THƠ NGÃ DU TỬ
TÌNH RIÊNG Tặng Đoàn Duy Thanh Quê nhà khói bụi giăng mù Xuôi Nam tháng chÍn viễn du một thời Đất người một thuở rong chơi Sài Gòn hoa lệ nửa đời dọc ngang Bến Thành buổi ấy ngang tàn Cầu treo còn nhớ tiếng đàn xừ xê Đàn ai vọng tiếng lê thê Hai mươi năm nhớ… trôi về lãng du Bây giờ trời lại sa mù Bế bồng gia thất chạy vù áo cơm Nam nhi cũng một kiếp tằm Tài hoa nghèo khó có nằm chung chăn? Ừ thôi, về với chị Hằng Gởi trần gian chút giá băng cơ đồ Trăm năm về với hư vô Còn chăng là cái xác khô bụi hồng Gõ thuyền vỗ nhịp xa trông Còn ba con giữa bềnh bồng trần ai Ai về so chén lai rai Đôi dòng tâm sự lấp vài trống canh! Đời may còn chú bên anh Trong ngăn tim máu để dành tình nhau Bôn ba tóc ngã phai màu Thời gian còn những con tàu rời ga Nằm mơ đầy ắp mái nhà Giữa Sài Gòn chỉ thật thà tình Em ./. NGÃ DU TỬ R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.06.2011 05:48:01 bởi Viet duong nhan >
Con tim và lý lẽ Khi con tim trở thành giếng hoang rác cuộc đời ập xuống tan hoang khi con tim nở đóa từ bi, đời thăng hoa diệu kỳ./. ngã du tử
LỤC BÁT DÒNG TRONG Quê hương từ thuở xa người Vòng tay ngày cũ còn lời xưa sau Nhớ mùa thơm thoảng hoa cau Thương nhau sẽ hái thắm trầu mang sang Ngờ đâu tiếng nói trễ tràng Đến tang thương, em sang ngang theo chồng Thôi về nhặt kỷ niệm hồng Ra bến xưa ngắm con sông : - nhớ đò Lòng vòng từng nẻo quanh co Áo em mất hút đôi bờ quạnh hiu Từng không một nhánh chim chiều Cô đơn bay lượn một triều cô đơn Làm sao tìm lại dỗi hờn Trong mắt nhau mấy nổi buồn vu vơ Đêm về lần giở trang thơ ồ! là em, nhật ký mơ mộng đầu Thì ra trong cuộc bể dâu Còn đâu đây một nổi đau đáu lòng Tạ từ lục bát dòng trong Vẫn nhớ nhau giữa mênh mông sóng tình Tôi về bóng thắm ngày ngày xinh Thương nhớ ai? Lóng ngóng mình giữa quê./. Ngã du Tử
sắp đến ngày fatherday NGÃ DU TỬ gửi cho VNTQ bài thơ cho cha, mong anh chị em đón nó như món quà cho cha. BIỂN BỜ CHA thế gian mãi ca tụng mẹ ít người nhắc đến ơn cha ngày mới lớn cha thường ban bảo: rằng áo cơm cũng khó nhọc khôn cùng còn tri thức vạn lần hơn thế nữa và rất nhiều lý lẽ của riêng chung tôi chưa hiểu những cơ, thời, lý, mệnh nên buâng khuâng trước ngữ nghĩa cha mình rồi ra đời trong lúc khó mưu sinh mới lần rõ chuyện nhọc nhằn tình lý cha bấy giờ rong chơi cùng thiên sứ ông ngao du khắp trời đất muôn trùng tôi đứng trước đôi bờ phong vận …cùng thông lòng cứ nhớ những lời cha thời cũ có những đêm trường tư lự bao mầm xanh bật chết trước can trường đời có đẹp như điều cha nói : -‘đạo làm người trên cả những danh xưng’ Giữa đời thường, lòng đôi lúc rưng rưng Thương cha lắm cứ thủ thường liêm khiết ‘ giữ đạo làm người’ có là thua thiệt? nhưng,cả đời gìn được chữ thanh gia đường trần gian ai cũng phải đi qua và có lẽ cái nhìn chưa bao quát hành vi mỗi người là hạt trái ngọt chua là kết quả mai nầy đời chập chùng quá khứ đến tương lai càng đơn giản khi quay về đạm bạc muôn lý giải giữa hai dòng thiện ác chẳng bằng ung dung trước rộng chật vô cùng ngã du tử
NHƯ NHIÊN Hỏi sông rằng đâu đến, - Dòng nước lành trôi xuôi Hỏi trăng từ đâu tới, - Vầng trăng sáng giữa trời Em từ đâu thị hiện, Sáng trong lòng thi ca Em : - vô chung vô thỉ Theo dòng đời ngân nga Thơm lừng hương đạo hạnh Bên đời mãi hoan ca Mùa vui nào kịp dậy Hòa vào cùng loang xa ? Đất trời màu xanh ngát Lòng người kịp thiết tha? Bao năm rời quê quán Lòng biêng biếc thềm nhà Thả tâm mình thật lỏng Đón nhận những bình yên Có thể là sóng gió Chẳng nôn nao lụy phiền Áo đời mới rồi cũ Mặt người trẻ rồi khô Lững thững chiều trước cửa Song song với sông hồ Thời nào sông cũng chảy Thời nào ngày cũng đi … Bất ngờ con cu gáy Đậu trên cửa xuân thì Tiếng chim, ừ rất lạ Vọng vào lời tân thi Đi tìm tôi năm tháng Mệt lả giữa trần ai Quanh đây con bóng ngã Đỗ xuống tôi thật dài NGÃ DU TỬ
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.08.2011 22:26:41 bởi THƠ NGÃ DU TỬ >
CẦN MẪN GỌI NGÀY Không còn nhận ra sông khi hòa cùng biển Nên lan man giữa ranh giới chè hai Em bước tới, vừa chạm bờ thánh thiện Tưởng hiển linh hóa Bồ Tát nghiêm đài! Tôi cần mẫn tìm đò sang sông lớn Giông bão hoài nên chẳng chuyến sang sông Đời lỡ vận ngậm ngùi mong con trẻ Phải không Em, chưa sống chết với dòng? Thì lỡ vận về an nhiên tu chí Gặp anh em đỏ mặt chuyện khóc cười Bàn quanh quẩn mọi mất còn thế sự Ô hay cờ thế sự vốn trò chơi? Chẳng yên lặng trước trắng đen thời cuộc Nhưng quả tình bé nhỏ trong bao la Rồi chăm chỉ bên cổng ngày vừa mở Mỗi thăng hoa thêm một chén cười khà Ngã du tử
TRIỀU GIÓ MỚI (ngày 7/8/2011) Hởi cuồng nộ cơn đỉnh triều gió mới Cuốn phăng bao rác rưởi cõi đời nầy Đất nước vô cùng, chật hẹp những vòng tay Ôi, cường bạo giết chết bao trí sĩ Có phải tay nhân gian ích kỷ? Không, bọn người bám quyền lực ngôi cao Dưới trời quê bật chết những anh hào Ngọn nến sáng lung linh mùa tưởng nguyện Đầu Bắc Nam nối dòng người phụng hiến Tiếng vang rền dân tộc thức anh linh Mùa hạ vàng, dậy con phố bình minh Vui chào đón nụ cười chưa quen biết Một điểm hẹn: - con dân nước Việt (Có khoãng cách ngại ngần những kẻ nhân danh…) Chân thanh xuân rầm rập bước diễn hành Không phải lính - toàn người dân ra trận Đất nước ơi! Từ bao đời lận đận Nhưng nổi nhục nào bằng đàn áp lương tri Ngựa buộc cương chao ôi! – Giống ngựa Kỳ Đường thiên lý ngùi trông trong uất nghẹn Đứng giữa trần gian lòng không hổ thẹn Lấy chính danh nguyện gìn giữ cơ đồ Đời nhọc nhằn nhiều tầng suất quanh co Nếu phải chọn: - con đường bằng phẳng nhất Quyền lợi tối cao là quốc gia dân tộc Quyết một lòng bảo vệ biển, non sông Hởi anh linh của dòng giống Lạc- Hồng Mùa dân chủ rộng vòm trời kỳ vọng NGÃ DU TỬ
CỔ TÍCH MẸ VÀ EM Tiếng Em từ độ thu nào Còn trôi trong mắt như màu thu nay Sáng trưng trên mấy từng mây Lạc vào cổ tích nở ngày trong tôi Rằng xưa một nhánh tao nôi Huyền xanh sử mẹ mắt môi tượng hình Cũng từ nhật nguyệt lung linh Kết tinh thành cả dáng hình của tôi Tháng ngày hạnh phúc êm trôi Lớn dần từng tiếng từng lời mẹ cha Niềm vui xanh nhánh trổ hoa Quây quần quanh lũng yêu và thương ngoan Từ em lạc chốn địa đàng Bao dung trên khoãng ánh vàng nắng sương Theo Em đi khắp muôn phương Phương nào cũng chỉ một phương Em hồng …. Yêu em vừa buổi núi sông Lặng im tiếng súng phiêu bồng rong chơi Cơ đồ trong mái nhà thôi Có em từ đó vàng phơi thơ tình Nảy mầm từng tứ thơ xinh Xanh cành tươi tắn có hình dáng Em Trôi theo ngày tháng lã mềm Giữa đời còn đọng hương đêm của ngày ngã du tử
ẤM TRÀ ĐÊM GIAO THỪA Hồi mới vào bậc trung học đệ nhất cấp khoảng năm sáu tám, sáu chín , lúc ấy ông nội tôi còn tại thế, mỗi lần đi học về, tôi thường lân la với ông để chuyện trò, có những điều không biết tôi thường hỏi ông tôi. Nội tôi có thói quen là đọc sách và uống trà. Sách ông đọc thường bằng chữ Nho, thỉnh thoảng ông vẫn đọc sách quốc ngữ dịch từ tiếng Hán như Tam quốc chí, Thuyết Đường, Đông Chu liệt quốc… nghe ông nói việc uống trà từ rất sớm lúc ấy chắc vào lúc ngoài bốn mươi, tôi còn nhớ những động thái của ông lúc pha trà cũng như lúc uống trà.Thế mới biết thú uống trà cũng công phu quá đổi: ‘nghề chơi cũng lắm công phu’. Đầu tiên ông đun nước sôi, không hiểu sao ông nói chỉ ấm đất nước mới ngon pha trà mới tuyệt, lẽ ra phải dùng nước giếng buổi sáng múc từ dưới giếng của nhà cũ của mình hình như là mạch nước đó tốt , tôi thì chả hiểu tốt xấu thế nào nhưng rõ ràng là mỗi lần về quê những lần nghỉ học là khoái uống ngụm nước giếng quê nhà múc từ giếng, nó ngọt ngào làm sao, cái vị ngọt ấy tôi chẳng thể nào quên, nhưng điều kiện ở thành phố không có đành chịu, nước thủy cục thì chẳng thể nào bằng, lúc nước sôi bùng ông vẫn còn để trên bếp bớt lửa cứ dùng từ từ, ông tráng ấm, tráng chén , xong đâu đó ông thận trọng mở lon trà, lon trà làm bằng cạc- tông của Đài Loan màu đỏ, ngoài có viết chữ thảo của Tàu, có ấm trà và chén trà khói nghi ngút , họa sĩ Đài loan vẽ rất đẹp, bên trong còn tráng lớp ny lông. Trà ông thường uống là trà Kim Phát do người Tàu định cư ở Quảng Ngãi sản xuất nước có màu xanh thơm lạ thường lúc bấy giờ nó là danh trà ở xứ tôi, thỉnh thoảng ai đó biếu ông bịch trà Đài Loan , ông quý lắm ông cẩn trọng thêm bịch ny –lông dày buột dây cao su đeo tay kỷ lưỡng lắm, ông nói làm như vậy trà sẽ ít bị bay hơi, mùi trà thơm lâu, rồi ông khum tay dốc trà vào lòng tay mình liều lượng tương đối nhất định, ông bỏ vào bình. Ông tráng ấm, tráng ấm cũng rất điệu nghệ, lắc đều nước quay đều đến thành miệng ấm mà chẳng ra ngoài, rồi ông dốc bỏ nước ấy, sau đó ông chế tiếp nước sôi vào ấm nước đặt trên bếp rề sô nhỏ màu ô liu quân đội ,ba kiềng táo khi không nấu nữa thì xếp vào thân gọn gàng lắm, ông rất ngăn nắp vị trí nào ra vị trí nấy. Cái bình trà cũng ngộ lắm, nhỏ chút xíu màu gan gà nghe ông nói đó là ấm thời nhà Minh bên Tàu. Đặc biệt bên dưới in chữ Tàu trong ô vuông , chữ sắc sảo lắm và lại nữa khi ông úp xuống nó cùng nằm trên mặt phẳng thẳng tắp ba tiếp điểm vòi bình, miệng bình và quai bình. Bộ bình của ông chẳng hiểu sao có ba chén nhỏ và một chén tống,(có lẽ bể một chén chăng?) nước đầu tiên ông rót cả vào chén tống, rồi ông tiếp tục đỗ nước sôi vào bình lần hai, đợi ra trà lần nầy ông rót cả vào chén nhỏ, ông rót tuần tự hết vòng tới vòng, trước khi uống ông đặt vào thành mắt mình cho hơi trà xông vào mắt ông, ông nói rằng như vậy sẽ làm mắt sáng hơn, chẳng biết điều nầy đúng hay sai thế nào nhưng sau nầy thỉnh thoảng khi uống trà buổi sáng tôi cũng thường làm như vậy, tôi cũng thấy mắt mình dễ chịu.Chuyện uống trà buổi sáng của ông có khi đến 7, 8 giờ sáng mới xong. Khi đâu đấy xong xuôi ông thận trọng lau chùi bình tách và đặt lại đúng vị trí cũ, và không quên phủ lên nó miếng nỉ màu cổ trầu. * * * Mùa xuân năm ấy, sau khi bàn thờ, nhà cửa được trang trí mới để đón xuân, dù đời sống của cha mẹ tôi là công chức chính phủ tương đối nhưng cái tết cũng bình thường thôi, ba tôi có thói quen là chơi nhành mai, lỡ năm nào mai đắc đỏ quá ba tôi sai anh tôi về quê chặt mai ở vườn nhà ra chơi, năm nào nhành mai ra nhiều cánh mai sáu cánh là ông và ba tôi vui lắm vì ông quan niệm rằng mai sáu cánh là hên lắm. trên nhành mai bao giờ cũng có nhiều thiệp chúc xuân và vài chữ phúc, lộc, thọ vàng mua ở phố về gắn lên. Giao thừa năm ấy, tôi cũng đã lớn . Sau thời khắc giao thừa thiêng liêng, khi cái radio nhà tôi bắt đầu lời vang vang chúc tết của Tổng Thống, ba tôi chăm chú nghe, chỗ nào đắc ý thì gục đầu trông có vẻ nghiêm nghị lắm, mẹ tôi thì cứ bảo: ‘mình* lúc nào cũng thời sự’còn ông tôi thì thỉnh thoảng vuốt chòm râu ‘mỹ nhiệm công’** của ông rồi từ tốn: - Đàn ông, ngoài công việc của chính phủ cũng phải hiểu thời sự,con à, mẹ tôi chỉ nghe chứ không trả lời. Lúc bấy giờ chiến tranh đã ác liệt, thường đêm đêm những tiếng pháo cứ ầm ì vào khu vực ngoại thành, thỉnh thoảng cũng vào trong thành mỗi lần như thế là xôn xao cả phố. Thị xã Quảng Ngãi là thị xã nhỏ nên mỗi lần như vậy tôi cũng biết được, chẳng những biết mà thậm chí tôi hiếu kỳ rủ bạn bè trương lứa cùng xem. Nhang đèn nghi ngút trên bàn thờ, ông tôi pha ấm trà, tết mà, ấm trà Đài Loan chính hiệu, sau khi rót vào ba chén nhỏ xong ông mời ba mẹ tôi uống trà giao thừa, còn chúng tôi thì náo nức các dĩa bánh trên bàn thờ, khi nào hạ là sẽ được ăn thỏa thích. Lúc làm bánh thuẩn tôi chỉ được hưởng những cái bánh thầy tu (không nở) mà đã thấy ngon lành. - Trà ngon lắm con à, ông tôi nói vậy, ba mẹ tôi cùng ông ngồi uống. - Năm nay đình chiến từ giao thừa đến hết ngày mùng một, nên quân đội có ít người về ăn tết, ba tôi nói với ông tôi như vậy, hình như còn muốn nói thêm điều gì ….trầm ngâm một lúc lâu ông lại tiếp: - Ngày Tết là ngày thiêng liêng đó là truyền thống ngàn đời của dân ta, thế mà chiến tranh, chiến tranh khốc liệt quá các con à, không biết năm nay sẽ ra sao? Ông tôi nói rất ôn tồn, rồi ông phe phẩy cái quạt lông ông tự kết bằng lông chim cán gỗ khéo lắm, ông tiếp: - Người dân bao giờ cũng muốn thanh bình, an cư lạc nghiệp đó là nguyện vọng ngàn đời duy nhất của dân, chiến tranh chỉ làm khổ nhân dân, nhân dân bao giờ cũng vậy thích thanh bình làm ăn tự do không biết những người cầm quyền có hiểu điều đó hay không, hay là họ cố tình không hiểu? và rồi ba tôi và ông tôi mãi miết chuyện trò còn bọn tôi khi hạ đèn là chén sạch các dĩa bánh, trước khi đi ngủ lại ba tôi còn căn dặn: - Ngày mai là Tết các con không được dậy trễ, không được khóc, phải cẩn thận không cho đổ vỡ đồ đạc, mặc quần áo mới để mừng tuổi ông bà tổ tiên, ông nội, ba mẹ và được… lì xì. Chúng tôi dạ rân và đi ngủ lại, trong đầu tôi còn nghe văng vẳng ông tôi nói với ba tôi: - ‘Trà tam , tửu tứ , chu du nhị’, có lẽ bấy giờ mẹ tôi cùng chúng tôi đi ngủ lại chăng không còn đủ ba người nên ông nói vậy? Tết nào cũng vậy đó là truyền thống của gia đình cha mẹ tôi, Sau nầy tôi có gia đình tôi cũng sẽ giữ thói quen đẹp và đáng trân trọng như vậy với các con tôi . * * * Sau lần chứng kiến uống trà đêm giao thừa của ông và ba tôi, tôi không có dịp nào nữa nên lần ấy cứ len lén vào tôi mỗi khi tết đến xuân về, nhất là những khi có ai đó nhắc đến việc uống trà Chiến tranh kết thúc, thời thế khó chúng tôi vào Nam lập ngiệp , thời gian trôi đi lạnh lùng như thác đổ, mới đó đã mấy mươi năm, ông tôi thì mất ở những năm bảy ba của thế kỷ trước, mỗi lần giỗ ông bao giờ mẹ tôi cũng pha ấm trà đắc tiền, mẹ tôi bảo: - ‘Lúc sinh tiền ông nội thích uống trà ngon, ông cẩn thận trong cách pha chế và uống trà’ tri ân cha như thế cũng quí lắm rồi. Còn riêng tôi thì cứ băn khoăn hồi ấy tại sao không hỏi ông hoặc ba tôi ‘trà tam, tửu tứ, chu du nhị là gì ? mặc dù tôi vẫn tiếp tục sống với cha mẹ tôi và đã có quá nhiều kỷ niệm vui buồn trong đời với ba tôi nhưng có lẽ tôi không đặt vấn đề đó nữa, có lẽ vì cơm áo, mà thú thật với các bạn đọc ngày ấy khó lắm, tưởng rằng chữ nghĩa không còn nghĩa lý gì khi mọi chuyện bị chi phối bởi cái bao tử, đời sống duy nhất lúc bấy giờ chỉ là lao động, sản xuất. Tủ sách đồ sộ của ba tôi tích cóp từ thời ông còn rất trẻ, tháng lương nào ông cũng sắm năm bảy đầu sách, khi giải phóng Quảng Ngãi ông ‘được’ chính quyền quân quản cho hồi hương, ông cẩn thận bỏ từng cuốn sách vào những vỏ bao phân hóa học cột kỹ lưỡng cái gia tài chữ nghĩa ấy, riêng chuyện chuyên chở gia tài sách ấy về quê cũng mất cả ngày vì lúc đó vận tải bằng… xe cộ, ông thì quý sách như thế nhưng lệnh của chính quyền thì tất cả các sách là tàn dư đồi trụy của thực dân, đế quốc phải bị tịch thu, cha tôi sợ quá nên làm củi nấu bếp, trong ánh lửa bập bùng của những trang sách, con chữ tôi thấy cha tôi mắt nhòa lệ, ông nói chỉ chính ông nghe rất khẽ khàng: ‘chữ nghĩa là tài sản quí của đời tôi, nhưng thời thế đành phải đốt, chẳng biết sau nầy thế hệ con tôi có còn...’ hình như ông nghẹn ngào không nói hết câu. Và như ông còn tiếc rẻ nên lựa một số sách thuần túy văn học cẩn thận bỏ vào những vỏ bao phân hóa học nhiều lớp và cùng chúng tôi chôn chặt dưới lớp đất trong vườn, mấy năm sau khi tình hình tương đối lắng dịu chúng tôi lại đào lên, than ôi, mối mọt đã tàn phá hơn 3/4 . Thời gian lại trôi qua, ba tôi sau khi học tập về quê cha đất tổ, ba tôi bịnh bọn chúng tôi thì thất thời, thuốc thang lúc nầy quá đắc đỏ, mua từng bửa, từng ngày, ông cũng mất cuối thập niên tám mươi của thế kỷ trước, lòng tôi cứ ân hận hoài chuyện cha tôi mất vì lúc ấy quá nghèo, không đủ tiền chạy chữa. Mỗi lần nghĩ đến chuyện nầy lòng tôi lại nhỏ lệ rưng rưng. Rồi sau nầy tôi cũng tìm hiểu thế nào về chuyện : - trà tam tửu tứ chu du nhị, khốn thay những lời giải thích của nhiều người tôi chưa thấy thuyết phục nên nửa tin nửa ngờ. Mãi khi tôi gặp thầy Thiện Nhơn, người mà tôi rất kính phục về sự uyên bác kiến thức, đặc biệt là thầy kể các chuyện Tàu như Tam quốc, Thủy hử, Đông Châu liệt quốc…những nhân vật thầy nhớ rõ lắm, khi tôi hỏi thầy về vấn đề nầy :- “tại sao người xưa lại bảo: trà tam, tửu tứ, chu du nhị” thầy suy nghĩ lục lạo lại trí nhớ của mình, rồi ôn tồn trả lời: - Thầy có đọc vấn đề nầy ở đâu đó nhưng bây giờ thì không nhớ chính xác tài liệu nào, đại loại như thế nầy: người xưa cẩn thận lắm, nên thường bàn những việc đại sự của đất nước, dân tộc , chuyện còn mất…phải kín kẻ, ba người tâm phúc nhau thôi bởi vì ba ít lộ ra ngoài, uống trà ba người để đàm đạo việc đời phải trái, thắng thua, đạo đức, luân lý, chính trị, xã hội, đời sống…nên phải tỉnh táo để thấy được cái thâm sâu của người xưa vì trà là chất làm sảng khoái thần kinh , và ba cũng là cụm đoàn kết ước lệ tối thiểu, tức yếu tố cần và đủ của cổ nhân, nên ca dao có câu ‘ một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao’, khác với rượu, rượu là uống để vui vầy cùng bạn bè, người thân nên không khí ồn ào đông vui là chính nên tửu tứ là vậy chắc các con trong đời cũng từng thấy được điều nầy, có ai bàn việc tối quan trọng bằng rượu đâu nào. Còn chu du nhị ư? Ngày xưa, đâu có phải ai cũng du lịch được, người đi chơi là giới trung thượng lưu nên đi chơi tức là đi thưởng lãm những danh lam thắng cảnh non nước hữu tình rồi cảm tác, rồi chuyện trò nên nếu một thì có cảnh buồn vui thì ai chia xẻ, tâm tình lúc thưởng ngoạn, cảm tác…vì vậy đi chơi với hai là thú vị nhất, nên ‘ chu du nhị là như vậy’ Nghe thầy giải thích như vậy tôi lấy làm vui vì có tính lý luận thuyết phục nên tôi tin là như vậy, nhưng trong tài liệu nào thì đến nay tôi vẫn chưa có duyên để đọc được, dù sao cũng nói lên điều nầy để những ai đọc rồi giới thiệu cho nhau cùng hiểu thêm. Sau nầy các anh chị em tôi ai cũng có gia đình riêng lẽ nên chẳng thể có được cái hương vị quá khứ ấy.Từ mấy chục năm nay, sống ở đất Sài Gòn hoa lệ nầy nhưng tôi chưa bao giờ tận hưởng cái không khí ấm áp đó, có lẽ phong tục mỗi vùng miền khác nhau hay là lý do gì nữa hoặc vì không ai đàm đạo. Những năm gần đây, cứ mỗi lần tết đến xuân về tôi lại nhớ ấm trà đêm giao thừa xa lắc năm xưa, khi còn ông nội tôi vui vầy với cha mẹ và anh chị em tôi, sao mà nghe ấm áp lạ thường. Cuộc đời nầy làm gì có được những chuyện đã mất đi, nếu còn chăng là kỷ niệm của đời người, mà kỷ niệm đẹp thì giữ vào góc riêng hồn mình để tận hưởng ký ức ngọt ngào, việc ấy tự do chẳng ai cấm cản, may thay./. NGÃ DU TỬ Đại hàn Kỷ sửu 200231232
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.10.2011 16:45:43 bởi THƠ NGÃ DU TỬ >
THANH THẢN Kính tặng nhà thơ, dịch giả Lưu Hoài Người trầm mặc bên cuộc đời dung dị Vẻ ung dung chẳng son phấn đời thường Đôi mắt ấy có điều chi u uẩn Nhịp con tim thong thả gõ can trường Căn gác hẹp miệt mài dâng bút ngọc Cặm cụi cho đời những áng văn chương Mặc thiên hạ giữa có không trần tục Giữ lòng nhân thanh thản đến cuối đường NGÃ DU TỬ
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.08.2011 20:01:16 bởi THƠ NGÃ DU TỬ >
THƠ TÌNH TUỔI 40
Ngữa tay em hứng hoa vàng
Bắt tình anh buổi tan hoang xuân thì
Bất thần chao cánh thiên di
Gói tình em ngọc lưu ly ẩn mình
Nụ cười hàm tiếu lung linh
Nhốt phong ba buổi đăng trình thuơng yêu
Thuơng sao ngày tháng rong rêu
Không ai thắp gió cánh diều bay cao
Bây giờ còn lại hanh hao
Ngữa tay em hứng lao xao tim mình
Hoa vàng rơi cánh rung rinh
Thảm hoa trải mộng tạ tình em đong
Em về gởi trọn nhớ mong
Giữ tình anh để trong lòng nghìn sau./.
ngã du tử
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.09.2011 14:16:44 bởi THƠ NGÃ DU TỬ >
NIỀM TIN ĐÃ CẠN CHÉN LÒNG
Chắc chắn niềm tin trong linh hồn đã cạn
Nên người dân hoài nghi về phía chính quyền
‘Người anh em’ cứ dã tâm lấn chiếm
Làm sao dân tộc ngồi yên?
Đất nước thiên thu
Dân tộc vững bền
còn chế độ chỉ là thời thế
cứ nhân danh để dân tộc đứng lên
dáng tổ quốc thực sự càng bé nhỏ
bởi yếu hằn trước thảm họa ngoại xâm
cái vẫy vùng của dân chẳng phải vô căn cứ
thường dân lật đường cày mong được ấm và no
nhưng người ta tìm mọi cách để lấy đi
làm sao dân không phản kháng
dẫu sức mạnh bạo tàn như vũ bão
lớp người dân sẽ sau trước hàng hàng
tiếng hung dữ của người bảo vệ chính quyền
tâm hồn như bầy thú hoang
cứ cuộng nộ cơn sát khí
bước trăm dân mạnh hơn bước hung tàn
đời thanh bình bỗng chốc tang hoang
con sông chết rùng mình vì môi trường băng hoại
cánh đồng xanh xơ cứng mãnh hình hài
ai, vì ai?
Đạo đức mới là gì, đừng mơ hồ chủ nghĩa?
Tự bao đời luân lý mãi tồn sinh
Hãy bao dung nhìn lại đất nước mình
Đành cúi mặt trước triệu người cô độc
Thầy giáo bán linh hồn cho quyền cao vô đạo
Nữ sinh thơ ngây, sập bẫy tù đày
Mệnh danh Thầy sao chật những vòng tay
Lại tiếp sức cho ma trơi và quỷ dữ
Thầy thuốc thờ ơ không chút nhân từ
Sự lạnh lùng, vô cảm chẳng ưu tư,
Cái nghèo túng có khi vào cõi chết
Nhiều sinh mệnh lẽ ra chẳng mất
Nếu trái tim biết yêu đồng loại
Mắt nhân văn nghiền nhắm tự lúc nào?
Lương tâm người thầy áo blue hóa đá
Lời thề Hyporate bán non lúc mới ra trường
Vịn trang vàng tuyên thệ những yêu thương
Sao có thể đánh đổi bằng vật chất
Thiếu lương tri, và trách nhiệm làm người!?
đất nước nầy mưng mủ hết mười mươi
mọi tốt xấu bắt đầu từ giáo dục (1)
sân trường dày thêm tủi nhục
áo lương tri rách toạc tự bao giờ,
những tâm hồn ngây thơ
ánh mắt sáng ngời lên như tia chớp
mơ mai sau thành những cánh chim xuân .
Thầy không cân phân trong dạy dỗ, học hành
vô tình tưới đen lên đàn chim non chưa biết mỏi cánh
đời sống sẽ nhuộm sắc chàm man dại
Có bao nhiêu người ái ngại
Chẳng lẽ giáo dưỡng con người như thế nầy ư!?
Việc hối lộ : mong yên cho đời sống
(tiền mồ hôi không tiếc rẻ sao đành )
từ cơ quan cao đến tận cô thôn
‘ông đầy tớ’ của những người phận khó
Đẩy nhân dân về phíađối kháng, bần cùng
đôi vai trần dân dã đã rách tươm
và tất cả lương tri đều cúi mặt!
có bao giờ cái thiện run rẫy trước cái ác!
Thương dân tôi trên đất nước ngục tù
Công lý lẽ nào cũng cố cho tội lỗi …
Tổ quốc nầy, hồi phục lại bao lâu ?
Ngã du Tử
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.03.2012 16:05:36 bởi THƠ NGÃ DU TỬ >
THI CA
Thời nào thơ cũng cô đơn
may còn em chia nỗi buồn cùng tôi
mai sau đất nưóc tài bồi
ngoài trăm năm, cánh thơ trôi theo dòng
NGÃ DU TỬ
MỘT VẬN QUÊ
Hát với đồng xanh cảm giác quê
Mùa vui chân bước buổi về quê
Chiều lên gió thổi mây dâng lụa
Ngày vắng đời hương lúa ngát quê
Sông núi hiện hình trong đáy mắt
Dáng em còn đọng giữa hồn quê
Sông hồ mê mãi dòn câu nhớ
Lâu lắm nữa đời trở lại quê
Ngã Du Tử
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.12.2011 16:14:36 bởi THƠ NGÃ DU TỬ >
Nguyên Hải họa y đề , giới thiệu cùng anh em thư quán
HỌA Y ĐỀ
Hải hồ muôn dặm với tình quê
Truông ải non ngàn một bến quê
Âu-Lạc Rồng Tiên hồn xã tắc
Cửu Long Đông Hải bóng làng quê
Hồ Trường quặn thắt lòng đau nước
Biên ải âm thầm tiếng xót quê
Ai kẻ anh hùng đâu tá nhỉ?
Muôn dân huyết thệ giữ gìn quê.
Nguyên Hải
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 5 bạn đọc.
Kiểu: