truyện ngắn::Đêm Phù Thuỷ::Trần Trí Dũng
Trần Trí Dũng 07.02.2009 21:35:00 (permalink)
Đêm Phù Thủy




 
Hơn hai trăm năm trước Công Nguyên, An Dương Vương dẹp dòng dõi Hùng Vương, lên làm vua người Việt.  Rùa Thần giúp Vương xây thành Cổ Loa sau nhiều khốn khó do bị con cháu triều cũ quấy nhiễu.  Không bao lâu sau, Loa Thành thất thủ trước quân Tàu của Triệu Đà, Vương phi ngựa đưa con gái mình là công chúa Mỵ Châu chạy trốn.  Rùa Thần nổi lên nơi cửa biển, nói với Vương: "Kẻ thù ngồi sau lưng bệ hạ đó!".  Nhà vua hiểu ra.  Công chúa vị tình riêng với Trọng Thủy chồng mình, đã để lộ bí mật quốc gia.  Theo truyền thuyết, Trọng Thủy, vốn là con trai Triệu Đà, đã sang nước Việt cầu hôn Mỵ Châu để tỏ tình hoà hảo giữa hai nước...
 
 
 
Cơn mơ quái đản kia lại chờn vờn tra tấn giấc ngủ tôi. Sáng ra, tôi nhất định bay lên thành phố đó, tìm cho được con người bé nhỏ xanh xao của một đêm thù tạc tình cờ.  Biết tôi sắp bay, người tài xế  taxi cao hứng nói một hơi.  Anh không sợ xui à?  Sao lại bay vào cái giờ độc địa này?  Tôi dám cá cả tiểu bang chỉ có một mình anh bay hôm nay...  Tôi trả lời qua loa cho có chuyện.  Tôi tin những ồn ào xung quanh cột mốc thời gian thật ra chỉ là trò xí gạt có tính toán rốt ráo của những tay tài phiệt hạng cá mập.  Các hãng thông tấn báo chí chạy những tiêu đề nóng hổi kiểu như "Y2K và nỗi quan ngại cho sự tê liệt của hệ thống máy tính tòan cầu", "máy ATM được cảnh báo gặp trục trặc khiến người ta không rút được tiền", "máy bơm nổi chứng ngừng bơm xăng khi quý bạn đã trả tiền", "phi cơ đang bay trên trời có thể khơi khơi rớt xuống đất như một chiếc lá khô", v.v. và v.v.  Một trò bịp trẻ con nhưng không rẻ tiền.  Bạc tỉ đã đổ ra khắp nơi để mua một tràng cười đâu đó những ngôi biệt thự heo hút bên triền núi hay xa khơi những hòn đảo hoang dã kín đáo.  Trong bụng tôi thì đang rối bòng bong.  Câu chuyện hấp dẫn, tưởng đang trên đường trở thành một kịch bản ngon ăn lúc ban đầu, hóa ra chỉ mang lại cho tôi bao lôi thôi và những đêm mất ngủ.  Sau mấy lần viết đi viết lại, tay đạo diễn bạn vẫn lắc đầu, nhìn tôi lom lom như thể nhìn một đứa sắp mất trí.  Hắn chỉ chưa lịch sự khuyên tôi bỏ đi, tìm đề tài khác cho khỏe.  Phiền phức nhất là cái đầu người--móng rùa--cánh gà đó cứ chập chờn hằng đêm.   Thoạt tiên, tôi nghĩ có lẽ mình bị ám ảnh bởi câu chuyện đang viết, một điều không có gì lạ.  Chỉ có điều cả tháng trời trôi qua, cộng vài ký lô thuốc ngủ, tôi vẫn mộng mị những hình hài nửa người nửa ma, âm thanh sóng biển rì rào thành ra tiếng con rùa hóa thần đàm đạo cùng một bậc đế vương, và những con gà trống màu trắng biết dấy âm binh phá sập thành trì.  Đến cuối tuần rồi tôi chịu hết nổi, bốc điện thoại gọi ông ta chỉ để nghe tổng đài trả lời đường dây đã cắt.  Mấy lần tôi gọi cho anh bạn, người đã giới thiệu tôi với ông ta, cũng không ai bắt máy.   Và giờ tôi đang trên đường ra phi trường với hành trang là món quà ông ta tặng trước lúc chia tay, một cái ống điếu bằng tre kì dị, cũ mèm, và bao thêu dệt hoang đường chung quanh nó.  Dưới bầu trời miền nam xanh thẳm, chiếc taxi lướt êm ru ngang các vỉa hè ấm áp quen thuộc, nơi ngàn triệu tia nắng nhún nhảy vô tư sau những cặp mông xinh tươi thích diễn hành qua phố, chỉ khiến tôi thêm ngao ngán chuyến bay dài và đồi đồi núi núi trắng xóa tuyết trên kia.
 
Tháng trước, tôi làm một chuyến ngao du vô cớ lên thành phố pha lê.  Một buổi chiều kia, anh bạn thân rủ đi xem mấy người khách Á Đông, tình cờ cũng ở trọ cùng khách sạn với tôi, diễn rối nước trong một hang thạch nhũ.  “Rất hấp dẫn, bạn sẽ thích,” anh bảo đảm.  Bạn tôi là giáo sư sử học, một cựu điệp viên từng lăn lộn mấy mươi năm ở Viễn Đông.  Anh thông thạo cả chục ngôn ngữ ở đó, và dĩ nhiên là một bách khoa sống về phong tục và văn hóa của họ.  Qua anh, tôi biết đây là một nhóm nghệ nhân gồm ba cha con, bỏ xứ sở,  cùng nhau lưu diễn nay đây mai đó khắp thế giới.  Múa rối chẳng lạ, nhưng tôi chưa hề nghe tới múa rối nước.  Và bạn tôi đã phỏng đóan chính xác, buổi trình diễn bốn mươi lăm phút khiến tôi mê mẩn tâm thần.  Khung cảnh liêu trai  trong hang thạch nhũ thật hoàn hảo cho môn múa rối nước.  Tôi khâm phục những kỹ thuật độc đáo, lạ mắt của ba người điều khiển rối phải ngâm mình trong làn nước giá băng suốt buổi.  Và đặc sắc nhất là những câu chuyện thâm trầm huyền bí rất đỗi Đông phương tôi chưa từng nghe biết.  Về khách sạn, dẫu nỗi kích động còn tinh khôi, tôi gọi một người bạn khác, một tên đạo diễn đang lên trên phim trường, hứa liều rằng mình sắp sửa có một kịch bản tuyệt hảo.  Ngay sau đó, tôi mở máy tính gõ ào ào sự tích một giống dân đã có thời cầu hôn nhau bằng voi chín ngà, gà chín cựa, và ngựa chín hồng mao.  Hay huyền thoại khai sinh dân tộc từ một bọc trăm trứng.  Rồi màn biểu diễn cuối cùng, một câu chuyện tình gây ấn tượng mạnh, đã khiến tôi ngỏ ý nhờ anh bạn giáo sư giới thiệu với nhóm nghệ sĩ.  Tôi không thể ngờ cuộc gặp gỡ đó sẽ mở đường cho cả tháng ác mộng.
 
Lúc đó màn đêm đang dần xuống, một người đàn ông Á Đông, nhỏ xíu như đứa nhỏ, có lẽ không nặng hơn năm chục ký lô, mở cửa mời tôi vào.  Tôi chỉ cần vài giây để nhận ra ông ta đang uống rượu một mình.  Hai người con trai đã xuống phố.  Vậy là khi khổng khi không tôi thấy mình chén thù chén tạc với người cha.  Ông ta mời tôi uống thứ rượu lạ nào giờ chưa hề nếm qua.  Vị rượu đắng trên đầu lưỡi nhưng ngọt nơi cuống họng.  Hơi rượu không nồng mà đằm, khiến mình dễ cạn trọn chung trong một cái ực nhẹ nhàng.  Ngay tức khắc một đường máu sôi hừng hực thốc ngược lên từ đáy bao tử, tràn qua lồng ngực, chạy rần rật trên mặt mũi, rồi cắm thẳng vào đỉnh óc.  Tôi còn đang ngầy ngật vì chưa quen hơi rượu lạ, ông ta đã chụp một câu hỏi choáng váng:
 
“Ông có tin những câu chuyện đó là thật?”
 
Đôi mắt híp nhỏ xíu xăm xoi nhìn tôi nửa như diễu cợt, nửa như thách thức.  Không đợi nghe tôi trả lời, ông ta nói luôn một tràng:
 
“Dĩ nhiên là ông không tin.  Tất cả chỉ là những chuyện cổ tích hoang đường, có phải không?  Nói cho cùng, chúng đều là những huyền thoại đẹp, những giấc mơ chúng ta không bao giờ với tới.  Duy có điều này ông chắc không ngờ.  Đã có một dân tộc bao đời mê muội tin vào huyền thoại.  Chúng tôi vẫn  thích mơ về một quá khứ đèm đẹp, dẫu là cái đèm đẹp của khổ đau.  Như mối tình nghiệt ngã của nàng công chúa và chàng phò mã trong cơn biến loạn.  Như hình ảnh nàng rãi lông ngỗng chỉ lối cho chồng đi tìm mình.  Như ánh trăng ngời lên ngàn hạt châu ngọc óng ánh, vừa kết tụ từ nước mắt khóc than nhớ người vợ trẻ của chàng phò mã.”
 
Tôi im lặng ngồi nghe.  Đêm và men rượu lạ tự chúng đã mang hồn thần thoại li kì.  Giọng người đàn ông vẫn trầm trầm không dứt:
 
“Nhưng sự thật chắc chắn không lãng mạn.  Cảm ơn ông, nhưng câu chuyện tình ông vừa chiêm ngưỡng thích thú lúc ban chiều đã không ngừng ở đó.  Ông không cần ray rức gì.  Hai ngàn năm qua dân tộc tôi không có một người đặt câu hỏi.  Chúng tôi chẳng bao giờ có cơ hội để biết, dù quá trễ, rằng Trọng Thủy, chàng phò mã, chính là một hoàng tử của dòng dõi Hùng Vương.  Sau vụ dùng con gà trắng phá An Dương Vương và công cuộc xây thành bất toại, phe trung thành với tộc Hùng Vương đã gửi chàng giả làm con trai Triệu Đà, vua xứ Bắc, đi cầu hôn công chúa Mỵ Châu, ái nữ của An Dương Vương, trong nỗ lực khôi phục lại vương quyền.  Mưu kế rằng, khi đại sự thành công, triều Hùng Vương sẽ chia sẻ tài nguyên của cải với Bắc triều.  Tuy nhiên, trong một cú lạng tài tình của lịch sử, công chúa và phò mã trở nên yêu thương nhau tha thiết.  Đã không có một bí mật, âm mưu, hay dối trá nào có chỗ trốn giữa họ.  Nếu chàng dò ra võ khí bí mật của An Dương Vương là chiếc ‘nỏ’ được gắn móng rùa thần, thì nàng cũng biết chồng mình chính là giọt máu trực tiếp của dòng họ mang mối cừu thù không đội trời chung với vua cha.  Ông đang nghĩ họ sẽ làm gì trong tình cảnh trớ trêu đó phải không?  Đau đớn cho dân tộc tôi, khi những người nhìn ra chỉ có tình yêu thương lấp được cái hố hận thù và ngăn những hậu quả cay đắng khôn lường đã phải trở thành những kẻ tuẫn đạo đầu tiên cho niềm tin trong sáng của mình.  Ước mong thanh bình an lạc đó đã mọc cánh bay mất từ những ban mai đầu tiên của dân tộc tôi.  Công chúa ngã xuống dưới đường gươm nghiệt ngã của cha mình, nhưng phò mã đã không chết mòn mỏi bên giếng ngọc truyền thuyết--chàng bị Bắc Vương bức tử để đoạt lấy ‘nỏ’ thần.  Ông đóan chuyện tới đây đã chấm dứt chưa, khi kẻ thù phương Bắc là người chiến thắng, còn hai dòng tộc Nam quốc rốt cuộc bị săn đuổi khắp mọi ngõ ngách trên chính quê hương xứ sở mình?  Thưa, chưa hết đâu.  Những oan hồn khi thoát kiếp lại kéo bè kết đảng nguyền rủa trù ếm nhau bất tận.  Bao lời nguyền chồng chất lên nhau.  Năm năm hạn hán cho dòng họ này.  Mười năm mất mùa cho dòng họ kia.  Hai mươi năm không đẻ được một đứa con nối dòng cho anh.  Ba mươi năm bịnh hoạn tật nguyền cho tôi.  Rồi năm mươi năm.  Rồi một trăm năm.  Ám khí đè nặng lên núi sông khiến cỏ dại cũng không mọc nổi, và nước phải rút hết vào lòng đất, trước khi kịp bốc hơi theo lẽ tuần hoàn vũ trụ, để lại những vệt hằn cạn kiệt trên mặt đất buồn nhớ một thuở đã đầy sông cá lội.  Những lời nguyền rủa cộng nhau qua lại lên đến bốn ngàn năm tận cùng khốn nạn.  Đồng bào nói cùng ngôn ngữ nhưng không hiểu nhau.  Nông phu cày bừa trên cùng cánh đồng nhưng ngầm hãm hại mùa màng nhau.  Anh em cùng cha cùng mẹ nhưng ganh ghét, mượn tay người ngoài giết chóc nhau.  Thưa ông, người dân tội nghiệp xứ tôi vẫn thường tự hào nhắc tới bốn-ngàn-năm-văn-hiến của mình, ngây tình không hiểu con số vô hồn đó từ đâu ra.  Thông điệp ở đầu này sang đầu kia có khi mất đi một nửa nên bị hiểu lầm đau đớn.  Dân tộc tôi, chỉ nhớ phần đầu vô nghĩa của con số, một lúc nào đó đã tự động ghép thêm mỹ từ văn hiến vào phía đuôi cho vui vẻ, hiển hách và có hậu, không hề hay biết đó là bốn ngàn năm bị nguyền rủa truyền kiếp.  May mà lịch sử còn nhớ tình yêu của hai người con trẻ, sự thức tỉnh của họ, và nỗ lực cứu vãn tình anh em ruột rà bất thành.  Nhờ công đức đó, công chúa và hoàng tử đã gỡ bớt mỗi người một ngàn năm cay nghiệt cho dân tộc mình.  Những lời nguyền, dù sao, vẫn còn đó, hắc bóng ma ám lên hai ngàn năm dài đăng đẵng.”
 
Ông ta ngừng kể, giang tay nhồi thuốc.  Suốt đêm tôi vẫn để ý ông ta hút thuốc bằng cái ống tre có khoét một lỗ làm nơi nhồi thuốc.  Cách ông ta nhồi thuốc tương tự như ống tẩu Tây phương, nhưng lối hút thuốc thì khác xa.  Với kiểu ống điếu này, ông ta chỉ kéo một lần, một hơi thật sâu và đậm đà, đủ đốt sạch trơn lượng thuốc lá tương đương như khi hút ống tẩu.  Tất cả diễn ra chỉ trong vòng vài giây đồng hồ.  Đã sẵn khó chịu trước cảnh tượng kéo thuốc nghe rột rột tởm lợm, nhất là cái mùi hôi không tả nổi đó, nên khi ông ta nghiêng qua hỏi tôi có muốn thử không, chút xíu nữa tôi đã phóng thẳng ra cửa sổ.
 
“Tôi biết mùi thuốc khiến ông rất khó chịu, dẫu đây chỉ là phiên bản vụng về của cây ‘nỏ’ thần xa  xưa.  Ông có thể tưởng tượng được, hai ngàn năm trước, những kẻ phải ngửi nó còn khó chịu gấp bao nhiêu lần.  Tổ tiên tôi đã chế ra một thứ thuốc vô tiền khoáng hậu.  Nó khiến người hút tinh thần phấn chấn sung mãn, trong khi quân thù dưới gió, hít nhằm hơi thuốc bị ngộ độc, liền nối nhau té lăn xuống đất, chết tươi không kịp giãy.  Người đời sau hiểu lầm, xưa nay cứ ngỡ đó là một thứ nỏ đặc biệt có thể bắn ra cùng lúc hàng trăm mũi tên.”
 
Ông ta chỉ tôi thấy chỗ để nhồi thuốc, một thứ hình trụ tương tự như đầu tẩu thuốc Tây phương nhưng nhỏ hơn, nằm ở lưng chừng thân ống điếu:
 
“Nếu ông lắp cái móng rùa vô đây, ngay chỗ này, và hút bằng thứ thuốc độc địa đó, sẽ không một kẻ thù nào tới gần dưới trăm thước để hại được ông.  Giống như nhà vua năm xưa, trước khi bị gạt lấy mất ‘nỏ’ thần.”
 
Bất thình lình, đôi mắt ông ta sáng quắc lên như mắt mèo đêm, xoáy chằm chằm vô mặt tôi, một lúc như vô tận.  Từng tiếng một, rõ ràng, xác quyết, nhảy khỏi bờ môi thâm xì kia:
 
“Chúng ta đang cùng nhau hít thở những giờ phút sau cùng của ngàn năm thứ hai. Tôi thấy sâu trong đôi mắt ông nơi ẩn giấu của những điều bí mật.  Thiêng liêng này, dòng tộc tôi đã bảo mật suốt hai ngàn năm.  Trong vài ngày hay vài tháng tới, những sự cố nào sẽ xảy ra cho dân tộc tôi, hay cho tôi mặc dầu, đều là dấu chỉ của một mùa đại nạn sắp qua.”
 
Tôi uống đã hơi nhiều, tới cái khoảng nếu ai nói con chó là con mèo, tôi cũng sẵn sàng tin. Đêm một lúc đã tờ mờ sáng.  Tôi chào ông ta, mang theo một hộp giấy chứa bên trong cái ống điếu ông tặng tôi làm quà chia tay.  Về lại nhà sau chuyến bay dài, tôi mới thấy mình quên hỏi, bằng cách nào một bí mật động trời như vậy có thể lưu truyền liên tục suốt hai ngàn năm không bị lộ ra ngoài.  Và cắc cớ gì người bạn rượu tí hon lại chọn ngay tôi để trút bầu tâm sự.  Thôi thì cứ đổ thừa một đêm say có đứa lơ mơ nói sảng, cũng như bao nhiêu kẻ mê sảng phán những điều không đầu không đuôi người đời vẫn gọi là nghệ sĩ.  Tôi chỉ viết lại câu chuyện quen thuộc nhiều người đã biết, đã chấp nhận hai ngàn năm nay, và lờ hẳn phần nguyền rủa tội tình kia.  Vậy mà con người hắc ám nọ không chịu buông tha tôi.  Cả tháng trời, hễ chợp mắt tôi lại thấy trong mơ gương mặt tiều tụy có cặp mắt u buồn lẫn một chút dễ ngươi và kiêu bạc đó.  Cái hình hài kì quái chỉ có đầu, phần dưới cổ nhô ra một cái móng rùa, và chấp chới ngang vành tai đôi cánh gà lông trắng, mồm thì cứ leo lẻo:
 
“Trả ta nỏ thần! Trả ta nỏ thần!”
 
Cho nên giữa lúc cả thế giới đang lo ra vì đủ thứ lí do lẩm cẩm, ai cũng tránh đi xa, tôi lại lếch thếch bay lên thành phố băng tuyết như pha lê kia.  Kịch bản đầy hứa hẹn ở đâu chưa thấy, chỉ khổ thân mình thôi!  Khi phi cơ hạ cánh, đã không có tuyết phủ trùm lên thành phố như tôi lo ngại. Tôi đến khách sạn tháng trước ở trọ, chọn một căn phòng trên tầng cao nhất, hai mươi mốt, nghĩ rằng từ đó mình có thể ung dung ngắm thành phố đón giao thừa đêm nay.  Ngã lưng trên giường, thư giãn sau mấy giờ bay, tôi bấm số gọi anh bạn giáo sư, suýt chút làm rớt điện thoại khi nghe hung tin như sét đánh ngang tai:
 
“Sao anh không liên lạc tôi trước? Cả ba cha con họ đều bị giết tuần rồi.”
 
Tôi chết điếng, không biết nghĩ ngợi gì, tới gần nửa giờ sau, lúc ông giáo sư ào vô phòng như cơn lốc.  Anh ôm theo một bó báo chí màu mè in bằng thứ chữ nửa La Tinh nửa Ả Rập với đủ loại dấu loạn xạ mà tôi không hiểu.  Anh bạn tôi cũng vừa về lại sau chuyến Âu du.  Tất cả những gì anh biết là qua mấy tờ báo ngoại ngữ này.  Anh dịch cho tôi nghe một mẫu tin về ba cha con nghệ sĩ giang hồ bị một nhóm đồng hương đánh hội đồng tới chết vì cả gan trình diễn màn kịch mới, ca ngợi một nhân vật bị cộng đồng dân tị nạn của họ ghét cay ghét đắng.  Những chữ cuối cùng của bản tin nghe từ giọng người bạn giống như có người nện búa ình ình lên đầu tôi.  Ai đó đã hào hứng mô tả cái chết đáng kiếp của những kẻ nằm vùng phản bội--cong queo trong vũng máu, sọ nứt đôi, những con mắt bị móc ra đạp nát bét, những cái lưỡi thòng thòng ngoài miệng như chó dại thiếu ăn không ai màng đến.  Mồn một từng lời ông ta nói đêm đó dội lại trong đầu óc tê tê bàng hoàng của tôi: “Trong vài ngày hay vài tháng tới, những sự cố nào sẽ xảy ra cho dân tộc tôi, hay cho tôi mặc dầu, đều là dấu chỉ của một mùa đại nạn sắp qua.”  Tình thật, tôi đã không nghĩ ngợi nhiều về điều bí mật đàng sau câu chuyện ông ta kể trong một đêm say. Nói gì đến những hệ lụy mập mờ, hoang đường còn hơn chuyện thần thoại.  Nếu không vì cái giấc mơ lạ lùng kia, tôi vẫn có thể ngồi tại nhà, viết đi viết lại câu chuyện một chục lần nữa dù chỉ bằng trí nhớ.  Rốt cuộc, tôi chỉ là kẻ kiếm cơm bằng cách đi tìm chuyện lạ và viết thành kịch bản cho người khác dựng phim.  Tôi không phải triết gia, không màng chuyện chính trị, chẳng thiết tha gì cho số phận đau đớn tưởng tượng của một giống dân nào đó, càng không muốn làm người tiên tri.  Tôi không thích, và không đáng để tâm trí mình bị kẹt giữa chừng một vụ giết chóc man rợ mới tinh, vào tuần lễ cuối cùng của năm.  Biết nghĩ sao bây giờ!  Phải chăng cuộc gặp gỡ đêm đó là cơ hội trối trăn cho kẻ bị nhiều người thù ghét trong chính cộng đồng thiểu số nhỏ xíu của mình?  Phải chăng tất cả câu chuyện chỉ là sự tưởng tượng bịnh hoạn của một người quẫn trí?  Hay có lẽ nào, những điều hoang tưởng đó lại là sự thật, và bao đổi thay khốc liệt cho dân tộc khốn khổ kia đang lần lượt xảy ra, khởi nguồn từ sự kết liễu một bí mật đã được giữ kín hai ngàn năm qua?  Thật là một mớ bòng bong hỗn loạn vô tích sự!  Trở lại với thực tế cuộc đời mình, tôi chỉ biết tối nay một khuôn mặt đàn ông xương xẩu với đôi cánh gà và cái móng rùa quái dị sẽ lại bay vật vờ nhát ma giấc mơ mình. Đây là sự thật, không phải tôi tưởng tượng.  Ý nghĩ này khiến tôi muốn chửi thề.  Tôi không dị đoan, nhưng làm sao khỏi ớn xương sống với những chuyện đã xảy ra.  Điều cuối cùng tôi muốn là bị liên lụy lãng xẹt vì một lời nguyền vu vơ.  Khi người bạn đã ra về, tôi lấm la lấm lét băng qua ba bốn dãy hành lang ngoằn ngoèo, dừng trước căn phòng một đêm có người đàn ông Á Đông bí ẩn đã thù tiếp mình bằng thứ rượu khó quên và câu chuyện li kì không tin nổi.  Tôi rón  rén đặt cái ống điếu bằng tre dưới ngạch cửa, rồi lẹ làng rút êm.  Bạn tôi rủ tối nay cùng nhào xuống phố đón giao thừa nhưng tôi kiếu.  Tôi có quá đủ cho một ngày, hết hứng thú ăn mừng gì nữa.  Trước nửa đêm, tôi rót champagne một mình, nhìn những ngả đường dưới chân tràn ngập người ta bơi trong đó, cạn một hơi rồi đi ngủ.
 
Sáng ngày thức dậy, tôi nghe trong người sảng khoái nhẹ nhàng.  Một dãy số ngày tháng năm lạ lẫm hiện trên mặt đồng hồ, tôi chợt nhớ ra mình đang ở bên này cột mốc thời gian.  Chung quanh vắng lặng như tờ, tôi lắng tai nghe nhưng không một tiếng động nào vẳng lại.  Chỉ có những bông tuyết li ti bay lững lơ ngoài cửa sổ, gợi nhắc một hiện hữu có thật của đời sống.  Thì ra đêm qua gió vẫn thổi, mây vẫn bay, cây lá vẫn lặng lẽ đâm chồi hé nụ, muôn thú trên ngàn và vạn vật dưới biển vẫn yêu nhau, vẫn tiếp tục sanh sôi nảy nở.  Vài hôm tính sổ lại, chắc chỉ các hãng hàng không thua lỗ đậm, vì ít ai chịu khó gàn bướng leo phi cơ du hành như tôi.  Từ hai mươi mốt tầng cao, tôi đảo mắt nhìn thành phố bên dưới, chỉ thấy một đống rác khổng lồ.  Người thiên hạ giờ này còn đang say mềm sau cuộc rượu thế kỉ.  Biết đâu, kẻ hiểu hơn ai hết cái giá phải trả, giản dị mà khốc liệt, của trò chơi mèo chuột với thời gian chính là những chấm đen tí hon di động tới lui dưới đó, đang lao lực để dọn dẹp hàng tấn rác rưởi.  Đang khi khắp hoàn vũ, suốt đêm người người ăn nhậu, nhảy nhót, la hò, đốt pháo bông, hay xả rác tưng bừng, tôi đã ngủ say sưa ngon lành vì lạ lùng sao, trong giấc mơ không có cái hình hài kinh dị đầu người--móng rùa--cánh gà đó lạng qua lạng lại vèo vèo và la quang quác nữa.
 
(1.2000)
 
Trần Trí Dũng
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9