con được gặp những lời dạy chuẩn mực 
                  từ trong ấy hai chân lý biểu hiện một căn bản. 
                  giải thoát những cực đoan của thường kiến và hư vô, 
                  xa trong giá trị những lời phán đoán qúa đáng 
                  con đường siêu việt đấy là của hai sự tích tập 
                  nhờ đấy kết quả , nhân đôi tốt hơn 
                  giải thoát từ những cực đoan của động và tĩnh được đạt đến. 
                  Nguyện cho chúng con tương kiến được giáo pháp như vậy 
                  điều được giải thoát từ bất cứ khía cạnh nào của sự thiếu hiểu biết và cái thấy sai lầm. 

                  Căn bản được tịnh hoá là chính tự tâm 
                  là sự kết hợp của trong sáng và rỗng không 
                  Tịnh hoá là sự thực hành kim cương vĩ đại của đại thủ ấn 
                  xuyên qua đối tượng của tịnh hoá, 
                  cấu bẩn của vọng tưởng ngẫu nhiên được làm cho trong sạch 
                  Nguyện cho kết quả tịnh hoá, pháp thân không cấu nhiễm được làm hiển lộ rõ ràng. 
                   

                  Để cắt đứt những sai lầm từ căn nguyên 
                  là có tin tưởng vào quan điểm 
                  để tâm không xao lãng 
                  là điểm chính của thiền định 
                  để trở thành giỏi giang thành thạo trong mọi khía cạnh của thiền định là hành động tuyệt hảo. 
                  Nguyện cho chúng con tăng tiến sự tin tưởng vào quan điểm, thiền định, và hành động. 

                  Tất cả các hiện tượng là phản chiếu của tâm; 
                  tâm là không tâm, sự trống rỗng của bất cứ thực chất nào của tâm. 
                  Nó là trỗng rỗng tuy thế liên tục, rõ ràng tại bất cứ điều gì và bất cứ thứ gì. 
                  Sau khi thẩm xét cẩn thận, nguyện cho căn bản cội rễ của mọi thứ được biết rõ tường tận. 

                  Sự phản chiếu của bất ai thì không bao giờ thật sự tồn tại 
                  trở thành sai lầm cho những đối tượng, 
                  bị chế ngự bởi si ám vô minh 
                  tâm chúng ta trở nên ngộ nhận tự ngã 
                  Dưới sự thống trị của sự tin tưởng nhị nguyên này 
                  chúng ta lang thang trong cung mê của cuộc sống 
                  Nguyện cho vô minh - trạng thái của vọng tưởng - được phơi bày một cách quả quyết. 

                  Nó không hiện hữu - 
                  ngay cả những đức Phật cũng không thấy nó. 
                  Nó không tồn tại, 
                  làm căn cứ toàn bộ cho luân hồi và niết bàn. 
                  Nó không là một sự kết hợp của những thứ đối nghịch nhau nhưng đồng thời, 
                  Trung đạo. 
                  Nguyện cho tính bản nhiên của tâm chân thực, xa rời bất cứ cực đoan nào được thể nhận. 

                  Nó không thể được chỉ bảo bởi những lời tuyên bố rằng "điều này là nó" 
                  Nó không thể bị phản bác lại bởi bất cứ tuyên bố nào rằng "điều này không là nó". 
                  Khó có thể tiếp xúc được với lập luận rằng bản chất của vũ trụ là tự nó mà có hay không được tạo ra. 
                  Nguyện cho có một cách chắc chắn về chân lý cơ bản chủ yếu. 

                  Không hiểu được điều này 
                  chúng ta trôi dạt lẫn quẫn vòng quanh trong bể luân hồi. 
                  Khi điều này được hiểu, đức Phật thì không ở nơi nào khác. 
                  Tất cả là điều này - không có điều gì sẽ không là "Điều này": 
                  nguyện cho "điều huyền bí" của chân lý bản nhiên, 
                  nền tảng của vũ trụ vạn hữu được hiểu biết. 

                  Hiện hữu là tâm tuy thế trống không cũng là tâm. 
                  Thông suốt là tâm tuy thế ảo tưởng cũng là tâm chúng ta. 
                  Bắt đầu là tâm tuy thế chấm dứt cũng là tâm. 
                  Nguyện cho tất cả những sự hiểu biết sai lầm của tâm được đoạn trừ. 

                  Không bị làm cấu nhiễm bởi bởi trí tuệ thiền định căng thẳng 
                  Không bị gợn sóng bởi những ngọn gió thúc ép và hối hả tầm thường 
                  để biết làm thế nào để cho tâm đến với diễn biến của chính nó, 
                  không thay đổi và tự nhiên; 
                  đấy là sự thực hành ý nghĩa của tâm 
                  Nguyện cho chúng con thuần thục và luôn luôn thực hành điều này. 

                  Náo động hay bình thản, những làn sóng của tâm tư sẽ ngưng nghĩ trong sự hoà hiệp của chính nó. 
                  Không có sự khích động, dòng sông tâm tư lắng ổn một cách tự nhiên. 
                  Tự tại với bùn lầy ô nhiễm của lãng quên và mộng tưởng. 
                  Nguyện cho đại dương của bình an luôn không dao động và ổn định. 

                  Khi quán sát tâm qua lần này, lần sau và lần kế 
                  chẳng có gì để thấy nữa đâu. 
                  "Không có gì để thấy" được thấy vô cùng sinh động - như nó là như thế mà thôi. 
                  Điều này cắt đứt mọi nghi ngờ của "tồn tại" hay "không tồn tại". 
                  Nguyện chúng con tự thể nhận điều này, 
                  rõ ràng và không lầm lẫn mãy may. 

                  Khi quán sát những đối tượng chỉ thấy không đối tượng - 
                  chúng được thấy cũng như là tâm. 
                  Nhìn vào tâm chỉ thấy không tâm - 
                  nó rỗng không từ nơi bản chất. 
                  Nhìn vào cả nhị nguyên tin tưởng 
                  là tự động xua đuổi tan đi. 
                  Nguyện quang minh rực rở rõ ràng 
                  thể tự nhiên của tâm hoàn toàn được hiểu thấu. 

                  Tự tại với xét suy nhận thức 
                  Đaị thủ ấn chính thật đấy là. 
                  Tự tại từ chính những cực đoan 
                  lại chính là vĩ đại Trung đạo. 
                  Bản chất của toàn bộ mọi thứ 
                  cũng được gọi là sự vĩ đại tuyệt hảo hoàn toàn . 
                  Nguyện cho chúng con được niềm tin vững chắc 
                  biết một điều này là hiểu thông tất cả. 

                  Không liên hệ hạnh phúc vĩ đại không bao giờ ngưng nghĩ 
                  Không nhãn hiệu rực rở rõ ràng 
                  là tự tại với màn che u tối. 
                  Vượt lên trên trí thức vô tư 
                  là hiện tại sinh động không gò bó 
                  Nguyện những kinh nghiệm dễ dàng không phải gắng 
                  được tuôn trào không có gì chướng ngại. 

                  Không liên hệ những điều kinh nghiệm - bám những gì thích ý dịu êm - 
                  chính tự nó xoá tan đi cả 
                  Những tư tưởng não phiền chẳng là gì mà chỉ là ảo tưởng 
                  là tinh khiết tự nhiên thành ra rộng rãi 
                  Trong tâm bình thường không có gì lấy hay là bỏ 
                  không có gì chuyển di hay giành được 
                  Nguyện chân lý của bản chất vũ trụ giản đơn 
                  được liễu ngộ (và không bị làm phức tạp) 

                  Tính bản nhiên của tất cả hữu tình 
                  tại tất cả thời đúng là Phật tính 
                  nhưng từ khi chúng không hiểu điều này 
                  chúng quẩn quanh trong luân hồi vô tận 
                  Để chúng sinh trong cõi vô chung, 
                  trong vô tận khổ đau cùng cực 
                  nguyện tràn ngập từ bi được sinh trong chúng con 

                  Năng lực từ bi tràn ngập chưa bao giờ ngưng dứt 
                  trong khi có tình thương thực tế 
                  của rỗng không rõ ràng hiển lộ 
                  nguyện cho chúng con sẽ chẳng bao giờ 
                  xa rời con đường chân thực toàn hảo của đồng thời 
                  và đặt nó vào trong thiền tập cả ngày lẫn đêm. 

                  Nguyện cho năng lực của thiền định 
                  cho chúng con sự hiểu biết trực tiếp thâm sâu 
                  trực giác tinh khiết nhiệm mầu 
                  Nguyện điều ấy giúp chúng con thành những người khôn lớn 
                  làm hiển lộ bình nguyên Phật chủng 
                  thông qua tịnh hoá và hoàn thành nguyện ước 
                  để đạt thành phẩm chất Phật đà. 
                  nhờ vào việc thực hành hoàn toàn điều này 
                  sự trưởng thành và tịnh hoá 
                  Nguyện cho chúng con trở thành những vị Phật 

                  Thông qua lòng từ bi của những đức Phật 
                  và quyến thuộc của các ngài trong khắp mười phương 
                  và năng lực của những hành động thanh tịnh 
                  và bất cứ điều lành nào có được 
                  Cầu cho lời nguyện ước tinh thành 
                  của chúng con và tất cả chúng sinh 
                  được hoàn toàn như lời nguyện ước 

                  Nhờ nnhững thiện nghiệp này, 
                  nguyện cho chúng con đạt thành toàn trí 
                  chiến thắng mọi kẽ thù độc ác trong con, 
                  và giải thoát chúng sinh từ trong biển khổ 
                  bị khuấy lên bởi sóng sinh, già, bệnh, chết



                  HƯỚNG NGUYỆN DÂNG HIẾN 
                   


                  Chúng con xin dâng hiến tất cả đạo nghiệp này với sự thành thật nhất trong con đường sẽ làm nó phát triển bội phần hơn, theo khuôn mẫu rạng rở, lẩy lừng, vinh quang, can trường thiết lập bởi Đại tuệ Văn Thù Sư Lợi và Đại hạnh Phổ Hiền. 
                  Thông qua sự gia hộ siêu tuyệt diệu kỳ hiện diện bởi ba thân Phật, sự gia hộ của của sự thật thường hằng bất biết của vạn pháp và sự gia hộ của sự chân thành cầu nguyện Tổ chức Tăng già luôn luôn hòa hiệp, xin cho lời cầu nguyện này được hoàn toàn toại nguyện.
                   
                  "Đại Thủ Ấn "được trích dịch từ 
                  bài "Guru – Disciple Relationship" của His Eminence the 12th Kenting Tai Situpa.
                   
                  #9
                    tueuyen 10.02.2009 01:14:56 (permalink)
                    0
                     HỎI ĐÁP
                     
                    1-Có thượng đế hay bất cứ điều gì mơ hồ giống như thượng đế trong Phật giáo hay không?

                    Đức Phật có phải là thượng đế? Phật giáo là vô thần hay có rất nhiều thần thánh?

                    Tất cả các truyền thống Phật giáo  khẳng định không tin tưởng vào một đấng tạo hoá tối cao. Mặc dù Phật giáo thỉnh thoảng được gắn cho nhãn hiệu vô thần bởi những học giả, điều này có thể là sự kiện sai lầm vì những người ở phương Tây thường nghĩ "vô thần" có nghĩa là sự phủ nhận tâm linh hay tín ngưỡng. Phật giáo bao gồm rất nhiều yếu tố tâm linh và tôn giáo, mặc dù Phật giáo đúng thật là một giáo trình học tập, tu tập hay huấn luyện.
                     
                    Thật khó định nghĩa Phật giáo theo thuật ngữ phương Tây vì Đạo Phật hình thành ở ngoài Tây phương nên ngôn ngữ Tây phương không có một thuật ngữ thích hợp để diễn tả hay phân loại.

                    Những câu hỏi loại này, áp dụng vào khái niệm Phật giáo, giống như một người hỏi người thư ký dùng bút màu xanh hay đen khi cây bút đang dùng là màu đỏ, hay giống như hỏi một người theo một tôn giáo tây phương rằng họ có những tính cách giống một Đức Phật không?

                    Trong Phật giáo có một thế giới gọi là "thiên" (Deva), được dịch là God. Nhưng những vị "trời" này đơn giản là một chủng loại được hưởng đời sống lâu dài và sung sướng trên cõi trởi . Ngay cả sau khi sống hàng triệu năm họ sẽ chết và tái sinh. Họ không giác ngộ và là chúng sinh thuộc thế gian (lục đạo), ngay cả chư thiên (trong ý nghĩa này) có thể hộ vệ và hổ trợ, nhưng họ không thể giúp một người trở nên giác ngộ như một vị Phật. (đây không phải hay không giống với khái niệm thượng đế cùng thiên đàng của Ki Tô Giáo? .pt.).

                    Phật vượt lên trên thiên giới (deva); Phật là chúng sinh đã giác ngộ và vượt qua khỏi sinh tử nhưng vẫn tiếp tục cứu giúp chúng sinh. Và vì vậy Phật được gọi là " thiên nhân chi đạo sư".

                    Đức Phật khi được hỏi đã trả lời, "Phật là người tỉnh thức" hay "Phật là người giác ngộ". Đức Phật đã giác ngộ sự thật, và thông suốt tất cả về sự hiện hữu, và đồng thời Đức Phật vượt ra khỏi vòng sinh tử luân hồi.

                    2-Có điểm giống nhau cơ bản nào giữa Phật giáo và các tôn giáo khác?

                    Những điểm khác nhau cơ bản giữa Phật giáo và các tôn giáo khác là thế nào?

                    Như đã nói ở trên là tất cả các truyền thống Phật giáo  khẳng định không tin tưởng vào một đấng tạo hoá tối cao.  Tuy thế nếu định nghĩa thánh Allah, thượng đế, hay là đấng tạo hoá tối cao như toàn năng, toàn trí tạo dựng nên vũ trụ, tạo nên muôn loài, thì đối với Phật giáo có hiện diện một khái niệm tương tự cũng có khả năng tạo ra tất cả đấy là TÂM hay chân tâm, "tất cả đều do tâm tạo."

                    "Nhược nhân dục liễu tri, (Nếu ai muốn biết rõ)
                    Tam thế nhất thiểt Phật, (Tất cả Phật ba đời)
                    Ưng quán pháp giới tánh, (Nên quán pháp giới tánh)
                    Nhât thiết duy tâm tạo." (Tất cả do tâm tạo)

                    Tuy vậy, khi nói đến TÂM là phải hiểu cái thể, cái thể của tất cả, Phật là những ai đạt đến cái thể của vạn pháp.  Không như thánh Allah, thượng đế, hay là đấng tạo hoá tối cao có thể ban phúc, giáng họa, quyết định vận mạng của muôn loài, mà chúng ta thường được nghe đến như thuyết thiên mệnh, trời kêu ai nấy dạ;  Phật giáo không như thế mà Phật giáo dựa trên thuyết nhân quả nghiệp báo. Đây là điểm căn bản khác nhau giữa Phật giáo và các tôn giáo khác.

                    Đã mang lấy nghiệp vào thân,
                    Thì đừng trách lẫn trời gần, trời xa,
                    Thiện tâm ở tại lòng ta,
                    Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

                     
                    3-"Tâm, Phật, chúng sinh tam vô sai biệt" là thế nào?

                    Tâm, Phật, Cập Chúng Sanh Thị Tam Vô Sai Biệt: Ngoài tâm ra không có gì nữa; tâm, Phật và chúng sanh không sai khác. Đây là một giáo thuyết quan trọng trong Kinh Hoa Nghiêm. Tông Thiên Thai gọi đây là Tam Pháp Diệu.

                    Một cách chi tiết:

                    - Tâm: chân tâm, bản thể, hay Phật tính.
                    - Phật: giác giả, người giác ngộ, hay người ngộ chân tâm, nhập bản thể, hay kiến tính.
                    - Chúng sinh: mặc dù có câu "nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính", nhưng chúng sinh bị vọng tâm che lấp Phật tính, bản thể, chân tâm.  Khi nào giác ngộ bản tâm thì mọi chúng sinh đồng Phật không khác nên nói là "Tâm, Phật, chúng sinh tam vô sai biệt".

                    - Tâm, ý, thức là thế nào?

                    Nói tâm, ý, thức tức là nói đến tâm thức của một chúng sinh.

                    Hay một cách cụ thể là:

                    - Tâm: vọng tâm, hay là tàng thức,  a lại gia thức.
                    - Ý: tức là tiềm thức hay mạt na thức.
                    - Thức: tức là ý thức, hay thức thứ sáu.

                    - Sự liên hệ giữa "Tâm, Phật, chúng sinh" và "tâm, ý, thức" như thế nào?

                    Nói "tâm, ý, thức" tức là nói đến một chúng sinh trong "Tâm, Phật, chúng sinh".

                    - Chân tâm: là vô phân biệt, vô biên cương, vô sinh, bất diệt.
                    - Vọng tâm: là phân biệt, có sinh, có diệt, là một phạm trù giới hạn trong "chân tâm vô biên cương". Khi một chúng sinh giác ngộ, hay đạt đến thể vô sinh thì tự xóa tan  vòng giới hạn của vọng tâm để thể nhập vào chân tâm vô biên cương, như một đại dương bình lặng, vì chân tâm bao trùm khắp pháp giới.

                     
                    ---
                    Lời cuối
                      Với một số bài sưu tầm tuyển dịch ở trên Tuệ Uyển ước muốn những người đọc có một khái niệm về Tâm và Chuyển Hoá!
                     
                    Kính
                    Tuệ Uyển

                    #10
                      tueuyen 20.02.2009 05:00:08 (permalink)
                      0


                      ĐẠO PHẬT VÀ THẾ GIỚI LOÀI NGƯỜI
                      ---
                       
                      "Một câu hỏi lớn nhấn mạnh kinh nghiệm của chúng ta, cho dù chúng ta có nghĩ về nó một cách có ý thức hay không: Mục tiêu của đời sống là gì? Chúng tôi đã suy nghĩ về câu hỏi này và muốn chia sẻ những suy tư của chúng tôi trong hy vọng rằng chúng có thể trực tiếp, thực tiển, lợi ích đến những ai đấy đọc đến. Chúng tôi tin tưởng rằng muc tiêu của đời sống là để được vui tươi-hạnh phúc. Ngay từ khoảnh khắc của sự sinh, mỗi người chúng ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Chẳng cần biết điều kiện xã hội hay sự giáo dục (học vấn), hay hệ tư tưởng ảnh hưởng đến điều này. Từ cốt tủy của mỗi chúng ta, chúng ta chỉ đơn giản khao khát sự toại ý...."
                       

                      ***
                      TỪ BI YÊU THƯƠNG VÀ CÁ NHÂN
                      His Holiness the Dalai Lama
                      Tuệ Uyển chuyển ngữ
                      ---
                      MỤC TIÊU CỦA ĐỜI SỐNG  
                       
                      Một câu hỏi lớn nhấn mạnh kinh nghiệm của chúng ta, cho dù chúng ta có nghĩ về nó một cách có ý thức hay không: Mục tiêu của đời sống là gì? Chúng tôi đã suy nghĩ về câu hỏi này và muốn chia sẻ những suy tư của chúng tôi trong hy vọng rằng chúng có thể trực tiếp, thực tiển, lợi ích đến những ai đấy đọc đến. 

                      Chúng tôi tin tưởng rằng muc tiêu của đời sống là để được vui tươi-hạnh phúc. Ngay từ khoảnh khắc của sự sinh, mỗi người chúng ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Chẳng cần biết điều kiện xã hội hay sự giáo dục (học vấn), hay hệ tư tưởng ảnh hưởng đến điều này. Từ cốt tủy của mỗi chúng ta, chúng ta chỉ đơn giản khao khát sự toại ý. Chúng tôi không biết rằng trong vũ trụ, với vô lượng thiên hà, tinh tú và hành tinh, có một ý nghĩa nào sâu xa hơn không, nhưng tối thiểu, rõ ràng rằng loài người chúng ta, sống trên trái đất đối mặt với công việc để tạo dựng một đời sống vui vẻ cho chính chúng ta. Vì vậy, thật là quan trọng để khám phá điều gì sẽ mang đến mức độ hạnh phúc to lớn
                       
                      LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC HẠNH PHÚC

                      Trong sự bắt đầu, có thể chia những loại hạnh phúc và khổ đau thành hai loại chính: tinh thần và vật chất. Đối với cả hai, chính yếu là tâm chúng ta, hay tư tưởng chúng ta đã cố gắng một ảnh hưởng lớn nhất trong hầu hết mọi hoạt động của chúng ta. Ngoại trừ chúng ta hoặc là bệnh hoạn nghiêm trọng hay bị tước đoạt những sự căn bản cần thiết, những điều kiện vật lý của chúng ta đã hoạt động thứ yếu trong đời sống. Nếu thân thể mãn nguyện, chúng ta phớt lờ nó. Tâm chúng ta, tuy thế, đã ghi nhận mọi sự kiện, cho dù nó nhỏ đến thế nào. Vì vậy chúng ta nên dành hết những cố gắng quan trọng nhất của chúng ta để mang đến sự yên bình của tâm hồn. "Tâm hoà bình, thế giới thanh bình".

                      Trong kinh nghiệm hạn hẹp của chính mình, chúng tôi đã tìm thấy một mức độ tĩnh lặng to lớn nhất của nội tâm đến từ sự phát triển của tình thương và từ bi.

                      Càng quan tâm đến hạnh phúc của người khác, sự an lành cát tường của chính ta càng trở nên lớn hơn. Trau giồi một cảm giác gần gũi, ấm áp cho người khác thì tự động tâm tưởng chúng ta sẽ được thoãi mái. Điều này giúp dứt bỏ bất cứ sự sợ hãi hay bất ổn mà chúng ta có thể có hay làm chúng ta căng thẳng, để đối phó với bất cứ chướng ngại nào mà chúng ta chạm trán. Nó là cội nguồn căn bản của thành công trong đời sống.

                      Khi chúng ta vẫn còn sống trên cõi đời này, cuộc đời tạm bợ này, thế giới này chúng ta sẽ phải vẫn còn chạm trán với những chướng ngại, khó khăn. Nếu tại những thời điểm như vậy, chúng ta mất hy vọng và trở nên thiếu nghị lực, chúng ta đã làm giảm mất khã năng đối phó với khó khăn của chúng ta. Mặt khác, nên nhớ rẳng, không chỉ riêng cá nhân chúng ta mà mỗi người đã và đang phải chịu đựng khổ đau, Viễn cảnh thực tế hơn sẽ tăng cường sự quyết định và khã năng để vượt qua chướng ngại. Thực vậy, với thái độ này, mỗi chướng ngại mới có thể được xem như một cơ hội khác tốt hơn để phát triển tâm chúng ta!
                      Vì vậy chúng ta có thể phấn đấu dần dần để trở nên từ bi hơn, yêu thương hơn, chúng ta có thể phát triển cả sự cảm thông chân thành với khổ đau của người khác và đồng thời sẽ giúp để tiêu trừ nổi đau của họ. Như một kết quả, sự tịch tĩnh và nội lực của chúng ta sẽ được tăng trưởng
                       
                      TÌNH THƯƠNG CẦN THIẾT CHO CHÚNG TA 
                       
                      Một cách căn bản, nguyên nhân vì sao yêu thương và từ bi mang đến hạnh phúc to lớn thì đơn giản rằng đấy là bản tính tự nhiên của chúng ta ấp ủ chúng trên tất cả những thứ khác. Sự cần thiết cho tình thương là nền tảng căn bản cho sự tồn tại của loài người. Nó kết quả từ sự liên đới sâu sắc mà chúng ta chia sẽ với những người khác. Tuy nhiên khã năng và sự thiện nghệ của cá nhân có thể, nếu bị bỏ rơi cô đơn, người ấy sẽ không thể sống sót. Tuy nhiên, sự mạnh mẽ và độc lập của một người có thể cảm nhận trong thời gian thành công và phát đạt; khi họ quá trẻ hay quá già, hay bệnh hoạn người ta phải cần nhờ sự giúp đở hổ trợ của người khác. 

                      Dĩ nhiên, sự lệ thuộc lẫn nhau, là luật căn bản của tự nhiên. Không chỉ trong chủng loại cao cấp của đời sống mà trong những côn trùng nhỏ bé cũng có xã hội hợp quần. Ai có thể không có bất cứ tôn giáo, luật lệ, hay giáo dục, mà có thể sống sót, nhưng bởi nhờ cộng tác lẫn nhau căn cứ trên một sự thừa nhận bẩm sinh của tính chất liên kết. Những hiện tượng vật chất ở trạng thái tinh vi nhất cũng bị chi phối bởi sự phụ thuộc lẫn nhau. Tất cả những hiện tượng từ hành tinh chúng ta đang sống đến đại dương, mây mưa, rừng rậm và bông hoa ở xung quanh chúng ta, khởi lên, vươn lên trong sự lệ thuộc một quy luật tinh vi của năng lượng. Không có những tác động hổ tương cụ thể, chúng sẽ tan rã và tàn hoại. 

                      Điều ấy cho thấy rằng, vì sự tồn tại của chính loài người thì rất tuỳ thuộc vào sự hổ trợ của những thứ khác rằng sự cần thiết của tình thương dựa trên nền tảng căn bản của sự tồn tại của chúng ta. Vì vậy chúng ta cần một sự cảm nhận thành thật của trách nhiệm và chân thành quan tâm đến quyền lợi của kẽ khác. 

                      Chúng ta phải nghĩ loài người thật sự là gi? Chúng ta không giống như những sản phẩm máy móc. Nếu chúng ta đơn giản là thực thể máy móc tồn tại, thế thì những máy móc chính nó có thể làm nhẹ bớt tất cả những khổ đau và đáp ứng nhu cầu của chúng ta. 

                      Tuy nhiên chúng ta không là những tạo vật vật chất duy nhất, thật sai lầm để đặt tất cả những hy vọng cho hạnh phúc với sự phát triển bên ngoài đơn thuần. Thay vì vậy, chúng nên suy nghĩ về cội nguồn và tự nhiên của chúng ta để khám phá những gì chúng ta đòi hỏi. 

                      Bỏ qua một bên những câu hỏi phức tạp của sự hình thành và phát triển của vũ trụ chúng ta, chúng ta có thể ít nhất đồng ý rằng mỗi chúng ta là sản phẩm của bố mẹ chúng ta. Tổng quát, sự thụ thai phát sinh không chỉ trong bối cảnh của khát dục nhưng từ sự quyết định của bố mẹ chúng ta muốn có con. Những quyết định như thế phát sinh trong trách nhiệm và vị tha của bố mẹ và nguyện ước yêu thương nhân ái để chăm sóc con cái cho đến khi chúng có thể tự lo liệu cho đời sống chính chúng nó. Vì vậy, ngay từ khoảnh khắc đầu tiên của sự thụ thai, tình yêu thương của bố mẹ chúng ta đã thẩm thấu trực tiếp trong sự sáng tạo. 

                      Hơn thế nữa, chúng ta hoàn toàn tuỳ thuộc trên sự chăm sóc của những bà mẹ ngay từ những buổi sớm nhất của sự khôn lớn. Căn cứ vào một số nhà khoa học, trạng thái tinh thần một sản phụ, tĩnh lặng hay náo động, có một ảnh hưởng trực tiếp đến đứa bé chưa sinh. 
                       
                      Sự biểu lộ tình thương cũng rất quan trọng ở đời thời điểm sinh sản. Việc sớm nhất chúng ta làm là bú sửa từ bầu vú của những bà mẹ, chúng ta cảm thấy gần một cách tự nhiên với bà mẹ, và bà mẹ phải cảm thương chúng ta để dưỡng nuôi một cách đúng mức; nếu bà mẹ cảm thấy giận hờn hay bực bội dòng sữa có thể không tuôn chảy thoãi mái. 

                      Rồi thì đấy là thời điểm của sự phát triển của bộ não từ lúc mới sinh cho đến ít nhất là ba hay bốn tuổi, suốt trong thời gian này 
                      Trẻ con không thể sống sót nếu không có sự chăm sóc của những người khác, vì vậy tình thương là chât dinh dưỡng quan trọng nhất. Hạnh phúc của trẻ thơ, sự làm lắng dịu nhiều sợ hãi và phát triển khoẻ mạnh của sự tự tin, tất cả tuỳ thuộc trực tiếp trên tình thương. 
                      Ngày nay, nhiều trẻ thơ đã lớn lên trong những ngôi nhà không hạnh phúc. Nếu chúng tiếp nhận ảnh hưởng cụ thể, sau này chúng sẽ kém thương mến bố mẹ chúng và không hiếm xãy ra, chúng sẽ khó thương mến người khác. Đây là điều rất buồn. 

                      Khi trẻ thơ lớn hơn và đến trường, sự hổ trợ cần thiết cho chúng là những giáo viên. Nếu giáo viên không chỉ truyền đạt sự giáo huấn hoàn toàn lý thuyết nhưng cũng đảm đương trách nhiệm việc chuẩn bị cho học sinh một cuộc sống, học sinh của các giáo viên ấy sẽ cảm thấy tin tưởng và tôn trọng và những điều chúng được dạy bảo sẽ để lại những ấn tượng không thể phai mờ trong tư tưởng chúng. Trái lại, những chủ đề được giảng dạy bởi một giáo viên không biểu hiện một sự quan tâm đúng đắn đến học sinh toàn bộ tốt đẹp sẽ chỉ liên quan như tạm thời và không được ghi nhớ lâu dài. 
                       
                      Một cách đơn giản, nếu một người bệnh và được chửa trị trong một bệnh viện bởi một bác sĩ chứng tỏ một cảm giác ấm áp của tình người, bệnh nhân sẽ cảm thấy thoãi mái và bác sĩ khao khát cống hiến một sự điều trị tối ưu, bất chấp trình độ, kỷ năng của bác sĩ như thế nào. Trái lại, một bác sĩ thiếu vắng tình người và hành động biểu hiện thiếu thiện cảm không kiên nhẫn hay liên hệ một cách vô tình, bệnh nhân sẽ cảm thấy khó chịu, lo âu; ngay cả nếu đấy là một bác sĩ có một kỷ năng cao cấp nhất và chứng bệnh đã được chẩn đoán và toa thuốc được cho một cách đúng mức. Thông thường những bệnh nhân cảm thấy bị đối xử khác biệt với sự đầy đủ chất lượng cho sự khỏi bệnh của họ. 
                       
                      Ngay cả chúng ta tham dự vào cuộc đối thoại hằng ngày, nếu một vài người phát biểu với cảm giác nhân tính chúng ta thích thú để lắng nghe và trả lời một cách thích hợp; toàn bộ cuộc đối thoại trở nên hứng thú, dù là đề tài có thể không quan trọng. Trái lại, nếu một người phát biểu lạnh lùng hay lỗ mãng, chúng ta cảm thâý không thoãi mái và mong cuộc đối thoại chóng chấm dứt, cũng như những hành động liên hệ. Từ những sự kiện tấm thường cho đến những sự kiện quan trọng nhất, sự ảnh hưởng và tôn trọng người khác là quan trọng cho hạnh phúc của chúng ta. 

                      Gần đây, khi gặp những nhà khoa học, họ nói rằng tỉ lệ những bệnh tâm thần đã cao đến mức 12% dân số. Rõ ràng rằng qua sự thảo luận chúng ta thấy rằng nguyên nhân chính của sự căng thẳng không phải là sự thiếu thốn nhu cầu vật chất nhưng là sự thiếu vắng sự quan tâm của người khác.

                      Vì vậy, khi chúng ta có thể thấy từ mọi thứ chúng tavđã viết như thế, một sự việc dường như đối với chúng tôi: cho dù chúng ta có để tâm đến nó một cách liên tục hay không, từ ngày chúng ta sinh ra, sự cần thiết của ảnh hưởng của con người là ở trong máu của chúng ta. Ngay cả nếu ảnh hưởng đến từ động vật hay ai đấy mà chúng ta thông thường nghĩ là kẽ thù, cả thiếu niên và người lớn sẽ hướng về phía ấy một cách tự nhiên.

                      Chúng tôi tin rằng không ai sinh ra mà không cần đến tình thương. Điều này chứng tỏ rằng, mặc dù một vài trường phái của tư tưởng hiện đại cũng tìm hiểu như thế, loài người không thể được định nghía như chỉ là đơn thuần vật lý duy nhất. Không có đối tượng vật chất, tuy vậy xinh đẹp hay giá trị, có thể làm chúng ta cảm thấy tình thương, bởi vì cá tính sâu sắc và bản tính thật của chúng ta thì căn cứ trên tâm tính bản nhiên.
                       
                      PHÁT TRIỂN LÒNG TỪ BI - THƯƠNG YÊU

                      Một vài người bạn của chúng tôi đã từng nói rằng, trong khi từ bi và yêu thương là tốt đẹp và diệu kỳ, vậy mà họ không thấy thật sự liên hệ nhiều. Họ nói rằng, thế giới chúng ta, không phải là một nơi mà những sự tin tưởng như thế có nhiều ảnh hưởng hay năng lực. Người ta nói rằng giận hờn và căm ghét mới là một phần lớn tự nhiên của loài người và loài người sẽ luôn luôn bị khống chế bởi chúng. Chúng tôi không đồng ý như thế.

                      Loài người chúng ta đã tồn tại trong hình thể như hiện tại đã hàng trăm nghin năm. Chúng tôi tin rằng nếu trãi qua thời gian này tâm tư con người bị khống chế bởi giận ghét và căm thù là chính yếu, thì toàn bộ dân số con người sẽ giảm xuống. Nhưng hôm nay, bất chấp tất cả những cuộc chiến tranh, chúng ta lại thấy rằng dân số của nhân loại đã đông đảo hơn bao giờ hết. Điều này chỉ rõ ràng cho chúng tôi rằng từ bi và thương yêu chiếm ưu thế trên hoàn cầu. Và điều này, tại sao những sự kiện không hài lòng lại là những "tin tức", bởi vì những hành động từ bi thương yêu đã chiếm phần lớn trong cuộc sống hằng ngày là tất nhiên và vì vậy, nó bị lãng quên một cách rộng rãi.

                      Hơn thế nữa chúng tôi đã từng thảo luận những lợi ích tinh thần chính yếu của từ bi, không những thế nó còn góp phần cho một thân thể cường tráng. Theo kinh nghiệm cá nhân của chúng tôi, một tinh thần ổn định và một thân thể khoẻ mạnh thì liên hệ trực tiếp với nhau. Không cần hỏi, giận dữ và dễ bị khích động làm chúng ta dễ mắc phải bệnh tật hơn. Trái lại, nếu tâm hồn tĩnh lặng, thanh bình và tràn ngập những tư tưởng tích cực, thân thể sẽ không sa sút và làm mồi cho tật bệnh một cách dễ dàng.

                      Nhưng dĩ nhiên, cũng đúng rằng tất cả chúng ta đều có một tính vị kỷ bẩm sinh đã ngăn trở tình yêu thương của chúng ta đến người khác. Vì vậy, khi mà chúng ta khao khát một hạnh phúc chân thực, điều được mang đến chỉ do một tâm hồn tĩnh lặng, và một sự yên bình của tâm hồn như thế chỉ có thể có được với một thái độ từ bi, làm thế nào chúng ta có thể phát triển điều này? Một cách rõ ràng, nó không đủ khi chúng ta chỉ đơn giản nghĩ về, từ bi là tốt đẹp thế nào! 

                      Chúng ta cần có sự cố gắng phối hợp để phát triển nó; chúng ta phải dùng tất cả những sự kiện trong đời sống hằng ngày để chuyển hoá tư tưởng và thái độ của chúng ta.

                      Trước nhất, chúng ta phải hiểu rõ ràng về, từ bi thương yêu là nghĩa thế nào, với chúng ta. Rất nhiều dạng của cảm giác từ bi thương yêu bị lẫn lộn với khao khát, thèm muốn, dục vọng và vướng mắc. Chẳng hạn, tình thương của ba mẹ dành cho con cái thường gắn liền với những nhu cầu của những cảm xúc của chính họ, vì vậy nó không là lòng từ bi thương yêu hoàn toàn. Một thí dụ khác, trong hôn nhân, tình yêu giữa chồng và vợ- đặc biệt là lúc mới bắt đầu, khi mỗi người chưa biết sâu sắc những cá tính của nhau - nó tuỳ thuộc vào sự ái luyến hơn là tình yêu chân thật. Sự khao khát của chúng ta quá mạnh rằng người mà chúng ta yêu mến xuất hiện được tốt đẹp như lòng chúng ta mong đợi, trong khi thật sự người ấy thì quá tiêu cực. Thêm nữa, chúng ta có xu hướng thổi phồng những phẩm cách tích cực nhỏ. Vì vậy khi thái độ của người phối ngẫu thay đổi, thì người kia thường chán nản, thất vọng và thái độ cũng thay đổi luôn. Điều này cho thấy rằng tình yêu đã được thúc đẩy bởi nhu cầu cá nhân hơn là bởi sự chăm sóc chân thành cho cá nhân của người khác.

                      Lòng từ bi thương yêu chân thật không chỉ là một sự đáp ứng tình cảm mà là một nguyện ước vững chắc đặt nền tảng trên lý trí. Vì vậy, một thái độ từ bi thương yêu đúng đắn hướng đến những người khác không thay đổi ngay cả nếu họ đối xử tiêu cực.

                      Dĩ nhiên, phát triển từ bi thương yêu như thế này thì không dễ dàng! Như đã nói lúc bắt đầu, chúng ta hãy theo dõi những điều sau:
                      Cho dù người ta xinh đẹp và thân hữu hay không quyến rũ và không thân thiện, một cách căn bản họ cũng là người, chỉ giống chính mình. Giống như ai khác, họ muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Xa hơn nữa, người ta có quyền để vượt qua khổ đau và để được hạnh phúc bình đẳng với mọi người. Bây giờ, khi chúng ta đã nhận ra rằng, tất cả chúng sinh thì bình đẳng cả với khao khát cho hạnh phúc và quyền để đạt được điều ấy, chúng ta tự động cảm thấy sự xúc cảm và gần gũi với tất cả.

                      Xuyên qua thói quen của tâm chúng ta với cảm giác vị tha bao la, chúng ta phát triển một cảm nhận trách nhiệm cho người khác: nguyện ước để giúp đở họ hành động vượt qua những chướng ngại của họ.
                      Mặc dù nguyện ước này được lựa chọn, nhưng nó được hướng đến tất cả mọi người. Cho đến khi nào người ta vẫn là người thì kinh nghiệm vui mừng hay đau khổ cũng như chúng ta mà thôi, không có một căn bản nào phân biệt giữa họ hay để thay đổi sự quan tâm đến họ dù họ cư xử tiêu cực.

                      Hãy để chúng tôi nhấn mạnh rằng, nó là năng lực trong chúng ta, hãy cho kiên nhẫn và thời gian, để phát triển lòng từ bi thương yêu này. Dĩ nhiên, tính vị kỷ của chúng ta, sự ái luyến đặc biệt đến cảm giác độc lập, sự tồn tại của tự ngã, cái tôi làm căn bản chủ yếu để cản trở lòng từ bi thương yêu của chúng ta.Thực vậy, lòng từ bi thương yêu chân chính có thể được kinh nghiệm chỉ khi sự chấp thủ, bám chặc được xoá bỏ. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta không thể bắt đầu và làm một chương trình để phát triển lòng từ bi thương bây giờ.
                       
                      CHÚNG TA BẮT ĐẦU NHƯ THẾ NÀO! 

                      Chúng ta nên bắt đầu bằng việc loại trừ những chướng ngại lớn nhất đến lòng từ bi thương yêu: giận dữ và thù ghét. Như chúng ta đã biết, đây là những cảm xúc cực kỳ mạnh mẻ và chúng có thể khống chế cả toàn bộ tâm tư chúng ta. Mặc dù vậy, chúng có thể được kiểm soát. Tuy nhiên, nếu không vậy, thì đây là những cảm xúc tiêu cực sẽ gây tai hại cho chúng ta và làm cản trở sự mưu cầu cho hạnh phúc của một tâm thương yêu - nếu không có ảnh hưởng nào khác trên chúng.
                      Vì vậy, khi bắt đầu, thật lợi ích để khám phá giá trị của giận dữ hay không giận dữ. Thỉnh thoảng, khi chúng ta thiếu nghị lực trong một hoàn cảnh khó khăn, sự giận dữ dường như một hổ trợ có ích, xuất hiện để mang đến thêm năng lượng, sự tin cậy và quyết định. 

                      Vì vậy, nơi đây, chúng ta phải trắc nghiệm trạng thái của tinh thần chúng ta một cách cẩn thận. Trong khi đúng là giận dữ mang thêm năng lượng, nếu chúng ta khám phá tính tự nhiên của năng lượng này, chúng ta thấy rằng nó là mù quáng: chúng ta không thể chắc chắn rằng kết quả của nó sẽ là tích cực hay tiêu cực. Bởi vì sự giận dữ đã làm mờ tối phần tuyệt hảo của bộ óc chúng ta: sự sáng suốt của nó. Vì vậy năng lượng của giận dữ hầu như luôn luôn không đáng tin cậy. Nó có thể là nguyên nhân của một sự tàn phá rộng lớn , một thái độ đáng tiếc. Hơn thế nữa, nếu sự giận dữ phát triển đến cùng cực, người ấy trở nên như một kẻ bị bệnh tâm thần, hành động trong chiều hướng tổn hại chính tự thân và những người khác. 
                       
                      Tuy nhiên, chúng ta có thể phát triển một năng lực tương xứng nhưng với năng lượng có thể kiểm soát để đối phó với những hoàn cảnh khó khăn. 

                      Năng lượng kiểm soát được này đến không chỉ từ thái độ từ bi yêu thương mà cũng từ lý trí và nhẫn nhục. Đây là những loại thuốc giải cực kỳ hiệu nghiệm đối với giận dữ. Kém may mắn thay, rất nhiều người đã phán đoán sai lầm những phẩm chất này như những dấu hiệu của sự yếu đuối. Chúng tôi tin tưởng sự ngược lại là đúng: rằng đây là những dấu hiệu của một sức mạnh từ bên trong. Từ bi yêu thương là bởi sự dịu dàng, tế nhị, và hoà bình tự nhiên, nhưng nó cũng rất là mạnh mẽ. Nó là như thế đó, yếu đuối, đối với những ai mất sự kiên nhẫn một cách dễ dàng, những ai không vững chắc, và không kiên định. Vì vậy, đối với chúng tôi sự thức dậy của giận dữ là dấu hiệu trực tiếp của yếu đuối. 

                      Cho nên, khi một điều rắc rối khởi lên, cố gắng duy trì khiêm tốn và giữ một thái độ ngay thẳng và được quan tâm rằng kết quả sẽ tốt. Dĩ nhiên, những kẽ khác có thể thừa cơ hội này để lợi dụng, và nếu thái độ duy trì không giao động của chúng ta chỉ khuyến khích sự gây hấn phi lý, hãy mạnh dạn đứng vững. Tuy nhiên điều này nên được thực hiện với từ bi thương yêu, và nếu cần thiết để bày tỏ quan điểm và làm một biện pháp đối phó mạnh mẽ của chúng ta, hãy làm như vậy mà không giận dữ hay mục đích không chính đáng. 
                       
                      Chúng ta nên nhận thức rằng mặc dù người đối nghịch xuất hiện để làm tổn hại chúng ta, cuối cùng, những hành động phá phách sẽ chỉ tổn hại chính họ. Để kiểm soát lại sự vị kỷ của chính chúng ta, sự thôi thúc để trả đủa, chúng ta nên nhắc lại niềm mong ước được thực tập từ bi thương yêu và đảm đương trách nhiệm để giúp đở ngăn ngừa người khác phải khổ đau vì hậu quả những hành động của họ. 

                      Vì vậy, bởi vì sự đo lường chúng ta, việc làm đã được chọn lựa một cách tĩnh lặng, chúng sẽ được ảnh hưởng hơn, chính xác hơn và sinh động hơn. Sự trả đủa căn cứ trên năng lượng mù quáng của giận dữ sân hận và hiếm khi đạt được mục tiêu.
                       
                      BẠN VÀ THÙ 

                      Chúng tôi phải nhấn mạnh rằng không chỉ đơn thuần nghĩ từ bi yêu thương và lý trí và nhẫn nhục là tốt đẹp, thì sẽ không đủ để phát triển chúng. Chúng ta phải đợi cho đến khi những khó khăn trỗi dậy và rồi thì mới có dịp để mà cố gằng thực hành những điều ấy.

                      Và ai sẽ tạo ra những cơ hội như vậy? Không phải bạn bè chúng ta, và dĩ nhiên, đấy là những kẽ thù của chúng ta. Họ sẽ là những kẽ trao tặng chúng ta những tình huống khó khăn nhất. Vì vậy nếu chúng ta thực sự ước nguyện để học, chúng ta nên nghĩ rằng những người thù là những vị thầy tuyệt hảo của chúng ta! 

                      Cho một người nuôi dưỡng từ bi và tình thương, sự thực hành kiên nhẫn và khoan dung là căn bản, và cho điều đó, một kẽ thù là rất cần thiết, không thể thiếu được. Vì vậy chúng ta nên cảm thấy biết ơn những kẽ thù của chúng ta, vì họ là kẽ có thể hổ trợ tốt nhất để chúng ta phát triển một tâm tĩnh lặng! Cũng vậy, thường có trường hợp cả cá nhân và trong đời sống cộng đồng, điều đó đã chuyển hoá tình trạng, những kẽ thù thành những người bạn. 

                      Vì vậy sân hận và thù ghét thì luôn luôn tổn hại, và trừ khi chúng ta đã rèn luyện tâm tính và hành động để giảm bớt những mãnh lực tiêu cực của chúng, chúng sẽ tiếp tục để quấy rầy chúng ta và đập phá những cố gắng để chúng ta phát triển một tâm tĩnh lặng yên bình. Sân hận và thù ghét là những kẽ thù thật sự của chúng ta. Đây là những sức mạnh mà chúng ta cần thiết nhất để đối diện và chiến đấu, nó không là những "kẽ thù" tạm thời, chúng xuất hiện một cách gián đoạn suốt cuộc đời chúng ta. 

                      Dĩ nhiên, thật tự nhiên và đúng đắn rằng tất cả chúng ta đều muốn mọi người đều là bạn, chúng ta muốn bạn chứ không muốn kẽ thù. Chúng tôi thường đùa răng nếu bạn muốn ích kỷ, bạn nên rất là vị tha! Chúng ta nên săn sóc những người khác, quan tâm đến lợi ích của họ, giúp đở họ, phục vụ họ, thân hữu hơn, mĩm cười nhiều hơn. Kết quả? Khi chúng ta cần sự giúp đở, chúng ta sẽ thấy vô số người giúp đở! Nếu trái lại, chúng ta thờ ơ với hạnh phúc của người khác, với thời gian chúng ta sẽ là những kẽ thất bại. Và có phải tình thân hữu được sản sinh xuyên qua những mối bất hoà và sân hận, ganh tị và cạnh tranh sôi nổi? Chúng tôi không nghĩ như vậy. Chỉ có tình cảm mang đến cho chúng ta tình bằng hữu chân thật gần gũi. 

                      Trong xã hội vật chất ngày nay, nếu chúng ta có tiền tài và quyền thế, chúng ta dường như có rất nhiều bạn bè. Nhưng họ không phải là những người bạn của chúng ta; họ là bạn của tiền và quyền. Khi chúng ta mất sự giàu có và ảnh hưởng, chúng ta sẽ rất khó tìm thấy những người như vậy. 
                       
                      Vấn đề là khi mọi chuyện tốt lành êm xuôi đối với chúng ta trên thế giới này, chúng ta trở nên tin tưởng rằng chúng ta có thể tự quán xuyến mọi chuyện và cảm thấy rằng chúng ta không cần bằng hữu, nhưng khi tình trạng và sức khoẻ suy đồi, chúng ta nhanh chóng nhận ra rằng chúng ta sai lầm. Đấy là khoảnh khắc mà chúng ta học được rằng ai chính là người thật sự ích lợi và ai là hoàn toàn vô tích sự. Vì vậy để chuẩn bị cho thời khắc ấy, để hình thành nên những người bạn chân thành sẽ giúp đở khi chúng ta cần đến, chúng ta phải phát triển lòng vị tha! 
                      Mặc dù thỉnh thoảng người ta cười phá lên khi chúng tôi nói đến điều ấy, nhưng tự chúng tôi luôn cần thêm bạn. Chúng tôi thích mĩm cười. Bởi vì điều này chúng tôi hiểu biết làm thế nào để có thêm bạn nhiều hơn và làm thế nào để mĩm cười nhiều hơn, và trong cá nhân chúng tôi là những nụ mĩm cười thành thật. Có nhiều loại mĩm cười như là cười mĩa mai, giả tạo hay xã giao. Rất nhiều những nụ cười không tạo được cảm giác hài lòng, và thỉnh thoảng nụ cười ngay cả tạo nên sự nghi ngờ và sợ hải, có đúng thế không? Nhưng một nụ cười chân thành thật sự trao tặng chúng ta một cảm giác tươi mát và chúng tôi tin nó là đặc trưng của loài người. Nếu đây là những nụ cười chúng ta muốn, rồi thì tự chúng ta phải tạo nên lý do để những nụ cười thành thật, tươi mát và hạnh phúc có thể xuất hiện.
                       
                      TỪ BI YÊU THƯƠNG VÀ CUỘC SỐNG CHÚNG TA 

                      Để kết luận, chúng tôi muốn vắn tắt để mở rộng sự suy tư của chúng tôi trước chủ đề của bài này và mở rộng hơn điểm: hạnh phúc cá nhân có thể cống hiến trong một phương pháp hiệu quả sâu sắc và ảnh hưởng đến toàn bộ việc cải thiện cộng đồng nhân loại.

                      Bởi vì chúng ta cùng chia sẽ bản chất cần thiết của tình thương yêu, điều ấy là có thể để cảm thấy rằng bất cứ người nào chúng ta gặp, trong bất cứ tình trạng nào, đều là anh em, chị em với nhau. Không kể là khuôn mặt ấy mới mẽ hay khác lạ của trang phục và thái độ như thế nào, không có sự khác biệt nào quan trong giữa chúng ta và những người khác. Thật là cạn cợt nếu chỉ dừng lại sự khác biệt ở bên ngoài bởi vì bản chất tự nhiên của chúng ta là giống nhau. 

                      Một cách căn bản, loài người là một và hành tinh nhỏ bé này là ngôi nhà duy nhất của chúng ta. Nếu chúng ta bảo vệ ngôi nhà này của chúng ta, mỗi chúng ta cần kinh nghiệm qua một giác quan của chủ nghĩa vị tha toàn cầu. Chỉ cần cảm nhận điều này, là chúng ta có thể xoá nhoà động cơ vị kỷ, là nguyên nhân chúng ta lừa dối, làm thất vọng và hành hạ kẻ khác. Nếu chúng ta có sự ngay thẳng và trái tim cởi mở, chúng ta sẽ cảm thấy giá trị của chính nó và sự tin cậy một cách tự nhiên, và không cần phải sợ hãi kẽ khác. 

                      Chúng tôi tin rằng ở tại bất cứ giai tầng nào của xã hội- gia đình, bộ tộc, quốc gia và quốc tế- chìa khoá để một thế giới hạnh phúc hơn và thành công hơn là sự lớn mạnh của lòng từ bi thương yêu. Chúng ta không cần để trở nên sùng đạo hay cần phải tin tưởng ở một học thuyết nào. 
                      Việc cần thiết cho tất cả chúng ta là phát triển những phẩm chất tốt đẹp của con người.

                      ---

                      THƯ HỌA TRẦN GIAN TÂM HIỂU BIẾT
                      PHÁP LƯU NHÂN THẾ TÍNH THƯƠNG YÊU



                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 25.02.2009 06:45:27 bởi tueuyen >
                      #11
                        tueuyen 07.03.2009 22:16:27 (permalink)
                        0

                        CỘNG ĐỒNG ĐỊA CẦU 
                        VÀ SỰ CẦN THIẾT CHO TRÁCH NHIỆM TOÀN CẦU
                        Tenzin Gyatso, the Fourteenth Dalai Lama 1990
                        Tuệ Uyển chuyển ngữ

                        ---
                        CỘNG ĐỒNG ĐỊA CẦU
                        Khi thế kỷ hai mươi kéo màn kết thúc, chúng ta thấy rằng thế giới trở nên nhỏ hơn và loài người trên thế giới đã trở thành gần như một cộng đồng.  Những liên minh quân sự và chính trị đã được tạo thành những nhóm đa quốc gia rộng lớn, công nghiệp kỷ nghệ và mậu dịch quốc tế đã sản xuất một nền kinh tế toàn cầu, và sự đối thoại toàn thế giới đang xóa đi những hàng rào cũ kỷ của khoảng cách, ngôn ngữ, và chủng tộc.  Chúng ta cũng đang bị lôi cuốn với nhau bởi hàng khối vấn đề chúng ta đối diện; nạn nhân mãn,  tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn dần, và vấn nạn môi trường đang đe dọa không khí, nước, và cây cối của chúng ta, cùng với số lượng lớn những hình thức sinh sống xinh đẹp là nền tảng của sự tồn tại trên hành tinh nhỏ bé mà chúng ta đang chia xẻ.
                        Chúng tôi tin tưởng rằng để đối diện với thử thách của thời đại chúng ta, loài người sẽ phải phát triển một nhận thức to lớn rộng rãi hơn về trách nhiệm toàn cầu.  Mỗi chúng ta phải học để hành động không chỉ cho chính lợi ích của gia đình, xứ sở mỗi cá nhân, mà cho lợi ích của toàn thể loài người.  Trách nhiệm toàn cầu thật sự là chìa khóa cho sự tồn tại của nhân loại.  Nó là một nền tảng tuyệt hảo cho hòa bình thế giới, việc sử dụng công bằng vô tư tài nguyên thiên nhiên, và qua việc quan tâm đến những thế hệ tương lai, việc bảo hộ đúng đắn đến môi trường.
                        MỘT GIA ĐÌNH LOÀI NGƯỜI
                        Cho dù chúng ta thích nó hay không, tất cả chúng ta đều sinh ra trên trái đất này như một phần của một gia đình nhân loại vĩ đại.  Giàu hay nghèo, giáo dục hay không giáo dục, thuộc quốc gia này hay quốc gia kia, theo tư tưởng này hay tư tưởng nọ, căn bản của mỗi chúng ta chỉ là một con người như mọi người khác; tất cả chúng ta đều khao khát hạnh phúc và không muốn khổ đau.  Xa hơn nữa, mỗi chúng ta có một quyền bình đẳng để đạt đến những mục tiêu này.  Thế giới ngày nay đòi hỏi chúng ta chấp nhận một gia đình nhân loại thống nhất.  Trong quá khứ, những cộng đồng cô lập có thể nghĩ lẫn nhau như tách biệt một cách căn bản và ngay cả tồn tại hoàn toàn cô lập.  Tuy nhiên ngày nay, những sự kiện trong một bộ phận của thế giới cuối cùng có thể ảnh hưởng đến toàn hành tinh.  Vì vậy, chúng ta phải xử sự với mỗi một vấn đề của hầu hết những sự kiện khu vực địa phương như một sự quan tâm toàn cầu từ thời điểm nó bắt đầu.  Chúng ta  không thể vướng mắc bởi những rào cản của quốc gia, chủng tộc, và tư tưởng đã tách biệt chúng ta ngoại trừ dư âm của phá hoại, tiêu cực, và không xây dựng.  Trong khung cảnh mới của sự lệ thuộc liên đới giữa chúng ta, quan tâm đến những quyền lợi của kẻ khác rõ ràng là hình thức tuyệt hảo cho quyền lợi của chính chúng ta.
                        Chúng tôi nhận thấy sự kiện  này là một nguồn gốc của sự hy vọng.  Sự cần thiết cho hợp tác chỉ có thể làm cho loài người mạnh hơn, bởi vì nó giúp chúng ta nhận ra rằng căn bản bảo đảm nhất cho trật tự thế giới mới không chỉ đơn giản là những sự liên minh rộng rãi hơn về chính trị và kinh tế, nhưng đúng hơn là sự chân thành thực hành của mỗi cá nhân về yêu thương và từ bi.  Cho một tương lai tươi đẹp hơn, hạnh phúc hơn, vững vàng hơn, và văn minh hơn, mỗi chúng ta phải phát triển một cảm xúc trung thực, một trái tim ấm tình anh chị em.
                        LIỀU THUỐC VỊ THA CHỦ NGHĨA
                        Ở Tây Tạng chúng tôi nói rằng nhiều chứng bệnh có thể chửa bằng một vị thuốc của yêu thương và từ bi.  Những phẩm chất này là nguồn gốc căn bản của nhân loại hạnh phúc, và sự cần thiết của chúng ta đối với chúng nằm sâu tận đáy lòng của mỗi con người.  Bất hạnh thay, lòng yêu thương và từ bi đã từng bị lãng quên bởi quá nhiều tác động của môi trường xã hội từ lâu rồi.  Thông thường hạn chế trong gia đình và gia cư, sự thực hành của họ trong đời sống công cộng bị xem là không thực tế, ngay cả là ngây thơ, khờ dại.  Điều ấy thật là một thảm kịch.  Trong quan kiến của chúng tôi, sự thực hành từ bi yêu thương thì không là một dấu hiệu của một ý tưởng không thực tế mà là phương pháp tác động nhất để hướng đến quyền lợi của người khác cũng như của chính mình.– Như một quốc gia, một nhóm hay như những cá nhân – càng  tùy thuộc liên đới đến những người khác, nó càng biểu hiện thuận lợi nhất cho chúng ta đến bảo đảm sự tốt lành cho họ.  Thực hành chủ nghĩa vị tha là cội nguồn thực sự của thỏa hiệp và hợp tác; chỉ nhận biết sự cần thiết của hòa hiệp chưa đủ.  Một tâm hứa hẹn, cam kết, thệ nguyện với từ bi yêu thương giống như một kho dự trữ đầy ấp – một cội nguồn kiên định chung thủy của năng lực, quyết định và ân cần.  Tâm niệm này giống như một chủng tử, một hạt giống; khi phát triển, nó cho khởi lên nhiều phẩm chất tốt đẹp như, tha thứ, bao dung, nội lực và sự quả quyết để vượt thắng sợ hãi và không an toàn. Tâm từ bi yêu thương giống như một loại linh dược, có thể chuyển hóa những hoàn cảnh xấu, bất lợi  trở thành tốt và thuận lợi.  Vì vậy chúng ta không nên hạn chế sự biểu cảm yêu thương và từ bi đến gia đình và bè bạn chúng ta.  Từ bi yêu thương cũng không chỉ là đáp ứng của những tu sĩ, y sĩ và người làm công tác xã hội, nó là nhiệm vụ cần thiết của mỗi bộ phận trong cộng đồng nhân loại.
                        Cho dù một xung đột xảy ra trong phạm vi của chính trị, kinh tế hay tôn giáo, một sự tiếp cận vị tha thường là những phương tiện giải quyết duy nhất.  Thỉnh thoảng những quan niệm chính xác-đúng đắn tự chính nó chúng ta dùng làm trung gian để bàn cãi nguyên nhân của vấn đề.  Tại những thời điểm như thế, khi một giải pháp dường như bất khả thi, cả hai bên nên gợi nhớ đến bản chất tự nhiên của con người điều đã liên kết họ lại.  Điều này sẽ làm tan vở bế tắc và , về lâu về dài, nó làm dễ dàng hơn cho mọi người để đạt đến mục tiêu.  Dù cho không bên nào hoàn toàn hài lòng, nếu cả hai bên cùng nhượng bộ, tối thiểu, hiểm họa của xung đột xa hơn sẽ được ngăn chặn.  Chúng ta tất cả đều biết rằng phương thức này của sự thỏa hiệp là phương pháp tác động hiệu quả nhất để giải quyết những vấn đề - rồi thì, tại sao, chúng ta không sử dụng nó thường xuyên hơn?
                        Khi chúng tôi lưu tâm đến sự thiếu vắng của hợp tác trong xã hội loài người, chúng tôi chỉ có thể kết luận rằng nó phát xuất từ vô minh si mê ám tối thiếu sáng suốt của sự lệ thuộc liên đới tự nhiên của chúng ta.  Chúng tôi thường dùng bằng thí dụ của những côn trùng nhỏ, như những con ong.  Luật tự nhiên ra lệnh rằng những con ong làm việc với nhau để tồn tại.  Như một kết quả, chúng có một nhận thức bản năng tự nhiên của trách nhiệm xã hội.  Chúng không có hiến pháp, luật lệ, cảnh sát, tôn giáo hay rèn luyện đạo đức, nhưng do bởi tự nhiên tính của chúng, chúng lao động một cách trung thành với nhau.  Thảng hoặc chúng có thể chiến đấu, nhưng trong sự tồn tại chung của cả tập đoàn trên căn bản của sự hợp tác. Con người chúng ta, trái lại, có hiến pháp, những hệ thống hợp lệ rộng lớn và cảnh sát quân sự; chúng ta có tôn giáo, sự thông minh tuyệt vời và một trái tim với môt khả năng vĩ đại để yêu thương. Nhưng mặc dù với những phẩm chất tuyệt hảo của chúng ta,  trong hành xử thực tế chúng ta đã tụt hậu so với những côn trùng nhỏ bé; trong nhiều phương diện, chúng tôi cảm thấy chúng ta nghèo hơn loài ong.
                        Thí dụ, hàng triệu người sống trong những thành phố lớn trên khắp thế giới, nhưng bất chấp sự gần gũi này, rất nhiều người cô độc.  Một số không có ngay cả một con người để chia xẻ những cảm xúc sâu thẩm nhất của họ, và sống trong một trạng thái bực bội dao động mãn đời.  Điều đó thật là buồn.  Chúng ta không phải là những loài vật cô đơn chỉ kết hợp để sống cùng với nhau.  Nếu chúng ta là như thế, tại sao chúng ta phải xây dựng những thành phố lớn hay thị trấn?  Nhưng ngay cả dù chúng ta là những loài vật xã hội bị thúc ép sống với nhau, bất hạnh thay, chúng ta thiếu một nhận thức trách nhiệm đối với những đồng loại  con người của chúng ta.  Có phải là thiếu sót ấy nằm trong kiến trúc xã hội – những cấu trúc cơ bản của gia đình và cộng đồng điều đã hổ trợ xã hội của chúng ta?  Nó có phải là những phương tiện dễ dàng bên ngoài của chúng ta – những máy móc, khoa học và kỷ thuật của chúng ta?  Chúng tôi không nghĩ như vậy.
                        Chúng tôi tin rằng bất chấp những phát triển nhanh chóng được làm nên bởi văn minh của thế kỷ, nguyên nhân trực tiếp nhất của sự tiến thoái lưỡng nan hiện tại của chúng ta là sự nhấn mạnh quá mức trên phát triển vật chất đơn độc.  Chúng ta đang quá chú mục vào trong sự đuổi theo nó , mà ngay cả không có sự hiểu biết nó, chúng ta đã hờ hửng đến khuyến khích, cổ vũ, nuôi dưỡng những việc cần thiết căn bản nhất của nhân loại của yêu thương, ân cần, hợp tác và bảo dưỡng.  Nếu chúng ta không biết ai đấy hay tìm một lý do nào khác không cảm nhận liên hệ với một cá nhân hay một nhóm đặc biệt nào đấy, chúng ta quên lãng họ một cách đơn giản.  Nhưng sự phát triển của xã hội nhân loại là được đặt căn bản toàn bộ trên người giúp đở người.  Một khi chúng ta đánh mất căn bản thiết yếu của nhân tính, điều là nền tảng của chúng ta, thì đâu là mục tiêu của sự mưu cầu chỉ trên sự phát triển vật chất?
                        Đối với chúng tôi, nó thì rõ ràng: một nhận thức chân thành của trách nhiệm chỉ có thể kết trái nếu chúng ta phát triển lòng từ bi yêu thương.  Chỉ một cảm nhận tự nhiên của lòng trắc ẩn với người khác có thể thật sự thúc đẩy chúng ta hành động nhân danh họ.  Chúng tôi đã giải thích làm thế nào phát triển lòng từ bi yêu thương một nơi nào đấy.  Cho phần còn lại ngắn ngũi này, chúng tôi muốn thảo luận làm thế nào trong hoàn cảnh thế giới hiện tại có thể được cải thiện bằng sự tin cậy lớn hơn trên trách nhiệm toàn cầu.
                        TRÁCH NHIỆM TOÀN CẦU
                        Trước nhất, nên lưu ý rằng chúng tôi không tin trong sự tạo thành những vận động hay ủng hộ những học thuyết tư tưởng, chúng tôi cũng không thích việc dự tính thành lập một tổ chức để ủng hộ cho một ý tưởng đặc biệt nào, điều mà hàm ý rằng một nhóm riêng lẻ nào đấy chịu trách nhiệm để đạt đến mục tiêu ấy trong khi những người khác thì miễn trừ.  Trong tình trạng hiện tại của chúng ta, không ai có đủ khả năng để đảm đương hay những ai khác sẽ giải quyết những vấn đề của chúng ta, mỗi chúng ta phải góp phần chia xẻ trách nhiệm toàn cầu của chính chúng ta.  Trong cách này, như con số của sự quan tâm, trách nhiệm của những cá nhân tăng lên, hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn hay cả hàng trăm nghìn của những người như thế sẽ cải thiện bầu không khí chung một cách rộng lớn hơn.  Thay đổi tích cực không đến một cách nhanh chóng và đòi hỏi những cố gắng đang xảy ra.  Nếu chúng ta trở nên chán nản hay mất can đảm chúng ta có thể không đạt đến ngay của những mục tiêu đơn giản nhất.  Với sự liên tục, thực thi quyết đoán, chúng ta có thể hoàn thành ngay cả những chủ đề khó khăn nhất.
                        Chấp nhận và nuôi dưỡng một quan điểm trách nhiệm toàn cầu là một vấn đề cá nhân thiết yếu.  Trắc nghiệm thực sự của lòng từ bi yêu thương không phải là những gì chúng ta nói trong những cuộc thảo luận, những lý thuyết trừu tượng không thực tế mà là chúng ta đã chỉ đạo, điểu khiển chính mình như thế nào trong đời sống hằng ngày; thường, với những quan điểm nhất định nào đấy là căn bản để thực hành chủ nghĩa vị tha.
                        Mặc dù không một hệ thống chính phủ nào là toàn hảo, dân chủ là điều gần nhất với căn bản thiết yếu tự nhiên của nhân loại.  Vì thế những ai trong chúng ta yêu mến dân chủ phải tiếp tục bày tỏ, hành động, đấu tranh cho quyền lợi này của tất cả mọi người được làm như thế.  Xa hơn nữa, dân chủ là nền tảng vững chắc duy nhất trên một cấu trúc chính trị toàn cầu có thể được xây dựng.  Để hành động thống nhất, chúng ta phải tôn trọng quyền lợi của tất cả mọi người và các quốc gia để duy trì những giá trị và tính cách đặc thù của chính họ.
                        Trong chi tiết, một tác động to lớn rộng rãi sẽ được đòi hỏi để mang từ bi yêu thương vào trong lãnh vực thương mại quốc tế.  Sự khác nhau, không đồng đều, bất bình đẳng kinh tế, đặc biệt giữa những nước phát triển và đang phát triển, duy trì nguồn gốc lớn nhất của khổ đau trên hành tinh này.  Ngay cả mặc dù họ mất lợi nhuận trong giai đoạn ngắn, những công ty đa quốc gia lớn phải giảm bớt sự lợi dụng, bóc lột các quốc gia nghèo.  Tận khai thác một ít tài nguyên quý giá của những quốc gia sở hữu chỉ đơn giản cung cấp cho chủ nghĩa tiêu dùng ở thế giới phát triển như vậy là tai họa, là bất hạnh; nếu nó tiếp tục không kiểm soát, tất cả chúng ta sẽ cùng khổ đau.  Việc làm mạnh những nền kinh tế yếu và trì trệ là một chính sách khôn ngoan xa hơn nhiều để đẩy mạnh sự một cách vững vàng cả kinh tế lẫn chính trị.  Duy tâm hay nhân tâm nó có thể gọi như thế, chủ nghĩa vị tha, không chỉ tranh đua và khát vọng của thịnh vượng, nên được đẩy mạnh trong thương mại.
                        Chúng ta cũng cần làm mới sự hiến dâng của chúng ta đến những giá trị nhân bản trong lãnh vực của khoa học hiện đại.  Mặc dù mục tiêu chính của khoa học là để học hỏi thêm về thực tại, và những mục tiêu khác là để làm tiến bộ phẩm chất của đời sống.  Không có động cơ vị tha, những khoa học gia không thể phân biệt giữa những kỷ thuật lợi ích và những thứ đơn thuần vị kỷ.  Tổn hại của môi trường chung quanh chúng ta là chứng minh rõ ràng nhất của kết quả của sự sai lạc này, nhưng động cơ chính có thể ngay cả thích đáng hơn chủ yếu là chúng ta quản lý thế nào với sự bố trí độc đáo mới cuả những kỷ thuật sinh học với điều mà giờ đây chúng ta có thể kiểm soát cấu trúc tinh vi tế nhị của  tự chính đời sống.  Nếu chúng ta không căn cứ mỗi hành động trên một nền tảng đạo đức, chúng ta hành động mạo hiểm kéo theo nguy hại lớn lao trên hoàn cảnh mong manh dễ đổ vở của đời sống.
                        Những tôn giáo của thế giới cũng không miễn trừ, hay không mang lấy trách nhiệm này.  Mục tiêu của tôn giáo không phải để kiến tạo những Thánh đường, Phật đường, Đền thờ lộng lẩy xinh đẹp, mà để phát triển những phẩm chất tích cực của con người như là bao dung, phóng khoáng, rộng rãi và yêu thương.  Mỗi tôn giáo thế giới, không kể quan điểm triết lý thế nào, được khai sinh, sáng lập, xuất hiện trên cuộc đời trước nhất và trước hết trên giáo huấn là chúng ta phải làm nhỏ lại cái bản ngã và phục vụ kẽ khác.  Bất hạnh thay, thỉnh thoảng tôn giáo chính nó lại là nguyên nhân của những mối bất hòa hơn là giải quyết xung đột.  Hành giả của những tín ngưỡng khác nhau nên nhận thức rằng mỗi truyền thống tôn giáo có giá trị bao la bên trong và những ý nghĩa để cung cấp nghị lực tinh thần và sức khỏe tâm linh.  Một tôn giáo, giống như một loại thực phẩm đặc hữu không thể làm hài lòng tất cả mọi người.  Theo những khuynh hướng tinh thần khác nhau, một số người thích hợp và được lợi ích từ tôn giáo này, số người khác từ tôn giáo khác.  Mỗi tín ngưỡng có khả năng sản sinh những con người cao thượng tốt lành, nhiệt tâm tốt bụng và mặc dù họ tán thành những triết lý thường mâu thuẫn nhau, tất cả những tôn giáo thành công trong việc làm này.  Vì vậy không có lý do gì để sa vào trong sự mù quáng tôn giáo gây bất hòa và thiếu bao dung; mà mỗi lý do là để yêu mến và tôn trọng tất cả những hình thức thực hành tâm linh.  
                        Một cách chắc chắn, lãnh vực quan trọng nhất để gieo những hạt giống của chủ nghĩa vị tha to lớn hơn là những quan hệ quốc tế.  Trong vài năm qua thế giới đã thay đổi một cách ấn tượng.  Chúng tôi nghĩ tất cả chúng ta sẽ đồng ý rằng sự chấm dứt chiến tranh lạnh và sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu và Liên Sô đã báo hiệu một kỷ nguyên mới.  Khi chúng ta bước  qua thập niên những năm 1990 dường như nhân loại đã hoàn toàn trải qua thế kỷ hai mươi trọn vẹn.
                        Điều đã là một điểm đau đớn nhất của lịch sử nhân loại, thời gian khi, do bởi sự gia tăng rộng rãi những vũ khí tàn phá, nhiều người hơn đã khổ đau và chết bởi bạo động hơn bao giờ hết trong quá khứ.  Xa hơn nữa, chúng ta cũng đã chứng kiến một cuộc tranh đua gần như kết thúc giữa những tư tưởng căn bản những điều luôn luôn xé chia cộng đồng nhân loại: một phía là sức mạnh và quyền lực sống sượng; phía kia là tự do, đa nguyên, những quyền cá nhân và dân chủ.  Chúng tôi tin tưởng rằng những kết quả của sự thi thố to lớn này thì đã rõ ràng.  Mặc dù tâm tư nhân loại tuyệt hảo của hoà bình, tự do và dân chủ vẫn đối diện nhiều hình thức của bạo quyền chuyên chế, hiểm ác và trái đạo đức, mặc dù vậy một sự kiện không lầm lẫn là đại đa số nhân loại ở khắp mọi nơi mong muốn điều ấy giành thắng lợi.  Vì vậy những thảm kịch trong thời gian này của chúng ta hoàn toàn không có lợi ích, và trong nhiều trường hợp là những ý nghĩa đúng đắn vì tâm tư nhân loại đã khai thông.  Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản minh chứng cho điều này.
                        Mặc dù chủ nghĩa cộng sản (những người khai sinh cộng sản chủ nghĩa) chủ trương nhiều tư tưởng cao quý, kể cả chủ nghĩa vị tha, những những hành vi quản lý của những người chọn lọc (xuất sắc-ưu tú?) độc đoán (chuyên chính vô sản) với những quan điểm của họ đã chứng tỏ tai hại.  Những chính quyền này đã trải dài sự khắc nghiệt  kinh khiếp để kiểm soát toàn bộ sự lưu thông tin tức xuyên suốt những xã hội của họ  cho đến cấu trúc của hệ thống giáo dục và vì vậy những công dân hay nhân dân của họ mà họ gọi là những người làm chủ xã hội chỉ có thể lao động vì miếng cơm manh áo.  Mặc dù tổ chức cứng rắn có thể cần thiết trong lúc đầu để phá bỏ những chế độ đàn áp thống trị áp bức trước kia, nhưng một khi mục tiêu đã được đáp ứng, tổ chức có rất ít (nhỏ nhoi) cống hiến đối với việc xây dựng một cộng đồng nhân loại hữu dụng.  Chủ nghĩa cộng sản thất bại hoàn toàn vì nó dựa trên sức mạnh (bạo lực cách mạng) để thúc đẩy niềm tin của nó.  Cuối cùng, tính tự nhiên của con người không thể chống cự nổi, chịu đựng nổi với những khổ đau mà nó sản sinh ra.
                        Bạo lực, sức mạnh hoang dã, thú tính, phi nhân dù có áp dụng mạnh mẽ thế nào đi nữa, cũng không bao giờ khuất phục được căn bản khao khát tự do của con người.  Hàng trăm nghìn người diễn hành ở các phố thị Đông Âu đã chứng minh cho điều này.  Người ta chỉ biểu lộ sự cần thiết của con người cho tự do và dân chủ.  Nó rất linh động.  Người ta không đòi hỏi phải làm bất cứ điều gì với những tư tưởng mới; những người này chỉ đơn giản nói lên từ con tim của họ, chia xẻ những khao khát cho tự do, sự biểu tình tuần hành biểu lộ rằng nó sản sinh từ trong cốt lõi của con người tự nhiên, của tự nhiên tính.  Tự do, trên thực tế, là cội nguồn chính của sáng tạo cho cả cá nhân và xã hội.   Thật không đủ, khi hệ thống cộng sản cho rằng chỉ cung cấp cho người ta thực phẩm, chỗ cư trú, và áo quần.  Nếu chúng ta có tất cả những thứ ấy nhưng thiếu vắng không khí quý báo của giải thoát,của tự do để duy trì tính tự nhiên sâu sắc hơn của chúng ta, chúng ta chỉ phân nữa là loài người; chúng ta giống như loài vật nếu chỉ hài lòng với những nhu cầu cầu sinh vật lý của chúng.
                        Chúng tôi nghĩ rằng những cuộc cách mạng hòa bình ở Liên bang Sô viết củ và Đông Âu đã dạy cho chúng ta nhiều bài học rộng lớn.  Một là giá trị của sự thật.  Người ta không muốn bị áp bức khủng bố, gian dối hay lừa mị cho dù bởi một cá nhân hay một hệ thống.  Những hành động như vậy mâu thuẫn, tương phản hay trái ngược với căn bản tâm linh con người.  Vì vậy, ngay cả mặc dù những ai đấy hành động lừa mị hay sử dụng bạo lực để đạt những thành công đáng kể ngắn hạn, cuối cùng họ sẽ bị lật đổ.
                        Mặt khác, mọi người hiểu rõ giá trị, đánh giá cao sự thật, và tôn trọng sự thật vì nó thật sự ở trong máu huyết chúng ta.  Sự thật là người bảo đảm tốt nhất và nền tảng thật sự của tự do và dân chủ.  Chẳng hề gì, cho dù chúng ta yếu hay chúng ta mạnh hay cho dù mục tiêu hay sự nghiệp của chúng ta nhiều người hay ít người tán thành, hay tham gia, sự thật vẫn sẽ chiến thắng.  Sự kiện là những động cơ thành công của tự do năm 1989 và sau đấy đã căn cứ trên một thông điệp đúng đắn của những nhận thức căn nhất của con người là một giá trị nhắc nhở rằng sự thật tự nó vẫn là một thiếu vắng nghiêm trọng rất nhiều trong đời sống chính trị.  Một cách đặc biệt trong sự chỉ đạo, hướng dẫn, điều khiển những quan hệ quốc tế chúng ta dành rất ít tôn trọng  đến sự thật.  Một cách vẫn thường thấy, những quốc gia yếu bị lôi kéo và đè nén bởi những quốc gia mạnh hơn, như những khu vực của những xã hội khổ đau nhất nằm trong tay của những vùng thịnh vượng và mạnh hơn.  Mặc dù trong quá khứ, thông điệp đơn giản của sự thật thường bị gạt bỏ như không thực tế, những năm sau cùng vừa qua chứng tỏ rằng nó là một sức mạnh rộng lớn từ trong tâm con người, và như một kết quả, trong sự thể hiện cụ thể của lịch sử.
                        Bài học vĩ đại thứ hai từ Đông Âu đấy là một sự chuyển biến hòa bình.  Trong quá khứ, những người nô lệ thường dùng đến bạo động trong sự đấu tranh cho tự do.  Ngày nay, bước  theo dấu chân của Thánh Gandhi và Martin Luther King, Jr., những cuộc cách mạng hòa bình đã cống hiến cho những thế hệ tương lai một thí dụ tuyệt diệu của sự thay đổi bất bạo động thành công.  Khi những sự thay đổi lớn của xã hội trong tương lai lại cần thiết, con cháu chúng ta sẽ có thể nhìn lại thời gian hiện tại như một kiểu mẫu của đấu tranh bằng hòa bình, một câu chuyện thành công thật sự không thể đo lường chưa từng có, liên hệ cả tá quốc gia và hàng trăm triệu người.  Hơn bao giờ hết, những sự kiện vừa qua đã chỉ cho thấy rằng khao khát cho cả hòa bình và tự do dựa trên trình độ căn bản nhất của tính tự nhiên loài người và bạo động là sự đối lập hoàn toàn của nó.
                        Trước khi xem xét đến loại nào của trật tự toàn cầu sẽ phụng sự chúng ta tốt nhất trong thời kỳ hậu Chiến Tranh Lạnh, chúng tôi nghĩ thật quan trọng để nói về vấn đề bạo động, sự xóa bỏ ở mọi trình độ là căn bản cần thiết cho hòa bình thế giới và là căn bản thiết yếu của bất cứ trật tự quốc tế nào.
                        BẤT BẠO ĐỘNG VÀ TRẬT TỰ QUỐC TẾ
                        Mỗi ngày những báo cáo những việc xảy ra về khủng bố, tội phạm và chiến tranh xâm lược.  Chúng tôi chưa từng ở một xứ sở nào mà những câu chuyện thảm kịch về chết chóc và chém giết đổ máu không có trên báo chí hay truyền thanh, truyền hình.  Những báo cáo như vậy hầu như đã trở thành thú say mê của những phóng viên báo chí và khán thính giả của họ tương tự như thế.  Nhưng tuyệt đại đa số loài người không có thái độ tiêu cực hay  không xây dựng hay phá hoại, rất ít trong số năm tỉ người trên hành tinh này thật sự có những hành động liên lũy vào bạo động.  Hầu hết chúng ta thích được sống hòa bình, thanh bình, yên bình như có thể được.
                        Một cách căn bản, tất cả chúng ta yêu mến sự tĩnh lặng thanh bình, ngay cả những ai đó trong chúng ta đã có những hành vi bạo động.  Thí dụ, khi mùa xuân đến, ngày trở nên dài hơn, có nhiều ánh nắng hơn, cỏ cây dường như  sống lại và mọi thứ rất xinh tốt. Con người cảm thấy hạnh phúc vui tươi.  Mùa thu đến, một lá vàng rơi, rồi một lá khác tiếp theo, tiếp theo, rồi thì tất cả những hoa lá đẹp đẻ tốt tươi  chết đi cho đến khi chung quanh chúng ta toàn những cành trụi lá.  Chúng ta không cảm thấy vui.  Tại sao thế?  Bởi vì trong sâu thẩm, chúng ta khao khát dựng xây,  kết trái và không thích những thứ đổ vở hay bị tàn phá. Mọi thứ hành vi tàn phá chống lại căn bản tự nhiên của chúng ta; sự xây dựng, được kiến tạo là con đường của con người.
                        Chúng tôi chắc rằng mọi người đồng tâm nhất trí rằng chúng ta phải vượt thắng bạo động, nhưng nếu chúng ta xóa bỏ nó hoàn toàn, chúng ta nên trước hết phân tích chúng có hay không có bất cứ giá trị nào.
                        Nếu chúng ta công bố câu hỏi này từ một viễn cảnh thực tiễn và nghiêm chỉnh, chúng ta thấy rằng trên một số trường hợp nào đấy bạo động quả thực hữu dụng.  Một người có thể giải quyết vấn đề nhanh chóng bằng bạo lực.  Tuy nhiên cùng lúc ấy, những thành tựu như thế phải thường vì mở rộng lợi ích và quyền lợi cho những người khác.  Như một kết quả, ngay cả mặc dù một vấn đề đã được giải quyết, hạt giống của thứ khác đã được gieo xuống.
                        Mặc khác, nếu một nguyên nhân được hổ trợ bởi lý do đúng đắn, hợp lý có cơ sở, thì không điểm nào để sử dụng bạo lực.  Đấy là những ai không có động cơ nào hơn là khát vọng vị kỷ và những ai không thể đạt đến mục đích thông qua lý do hợp lý, những ai dựa vào sức mạnh.  Ngay cả khi gia đình và thân hữu không đồng ý, những ai với những lý do vững chắc có thể nêu gương cho những người khác và tranh luận trường hợp của họ từng điểm một, trái lại những ai với chút ít hổ trợ của lý lẻ mau chóng rơi vào giận dữ.  Vì vậy giận dữ không là một biểu hiện của sức mạnh mà là một sự yếu đuối.
                        Một cách căn bản, thật quan trọng để thử nghiệm động cơ của chính mình và người đối diện.  Có nhiều loại bạo động và bất bạo động, chúng ta có thể phân biệt chúng từ những nhân tố ngoại tại.  Nếu một động cơ là tiêu cực, hành động nó sản sinh là, trong cảm nhận sâu thẩm nhất, bạo động, ngay cả mặc dù nó có thế xuất hiện dường như êm ái và dịu dàng.  Ngược lại nếu một động cơ là chân thành và tích cực nhưng hoàn cảnh đòi hỏi thái độ khắc nghiệt, một cách căn bản họ đang thực hành bất bạo động.   Không cần biết vấn đề là gì, chúng tôi nghĩ rằng từ bi yêu thương quan tâm đến lợi ích những người khác -  không phải cho chính bản thân ai đấy – là sự phán xét duy nhất cho sử dụng bạo lực.
                        Sự thực hành chân thành bất bạo động vẫn là những gì thử nghiệm trên hành tinh của chúng ta, nhưng sự theo đuổi của nó, đặt cơ sở trên tình thương và sự hiểu biết, là thánh thiện.  Nếu sự thử nghiệm này thành công, nó có thể mở ra con đường hòa bình xa hơn của thế giới trong thế kỷ này.
                        Chúng tôi từng nghe trường hợp những người phương Tây đề cập rằng hình thức lâu dài đấu tranh dùng bất bạo động thụ động đề kháng của Thánh Gandhi không thích hợp với mọi người và những chiều hướng hành động như thế tự nhiên hơn với người Phương Đông.  Bởi vì người Phương Tây là hoạt động, họ hướng tìm một kết quả lập tức trong tất cả mọi trưởng hợp, ngay cả cái giá của mạng sống.  Điều tiếp cận này, chúng tôi tin tưởng là, không phải luôn luôn thuận lợi.  Nhưng chắc chắn là sự thực hành bất bạo động thích hợp cho tất cả mọi người.  Nó đơn giản kêu gọi cho sự quyết tâm.  Ngay cả tiến trình tự do của Đông Âu đạt đến mục tiêu một cách nhanh chóng, chống đối bằng bất bạo động bởi chính tính tự nhiên của nó thường đòi hỏi sự kiên nhẫn.
                        Trong sự quan tâm này, chúng tôi cầu nguyện rằng cho dù sự đàn áp tàn bạo và những khó khăn của đấu tranh mà họ đối diện, những ai liên hệ đến tiến trình dân chủ ở China sẽ luôn luôn duy trì một cách hòa bình.  Chúng tôi tin tưởng rằng họ sẽ thành công.  Mặc dù hầu hết những học sinh, sinh viên trẻ China liên hệ đã được sinh ra và nuôi dưỡng lớn lên trong một hình thức khe khắc của chủ nghĩa Cộng sản, nhưng trong mùa xuân 1989 họ đã tự phát thực hành tiến trình đấu tranh thụ động của Thánh Gandhi.  Điều này thật xuất sắc, phi thường và đặc biệt và chỉ rõ ràng rằng căn bản của tất cả loài người là muốn theo đuổi con dường hòa bình, bất chấp là họ đã bị tuyên truyền nhồi nhét bao nhiêu lâu.
                        THỰC CHẤT CỦA CHIẾN TRANH
                        Dĩ nhiên,  chiến tranh và lực lượng quân đội lớn được thành lập là nguồn gốc lớn nhất của bạo động trên thế giới.  Cho dù mục đích của họ là phòng vệ hay tấn công, những tổ chức quân sự rộng lớn này tồn tại chỉ để giết hại loài người.  Chúng ta nên suy nghĩ thật cẩn thận về thực chất của chiến tranh.  Hầu hết chúng ta đã từng có điều kiện để lưu tâm chiến sĩ hành quân là sôi nổi và vinh quang – một cơ hội để những người trai chứng tỏ năng lực và can đảm của họ.   Vì quân đội là hợp pháp, chúng ta cảm thấy rằng chiến tranh là có thể chấp nhận; thông thường, không ai cảm thấy rằng chiến tranh là tội phạm hay chấp nhận nó là một thái độ tội lỗi.  Thực tế, chúng ta đã bị nhồi sọ.  Chiến tranh không vinh quang cũng không hấp dẫn.  Nó là hoàn toàn vô lý. Ngay bản chất tự nhiên của nó là một trong những thứ của thảm cảnh và khổ đau.
                        Chiến tranh giống như lửa trong cộng đồng nhân loại, nhiên liệu của một sinh vật đang sống.  Chúng tôi tìm thấy sự tương tự hữu ích và thích đáng này.  Chiến tranh hiện đại được tiến hành chủ yếu với nhiều hình thức khác nhau của lửa, nhưng chúng ta có điều kiện để thấy nó khi rùng mình hay ly kỳ, hồi hộp rằng chúng ta nói về điều này hay vũ khí kỳ vĩ như một mãnh đặc biệt của kỷ thuật mà không nhớ rằng, nó có thật sự hữu dụng hay không, nó sẽ thiêu đốt nhân loại.  Chiến tranh cũng mạnh mẻ giống như lửa trong cách nó lan tỏa.  Nhưng bởi vì chúng ta đã bị tẩy não để để nghĩ cách này, chúng ta không quan tâm đến sự khổ đau của cá nhân những chiến sĩ.  Không một chiến binh nào muốn bị thương hay chết; không một ai trong những người yêu của họ muốn bất cứ sự tổn hại nào đến với anh ta.  Nếu một chiến sĩ bị giết, hay bị thương tật suốt đời, ít nhất năm hay mười người khác thân nhân hay bằng hữu của họ cũng khổ đau như thế.  Chúng ta tất cả nên kinh sợ với quy mô của thảm cảnh này, nhưng chúng ta quá mơ hồ, rối rắm, lầm lạc để nghĩ về điều này.
                        Thẳng thắn mà nói, khi là một cậu bé, chúng tôi cũng bị hấp dẫn với quân đội.  Quân phục của họ trông thật rạng rở, xinh xắn, và oai vệ.  Nhưng đó chắc chắn là sự quyến rũ, cám dỗ bắt đầu.  Trẻ con bắt đầu những trò chơi sẽ hướng chúng đến phiền toái một ngày nào đấy.  Có hàng khối những trò chơi và trang phục khác hơn là những thứ căn cứ trên sự giết hại nhân loại.  Một lần nữa, nếu chúng ta là những bậc trưởng thượng, những người trưỡng thành không quá bị lôi cuốn bởi chiến tranh, chúng ta sẽ thấy rõ ràng rằng cho phép con em chúng ta trở nên quen thuộc với những trò chơi chiến tranh là cực kỳ tai hại về sau.  Một vài cựu chiến binh nói với chúng tôi rằng khi họ bắn người đầu tiên họ cảm thấy không thoải mái nhưng khi họ tiếp tục bắn giết nó bắt đầu cảm thấy rất bình thường.  Cũng thế, cùng lúc chúng ta có thể trở nên quen thuộc với bất cứ thứ gì.
                        Không phải chỉ trong thời gian chiến tranh những tổ chức quân sự mới phá hoại bởi sự ngay sự cấu trúc của họ, họ là những cá nhân vi phạm nhân quyền lớn nhất, và tự những  chiến binh những người khổ đau một cách có hệ thống từ sự lạm dụng của họ.  Sau khi những cấp chỉ huy đã đưa ra những giải thích tuyệt đẹp về sự quan trọng của quân đội, kỷ luật của nó và sự cần thiết phải khuất phục kẻ thù, những quyền của đại đa số quân nhân bị cướp mất hầu như toàn bộ.  Rồi thì họ bị thúc ép để từ bỏ ý chí cá nhân của họ, và , cuối cùng hy sinh mạng sống của họ. Hơn thế nữa, một khi quân đội trở thành một năng lực hùng mạnh, thì mọi thứ rủi ro mà nó có thể cướp mất hạnh phúc của chính nước đó.
                        Có những hạng người với những ý định phá hoại trong mọi xã hội, và cám dỗ chiếm được sự lãnh đạo một tổ chức có thể đáp ứng những khát vọng của họ có thể trở nên không chống lại được.  Nhưng chẳng kể sự hiểm độc hay tàn ác thề nào của nhiều kẻ độc tài giết người những kẻ đang đè nặng xứ sở của họ và tạo nên những vấn nạn quốc tế, rõ ràng là họ không thể làm hại kẻ khác hay tàn phá đời sống của vô số người khác nếu họ không những tổ chức quân sự chấp nhận và xã hội lượng thứ.  Cho đến khi nào có những lực lượng quân đội hùng mạnh thì sẽ luôn luôn có sự nguy hiểm của những chế độ độc tài.  Nếu chúng ta thật sự tin tưởng độc tài là một hình thức chính quyền đáng khinh, xấu xa, và phá hoại, thế thì chúng ta phải nhận thức rằng sự tồn tại của những lực lượng quân đội hùng mạnh là một trong những nguyên nhân chính của nó.
                        Chủ nghĩa quân sự cũng rất mắc mõ, tốn kém.  Theo đuổi hòa bình bằng những vị trí với những lực lượng quân sự mạnh mẻ một sự phung phí vô cùng tận đè nặng trên xã hội.  Những chính quyền dành những chi phí lớn lao để tăng cường kho vũ khí phức tạp khó hiểu, khi mà, thật tế, chẳng ai thật sự muốn dùng chúng.  Không chỉ tiền của nhưng  cũng là những nguồn năng lượng giá trị và sự thông minh của con người bị hoang phí, trong khi tất cả những sự tăng cường ấy là vì sợ.
                        Chúng tội muốn làm rõ, tuy thế, mặc dù chúng đối kháng sâu sắc với chiến tranh, chúng tôi không đang bào chửa làm cho nguôi dịu đi.  Cần thường xuyên giành lấy một thế đứng mạnh mẻ công kích chống lại bất công.  Thí dụ, thật đơn giản rõ ràng đối với tất cả chúng ta Thế chiến Thứ hai minh chứng là hoàn toàn đúng.  Nó “cứu nền văn minh” khỏi sự bạo ngược của chủ nghĩa Phát xít Quốc xã, như Winton Churchill rất khéo léo đặt nó.  Trong quan điểm của chúng tôi, Chiến tranh Đại Hàn cũng chính nghĩa như thế, vì nó đã ban cho Nam Hàn cơ hội dần dần phát triển dân chủ.  Nhưng chúng ta chỉ có thế đánh giá một xung đột được chứng minh, bào chửa trên bình diện hoặc đạo đức hay là không với nhận thức muộn màng.  Ví dụ, chúng ta bây giờ có thể thấy trong thời Chiến Tranh Lạnh, yếu tố căn bản ngăn chặn vũ khí hạt nhân có một giá trị chắc chắn.  Mặc dù thế, thật rất khó khăn để đánh giá tất cả những sự kiện như thế với bất cứ trình độ nào một cách đúng đắn.  Chiến tranh là bạo động và bạo động thì không thể tiên liệu được.  Vì thế, thật tốt hơn là tránh nó nếu có thể, và đừng bao giờ quá tự tin rằng chúng tôi biết trước hoặc kết quả rồi ra của một cuộc chiến nào đấy là có lợi hay không.
                        Thí dụ, trong trường hợp của Chiến Tranh Lạnh, mặc dù sự ngăn chặn có thể hổ trợ tăng tiến sự ổn định,nhưng nó không tạo nên một nền hòa bình chân thành.  Bốn mươi năm trở lại đây, ở Âu Châu chỉ thấy vắng bóng của chiến tranh, điều không là một nền hòa bình thật sự nhưng là một bản sao chép tìm thấy trên sợ hải.  Tốt nhất, xây dựng quân đội để duy trì hòa bình phục vụ chỉ như một giới hạn tạm thời. Cho đến khi mà những đối tác vẫn không tin tưởng lẫn nhau, bất cứ con số nào của những nhân tố cũng có thể làm rối loạn sự cân bằng sức mạnh.  Cuối cùng hòa bình chỉ có thể bảo đảm trên căn bản của lòng tin chân thành.
                        GIẢI TRỪ QUÂN BỊ VÌ HÒA BÌNH THẾ GIỚI
                        Qua chiều dài lịch sử, con người đã từng theo đuổi hòa bình bằng cách này hay cách khác.  Có lạc quan lắm không khi tưởng tượng rằng có thể cuối cùng hòa bình thế giới sẽ trong tấm tay của chúng ta? Chúng tôi không tin rằng đã có một sự tăng gia đối với lòng thù hận của loài người, chỉ là trong khả năng để biểu lộ nó trong hàng loạt vũ khí tàn phá.  Mặt khác,  chịu chứng kiến những bằng chứng thảm thương của sự tàn sát hàng loạt do những vũ khí như thế trong thời đại của chúng ta đã cho chúng ta cơ hội để kiểm soát  chiến tranh.  Để làm thế, rõ ràng chúng ta phải giải trừ quân bị.
                        Giải trừ quân bị chỉ có thể xảy ra trong khung cảnh của những mối quan hệ chính trị và kinh tế mới.  Trước khi chúng ta lưu ý đến những chỉ tiết của vấn đề này,  thật đáng giá để tưởng tượng đến loại tiến trình hòa bình mà chúng ta có thể lợi lạc nhất.  Điều này thật công bằng với tự chính những bằng chứng của nó.  Trước nhất, chúng ta nên hành động loại bỏ vũ khí nguyên tử, tiếp đến, những vũ khí sinh học và hóa học, rồi đến vũ khí tấn công, và cuối cùng, vũ khí tự vệ.  Cùng lúc, để bảo vệ hòa bình, chúng ta nên bắt đầu phát triển trong một hay nhiều vùng của địa cầu một lực lượng cảnh binh quốc tế được xây dựng nên bằng số lượng bình đẳng của những thành viên từ những quốc gia dưới một sự chỉ huy tập thể.  Cuối cùng lực lượng này sẽ bao trùm toàn thế giới.
                        Bởi vì tiến trình song song của giải trừ quân bị và phát triển một lực lượng hổn hợp sẽ là cả nhiều phía và dân chủ, quyền lợi của đa số để phê phán ngay cả can thiệp vào sự kiện một quốc gia vi phạm những nguyên tắc cơ bản phải được bảo đảm.  Hơn thế nữa, với tất cả những lực lượng quân đội rộng lớn bị giải tán và tất cả những xung đột như vấn đề tranh cải biên giới đến việc kiểm soát lực lượng hổn hợp quốc tế, những quốc gia lớn và nhỏ phải bình đằng thật sự.  
                        Những cải cách như thế sẽ có kết quả trong một môi trường quốc tế ổn định.
                        Dĩ nhiên, số lượng tài chính khổng lồ dành có từ việc ngừng sản xuất vũ khí sẽ cung cấp một lượng tiền của vô cùng to lớn cho việc phát triển địa cầu.  Ngày nay những quốc gia trên thế giới dành hàng nghìn tỷ đô la hàng năm để duy trì lực lượng quân sự.  Chúng ta có thể nào tưởng tượng bao nhiêu giường cho bệnh viện, trường học và nhà cửa mà số tiền ấy có thể dùng để xây dựng nên?  Thêm nữa, như chúng tôi đã lưu ý ở trên,  một tỉ lệ vô cùng to lớn của những tài nguyên hiếm hoi hoang phí trên việc phát triển quân sự không chỉ ngăn ngừa xóa bỏ nghèo đói, mù chữ, và bệnh tật, nhưng cũng đòi hỏi việc hy sinh sự thông minh quý giá của con người.  Những nhà khoa học của chúng ta cực kỳ sáng suốt.  Tại sao sự thông tuệ của họ lại có thể để bị phung  phí trên những nổ lực khủng khiếp như vậy khi nó có thể dùng cho những phát triển tích cực của địa cầu?
                        Những sa mạc rộng lớn của thế giới như Sahara và Gobi có thể được phát triển để gia tăng sản xuất thực phẩm và giải tỏa mật độ dân số.  Nhiều quốc gia giờ đây hàng năm đối diện với nạn khô hạn khốc liệt.  Những phương pháp mới và ít tốn kém của việc lọc nước mặn có thể phát triển làm cho nước biển thích hợp cho sự tiêu dùng của con người và những việc khác.  Có nhiều vấn đề thúc bách trên phạm vi của năng lượng và sức khỏe mà những nhà khoa học có thể toàn tâm toàn ý hữu ích hơn.  Vì kinh tế thế giới sẽ phát triển nhanh hơn như một kết quả của những ảnh hưởng của họ, họ có thể ngay cả chú tâm nhiều hơn!  Hành tinh của chúng ta may mắn với những kho tàng tài nguyên thiên nhiên rộng lớn.  Nếu chúng ta dùng chúng đúng đắn, bắt đầu với việc loại bỏ chủ nghĩa quân phiệt và chiến tranh, thật sự mỗi người sẽ có thể sống trong một sự thịnh vượng và chăm sóc tốt đẹp trọn đời.
                        Cố nhiên hòa bình trên địa cầu không thể xảy ra ngay lập tức.  Vì những điều kiện chung quanh thế giới rất phức tạp, sự trải rộng của nó cũng phải được lớn lên.  Nhưng không có lý do tại sao nó không thể bắt đầu trên một khu vực và rổi thì lan rộng dần dần từ lục địa này đến lục địa khác.
                        Tôi muốn đề xuất rằng những cộng đồng khu vực như Liên Hiệp Âu Châu được hình thành như một phần cụ thể của một thế giới hòa binh hơn mà chúng ta đang cố gắng để tạo nên.  Hãy nhìn môi trường của chiến tranh lạnh một cách khách quan,  những cộng đồng như thế thật là thẳng thắn, rõ ràng, mộc mạc là những thành phần cấu thành tự nhiên nhất của một trật tự thế giới mới.  Như chúng ta có thể thấy, sự thu hút hấp dẫn của sự lớn mạnh tương quan lẫn nhau đòi hỏi những cấu trúc hợp tác mới mẻ hơn.  Liên Hiệp Âu Châu đang mở con đường trong sự đối thoại và cố gắng này, sự cân bằng tế nhị giữa kinh tế, quân sự, và chính trị chung trên một mặt và mặt khác là chủ quyền độc lập của những quốc gia thành viên.  Chúng tôi hào hứng tột bực với việc làm này.  Chúng tôi cũng tin rằng Cộng đồng các Quốc gia Độc lập Mới đang nắm bắt, thấu hiểu những vấn đề tương tự như thế và những hạt giống của một cộng đồng như thế đã hiện diện rồi trong những tâm hồn của nhiều nước cộng hòa hình thành nên nó.  Trong bài này, chúng tôi muốn tóm tắt nói về tương lai của cả đất nước chúng tôi, Tây Tạng, và China.
                        Giống như Liên Bang Sô Viết cũ, China Cộng sản là một quốc gia đa chủng, đa văn hóa, nhiều khu vực tự trị, cấu thành dưới sự thúc đẩy của tư tưởng bành trướng  và cho đến bây giờ được cai trị bởi sức mạnh trong hình thức thuộc địa.  Một tương lai hòa bình, thịnh vượng trên tất cả sự ổn cố chính trị tùy thuộc trong sự thành công hoàn toàn không chỉ trên sự ao ước của chính nhân dân cho một hệ thống cởi mở và dân chủ hơn, mà cũng tùy thuộc vào những người của tám mươi triệu được gọi là  “những nhóm thiểu số quốc gia”  những người muốn đạt được tự do.  Vì hạnh phúc thật sự trở lại trái tim của Châu Á – ngôi nhà của một phần năm nhân loại – một cộng đồng hiệp tác hổ tương, dân chủ, đa nguyên của những quốc gia độc lập có chủ quyền phải được thay thế cái được gọi hiện nay là Cộng Hòa Nhân Dân China.  Dĩ nhiên, một cộng đồng như thế không cần hạn chế trong những vùng hiện nay dưới sự thống trị của Cộng sản China, như những người Tây Tạng, Uy Ngô Nhĩ, và Nội Mông.  Những người Hồng Công, những người đang tìm kiếm độc lập ở Đài Loan, và tất cả những quốc gia Đông Á và Đông Nam Á cũng có thể thích thú, hào hứng, trong việc xây dựng một Cộng Đồng Á Châu.  Tuy thế, đặc biệt khẩn thiết đối với những ai dưới sự thống trị của Cộng sản China lưu tâm làm như thế.  Chắc chắn mục tiêu là để có thể cứu China khỏi một sự tan rả trong bạo động, lãnh chúa địa phương và trở lại sự hổn lộn và rối loạn đã làm đau đớn khổ sở quốc gia vĩ đại này trong thế kỷ hai mươi vừa qua.  Hiện tại đời sống chính trị tại China quá phân cực và có mọi lý do để lo sợ cho một thảm kịch sẽ xảy ra.  Mỗi chúng ta-mỗi thành viên của cộng đồng thế giới- có một trách nhiệm đạo đức để hổ trợ ngăn chặn một sự khổ đau rộng lớn mà sự xung đột có thể xảy ra cho một quốc gia đông nhất dân trên thế giới.
                        Chúng tôi tin tưởng rằng, tiến trình đối thoại, tiết chế và thỏa hiệp liên hệ trong việc xây dựng một cộng đồng của những quốc gia Á Châu sẽ tự nó cho một hy vọng thật sự của sự tiến triển đến một trật tự mới của China.  Từ lúc mới bắt đầu, những quốc gia thành viên của một cộng đồng như thế có thể đồng ý nhất trí để quyết định chính sách phòng vệ và quan hệ quốc tế cùng với nhau.  Sẽ có nhiều cơ hội cho sự hiệp tác.  Điểm quan yếu là chúng ta tìm một phương thức hòa bình và bất bạo động cho nổ lực tự do, dân chủ và tiết chế để tiến đến thành công hoàn toàn từ không khí đàn áp và bất công hiện tại.
                        NHỮNG VÙNG CỦA HÒA BÌNH
                        Chúng tôi nhìn Tây Tạng trong một Cộng đồng Á Châu như thế khi chúng tôi đã đề cập trước gọi là “Một Khu Vực của Hòa Bình” : một nơi tôn nghiêm, một khu bảo tồn thiên nhiên trung lập và phi quân sự, nơi mà những vũ khí bị cấm chỉ, và con người sống hòa hiệp với thiên nhiên.  Điều này không chỉ đơn thuần là một giấc mơ – nó hoàn toàn đúng với cung cách con người Tây Tạng nổ lực để sống qua hàng nghìn năm trước khi đất nước chúng tôi bị xâm lăng.  Như mọi người đã biết,  ở Tây Tạng tất cả những hình thái của đời sống hoang dã thật sự được bảo vệ theo những lời giáo huấn chính yếu của đạo Phật.  Cũng thế, ít nhất ba trăm năm sau cùng, chúng tôi không có những vũ khí đúng thật của vũ khí.  Tây Tạng đã từ bỏ sự tiến hành chiến tranh như một công cụ của chính sách quốc gia trong thế kỷ thứ sáu và thứ bảy, trong thời trị vì của ba quốc vương vĩ đại thuần thành tín ngưỡng.
                        Trở lại mối quan hệ giữa những cộng đồng phát triển khu vực và công tác giải trừ quân bị, chúng tôi muốn gợi ý rằng “trái tim” của mỗi cộng đồng có thể là một hay nhiều quốc gia mà đã quyết định trở thành những khu vực của hòa bình, những vùng mà lực lượng quân sự bị cấm chỉ.  Điều này, một lần nữa, không chỉ là một giấc mơ.  Bốn thập niên trước đây, trong tháng mười hai 1948, Costa Rica đã giải tán quân đội.  Gần đây, 37 phần trăm dân số Thụy Sĩ đã bỏ phiếu giải tán quân đội của họ.  Chính quyền mới ở Tiệp Khắc đã quyết định ngưng sự chế tạo và xuất cảng tất cả các loại vũ khí.  Nếu dân chúng cũng chọn lựa như thế, một quốc gia có thể từng bước căn bản thay đổi ngay bản chất tự nhiên của nó.
                        Những vùng của hòa bình trong những cộng đồng khu vực sẽ phục vụ như những ốc đảo kiên cố, vững vàng, ổn định.  Trong khi chi trả cho sự chia xẻ phí tổn cho bất cứ lực lượng quân sự chung xây dựng nên bởi cộng đồng như một tổng thể, những khu vực hòa bình sẽ là những người tiên phong, những kẽ hướng đạo của toàn bộ thế giới hòa bình và sẽ được tránh khỏi những liên lụy đến bất cứ một cuộc xung đột nào.  Nếu những cộng đồng khu vực được phát triển ở Á Châu, Nam Mỹ Châu, Phi Châu và sự giải trừ quân bị tiến triển thế là một lực lượng quân sự quốc tế từ tất cả mọi khu vực được hình thành,  những khu vực hòa bình sẽ có thể mở rộng, lan tỏa thanh bình khu chúng lớn mạnh.
                        Chúng ta không cẩn phải nghĩ rằng chúng ta đang dự tính chương trình của một tương lai xa vời khi chúng ta quan tâm điều này hay bất cứ dự kiến nào khác cho một thế giới mới, hiệp tác hơn về chính trị, kinh tế và quân sự.  Thí  dụ, Hội nghị mới bốn mươi tám viên về Tăng Cường An Ninh và Hiệp Tác Âu Châu đã dựa trên căn bản của một sự liên minh không chỉ những quốc gia Đông và Tây Âu mà cũng giữa những nước thuộc Cộng Đồng các Quốc Gia Độc Lập và Hoa Kỳ.  Những sự kiện nổi bật này gần như loại bỏ hiểm họa của một cuộc chiến chủ yếu giữa những siêu cường.
                        Chúng tôi đã không bao gồm Liên Hiệp Quốc trong thảo luận này của kỷ nguyên hiện đại bởi vì cả vai  trò chính yếu xây dựng nên một thế giới tốt đẹp hơn và khả năng to lớn của nó để hành động như thế đã được biết đến quá rõ ràng.  Bằng sự xác định, Liên Hiệp Quốc phải ở vị trí ngay trung tâm của bất cứ những thay đổi chính yếu nào xảy ra.  Tuy thế, có thể nó cần cải thiện cấu trúc của nó trong tương lai.  Chúng tôi luôn luôn có những hy vọng to lớn nhất cho Liên Hiệp Quốc, và không có ý bình phẩm,  chúng tôi muốn chỉ ra rằng không khí chiến tranh lạnh sau thế chiến thứ hai được nhận thức dưới hiến chương của  nó đã thay đổi.  Với sự thay đổi ấy đã mang đến một cơ hội dân chủ xa hơn cho Liên Hiệp Quốc, đặc biệt là sự hơi độc quyền của năm thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An, nó nên có thêm  đại diện.
                        KẾT LUẬN
                        Chúng tôi muốn kết luận bằng tuyên bố rằng, tổng quát, chúng tôi cảm thấy lạc quan về tương lai.  Một số xu hướng gần đây báo hiệu khả năng vĩ đại của chúng ta cho một thế giới tốt đẹp hơn.  Như vào cuối những năm năm mươi, sáu mươi người ta tin rằng chiến tranh là một điểu kiện không thể tránh khỏi của loài người. Đặc biệt, Chiến Tranh Lạnh tăng cường ý kiến cho rằng những hệ thống chính trị đối kháng chi có thể mâu thuẫn, đụng chạm, xung đột nhau mà  không cạnh tranh hay ngay cả cộng tác.  Giờ đây chỉ một số ít duy trì quan điểm này.  Ngày nay, nhân loại toàn hành tinh đang quan tâm chân thành đến hòa bình thế giới.  Họ càng ít thích thú trong đề xuất ý thức hệ hơn và càng hứa cam kết cùng tồn tại chung sống hơn.  Đây là những phát triển rất tích cực.
                        Cũng thế, hàng nghìn năm qua người ta tin tưởng rằng chỉ có một tổ chức có thẩm quyền áp dụng những phương pháp kỷ luật cứng nhắc mới có thể quản lý xã hội loài người.  Tuy vậy,  con người có một khao khát bẩm sinh cho tự do và dân chủ, và hai năng lực này đã hiện diện trong xung đột.  Ngày nay, thật rõ ràng điều nào đã thắng.  Sự phát sinh những chuyển động của “năng lực nhân dân” bất bạo động đã biểu hiện không thể phủ nhận rằng loài người có thể không dung túng, không chịu đựng cũng không thực hiện trách nhiệm hết sức dưới sự thống trị bạo ngược, chuyên chế, và bất công.  Điều thừa nhận này đại diện cho một tiến trình đáng chú ý.
                        Một phát triển hy vọng khác là sự phát triển tương hợp giữa khoa học và tôn giáo.  Trong suốt thế kỷ mười chin và nhiều hơn trong thời đại của chúng ta,  con người bối rối sâu sắc bởi sự đối kháng giữa những quan điểm thế giới rõ ràng mâu thuẫn này.  Ngày nay, vật lý, sinh vật và tâm lý học đã đạt đến những trình độ tinh vi như thế mà nhiều nhà nghiên cứu đang bắt đầu hỏi những câu hỏi sâu sắc nhất về căn bản thiết yếu tự nhiên của vũ trụ và đời sống, những câu hỏi giống như thế đã là sự quan tâm  chính đến những tôn giáo.  Vì vậy có một khả năng thực sự cho một quan điểm thống nhất hơn. Cụ thể, nó dường như rằng một nhận thức mới của tâm và vật đang hiện rõ nét.  Phương Đông đã quan tâm hơn với sự hiểu biết về tâm, Phương Tây với sự hiểu biết hơn về vật.  Bây giờ Đông Tây đã gặp nhau, những quan điểm tâm linh và vật chất này của đời sống trở nên hòa hiệp hơn.
                        Sự thay đổi nhanh chóng trong thái độ của chúng ta đối với trái đất cũng là cội nguồn của hy vọng.  Chỉ mới gần đây thôi, khoảng mười hay mười lăm năm trước, chúng ta tiêu thụ hoang phí tài nguyên vô tư lự, như là chúng không có sự giới hạn, chúng là vô tận.  Bây giờ, không chỉ những cá nhân mà ngay cả những chính quyền cũng vậy, đang tìm kiếm một trật tự sinh thái mới.  Chúng tôi thường đùa rằng, mặt trăng và những ngôi sao trông rất xinh đẹp, thơ mộng, nhưng bất cứ ai trong chúng ta cố gắng để sống trên ấy, chúng ta sẽ thật khốn cùng.  Hành tinh xanh này của chúng ta là một môi trường sống thú vị mà chúng ta biết.  Đời sống của nó là đời sống của chúng ta; tương lai của nó là tương lai của chúng ta.  Và mặc dù chúng tôi không tin rằng Trái Đất tự nó là một sinh vật, nó quả thực hành động như bà mẹ của chúng ta, và, giống như trẻ con, chúng ta tùy thuộc trên bà ta.  Bây giờ bà mẹ tự nhiên đang nói với chúng ta về hợp tác.  Trên bề mặt những vấn đề của địa cầu như hiệu ứng nhà xanh, và sự hư hỏng tầng ozone, những tổ chức cá nhân và những quốc gia đơn độc thì không giúp được gì.  Ngoại trừ tất cả chúng ta hợp lại, không có giải pháp nào có thể được tìm ra.  Bà mẹ của chúng ta đang dạy chúng ta một bài học về trách nhiệm toàn cầu.
                        Chúng tôi nghĩ chúng ta có thể nói rằng do bởi những bài học mà chúng ta bắt đầu để học, thế kỷ hai mươi mốt sẽ được thân thiện hơn, hòa hiệp hơn, và ít tổn hại hơn.  Từ bi yêu thương, hạt giống của hòa bình, sẽ có thể có thể trổ hoa.  Chúng tôi rất hy vọng.  Cùng lúc, chúng tôi tin tưởng rằng mỗi cá nhân có một trách nhiệm để hổ trợ hướng dẫn gia đình địa cầu của chúng ta trong một chiều hướng đúng đắn.  Chỉ những ao ước tốt đẹp thôi thì không đủ; chúng ta phải đảm đương một trách nhiệm.  Những hành động rộng lớn của con người nẩy sinh từ những khởi xướng cá nhân.  Nếu chúng ta cảm thấy rằng chúng không thể có một ảnh hưởng nhiều, người kế tiếp cũng có thể trở nên thiếu can đảm và một cơ hội lớn sẽ bị mất đi.  Mặt khác, mỗi chúng ta có thể làm gợi cảm hứng cho người khác chỉ đơn giản bằng hành động phát triển động cơ vị tha của chúng ta.
                        Chúng tôi chắc rằng nhiều người ân cần, lương thiện và chân thành trên toàn thế giới  đã nắm bắt những quan điểm mà chúng tôi lưu tâm ở đây.  Bất hạnh thay, không ai lắng nghe họ.  Mặc dù âm thinh của chúng tôi, giọng nói của chúng tôi cũng có thể không ai chú ý như thế.  Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi nên cố gắng nói nhân danh họ.  Dĩ nhiên, một số người có thể cảm thấy rằng Dalai Lama quá tự tin để viết trong cách như thế này.  Nhưng, vì chúng tôi nhận giải thưởng Nobel Hòa Bình, chúng tôi nghĩ rằng mình có một trách nhiệm làm như thế.  Nếu chúng tôi chỉ dùng tiền của giải  Nobel và dùng nó như thế nào tùy thích, dường như rằng có thể nó là lý do duy nhất mà chúng tôi đã dùng những từ ngữ đẹp đẻ trong quá khứ là để nhận giải này!  Tuy nhiên, bây giờ chúng tôi đã nhận nó, chúng tôi  phải đền đáp danh dự ấy bằng sự tiếp tục bênh vực những chủ trương quan điểm mà chúng tôi luôn luôn bày tỏ.
                        Chúng tôi, vì là người, tin tưởng chân thành rằng những cá nhân có thể làm nên một sự khác biệt trong xã hội.  Vào những thởi điểm thay đổi lớn lao của hiện tại như một sự kiện hiếm hoi trong lịch sử nhân loại, nó tùy thuộc mỗi chúng ta làm hết sức mình để tạo nên một thế giới hạnh phúc hơn.

                         
                        #12
                          tueuyen 08.04.2009 09:40:12 (permalink)
                          0

                          NHÂN LOẠI TIẾN ĐẾN MỘT THẾ GIỚI HOÀ BÌNH
                          His Holiness the Dalai Lama
                          Tuệ Uyển Việt dịch

                          --------------------------------------------------------------------------------------------------
                           
                          Giới thiệu
                          Khi chúng ta thức dậy mỗi buổi sáng và nghe trên đài phát thanh hay đọc trên báo chí, chúng ta đối diện với những tin tức buồn thảm giống nhau: bạo hành, tội phạm, chiến tranh, và thiên tai. Chúng tôi không thể nhớ lại một ngày nào không có những báo cáo vể những thảm kịch xãy ra ở đâu đấy. Ngay cả trong thời gian hiện tại ngày nay điều rõ ràng rằng đời sống quý giá của loài người thì không an toàn.  Không có một thế hệ quá khứ nào lại chứng kiến quá nhiều những tin tức đau buồn như chúng ta đối diện ngày nay, sự tĩnh thức cảnh giác liên tục này về sợ hải và căng thẳng nên tạo thành một câu hỏi nghiêm khắc của mỗi người nhạy cảm và từ bi đối với tiến trình của thế giới hiện đại của chúng ta.
                           
                          Thật là đáng buồn rằng càng có nhiều những vấn đề nghiêm trọng hơn sản sinh từ sự ngày càng phát triển của xã hội công nghiệp kỷ nghệ. Khoa học và kỷ thuật đã hoạt động diệu kỳ trên nhiều lãnh vực, nhưng những vấn đề nan giải của nhân loại vẫn tồn tại. Có một sự chưa từng có về sự biết đọc-biết viết (xoá nạn mù chữ), tuy vậy sự giáo dục (học vấn) toàn cầu dường như không nuôi dưỡng, khuyến khích, ấp ủ một tính tốt, một lòng tốt, một lòng hào hiệp, mà thay vào đấy chỉ là một tinh thần hiếu động và không hài lòng hay sự bất mãn.  Không có nghi ngờ gì về sự gia tăng trong tiến trình và kỷ thuật vật chất của chúng ta, nhưng trong một khía cạnh nào đấy điều này không có khã năng, hay không đủ khi mà chúng ta chưa thành công trong việc đem đến hoà bình và hạnh phúc hay là trong việc vượt thắng khổ đau.
                           
                          Chúng ta chỉ có thể kết luận rằng phải có những sai lầm một cách nghiêm trọng với chương trình và sự phát triển của chúng ta, và nếu chúng ta không kiểm soát lại nó đúng lúc có thể có một hậu quả khủng khiếp cho tương lai của loài người.  Chúng tôi hoàn toàn không chống lại khoa học và kỷ thuật - chúng đã cống hiến một cách bao la, mênh mang cho toàn bộ kinh nghiệm của loài người; cho một đời sống vật chất tốt đẹp và thoãi mái của chúng ta và cho sự hiểu biết vĩ đại đối với thế giới chúng ta đang sống.  Nhưng nếu chúng ta nhấn mạnh quá nhiều đến khoa học va kỷ thuật chúng ta có nguy cơ quên lãng với những khía cạnh về tri thức và hiểu biết của con người với sự cảm hứng trên tính trung thực, tính chân thật, tính lương thiện  và lòng vị tha.
                           
                          Khoa học và kỷ thuật, mặc dù có thể tạo nên một sự thoãi mái vật chất không tính đếm được, nhưng không thay thế cho những giá trị tinh thần và nhân bản lâu đời mà văn minh thế giới đã được tô điểm một cách sâu sắc, rộng rãi, trong tất cả mọi hình thức quốc gia của nó mà chúng ta được biết ngày hôm nay.  Không ai có thể phủ nhận những lợi ích vật chất chưa từng có của khoa học kỷ thuật, nhưng những nan đề của loài người vẫn tồn tại; chúng ta tiếp tục đối diện với những vấn đề giống như vậy, nếu không phải là thêm khổ đau, sợ hải và căng thẳng.  Vì vậy nó không chỉ là hướng đến một sự cân bằng giữa phát triển vật chất trên một phương diện và phát triển những giá trị tinh thần về mặt kia.  Nhằm mục tiêu đem đến một sự điều chỉnh vĩ đại này, chúng ta cần làm sống lại những giá trị nhân bản của chúng ta.
                           
                          Chúng tôi chắc chắn rằng nhiều người chia xẽ sự quan tâm của chúng tôi về sự khủng hoảng đạo đức toàn cầu và sẽ tham gia vào lời kêu gọi của chúng tôi đến tất cả những ai theo chủ nghĩa nhân đạo và những người thực hành tôn giáo, những người cũng chia xẽ quan tâm này để hổ trợ làm nên một xã hội, một cộng đồng của chúng ta từ bi hơn, bác ái hơn, yêu thương hơn, công bằng hơn, và vô tư hơn. Chúng tôi không nói như một Phật tử hay ngay cả là như một người Tây tạng. Mà chúng tôi cũng không tuyên bố như một nhà chuyên môn trên những chính trường quốc tế (mặc dù chúng tôi không tránh khỏi bình luận trên những vấn đề này).  Tốt hơn là, chúng tôi nói năng đơn giản như một người của nhân loại, như một người ôm ấp những giá trị tinh thần nhân bản mà căn nguyên của nó không chỉ ở Đại thừa Phật giáo mà ở tất cả những tôn giáo vĩ đại trên thế giới.  Từ triển vọng của viễn cảnh này chúng tôi muốn chia xẽ với tất cả quan điểm cá nhân của chúng tôi - rằng: 
                           
                          1- Chủ nghĩa nhân đạo toàn cầu là căn bản để giải quyết những vấn đề của trái đất;
                          2- Từ bi bác ái là cột trụ của hoà bình thế giới;
                          3- Tất cả những tôn giáo thế giới phải chuẩn bị sẳn sàng cho một thế giới hoà bình bằng con đường này, với tất cả người nhân đạo của bất cứ triết thuyết nào.
                          4- Mỗi cá nhân phải có một trách nhiệm toàn cầu để hình thành những tổ chức phục vụ cho những việc cần thiết của nhân loại.
                           
                          GIẢI QUYẾT NHỮNG VẤN NẠN CỦA NHÂN LOẠI THÔNG QUA VIỆC CHUYỂN HOÁ THÁI ĐỘ CỦA CON NGƯỜI
                           
                          Trong nhiều vấn đề mà chúng ta đối diện ngày nay, có một số là thiên tai và phải được chấp nhận và đối diện với một sự trấn tĩnh, bình thản.  Tuy vậy, những việc khác, là do chúng ta tự làm nên, tạo nên bằng sự thiếu hiểu biết, thiếu cảm thông, và có thể điều chỉnh được.  Một loại như vậy đã trỗi dậy từ  sự xung đột của những tư tưởng, chính trị và tôn giáo. Khi người ta chiến đấu với kẽ khác đến tận cùng của sự hẹp hòi, chúng ta đã đánh mất cái cảnh tượng căn bản của loài người điều mà đã nối kết chúng ta lại với nhau như một gia đình loài người dường như đơn độc trong vũ trụ bao la.  Chúng ta phải nhớ rằng sự khác nhau về tôn giáo, tư tưởng, và hệ thống chính trị của thế giới là nhằm ý nghĩa cho nhân loại đạt được hạnh phúc.  Chúng ta không được đánh mất cái viễn tượng của mục tiêu căn bản này và không khi nào chúng ta nên đánh giá những ý nghĩa nào trên điều này; quyền lợi tối thượng của loài người, của nhân tính đứng trên tất cả mọi vấn đề và tư tưởng phải luôn luôn được duy trì và nhắc nhở.
                           
                          Với viễn cảnh của sự nguy hiểm lớn nhất rõ ràng mà loài người đối diện - trong sự kiện, toàn thể sự sống trên hành tinh của chúng ta - là sự đe doạ của hiểm hoạ tàn phá bởi bom nguyên tử.  Chúng tôi nghĩ không cần quá chi tiết về sự nguy hiểm này, nhưng chúng tôi kêu gọi tất cả những lãnh tụ của các cường quốc nguyên tử, những người thật sự nắm giữ tương lai của thế giới trong tay, đến những khoa học gia và kỷ thuật gia những người tiếp tục chế tạo nên những vũ khí của sự tàn phá kinh khiếp này, và đến tất cả những người có những vị trí ảnh hưởng đến những lãnh tụ của họ; chúng tôi kêu gọi đến họ thực thi sự ôn hoà của họ và bắt đầu làm việc tháo bỏ và phá huỷ toàn bộ vũ khí nguyên tử.  Chúng ta biết rằng trong sự kiện của một cuộc chiến tranh hạch tâm sẽ không có người chiến thắng vì sẽ không có kẽ nào tồn tại !   Có phải nó không làm hoảng sợ nhưng chỉ để trầm tư với sự tàn phá phi nhân  và vô  tâm như vậy mà thôi hay sao ?  Và, nó không hợp tình, hợp lý khi chúng ta nên từ bỏ nguyên nhân cho sự tàn phá của chính chúng ta khi mà chúng ta biết  nguyên nhân và có cả thời gian cùng  ý nghĩa để làm như thế ?  Thông thường chúng ta không thể vượt thắng những vấn đề nan giải của chúng ta bởi vì có thể chúng ta không biết nguyên nhân hay, nếu chúng ta hiểu nó, không có ý nghĩa gì để từ bỏ hay giải quyết việc ấy.  Điều này không phải là trường hợp của hiểm hoạ hạt nhân.
                           
                          Cho dù chúng thuộc vào loài tiến triển hơn như loài người hay những loại đơn giản hơn như loài vật, tất cả mọi loài căn bản đều tìm kiếm hoà bình, thoãi mái và an toàn.  Cuộc sống đáng yêu đối với loài vật thầm lặng cũng như đối với bất cứ một người nào; ngay cả côn trùng đơn giản nhất cũng cố gắng để bảo vệ đối với những hiểm nguy đe doạ cho đời sống của nó.  Giống như mỗi chúng ta muốn sống và không muốn chết, đấy cũng là ước vọng của tất cả những tạo vật khác trong vũ trụ mặc dù năng lực của chúng tác động  lên điều này như thế nào, đây lại là một vấn đề khác.
                          Đại khái có hai loại của hạnh phúc và khổ đau, tinh thần (tâm lý) và vật chất (vật lý), và cho cả hai điều này, chúng tôi tin tưởng rằng hạnh phúc và khổ đau của tinh thần là sâu sắc và kịch liệt hơn.  Vì thế, chúng tôi nhấn mạnh việc rèn luyện tâm để chịu đựng khổ đau và đạt đến trạng thái thật cùng tận của hạnh phúc.  Tuy vậy, chúng tôi có một ý kiến tổng quát và cụ thể hơn về hạnh phúc, một sự phối hợp của hạnh phúc nội tại, sự phát triển kinh tế, và, trên tất cả, sự thanh binh của thế giới.  Để đạt được những mục tiêu này chúng tôi cảm thấy cần thiết để phát triển một ý thức cảm xúc của trách nhiệm toàn cầu, một sự quan tâm sâu sắc cho tất cả bất kể tín ngưỡng, màu da, giới tính, hay quốc tịch.
                           
                          Hứa hẹn theo sau ý tưởng trách nhiệm toàn cầu này là sự kiện đơn giản rằng, trong dạng thức phổ thông, tất cả những khát vọng của những người khác  là giống như của tôi.  Mỗi người muốn hạnh phúc, mỗi chúng sinh muốn hạnh phúc, và không muốn khổ đau.  Nếu chúng ta, loài người thông minh, không chấp nhận sự kiện này, thì sẽ có nhiều hơn và nhiều hơn khổ đau trên hành tinh này.  Nếu chúng ta nuôi dưỡng một trung tâm tự ngã để tiếp cận với cuộc sống và không ngớt cố gắng sử dụng, lợi dụng kẽ khác cho lợi ích của chính chúng ta, chúng ta có thể đạt được những lợi ích tạm thời, nhưng về lâu về dài chúng ta sẽ không thành công trong trong việc đạt đến ngay cả hạnh phúc cá nhân, và  thanh bình thế giới sẽ hoàn toàn là một câu hỏi ngoài lề.
                           
                          Trong đòi hỏi cho hạnh phúc, nhân loại đã từng sử dụng những phương pháp khác nhau, mà tất cả cũng rất thường tàn bạo và kinh khiếp.  Những thái độ ứng xử hoàn toàn không xứng hợp với cái nhãn hiệu con người, người ta đã giáng khổ đau xuống đồng loại và những loài khác cho những lợi ích vị kỷ của họ.  Cuối cùng, những hành động thiển  cận như vậy sẽ đem đến khổ đau cho chính người ấy cũng như những người khác.  Để được sinh ra làm người tự nó là một sự kiện hiếm có, và thật là thông minh để lợi dụng cơ hội này một cách có hiệu quả và thiện nghệ như chúng ta có thể làm.  Chúng ta phải có viễn cảnh chính đáng của tiến trình của cuộc sống toàn cầu, vì vậy hạnh phúc và vinh quang của một người hay một nhóm thì không thể tìm kiếm bằng sự trả giá của kẻ khác.
                           
                          Tất cả những lời kêu gọi này là cho một sự tiếp cận mới đến những vấn đề của địa cầu chúng ta.  Thế giới đang trở nên nhỏ hơn và nhỏ hơn - và càng ngày càng lệ thuộc liên đới hơn - như một kết quả của sự phát triển nhanh chóng của kỷ thuật và trao đổi mậu dịch thế giới cũng như sự phát triển quan hệ giữa các quốc gia.  Bây giờ chúng ta lệ thuộc rất nhiều với những người khác.  Ngày xưa, những vấn đề hầu hết là ở phạm vi gia đình, và người ta giải quyết một cách tự nhiên ở cấp độ gia đình, nhưng tình trạng đã thay đổi.  Ngày nay chúng ta quá lệ thuộc, quá liên hệ gần gũi với những người khác, và rằng nếu không  có một ý thức trách nhiệm toàn cầu, một cảm giác huynh đệ tỉ muội toàn cầu, và một sự hiểu biết và tin tưởng rằng chúng ta là một phần của một gia đình nhân loại lớn, chúng ta không thể hy vọng vượt thắng những hiểm họa cho sự tồn tại quý báu của chúng ta - hãy để chỉ tình thân nhân loại mang về hòa bình và hạnh phúc.
                           
                          Những vấn đề của một quốc gia không thể được giải quyết một cách hài lòng bởi chính quốc gia ấy nữa; nó lệ thuộc rất nhiều trên sự hứng khởi, thái độ, và sự hợp tác của những quốc gia khác.  Một chủ nghĩa nhân đạo toàn cầu tiếp cận đến những vấn đề của thế giới dường như là một căn bản hợp lý duy nhất cho thanh bình của thế giới. Điều này có nghĩa gì?  Chúng ta bắt đầu từ sự thừa nhận trước tiên rằng tất cả mọi loài yêu mến, ấp ủ hạnh phúc và không muốn khổ đau.   Rồi thì nó trở nên cả hai sự đạo đức sai lầm và thực tế không thông minh để tiếp tục theo đuổi chỉ cho hạnh phúc của chính mình và lãng quên  cảm xúc và khát vọng của tất cả những người khác chung quanh chúng ta như những thành viên của một gia đình nhân loại.  Chiều hướng  thông thái hơn là cũng nghĩ đến những người khác khi theo đuổi cho chính hạnh phúc của chúng ta.  Điều này sẽ dẫn đến điều được gọi là sự tự quan tâm minh mẫn.  Hy vọng đấy là điều sẽ chuyển hóa chính nó thành thỏa hiệp tự quan tâm, hay tịch  tĩnh hơn, quan tâm  hổ tương.
                          Mặc dù sự phát triển lệ thuộc liên đới giữa các quốc gia chắc rằng có thể phát sinh sự đồng cảm hợp tác hơn, thật là khó khăn để đạt đến  một tâm linh chân thành hợp tác cho đến khi mà người ta vẫn duy trì trong sự lãnh đạm thờ ơ đến cảm giác và hạnh phúc của những người khác. Khi người ta bị thúc đẩy bởi động cơ chủ yếu là tham lam và ghen tỵ, nó  không thể cho người ta sống trong hòa hiệp.  Một tâm linh tiếp cận có thể không thể giải quyết toàn bộ những vấn đề chính trị mà đã từng bị quay cuồng bởi lề thói ngã chấp hay vị kỷ, nhưng về lâu về dài nó sẽ vượt thắng chinh phục cái chìa khóa căn bản của những vấn đề mà chúng ta đối diện hôm nay.
                           
                          Mặt khác, nếu nhân loại tiếp tục tiếp cận với những vấn đề của mình với tư tưởng chỉ với tính cách lợi ích nhất thời, những thế hệ tương lai sẽ đối phải đối diện với những khó khăn khủng khiếp.  Dân số toàn cầu đang gia tăng, và tài nguyên của chúng ta thì đang nhanh chóng cạn kiệt.  Hãy nhìn cây cối, thí dụ.  Không ai biết chính xác những tác động nào có hại do việc tàn phá rừng ồ ạt  sẽ có trên  toàn bộ khí hậu, đất đai, và môi trường sinh thái học của địa cầu.  Chúng ta đối diện với những vấn đề khó khăn vì người ta đang tập trung chỉ trên sách lược ngắn hạn , lợi ích vị kỷ của họ, không nghĩ đến toàn bộ gia đình nhân loại.  Người ta không nghĩ đến trái đất và những tác động lâu dài đối với toàn bộ đời sống của thế giới và vũ trụ của chúng ta.  Nếu chúng ta, thế hệ hiện tại không nghĩ đến những vấn đề này bây giờ, những thế hệ tương lai có thể không thể đối phó với chúng.
                           
                          TỪ BI YÊU THƯƠNG LÀ CỘT TRỤ CỦA THẾ GIỚI THANH BÌNH 
                           
                          Theo giáo nghĩa của đạo  Phật, hầu hết những vấn đề khó khăn của chúng ta xuyên qua bởi sự đam mê khát vọng và vướng mắc ngã chấp đến những việc mà chúng ta hiểu sai lầm như thực thể tồn tại lâu dài.  Sự theo đuổi những đối tượng của sự khát vọng và vướng mắc của chúng ta liên hệ với chiến tranh xâm lược hay gây hấn và sự cạnh tranh và cho đó như là những phương tiện có hiệu quả.  Những tiến trình tinh thần này có  thể dễ dàng chuyển thành những hành động, sản sinh đấu tranh như một tác động rõ ràng.  Những tiến trình như vậy đã theo tâm tính loài người từ xa xưa, nhưng sức tàn phá của chúng đã trở nên tác động hơn dưới những điều kiện hiện đại.  Chúng ta có thể làm gì để kiểm soát và điều chỉnh những loại "thuốc độc" này - ảo tưởng, tham lam, và hiếu động-gây hấn?  Những thứ thuốc độc này là mặt trái của hầu hết những vấn đề khó khăn trên thế giới.
                           
                          Như một thành viên đến từ truyền thống đại thừa Phật giáo,  chúng tôi cảm thấy rằng yêu thương và từ bi là kết cấu, là khung sườn, là nền tảng đạo đức của thanh bình thế giới.  Hãy để chúng tôi trước nhất giải thích thế nào là ý nghĩa của từ bi.  Khi chúng ta có một lòng trắc ẩn hay từ bi cho một người rất nghèo, chúng ta biểu hiện cảm xúc bởi vì người ấy nghèo; lòng từ bi của chúng ta căn cứ trên sự quan tâm vị tha.  Mặt khác, tình thương đến người chồng, người vợ, con cái, hay bạn thân thì thường đặt trên sự ái luyến hay chấp trước.  Khi sự ái luyến hay chấp trước thay đổi sự tử tế lịch sự cũng thay đổi; nó có thể biến mất.  Điều này không phải là lòng yêu thương chân thật.  Tình yêu thương chân thành thì không đặt trên sự chấp trước, mà trên lòng vị tha.  Trong trường hợp này lòng từ bi yêu thương của  chúng ta sẽ tồn tại như một sự đáp ứng nhân đạo đến sự khổ đau cho đến khi nào chúng sinh còn tiếp tục đau khổ.
                           
                          Loại từ bi yêu thương này là điều chúng ta phải cố gắng để phát triển trong chính mỗi chúng ta, và làm nó lớn mạnh từ một sự giới hạn khối lượng đến vô giới hạn.  Từ bi yêu thương không phân biệt, không gò bó, không giới hạn cho tất cả mọi loài chúng sinh là một  cách rõ ràng không phải tình yêu thương cho những người bạn hay gia đình, điều bị làm giảm giá trị hay bị làm xấu đi bởi si ám, khát ái, và chấp trước.  Loại tình yêu thương mà chúng ta nên tán thành là tình thương bao  la hơn điều mà chúng ta có thể có ngay cả cho những người đã từng làm tổn hại đến chúng ta: kẽ thù của chúng ta.
                           
                          Nhân tố chính cho từ bi thương yêu là mỗi người chúng ta muốn tránh khổ đau và được hạnh phúc.  Điều này, trong cái nhìn, là căn bản cái giá trị cảm giác của cái "tôi", điều quyết định cái tính phổ biến khát vọng hạnh phúc.  Quả thực, tất cả mọi loài sinh ra với những khát vọng giống nhau và nên có một quyền bình đẳng để đáp ứng cho tất cả mọi giới.  Nếu so sánh chính chúng tôi với những người khác, vô số, chúng tôi cảm thấy rằng những người khác quan trọng hơn bởi vì chúng tôi chỉ là một thành viên trong khi những người khác thì quá nhiều.  Xa hơn nữa, truyền thống Phật giáo Tây tạng dạy chúng tôi hãy nhìn tất cả chúng sinh như những người mẹ thân thương của chúng tôi và biểu lộ lòng biết ơn  của chúng tôi bằng cách yêu thương tất cả.  Và theo giáo nghĩa đạo Phật, chúng ta sinh và tái sinh trong vô số kiếp sống, và điều này có thể nhận thức được rằng mỗi chúng sinh đã từng là cha mẹ của nhau ở lần này hay lần khác.  Trong cách này, tất cả chúng sinh trong vũ trụ cùng chia xẻ liên hệ của một gia đình. 
                           
                          Cho dù một người có tin tưởng ở tôn giáo hay không, không có một ai không hiểu rõ giá trị hay  không cảm kích lòng yêu thương và từ bi.  Ngay từ khoảnh khắc của sự sinh, chúng ta được sự săn sóc triều mến của cha mẹ chúng ta, và sau này trong cuộc sống, khi đối diện với khổ đau của bệnh tật và tuổi già, chúng ta lại lệ thuộc vào lòng tốt của những người khác.  Nếu từ lúc bắt đầu và cho đến lúc cuối đời chúng ta lệ thuộc vào sự tử tế của những người khác, tại sao ở khoảng trung gian không nên hành động ân cần đến những người khác?
                           
                          Sự phát triển một trái tim ân cần thân thương(một cảm giác gần gũi với tất cả chúng sinh) không liên hệ với tín ngưỡng mà chúng ta phụng thờ với những qui ước thực hành tôn giáo.  Nó không chỉ cho người tín ngưỡng tôn giáo, nhưng cho mọi người không kể thuộc thành phần nào của màu da, tôn giáo, hay chính trị.  Nó dành cho tất cả những ai  thấy rằng, ở trên tất cả, mình là một thành viên của gia đình nhân loại và những ai thấy những việc với viễn cảnh bao la và lâu dài hơn.  Đây là một cảm giác với mãnh lực năng động mà chúng ta nên phát triển và áp dụng, thay vì chúng ta thường hờ hửng nó, đặc biệt trong những năm chính yếu khi chúng ta  trãi qua kinh nghiệm của một ý thức sai lầm về an toàn.
                           
                          Khi chúng ta nghĩ đến đến tầm quan trọng của một viễn cảnh lâu dài hơn, sự kiện là tất cả những ước vọng để đạt đến hạnh phúc và né tránh khổ đau , và giữ trong tâm sự không quan trọng của chúng ta trong mối liên hệ đến vô lượng chúng sinh khác, chúng ta có thể kết luận rằng đó là toàn thể thế giới chia xẻ những sở hữu của chúng ta với những kẽ khác.  Khi chúng ta rèn luyện tâm chúng ta với một cái nhìn thế này, một cảm xúc từ bi thành thật – một ý thức yêu thương chân thành và tôn trọng đến kẽ khác – trở nên khả dĩ có thể hiện thực.  Hạnh phúc cá nhân sẽ dừng lại để ý thức tự tìm một sự tác động; nó trở nên  một sự tự động và cao xa thâm diệu bằng sự sản xuất toàn bộ tiến trình của yêu thương và phục vụ kẽ khác.
                           
                          Một kết quả khác của phát triển tâm linh, phổ biến thông dụng trong đời sống hằng ngày, là nó cho một sự tịch tĩnh yên ổn và sự nhanh trí của tâm.  Đời sống chúng ta trong sự thay đổi liên tục, mang đến vô số khó khăn.  Khi đối diện với một tâm tĩnh lặng và trong sáng, những vấn đề khó khăn có thể được giải quyết một cách thành công; khi, thay vì, chúng ta mất sự kiểm soát tâm tính chúng ta qua thù ghét, vị kỷ, ganh tị, và giận dữ,  chúng ta đánh mất ý thức của sự phán đoán.  Tâm chúng ta trở nên mù quáng và ngay tại những thời khắc cuồng dã ấy bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra, kể cả chiến tranh.  Vì vậy, thực tập từ bi và tuệ trí là thông dụng cho tất cả, đặc biệt cho những người có trách nhiệm điều khiển cả bộ máy của quốc gia, trong tay những ai nắm giữ quyền lực và cơ hội để  tạo dựng cấu trúc của một thế giới thanh bình.
                           
                          NHỮNG TÔN GIÁO THẾ GIỚI VÌ THẾ GIỚI THANH BÌNH 
                           
                          Những vấn đề chính thảo luận tiếp diễn phù hợp với đạo đức của tất cả những tôn giáo thế giới.  Chúng ta phải thấy  rằng đại đa số tôn giáo trên thế giới – Phật giáo, Thiên chúa giáo, Ấn giáo, Hồi giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Do thái giáo, Bái hỏa giáo (Zoroastrianism), Kỳ na giáo (Jainism), đạo Sikh (Sikhism) – có cùng những ý tưởng giống nhau về lòng yêu thương , giống nhau về mục tiêu lợi ích cho nhân loại thông qua thực hành tâm linh, và giống nhau về tác động làm cho giáo đồ của chúng ta trở nên những người tốt đẹp hơn.  Tất cả những tôn giáo giáo huấn những giới điều đạo đức cho sự toàn hảo những phương diện của tâm, thân, và lời nói.  Tất cả đều dạy chúng ta không được lừa dối, trộm cắp hay lấy mạng sống của kẽ khác, v.v… Mục tiêu phổ thông của tất cả những giới điều đạo đức đề ra bởi những đạo sư vĩ đại của nhân loại là vô ngã, không vị kỷ.  Những đạo sư vĩ đại muốn giảng dạy để hướng dẫn giáo đồ xa rời những con đường của những hành vi tiêu cực bởi nguyên nhân của si mê, ám tối và phát sinh trong họ những con đường của tính tốt, của lòng hào hiệp.
                           
                          Tất cả những tôn giáo nhất trí trên sự cần thiết kiểm soát cái tâm hoang dã, không được luyện tập ẩn chứa vị kỷ và những cội rể của những phiền muộn, rối rắm, bất an, và mỗi tôn giáo  dạy một con đường hướng đến một trạng thái tâm linh hòa bình, thuần hóa, đạo đức, và thông tuệ.  Trong nhận thức này chúng tôi tin tưởng tất cả mọi tôn giáo có một thông điệp cùng bản chất.  Những sự khác nhau của giáo lý có thể bị đổ lỗi đến sự khác nhau của thời đại và hoàn cảnh như sự ảnh hưởng của văn hóa; quả vậy, chưa bao giờ ngừng nghĩ sự tranh luận học thuật khi chúng ta xem xét đến khía cạnh tinh khiết tâm linh siêu hình của tôn giáo.  Tuy vậy, nó sẽ lợi ích hơn để cố gắng thực hành bổ xung trong cuộc sống hằng ngày sự chia xẻ những giáo huấn cho lòng hảo tâm, tính hào hiệp được dạy bởi tất cả những tôn giáo tốt hơn là để tranh luận về những khác biệt nhỏ nhoi khi tiếp cận.
                           
                          Có nhiều tôn giáo khác nhau để mang đến sự thoải mái và hạnh phúc cho nhân loại trong nhiều phương pháp như những chửa trị cho những chứng bệnh khác nhau.  Tất cả những tôn giáo nổ lực phương pháp riêng của nhau để hổ trợ chúng sinh né tránh khổ đau và gặt hái hạnh phúc.  Và, mặc dù chúng ta có thể tìm những lý do căn bản nào đấy thích hợp để giải thích những chân lý của tôn giáo, có một nguyên nhân to lớn hơn nhiều để đoàn kết hòa hiệp, xuất phát từ trái tim con người.  Mỗi tôn giáo hoạt động trong đường hướng của chính mình để làm giảm bớt khổ đau của nhân loại và cống hiến đến nền văn minh thế giới.  Sự đổi đạo không phải là phương hướng.  Thí dụ, chúng tôi không nghĩ đến việc biến đổi những người khác trở thành Phật tử hay chỉ đơn thuần xa hơn vì lý do Phật giáo.  Tốt hơn, chúng tôi cố gắng nghĩ đến việc làm thế nào như một con người Phật tử có thể đóng góp đến hạnh phúc của con người.
                           
                          Trong khi đề ra những điều tương tự căn bản của những tôn giáo thế giới, chúng tôi không biện hộ cho một tôn giáo đặc biệt nào để làm mất uy tín, hay bất lợi đến tất cả những tôn giáo khác, chúng tôi cũng không tìm kiếm một tôn giáo thế giới mới.  Tất cả những tôn giáo khác nhau trên thế giới cần làm phong phú cho kinh nghiệm của nhân loại và văn minh thế giới.  Tâm tính loài người chúng ta, hiện hữu phẩm chất, năng lực và khuynh hướng khác nhau, cần những tiếp cận khác nhau đến hòa bình và hạnh phúc.  Nó giống như thực phẩm.  Những người nào đấy tìm đến Cơ đốc giáo cảm thấy hấp dẫn hơn, những người khác thích Phật giáo bởi vì không có đấng tạo hóa trong nó và mọi thứ tùy thuộc trên những hành động của chính chúng ta.  Chúng ta có thể có những cuộc thảo luận tương tự cho những tôn giáo khác như thế.  Vì vậy, quan điểm thì rõ ràng, loài người cần tất cả những tôn giáo của thế giới để thích hợp với những cung cách sống, nhiều loại nhu cầu tâm linh khác nhau, và thừa kế truyền thống quốc gia của mỗi cá thể con người.
                           
                          Từ viễn tượng này mà chúng tôi hoan nghênh những tác động hiện hữu đã làm  những phần khác nhau của thế giới cho sự hiểu biết hơn giữa những tôn giáo.  Sự cần thiết cho điều này đặc biệt cấp bách ngay bây giờ.  Nếu tất cả những tôn giáo hành động cải thiện nhân loại như sự quan tâm chính của họ, rồi thì họ có thể dễ dàng hoạt động hợp tác với nhau trong sự hoà hiệp cho thanh bình thế giới.  Sự cảm thông liên hệ của những người khác tín ngưỡng (sự hiểu biết liên tôn) sẽ mang đến sự đoàn kết hoà hiệp cần thiết cho mọi tôn giáo để hoạt động hợp tác với nhau. Tuy nhiên, mặc dù qủa thực đây là một bước quan trọng, chúng ta phải nhớ rằng không có những giải pháp nhanh chóng hay dễ dàng.  Chúng ta không thể che dấu những khác nhau của giáo điều đã tồn tại với những tín ngướng khác nhau, chúng ta cũng không hy vọng thay thế những tôn giáo hiện hữu bằng một tín ngưỡng toàn cầu mới.  Mỗi tôn giáo có những cống hiến  đặc biệt chính nó để hành động, và mỗi tôn giáo trong phương pháp riêng của minh thích hợp cho từng nhóm người như họ thông hiểu đời sống.  Thế giới cần tất cả mọi tôn giáo.
                           
                          Có hai nhiệm vụ đối mặt với những hành giả tôn giáo, những người quan tâm đến hoà bình thế giới.  Thứ nhất, chúng ta phải đẩy mạnh sự hiểu biết liên tôn cũng như tạo nên một không khí có thể hoạt động được của sự hoà hiệp giữa tất cả các tôn giáo.  Điều này có thể đạt được từng bộ phận bằng sự tôn trọng những tín ngưỡng của những người khác và bằng sự nhấn mạnh sự quan tâm chung của chúng ta cho nhân loại tốt đẹp hơn.  Thứ hai, chúng ta phải đem sự đồng tâm nhất trí có thể thành tựu trên những căn bản giá trị tâm linh điều đã tác động mỗi trái tim con người và làm tăng hạnh phúc chung của loài người.  Điều này có nghĩa là chúng ta phải nhấn mạnh mẫu số chung của tất cả mọi tôn giáo - những ý tưởng nhân đạo.  Đây là hai bước sẽ cho phép chúng ta hành động một cách cá nhân và hợp tác để tạo nên những điều kiện tâm linh cần thiết cho hoà bình thế giới.
                           
                          Chúng ta những hành giả thực tập những tín ngưỡng khác nhau có thể hợp tác hành động vì hoà bình thế giới khi chúng ta nhìn những tôn giáo khác nhau như những công cụ căn bản để phát triển một trái tim tốt, một hảo tâm - yêu thương và tôn trọng những kẻ khác, một ý thức cộng đồng chân thành.  Điều quan trọng nhất là nhìn vào mục tiêu của tôn giáo chứ không nhìn vào những diễn giải giáo điều hay siêu hình, điều có thể dẫn đến duy lý trí (sự quá nặng về trí óc).  Chúng tôi tin tưởng rằng đại đa số tôn giáo trên thế giới có thể cống hiến cho hoà bình thế giới và hợp tác với nhau vì lợi ích của con người nếu chúng ta để qua một bên những khác biệt siêu hình trừu tượng, điều thực sự  là công việc nội bộ, nhiệm vụ nội tâm của từng tôn giáo.
                           
                          Bất chấp những tiến bộ thế gian phi tôn giáo đã mang đến bởi sự hiện đại hoá toàn cầu đổi mới và bất chấp những cố gắng có hệ thống của một số bộ phận của thế giới để phá huỷ những giá trị tinh thần, đại đa số nhân loại tiếp tục tin tưởng một tôn giáo này hay tôn giáo kia.  Sự bất tử của niềm tin tôn giáo, bằng chứng ngay cả dưới những hệ thống chính trị không tôn trọng tín ngưỡng hay phi tôn giáo rõ ràng minh chứng hiệu lực của tôn giáo như thế.  Năng lượng và sức mạnh tâm linh này có thể được sử dụng có ý nghĩa, và có tầm quan trọng để mang những điều kiện tâm linh cần thiết cho hoà bình thế giới.  Những lĩnh tụ tôn giáo và những nhà nhân đạo trên toàn thế giới có một vai trò đặc biệt hành động trong mối lưu tâm này.
                           
                          Cho dù chúng ta sẽ có thể đạt đến hoà bình thế giới hay không, chúng ta không có lựa chọn nào khác mà phải hành động tiến tới mục tiêu ấy.  Nếu tâm tư chúng ta bị chế ngự bởi sân hận, giận dữ, chúng ta sẽ đánh mất đi phần tuyệt hảo thông minh của loài người - tuệ trí, khã năng quyết định giữa đúng và sai.  Sân hận, giận hờn là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất của thế giới ngày nay.
                           
                          NĂNG LỰC CÁ NHÂN ĐỂ ĐỊNH HƯỚNG NHỮNG TỔ CHỨC
                           
                          Sân hận đóng một vai trò không nhỏ trong những xung đột hiện tại như ở Trung Đông, Nam Á, Bắc và Nam, v.v... Những xung đột này khởi lên từ sự thất bại để hiểu biết nhân tính của người khác.  Câu trả lời không phải là sự phát triển hay dùng những lực lượng quân sự to lớn, mạnh mẽ hơn, cũng không là sự chạy đua vũ trang.  Nó cũng không là chính trị trong sạch hay kỷ thuật trong sạch.  Một cách căn bản nó là tâm linh, trong ý thức rằng điều gì đòi hỏi một ý thức hiểu biết trong vấn đề chung của nhân loại.  Thù ghét và chiến đấu không thể đem đến hạnh phúc cho bất cứ ai, ngay cả những kể chiến thắng của chiến trường.  Bạo lực luôn luôn sản xuất khốn cùng và vì vậy nó là sự sản xuất tiêu cực một cách căn bản.  Vì vậy, nó là thời gian của những lãnh tụ thế giới học hỏi vượt thắng những khác biệt về chủng tộc, văn hoá, và tư tưởng và để lưu tâm những người khác qua đôi mắt thấy những vấn đề chung của nhân loại.  Vì làm như thế sẽ lợi ích cho những cá nhân, những cộng đồng, những quốc gia và rộng ra cho toàn thế giới.
                          ...
                          Chúng tôi gợi ý rằng những lĩnh tụ thế giới gặp nhau mỗi năm một lần ở một địa điểm vô cùng xinh đẹp không nhầm một mục tiêu gì cả, chỉ gặp nhau để hiểu nhau như những con người.  Rồi thì, sau đấy, họ có thể gặp gở và thảo luận những vấn đề  hổ tương toàn cầu.  Chúng tôi chắc chắn rằng nhiều người sẽ chia xẻ ao ước của chúng tôi rằng  những lĩnh tụ của thế giới gặp gở tại bàn hội nghị trong một không khí tôn trọng lẫn nhau và hiểu nhau với tình người.
                          Để phát triển sự gặp gở cá nhân với cá nhân trên toàn thế giới, chúng tôi muốn thấy sự cổ vũ lớn hơn của du lịch quốc tế.  Cũng vậy, trong hoàn cảnh rộng lớn, đặc biệt là những xã hội dân chủ, có thể hành động một cống hiến to tát cho hoà bình thế giới bằng sự cho phép những tin tức lớn hơn đến những thứ gợi hứng con người phản ánh tính chất căn bản hoà hiệp đồng nhất của nhân loại.  Với sự vươn lên của một ít cường quốc lớn trên vũ đài quốc tế, nhân đạo đóng vai trò trong những tổ chức quốc tế đang bị phớt lờ và hờ hửng.  Chúng tôi hy vọng rằng điều này sẽ được điều chỉnh và rằng tất cả những tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên Hiệp Quốc, sẽ được năng nổ và tác động hơn bảo đảm chắc chắn lợi ích tối đa cho nhân loại và đẩy mạnh, khuyến khích , tích cực ủng hộ sự hiểu biết quốc tế.  Thực vậy nó sẽ là thảm kịch nếu một ít cường quốc thành viên tiếp tục quên đi phần lớn của thế giới giống như Liên hiệp quốc là cho những cảm hứng một phía của họ.  Liên hiệp quốc phải trở nên phương tiện cho hòa bình thế giới.  Thân thể này, cơ cấu này, hội đồng này của thế giới phải được tôn trọng bởi tất cả, Liên hiệp quốc là niềm hy vọng duy nhất cho những quốc gia bị áp bức, nhược tiểu và vì lý do đấy cho toàn thể hành tinh chúng ta.
                           
                          Khi tất cả những quốc gia mà kinh tế tùy thuộc trên những quốc gia khác hơn bao giờ hết, sự hiểu biết của nhân loại phải vượt khỏi những biên giới quốc gia và thích ứng theo cộng đồng quốc tế rộng lớn.  Thực vậy, ngoại trừ chúng ta có thể tạo nên một không khí hợp tác chân thành, đạt được không phải bởi đe dọa hay thật sự dùng đến vũ lực nhưng bằng sự thông cảm chân thành của con tim hiểu biết, những nan đề của thế giới sẽ chỉ tăng lên.  Nếu những người trong những quốc gia nghèo bị từ chối hạnh phúc mà họ khao khát và đáng được hưởng, tự nhiên họ sẽ không hài lòng và quy những vấn đề cho những nước giàu.  Nếu những hình thức xã hội, chính trị, và kinh tế không ai muốn bị tiếp tục lạm dụng, lừa gạt, phỉnh phờ không thiện ý với người dân,  sự đạt đến hòa bình thế giới thật đáng ngờ, hay không chắc chắn.  Tuy vậy, nếu chúng ta làm hài lòng mọi người ở cấp độ con tim với con tim, hòa bình sẽ đến một cách chắc chắn.
                           
                          Trong mỗi quốc gia, cá nhân phải được trao cho quyền được hạnh phúc, và trong những quốc gia phải quan tâm bình đẳng cho quyền lợi của ngay cả những quốc gia nhỏ nhất.  Chúng tôi không đang gợi ý rằng hệ thống này tốt hơn hệ thống kia và tất cả nên được chấp nhận.  Trái lại, nhiều hệ thống chính trị và tư tưởng khác nhau là ước ao khao khát và phù hợp với những khuynh hướng khác nhau trong cộng đồng nhân loại.  Trạng thái muôn màu muôn vẻ này làm nổi bật yêu cầu không ngừng của nhân loại cho hạnh phúc.  Vì vậy mỗi cộng đồng nên tự do liên hệ gắn bó với hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội của chính mình, trên cơ sở chính của sự tự quyết.
                           
                          Việc đạt đến công lý, hòa hiệp, và hòa bình tùy thuộc trên nhiều nhân tố.  Chúng ta nên nghĩ về chúng trong những quan hệ của lợi ích nhân loại cho tương lai lâu dài hơn là định kỳ ngắn hạn.  Chúng tôi nhận thức được tầm cở công việc phía trước chúng ta, nhưng chúng tôi không thấy lựa chọn nào khác hơn những điều mà chúng tôi đã đề xuất – điều đặt căn bản trên lợi ích chung của nhân loại chúng ta.  Những quốc gia không có lựa chọn nào khác hơn mà phải quan tâm đến quyền lợi của nhau, không phải vì sự tin tưởng của họ ở nhân loại mà bởi vì nó là trong sự hổ tương và lợi ích lâu dài mà tất cả cùng quan tâm.  Một sự đánh giá đúng cho thực tế mới này được biểu thị  bằng sự lớn mạnh của những tổ chức kinh tế khu vực hay lục địa như Cộng đồng kinh tế Âu châu, Liên hiệp các quốc gia Đông Nam Á, Tổ chức tự do mậu dịch Châu Mỹ, v.v...Chúng tôi hy vọng các tổ chức trao đổi mậu dịch liên quốc gia sẽ được hình thành nhiều hơn, đặc biệt trong những khu vực nơi kinh tế phát triển và khu vực nguồn dự trử dường như thiếu thốn thường xuyên.
                           
                          Dưới những điều kiện hiện tại, một cách rạch ròi dứt khoát có một nhu cầu lớn mạnh cho sự thông cảm của nhân loại và một ý thức trách nhiệm toàn cầu.  Để đạt được những mục tiêu này, chúng ta phải phát sinh một trái tim tốt và tử tế, một lòng hảo tâm và ân cần, nếu không có điều này, chúng ta có thể cũng không đạt được hạnh phúc toàn cầu hoặc cuối cùng cũng không đạt đến hoà bình thế giới.  Chúng ta không thể tạo dựng hoà bình trên giấy tờ.  Trong khi chủ trương trách nhiệm toàn cẩu và tình huynh đệ tỉ muội toàn cầu, cơ sở lập luận là bản chất của loài người được tổ chức hoàn toàn riêng biệt với hình thức  những  xã hội của quốc gia. Vì vậy, trong nhận thức thực tế, chúng tôi cảm thấy những xã hội này phải hành động như những mãng cấu trúc cho hoà bình thế giới.
                           
                          Những cố gắng đã được triển khai trong quá khứ nhầm tạo dựng những xã hội công bằng và bình đẳng hơn.  Những tổ chức đã được hình thành với những hiến chương cao quí để tranh đấu những năng lực chống xã hội.  Bất hạnh thay, những ý tưởng như thế đã từng bị lừa bịp bởi vị kỷ.  Hơn bao giờ  hết, ngày nay chúng ta chứng kiến đạo đức và những nguyên tắc cao quý bị che khuất bởi bóng tối của sự quan tâm vị kỷ, đặc biệt trong không khí của chính trị.  Có một trường phái tư tưởng cảnh báo chúng ta kiềm chế hoàn toàn với chính trị, như chính trị là đồng nghĩa với thiếu đạo đức.  Chính trị không đạo đức không giúp cho lợi ích của nhân loại, và đời sống không đạo đức hạ thấp loài người xuống trình độ của loài vật.  Tuy vậy, chính trị không phải hiển nhiên nhớp nhúa.  Tốt hơn là rằng, những công cụ văn hóa chính trị của chúng ta đã bóp méo những tư tưởng cao thượng và những quan niệm cao quý đóng góp cho lợi ích của nhân loại.  Đương nhiên, những người tinh thần biểu lộ sự quan tâm về những lĩnh tụ tôn giáo lẫn lộn với chính trị, khi họ e ngại chính trị hắc ám làm ô uế tôn giáo.
                           
                          Chúng tôi tự hỏi một giả định thông thường rằng tôn giáo và đạo đức không vị trí trong chính trị và rằng nhân vật tôn giáo nên tự tách rời như những nhà ẩn dật hay khổ hạnh.  Những quan điểm như vậy của tôn giáo là quá thiên lệch; nó thiếu một viễn tượng thực sự đúng mực trong mối quan hệ của cá nhân và xã hội và vai trò của tôn giáo trong đời sống của chúng ta.  Đạo đức như điều cốt yếu quyết định đến một chính trị gia cũng như đối với một hành giả tôn giáo.  Những hậu quả nguy hại sẽ kéo theo khi những chính trị gia và người cầm quyền quên những nguyên tắc đạo đức chủ yếu.  Cho dù chúng ta tin tưởng ở Thượng Đế hay nghiệp báo nhân quả, đạo đức vẫn là nền tảng của mỗi tôn giáo.
                          Những phẩm chất của con người như đạo đức, từ bi, lịch sự, tuệ trí, v.v…đã là những nền tảng cuả tất cả mọi nền văn minh.  Những phẩm chất này phải được phát triển và duy trì thông qua hệ thống giáo huấn đạo đức trong một môi trường xã hội thuận lợi vì thế một thế giới nhân bản hơn có thể vươn lên.  Những phẩm chất đòi hỏi sáng tạo như một thế giới phải được thấm nhuần ngay từ lúc bắt đầu, từ tuổi thơ.  Chúng ta không thể chờ đợi để thế hệ sau làm sự thay đổi này, thế hệ hiện tại phải cố gắng làm mới những giá trị căn bản của loài người. Nếu có  bất cứ hy vọng nào, đấy là trong thế hệ sau, nhưng ngoại trừ chúng ta tiến hành sự thay đổi lớn lao trên bình diện toàn cầu trong hệ thống học vấn hiện tại của chúng ta.  Chúng ta cần một cuộc cách mạng trong nguyện ước của chúng ta để thực hành những giá trị nhân đạo toàn cầu.
                           
                          Thật là thiếu sót khi đánh tiếng kêu gọi ngập ngừng sự suy luận đạo đức; chúng ta phải hành động về việc này.  Khi những chính quyền hiện tại không gánh trên vai trách nhiệm tôn giáo như thế, những lĩnh tụ nhân đạo và tôn giáo phải củng cố sự tồn tại những tổ chức công dân, xã hội, văn hóa, học vấn và tôn giáo, để làm sống lại những giá trị nhân bản và tâm linh.  Bất cứ nơi nào cần thiết, chúng ta phải tạo thành những tổ chức mới để đạt được những mục tiêu này.  Chỉ có trong những việc làm như thế có thể chúng ta hy vọng tạo nên một căn bản vững chắc cho hòa bình thế giới.
                           
                          Sống trong xã hội, chúng ta nên chia xẻ những khổ đau của những đồng bào, công dân, của chúng ta và thực hành từ bi, lòng khoan dung và sự nhẫn nại không chỉ đối với những người thân yêu của chúng ta mà cũng đến với kẽ thù của chúng ta.  Đây là sự thể nghiệm sức mạnh đạo đức của chúng ta.  Chúng ta phải làm một cuộc trắc nghiệm bằng sự thực hành của chính chúng ta, cho điều mà, chúng ta không thể hy vọng thuyết phục người khác giá trị của tôn giáo chỉ bằng lời nói.  Chúng ta  phải sống trên cùng một trình độ liêm minh và hy sinh cao thượng mà chúng ta đã đòi hỏi ở kẻ khác.  Mục tiêu căn bản của tất cả mọi tôn giáo là phục vụ cho lợi ích của nhân loại.  Điều này là tại sao nó rất quan trọng rằng tôn giáo luôn luôn được sử dụng để tác động cho hạnh phúc và hòa bình của tất cả mọi loài chúng sinh và không chỉ cho những người thay đổi chính kiến.
                           
                          Hơn nữa, trong tôn giáo không có những biên giới quốc gia.  Một tôn giáo có thể và nên được tiếp nhận và thực hành bởi bất cứ  ai tìm thấy lợi ích trong ấy.  Nhưng sự hòa nhập vào một tôn giáo đặc biệt nào đấy không có nghĩa là sự từ chối một tôn giáo khác hay cộng đồng của chính ai đấy.  Thực tế là, nó thật quan trọng rằng ai đấy nương tựa một tôn giáo không nên cắt đứt chính họ ra khỏi cộng đồng của họ; họ nên tiếp tục sống trong cộng đồng của chính họ và trong sự hòa hiệp với những thành viên của cộng đồng ấy.  Bởi vì bằng sự thoát ly khỏi cộng đồng của chính mình, chúng ta không thể làm lợi ích cho những người khác, trong khi mà lợi ích cho người khác lại thật sự là căn bản hướng vào của tôn giáo.
                           
                          Trong mối lưu tâm này, có hai việc quan trọng để giữ trong tâm: tự trắc nghiệm và tự sửa sai.  Chúng ta nên liên tục kiểm soát thái độ chúng ta đối với những người khác, trắc nghiệm tự chính chúng ta một cách cẩn thận, và chúng ta nên sửa sai chính chúng ta ngay lập tức khi chúng ta tìm thấy chúng ta trong sự sai sót.
                           
                          Cuối cùng, một vài lời về tiến trình vật chất.  Chúng tôi đã từng nghe rất nhiều lời phàn nàn về tiến trình vật chất với những người phương Tây, và tuy vậy, một cách nghịch lý, nó là điều rất tự hào của thế giới phương Tây.  Chúng tôi không thấy có gì sai với sự tiến bộ vật chất tự chính nó, người được cung cấp là luôn luôn cho trước.  Chúng tôi tin tưởng vững chắc rằng để giải quyết những vấn đề của nhân loại trong tất cả những tính chất của nó, chúng ta phải kết hợp và hòa điệu sự phát triển kinh tế với sự lớn mạnh của tâm linh.
                           
                          Tuy vậy, chúng ta phải biết những giới hạn của nó.  Mặc dù những kiến thức vật chất,(duy vật, thế tục, trần gian) trong hình thức của khoa học và kỷ thuật đã cống hiến lợi ích một cách khổng lồ cho nhân loại, nó không có thể tạo nên hạnh phúc tận cùng.  Thí dụ, những nơi kỷ thuật phát triển thì có thể tiến bộ hơn những xứ sở khác, những vẫn còn rất nhiều những khổ đau tinh thần. Điều này bởi gì kiến thức vật chất thế gian chỉ có thể cung cấp một loại hạnh phúc tùy thuộc trên những điều kiện vật lý.  Nó không thể cung cấp hạnh phúc, điều, tuôn trào từ phát triển nội tại độc lập với những nhân tố ngoại tại.
                           
                          Để làm mới những giá trị nhân bản và đạt đến hạnh phúc tận cùng, chúng ta cần xem di sản chung của nhân loại khắp các quốc gia trên toàn thế giới.  Mong rằng bài luận văn cung cấp một sự nhắc nhở cấp bách để chúng ta khỏi quên những giá trị nhân bản, điều đã liên kết tất cả chúng ta như một gia đình đơn độc trên địa cầu này.
                           
                          Chúng tôi đã viết những dòng trên
                          Để nói với cảm xúc chung thủy của chúng tôi
                          Bất cứ khi nào chúng tôi gặp ngay cả một người ngoại quốc
                          Chúng tôi luôn luôn có một cảm giác giống nhau
                          Chúng tôi đang gặp một thành viên khác của gia đình nhân loại
                          Thái độ này làm sâu thêm
                          Ảnh hưởng và tôn trọng của chúng tôi cho tất cả chúng sinh
                          Cầu cho nguyện ước tự nhiên này là
                          Sự cống hiến nhỏ nhoi của chúng tôi cho hòa bình thế giới
                          Chúng tôi cầu nguyện cho tình thân hữu hơn
                          Ân cần hơn và hiểu biết hơn
                          Gia đình nhân loại trên hành tinh này.
                          Cho tất cả những ai không thích khổ đau.
                          Những người yêu quý hạnh phúc tận cùng
                          Đây là lời khẩn thiết chân thành của chúng tôi!
                          ---
                          A Human Approach to World Peace

                          #13
                            tueuyen 17.04.2009 23:32:35 (permalink)
                            0

                            NHÂN QUYỀN Ở TÂY PHƯƠNG VÀ ĐÔNG PHƯƠNG
                            NĂM MƯƠI NĂM TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN

                            HIS HOLINESS THE DALAI LAMA
                             
                             
                            Phật tính không phân người Nam – Bắc!
                            Nhân quyền chẳng lẻ khác Tây – Đông?
                            -Tuệ Uyển-
                             
                             
                             
                            Chúng tôi vô cùng hào hứng để thấy rằng sẽ có sự kỷ niệm trên toàn thế giới đánh dấu 50 năm sự thông qua và ký kết Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.  Chúng tôi cũng rất vui mừng  để thấy rằng Ủy Hội Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc đang khuyến khích  sự học hỏi và phổ biến bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền trên toàn thế giới do vậy những người bình thường sẽ hoàn toàn thấu hiểu những quyền mà họ được hưởng.
                             
                            Nhân quyền là sự hấp dẫn toàn cầu bởi vì nó là tính tự nhiên cố hữu của tất cả nhân loại ước muốn cho tự do, bình đẳng, và chân giá trị và chúng ta có một quyền để đạt đến.  Cho dù chúng ta thích hay không, tất cả chúng ta sinh ra trong thế giới này như một thành viên của một gia đình nhân loại vĩ đại.  Giàu hay nghèo, học vấn hay không học vấn, thuộc quốc gia này hay quốc gia khác, theo tôn giáo này hay tôn giáo nọ, tán  đồng ý tưởng này hay kia, căn bản mỗi chúng ta chỉ là một con người như mọi người khác.  Tất cả chúng ta khao khát hạnh phúc và không muốn khổ đau.
                             
                            Một số chính quyền đã cho rằng những chuẩn mực về nhân quyền đề cập trong Tuyên Ngôn Nhân Quyền là chủ trương bởi phương Tây và không thể áp dụng cho Á Châu và những bộ phận khác của thế giới thứ ba bởi vì sự khác nhau về văn hóa, xã hội và sự phát triển kinh tế.  Chúng tôi không chia sẻ quan điểm này và chúng tôi nhận thấy rằng đại đa số người dân bình thường cũng không ủng hộ nó.  Chúng tôi tin tưởng rằng những nguyên tắc đề cập trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền lập thành những gì giống như một luật lệ tự nhiên nên được tất cả mọi người và mọi chính phủ tuân theo.
                             
                            Chúng tôi  mạnh mẽ khích lệ sự quan tâm rộng rãi đến việc vi phạm nhân quyền cho dù ở Tây Tạng hay bất cứ nơi nào trên thế giới.  Con người ở mọi nơi đã nhận thức thấy tầm quan trọng to lớn và giá trị của nhân quyền.  Không chỉ cống hiến triển vọng bớt đi khổ đau của nhiều cá nhân, nhưng nó cũng là sự biều lộ sự tiến trình phát triển của nhân loại.   Chúng tôi cảm thấy rằng quan tâm đến những sự vi phạm nhân quyền và nổ lực bảo vệ nhân quyền biều hiện một sự phục vụ vĩ đại đến con người cả những thế hệ hiện tại và tương lai.
                             
                            Khi chúng ta chỉ còn khoảng một năm nữa là đến thế kỷ 21, chúng ta thấy rằng thế giới đang trở nên một gia đình nhân loại.  Chúng ta đang hòa quyện với nhau bởi những tiến bộ nổi bật của khoa học kỷ thuật là điều cho phép chúng ta có thể cho chia sẻ thông tin ngay lập tức, và do bởi những vấn đề nghiêm trọng lẫn bình thường như nạn nhân mãn, tài nguyên cạn kiệt, và khủng hoảng  môi trường đe dọa đến chính nền tảng sự sống còn của chúng ta trên hành tinh này.  Nhân quyền, bảo vệ môi trường, và xã hội và bình đẳng kinh tế tất cả liên hệ lẫn nhau.  Trong tất cả những vấn đề này, chúng tôi tin tưởng một ý thức trách nhiệm toàn cầu là chìa khóa đến tiến trình tồn tại của nhân loại.  Nó cũng là nền tảng của hòa bình thế giới và sự đẩy mạnh nhân quyền và một nền văn hóa chính trị bất bạo động và đối thoại trong việc giải quyết những xung đột của loài người.
                             
                            Để kết luận,  chúng tôi ao ước được nhân cơ hội này để đặc biệt bình luận và tuyên bố về sự ngưỡng mộ và kính trọng đến những người bảo vệ nhân quyền ở khắp mọi nơi trên thế giới.  Những người này thật sự làm nên một sự khác biệt trong đời sống nhân loại bằng việc cung cấp những tài liệu vi phạm nhân quyền và những việc làm giảm nhẹ khổ đau cho những người đang chịu đau khổ.  Chúng tôi xem hoạt động về nhân quyền hay hành động về việc này như một loại thực tập tâm linh.  Bằng việc bảo vệ những người bị khủng bố ngược đãi vì chủng tộc, tôn giáo, vô thần hay ý thức hệ, quý vị thật sự cống hiến để hướng dẫn gia đình nhân loại chúng ta đến hòa bình, công lý và chân giá trị.
                             
                            07-12-1998

                            Dharamsala
                            Message on the 50th Anniversary of the Universal Declaration of Human Rights
                             
                            #14
                              tueuyen 24.04.2009 05:23:57 (permalink)
                              0

                              PHẬT GIÁO VÀ DÂN CHỦ
                              HH. The Dalai Lama - Tuệ Uyển chuyển ngữ

                              --------------------------------------------------------------------------------------------------
                               
                              1- Trải qua hàng nghìn năm con người đã được hướng dẫn để tin rằng chỉ có những phương pháp kỷ luật khắt khe được tiến hành bởi một tổ chức có thẩm quyền  mới có thể quản lý xã hội loài người.  Tuy thế, bởi vì người ta có một khao khát bẩm sinh vì tự do, những sự thúc đẩy của giải thoát và áp bức đã tiếp tục xung đột suốt trong chiều dài của lịch sử.  Ngày nay, nó rõ ràng điều nào đang thắng thế.  Sự nổi bật của những động lực nhân loại, lật đổ những chế độc tài của tả phái và hữu phái, đã cho thấy hiển nhiên rằng loài người có thể không chịu đựng cũng không có trách nhiệm thích đáng dưới những chế độ bạo ngược chuyên chế.
                               
                              2- Mặc dù không có một xã hội Phật giáo nào của chúng tôi đã phát triển bất cứ điều gì như dân chủ trong những hệ thống chính quyền của họ, một cách cá nhân chúng tôi có một sự hứng thú tuyệt vời cho chế độ dân chủ thế tục.  Khi Tây Tạng vẫn còn tự do, chúng tôi đã nuôi dưỡng sự cô lập tự nhiên của chúng tôi, với một suy nghĩ sai lầm rằng chúng tôi có thể duy trì lâu dài hòa bình và bảo đảm an toàn chúng tôi bằng cách ấy.  Thế cho nên, chúng tôi đã ít chú ý đến những sự thay đổi xảy ra của thế giới bên ngoài.  Chúng tôi hiếm hoi chú tâm đến việc khi Ấn Độ, một trong những lân bang gần nhất của chúng tôi đã giành được độc lập một cách hòa bình, đã trở nên một nền dân chủ rộng lớn nhất trên thế giới.  Sau này, chúng tôi đã học bằng một cách vất vả rằng trên phạm vi quốc tế cũng như tại chính quê hương mình, tự do là những gì được chia xẻ và hưởng thụ với những người khác, không phải giữ riêng cho mình.
                               
                              3- Mặc dù những người Tây Tạng ngoài quê hương Tuyết Sơn đã bị biến thành thân phận những người tị nạn, chúng tôi có tự do để thực thi những quyền của mình.  Nhưng anh chị em của chúng tôi ở Tây Tạng, mặc dù đang ở ngay tại quê hương của họ nhưng không có ngay cả quyền để sống.  Vì thế, những ai trong chúng tôi lưu vong có một trách nhiệm để suy tư và dự tính cho một tương lai của Tây Tạng.  Vì thế, trải qua bao năm, chúng tôi đã cố gắng qua nhiều ý nghĩa khác nhau để đạt đến một kiểu mẫu dân chủ chân thực.  Sư quen thuộc của tất cả những người Tây Tạng lưu vong với từ ngữ 'dân chủ' đã chứng tỏ điều này.
                               
                              4-Từ lâu chúng tôi hướng tới việc tìm kiếm đến thời gian khi mà chúng tôi có thể nghĩ ra một hệ thống chính trị,  thích hợp với cả những truyền thống của chúng tôi và sự đòi hỏi của thế giới hiện đại.  Nền dân chủ bất bạo động và hòa bình như nền tảng của nó. Chúng tôi mới gần đây đã bắt tay vào những thay đổi mà sẽ tiến xa hơn với dân chủ và củng cố chính quyền lưu vong.  Vì nhiều lý do, cá nhân chúng tôi quyết  định rằng chúng tôi sẽ không là quốc trưởng, hay đóng một bất cứ một vai trò  nào trong chính quyền khi Tây Tạng trở thành một xứ sở độc lập.  Quốc trưởng tương lai của chính quyền Tây Tạng phải là ai đấy được bầu lên bởi đại đa số dân chúng.  Có nhiều thuận lợi cho một bước như thế và nó sẽ có thể cho phép chúng tôi trở nên một nền dân chủ thật sự và hoàn toàn. Chúng tôi hy vọng rằng những chuyển biến này sẽ cho phép nhân dân Tây Tạng có một lời nói rõ ràng trong quyết định về tương lai quê hương của họ.
                               
                              5- Sự dân chủ hóa Tây Tạng đã đến với những người Tây Tạng trên toàn thế giới.  Chúng tôi tin tưởng rằng những thế hệ tương lai sẽ quan tâm đến những thay đổi này cùng với những thành công quan trọng nhất của kinh nghiệm chúng tôi khi lưu vong.  Giống y hệt sự truyền bá đạo Phật đến Tây Tạng đã gắn bó với xứ sở chúng tôi,  tôi tin tưởng rằng sự dân chủ hóa xã hội chúng tôi sẽ tăng thêm sức sống cho nhân dân Tây Tạng và cho phép sự lưu tâm xây dựng thể chế của chúng tôi phản ánh sự cần thiết và khát vọng chân thành của họ.
                               
                              6- Ý tưởng rằng con người có thể sống với nhau một cách tự do như những cá thể, bình đẳng trên nguyên tắc chính yếu và vì thế chịu trách nhiệm với nhau, một cách căn bản nhất trí với khuynh hướng của Đạo Phật. Như những Phật tử, chúng tôi những người Tây Tạng kính trọng đời sống con người như quà tặng quý báu nhất và xem triết lý và giáo huấn Đạo Phật như một con đường tiến đến sự tự do tối thượng.  Một mục tiêu để đạt đến giống như nhau bởi những người nam và nữ  .
                               
                              7- Đức Phật thấy rằng mục tiêu chính yếu của đời sống là hạnh phúc.  Ngài cũng thấy rằng trong khi si mê ám tối vô minh trói buộc chúng sinh trong khổ đau thất vọng vô cùng tận, tuệ trí sáng suốt là giải thoát.  Nền dân chủ hiện đại đặt trên nguyên tắc chính yếu rằng tất cả loài người là căn bản bình đẳng, rằng mỗi chúng ta có một quyền bình đẳng đến cuộc sống, tự do, và hạnh phúc.  Đạo Phật cũng nhìn nhận rằng nhân loại được quyền tự trọng với chân giá trị của mình, rằng tất cả mọi thành viên của gia đình nhân loại có quyền bình đẳng và bất khả xâm phạm đến tự do, không chỉ trong những hình thức của tự do chính trị, nhưng cũng trong những trình độ căn bản của tự do với sợ hải và mong cầu.  Bất kể cho dù chúng ta giàu hay nghèo, có học vấn hay không học vấn, thuộc quốc gia này hay quốc gia nọ, theo tôn giáo này hay tôn giáo kia, tôn trọng ý tưởng này hay nọ, mỗi chúng ta chỉ là một con người như bất cứ người nào khác. Không chỉ tất cả chúng ta khao khát hạnh phúc và tìm cách để tránh khỏi khổ đau, mà mỗi chúng ta có quyền bình đẳng để theo đuổi những mục tiêu này.
                               
                              8- Thể chế mà Đức Phật thành lập là Tăng già hay cộng đồng tu sĩ, nó đã thực hiện chức năng trên quy tắc dân chủ rộng rãi.  Trong tình huynh đệ này, những cá nhân thì bình đẳng, bất kể tầng lớp hay đẳng cấp xã hội mà họ xuất thân.  Chỉ có một sự khác biệt không đáng kể trong địa vị tùy thuộc trên sự thâm niên của giới lạp (tuổi đạo).  Tự do cá nhân, biểu chứng bằng sự giải thoát hay giác ngộ, là sự tập trung chính yếu của toàn bộ cộng đồng và được đạt đến bằng sự phát triển trau dồi tâm tính qua thiền tập.  Mặc dù thế, quan hệ hằng ngày được chỉ đạo trên căn bản của sự độ lượng, quan tâm, và tế nhị hòa nhã đối với nhau.  Bằng sự theo đuổi đời sống xuất gia, tu sĩ không lệ thuộc với sự lưu tâm đến tài sản.  Tuy thế, họ không sống trong sự cô lập hoàn toàn.  Truyền thống của họ về trì bình khất thực chỉ phục vụ  để tăng cường năng lực của sự tỉnh thức chính họ trên sự tương duyên tùy thuộc với những người khác.  Trong những quyết định của cộng đồng được tiến hành bằng sự bỏ phiếu bầu cử và những dị biệt được quyết định bằng sự đồng tâm nhất trí.  Vì thế, Tăng già phục vụ như một kiểu mẫu cho một xã hội bình đẳng, chia xẻ tài nguyên và tiến trình dân chủ.
                               
                              9- Phật giáo là một giáo thuyết thực hành một cách căn bản.  Đạo Phật tuyên bố về vấn đề nền tảng của khổ đau nhân loại, nó không cứ nhất định trên một giải pháp riêng lẻ.  Thừa nhận rằng con người khác biệt rộng rãi về nhu cầu, khuynh hướng và năng lực của họ, nó nhận thức rằng những con đường đến hòa bình và hạnh phúc cũng nhiều như thế.  Như một cộng đồng tâm linh sự nối kết của nó xuất hiện từ một cảm xúc hiệp nhất của tình anh chị em.  Dù không có bất cứ một quyền lực tập trung rõ rệt Phật giáo đã trải qua hơn hai nghìn năm trăm năm. Nó đã đơm hoa kết trái trong sự khác biệt của những hình thức, trong khi nó đã đổi mới nhiều lần, qua sự học tập và thực hành, từ gốc rể của nó trong những lời giáo huấn của Đức Phật.  Sự tiếp cận đa dạng này trong điều những cá nhân có trách nhiệm với chính họ, là rất  phù hợp với quan điểm của một nền dân chủ.
                               
                              10- Tất cả chúng ta khao khát tự do, nhưng điều phân biệt ở con người là sự thông minh của họ.  Như những con người tự do, chúng ta có thể dùng sự thông minh đặc biệt của chúng ta cố gắng để thông hiểu chính chúng ta và thế giới chúng ta.  Đức Phật đã nói rõ ràng rằng những đệ tử của Ngài không nên chấp nhận ngay cả những lời dạy vì đấy là của Ngài, mà phải qua trắc nghiệm và thể nghiệm nó như người thợ kim hoàn thử nghiệm phẩm chất của vàng.  Nhưng nếu bị ngăn cản sử dụng óc phán  xét sáng suốt và sự sáng tạo, chúng ta mất đi một phẩm chất căn bản của một con người.  Vì thế, tự do chính trị, xã hội và văn hóa là dân chủ đòi hỏi phải có giá trị và tầm quan trọng rộng lớn.
                               
                              11- Không có một hệ thống chính quyền nào toàn hảo, nhưng dân chủ là gần nhất với căn bản tự nhiên của loài người.  Nó cũng là nền tảng vững vàng duy nhất mà trên đấy chỉ có một nền tự do chính trị toàn cầu  có thể được xây dựng.  Vì thế nó là tất cả những gì mà chúng ta cảm hứng thích thú, và rằng những ai trong chúng ta đã và đang thụ hưởng niềm hạnh phúc của dân chủ nên hành động cho tất cả mọi người cái quyền được sinh sống và hành hoạt như thế.
                               
                              12- Mặc dù chủ nghĩa cộng sản tán thành nhiều ý tưởng cao quý, kể cả vị tha chủ nghĩa, sự thực hiện của những người nắm quyền lực ấy vì mục tiêu chuyên chính vô sản như họ nói, hay những người khác có thể thấy là chuyên chế độc đoán quan điểm của họ đã chứng tỏ có nhiều thảm họa trong quá khứ.  Những chính quyền này đã trải dài tận cùng quyền lực để kiểm soát những xã hội của họ và để khiến cho công dân của họ phải lao động vì những thực phẩm thông dụng.  Tổ chức cứng rắn đã có thể cần thiết trước tiên để vượt thắng những chính quyền độc đoán áp bức trước đây.   Tuy thế, khi mục tiêu ấy hoàn thành, những điều nghiêm khắc như thế thì rất nhỏ bé trong việc cống hiến để xây dựng một xã hội thực sự hợp tác.  Chủ nghĩa cộng sản đã thất bại hầu như hoàn toàn trên lý tưởng và thực tế trên toàn thế giới ngày nay bởi vì nó đáp ứng bằng sức mạnh, cưỡng bức và lừa dối để thúc đẩy sự tin tưởng vào nó. Một cách căn bản, loài người tự nhiên không thể chịu đựng những khổ đau mà nó sản sinh ra.
                               
                              13- Bạo lực, không kể là nó được áp dụng mạnh mẻ thế nào, chẳng bao giờ có thể khuất phục căn bản khao khát tự do của nhân loại vì tự do.  Hàng trăm nghìn người tuần hành trên những thành phố Đông Âu đã chứng tỏ điều này.  Họ chỉ đơn giản biểu lộ sự cần thiết của con người vì tự do và dân chủ.  Sự đòi hỏi của họ không có điều gì để làm với những ý tưởng mới mẻ: họ chỉ đơn giản bày tỏ lòng chân thành khát vọng vì tự do.  Thật không đủ, khi hệ thống cộng sản đã từng thừa nhận, chỉ cung cấp cho nhân dân thực phẩm, nhà ở và áo quần.  Tự nhiên sâu xa hơn của chúng ta đòi hỏi rằng chúng ta phải hít thở không khí quý giá của tự do.
                               
                              14- Những cuộc cách mạng hòa bình ở Liên bang Sô viết cũ và Đông Âu đã dạy chúng ta nhiều bài học rộng lớn.  Một trong những bài học ấy là giá trị của sự thật. Nhân dân bất cứ một quốc gia nào, cũng như không ai trong chúng ta thích, hay muốn bị đe dọa, lừa bịp hay gian dối bởi một cá nhân hay một hệ thống.  Những hành động như vậy là phản lại căn bản thiết yếu của tâm linh nhân loại.  Vì thế, những ai thực thi và dùng sức mạnh có thể đạt được những thành công xem như ngắn hạn, nhưng cuối cùng họ sẽ bị lật đổ.
                               
                              15- Sự thật là sự bảo đảm tốt nhất và nền tảng thực sự của tự do và dân chủ.  Nó chẳng kể cho dù chúng ta yếu hay mạnh hoặc cho dù chúng ta có nhiều hay ít thành viên, sự thật vẫn sẽ được khai mở.  Gần đây, nhiều vận động tự do thành công đã căn cứ trên thông điệp sự thật của cảm nhận căn bản nhất của loài người.  Đây là một sự nhắc nhở giá trị rằng sự thật tự nó vẫn là sự thiếu sót nghiêm trọng trong nhiều đời sống chính trị của chúng ta.    Đặc biệt đối với cung cách cư xử trong quan hệ quốc tế chúng ta dành rất ít tôn trọng đến sự thật.  Chắc chắn,  những quốc gia yếu hơn thì bị lôi kéo và áp lực bởi những quốc gia mạnh hơn, giống như những thành phần yếu hơn trong hầu hết mọi xã hội khổ đau dưới bàn tay củ những bộ phận ảnh hưởng và quyền lực hơn.  Trong quá khứ, thông điệp đơn giản của sự thật thường bị chối bỏ như không thực tế, nhưng trong những năm gần đây đã chứng tỏ rằng nó là một năng lực bao la trong tâm thức con người, và, như một kết quả, trong định hướng của lịch sử.
                               
                              16- Khi chúng ta tiến đến kết thúc thế kỷ hai mươi,  chúng ta khám phá ra rằng thế giới bây giờ nhỏ hơn, và thế giới loài người trở nên gần như một cộng đồng.  Chúng ta cũng đang cùng bị lôi cuốn bởi những vấn nạn nghiêm trọng mà chúng ta phải đối diện:  nạn nhân mãn, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, và khủng hoảng ô nhiễm môi trường điều đe dọa ngay nền tảng của sự tồn tại trên trái đất mà chúng ta cùng chia xẻ.  Chúng tôi tin rằng để đối diện với thử thách thời đại của chúng ta, nhân loại sẽ phải phát triển, tăng cường một cảm giác to lớn rộng rải hơn về trách nhiệm toàn cầu.  Mỗi chúng ta phải học hỏi để hành động không chỉ cho riêng chính mỗi cá nhân, gia đình, hay quốc gia, mà cho lợi ích của toàn nhân loại.  Trách nhiệm toàn cầu thật sự là chìa khóa cho sự tồn tại của nhân loại.  Nó là nền tảng tốt nhất cho hòa bình thế giới, sự sử dụng công bằng, vô tư và hợp lý đến tài nguyên thiên nhiên và sự quan tâm chăm sóc thích đáng đến môi trường.
                               
                              17- Sự cần thiết cấp bách này cho hợp tác chỉ có thể làm cho nhân loại mạnh thêm, bởi vì nó giúp chúng ta nhận ra rằng nền tảng bảo đảm nhất cho một trật tự thế giới mới không chỉ đơn giản là chính trị phóng khoáng hay chung chung và những đồng minh kinh tế, mà là sự thực hành chân thành của mỗi cá nhân về yêu thương và từ bi.   Những phẩm chất này là nguồn gốc căn bản của hạnh phúc nhân loại, và sự cần thiết của chúng ta đối với chúng tùy thuộc ngay chính cốt lỏi bản chất của sự tồn tại của chúng ta.  Sự thực hành từ bi yêu thương không chỉ là biểu hiện của chủ nghĩa lý tưởng không thực tế, mà là phương thức tác động nhất để theo đuổi những lợi ích quan trọng nhất của những người khác cũng như của chính chúng ta.  Như những quốc gia hay những cá nhân, chúng ta càng tùy thuộc trên kẻ khác, nó càng thấy tầm quan trọng của chính chúng ta để bảo đảm sự cát tường cho họ.
                               
                              18-  Mặc dù sự tiến bộ nhanh chóng được thực hiện bởi sự văn minh của thế kỷ, chúng tôi tin rằng nguyên nhân trực tiếp trước nhất của sự tiến thoái lưỡng nan của chúng ta hiện tại là sự nhấn mạnh thái quá của chúng ta đơn thuần trên sự phát triển vật chất.  Chúng ta trở nên quá mãi mê trong mưu cầu của nó rằng, ngay cả không biết nó, chúng ta đã lãng quên nuôi dưỡng những điều căn bản cần thiết nhất của con người về yêu thương, tử tế, ân cần , hợp tác, và bảo dưỡng.  Nếu chúng ta không biết một ai đấy hay không cảm thấy liên hệ đến một cá nhân hay một nhóm đặc biệt nào đấy, chúng ta đơn giản không thấy sự cần thiết của họ.  Nhưng sự phát triển của xã hội loài người là đặt căn bản toàn bộ trên sự giúp đở của con người với nhau.  Một khi chúng ta đã đánh mất cơ bản nhân đạo và thiết yếu của nhân tính, mà nó là nền tảng của chúng ta, thì mục tiêu nào để theo đuổi chỉ trên sự cải thiện vật chất?
                               
                              19- Trong những tình trạng hiện tại, không ai có thể có đủ khả năng để cho rằng một ai khác đấy sẽ giải quyết vấn đề của chúng ta.  Mỗi cá nhân có một trách nhiệm hổ trợ hướng dẫn gia đình địa cầu của chúng ta trên chiều hướng đúng đắn và mỗi chúng ta phải gánh vác trách nhiệm ấy.  Điều chúng ta hướng tới là những nhân tố thông thường của xã hội chúng ta.  Nếu xã hội như một tổng thể sung túc, mỗi cá nhân, tập thể hay hội đoàn của nó tự nhiên sẽ thụ hưởng lợi ích từ nó.  Chúng sẽ hạnh phúc một cách tự nhiên.  Tuy thế, nếu xã hội như một tổng thể sụp đổ, thế thì chúng ta sẽ hướng về đâu để đấu tranh và đòi hỏi cho những quyền lợi của chúng ta?
                               
                              20- Vì chúng tôi thật sự tin tưởng rằng những cá nhân có thể làm nên một sự khác biệt trong xã hội.  Như một tu sĩ Phật giáo, tự chúng tôi cố gắng để phát triển từ bi yêu thương – không chỉ từ quan điểm tôn giáo, nhưng cũng từ một con người của cộng đồng nhân loại.  Để động viên mình trong thái độ vị tha này, thỉnh thoảng chúng tôi tìm thấy điều ấy hổ trợ  để tưởng tượng chính mình, một cá nhân đơn lẻ, trong một chiều hướng và trên chiều hướng kia là một tập họp khổng lồ của tất cả những con người khác.  Thế rồi chúng tôi tự hỏi mình, 'lợi ích của ai thì quan trọng hơn?'   Tuy vậy điều quan trọng chúng tôi có thể cảm thấy, đối với chúng tôi nó rõ ràng rằng chúng tôi là một, trong khi những người khác là đại đa số.
                               
                              Thủ đô Hoa Sinh Tân, HOA KỲ, tháng tư 1993
                              Buddhism and Democracy

                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 26 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9