Đền thờ họ Mạc (Hà Tiên)
rongxanhag 08.02.2009 05:05:32 (permalink)

 
 
 

Mạc Công Miếu và bài thơ hoài niệm của thi sĩ Đông Hồ.
 
Đền thờ họ Mạc còn có tên: Trung Nghĩa Từ, Mạc Công Từ, hay Mạc Công Miếu; còn dân gian thì quen gọi là miếu Ông Lịnh (vì Mạc Thiên Tứ được tôn xưng là Mạc Lịnh Công).
Công trình này và khu mộ của dòng Mạc trên lưng chừng núi Bình San (1), là một thắng cảnh và là một di tích lịch sử của xứ Hà Tiên, thuộc tỉnh Kiên Giang, Việt Nam.
 
Lịch sử
Từ chợ Hà Tiên đến hai ao sen “bảo ngọc liên trì” khoảng một cây số là đến chân núi Bình San, nơi có Đền thờ họ Mạc.
 
Trước năm 1846, ngôi đền nằm bên trái chùa Tam Bảo (2), nay thuộc ấp Ao Sen, đường Phương Thành, thị xã Hà Tiên. Buổi đầu, đền chỉ bằng gỗ lợp lá, có tên là Trung Nghĩa từ, do Mạc Công Du, cháu nội của Mạc Thiên Tứ, thừa lệnh vua Gia Long lập khoảng các năm 1816-1818, khi ông giữ chức Hiệp trấn (1816) và Trấn thủ Hà Tiên (1818) (3)
 
Sách Gia Định thành thông chí được biên soạn khoảng năm 1820, ghi nhận là “Tam Bảo tự, tự tả Mạc Công từ” (Chùa Tam Bảo, bên tả chùa có đền Mạc Công- trích tr.201)
 
Năm 1833, Mạc Công Du theo Lê Văn Khôi chống lại vua Minh Mạng. Khi cuộc nổi dậy thất bại, Mạc Công Du, Mạc Công Tài, Mạc Hầu Hy, Mạc Hầu Diệu đều bị tội (4) thì ngôi đền cũng dần bị đổ nát.
 
Về sau (1836), Đại học sĩ Trương Đăng Quế đi kinh lý, tổ chức lại việc cai trị ở các tỉnh vừa trải qua tai họa chiến tranh, khi về có tâu trình lên vua Thiệu Trị: “Việc mở mang đất Hà Tiên lúc ban đầu do công lao của Mạc Thiên Tứ rất lớn, nên lưu dụng lại con cháu họ Mạc.” Nhưng mãi đến đời Thiệu Trị thứ 5 (1845), nhân tấu trình của quan đầu tỉnh Hà Tiên, vua Thiệu Trị mới có lệnh “tìm lại con cháu họ Mạc, người nào có tài có thể dùng thì tâu lên” và thuận cho xây dựng lại đền thờ mới.
 
Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), nhà vua cho lập lại đền kiên cố hơn, đẹp đẽ hơn, mái lợp ngói, hoàn thành năm 1847, nhưng ở một vị trí khác, đó là phía tây chân núi Bình San, tức vị trí bây giờ, và có tên là Trung Nghĩa Từ.
 
Năm Tự Đức thứ nhất (1848), phong cho cháu cố là Mạc Văn Phong làm Đội trưởng để lo việc thờ cúng.
 
Năm Thành Thái thứ 9 (1897), chí sĩ Nguyễn Thần Hiến vận động nhân dân đóng góp tiền công, trùng tu lại đền và hoàn thành vào mùa đông năm Canh Tý (1900). Và từ đó cho đến nay, đền còn được tu bổ nhỏ nhiều lần.
 
Kiến trúc
Phía trước đền thờ là hai ao sen, tương truyền do Mạc Thiên Tứ sai đào để chứa nước ngọt, cho nhân dân dùng, cho đến hôm nay, nó vẫn còn phát huy tác dụng (5).
 
Ngôi đền, ngoài giá trị lịch sử, nó còn là một công trình có giá trị nghệ thuật cao, bởi cách bố trí hài hòa và lối chạm trổ tinh vi, sắc sảo.
 
Cả đền thờ được bảo vệ bằng một tường rào dày bằng đá, rêu phong. Nó được xây sau đền, tức sau năm 1846, nhưng vào năm nào thì chưa rõ. Ngay cổng tam quan có đề tên ''Mạc Công Miếu'' (莫公廟), hai bên có cặp liễn đối bằng chữ Hán ca ngợi họ Mạc:
一門忠義家聲重
七葉藩翰国寵榮
 
Phiên âm:
Nhất môn trung nghĩa gia thanh trọng
Thất diệp phiên hàn quốc lũng vinh.
 
Dịch:
Một nhà trung nghĩa danh thơm cả họ,
Bảy lá giậu che, cả nước mến yêu (Bảy lá giậu che, ý nói bảy đời họ Mạc đều dốc sức mở mang, giữ gìn bờ cõi.)
 
Qua khỏi cổng là một con đường ngắn, hai bên trồng cây xanh, dẫn đến một tiểu đình rộng.
Qua thêm một cổng nữa, mà hai bên có đôi sư tử đá uy nghi, là điện thờ chính và tả vu, hữu vu.
Ngoài những hoành phi, liễn đối và tranh vẽ; tại điện thờ chính còn có một biển thờ đề bốn chữ “Khai Trấn Trụ Quốc” và bức hoành "Nghị Võ Công", đấy là lời tuyên dương (6) của nhà Nguyễn trước sự nghiệp mở mang bờ cõi của dòng họ Mạc.
 
Trong đền hiện còn lưu giữ bài văn tế “Mạc Lệnh Công Thánh đãn tế văn” do Tri phủ An Biên Nguyễn Hữu Lập (7) soạn năm 1847, bản nhật lịnh của Long Hổ tướng quân Trần Hầu. Đặc biệt, trên vách và cột điện thờ, hiện còn bài văn kêu gọi quyên tiền cất miếu cùng hai bài thi ca ngợi công đức Mạc Thiên Tứ của chí sĩ Nguyễn Thần Hiến, và bốn bài thơ luật Nôm trích trong "Hà Tiên thập vịnh" của Mạc Thiên Tứ...
 
Thờ cúng
Căn cứ ''Hoàn vũ kỷ văn - Thiên Nam dư địa khảo'' của Nguyễn Thu đời Thiệu Trị gọi là “đền thờ Mạc Thiên Tứ” và “Lời dẫn việc quyên tiền cất miễu” của Nguyễn Thần Hiến năm Đinh Dậu (1897), có câu: “Trung Nghĩa từ thờ đức Mạc Lịnh Công”, thì rất có thể từ lúc Mạc Công Du tạo lập cho đến lần trùng tu lớn do Nguyễn Thần Hiến chủ xướng (hoàn thành năm Canh Tý (1900)), đối tượng được thờ chính ở đền là Mạc Thiên Tứ.
 
Vào năm nào việc thờ cúng được sắp xếp lại thì chưa rõ, nhưng hiện nay có ba người được thờ chính, đó là Mạc Cửu (ở giữa), Mạc Thiên Tứ (bên tả) và Mạc Tử Sanh (bên hữu) nơi gian thờ chính.
 
Ngoài ra, ở các gian khác còn phối tự thờ thêm các bài vị của phu nhân ''Thái Thái'' (mẹ Mạc Cửu), phu nhân Nguyễn Hiếu Túc (vợ chính Mạc Thiên Tứ), tiểu thư ''Mạc Mi Cô'' (con gái của Mạc Thiên Tứ) (8), các học sĩ, thuộc tướng và các con cháu của dòng họ Mạc. Vì thế, ngôi thờ này hiện nay có tên là ''Đền thờ họ Mạc''.
 
Từ đền, qua cổng phụ phía bên phải (tính từ cổng chính nhìn vào), là một con đường lát gạch tàu dẫn lên khu an táng hơn 40 ngôi mộ của dòng họ Mạc. Trong số ấy, có một số mộ xưa (như của Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ, Nguyễn Hiếu Túc (9)) được xây dựng theo lối Trung Hoa. Đặc biệt hơn cả là phần mộ Mạc Cửu. Đây là ngôi mộ lớn nhất, kiên cố nhất, có hình bán nguyệt khoét sâu vào núi, chỗ chôn hài cốt được đúc bằng đá vôi, cát, đường và nhựa ô dước như hình một con trâu nằm (thế tọa ngưu); tả có thanh long, hữu có bạch hổ và trước hai bên mộ có hai tượng tướng cầm gươm đứng hầu bằng đá xanh. Ngoài ra, trước mộ là khoảng sân rộng với các bậc thềm cẩn đá xanh, có tảng dài đến ba mét, do các nhà buôn Trung Hoa thời bấy giờ chở từ Quảng Tây sang tặng.
 
Một chút hoài niệm
Giới thiệu bài thơ ngay dưới đây, nữ sĩ Mộng Tuyết viết: “Bài thơ ngũ ngôn mà anh Đông Hồ đã cảm tác về họ Mạc ở Hà Tiên...xin nhắc lại gọi là một chút hoài niệm cổ nhân”.
 
Nghĩ vịnh Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích.

Chẳng đội trời Thanh Mãn
Lần qua đất Việt bang
Triều đình riêng một góc
Trung hiếu vẹn đôi đường
Trúc thành xây vũ lược
Anh Các cao văn chương
Tuy chưa là cô quả
Mà cũng đã bá vương
Bắc phương khi vỡ lở
Nam hải lúc kinh hoàng
Giang hồ giữa lang miếu
Hàn mạc trong chiến trường
Đất trời đương gió bụi
Sự nghiệp đã tang thương...
Anh hùng lo thành bại
Tuẫn tiết còn hiển vang
Non Bình mây ảm đạm
Hồ Đông trăng thê lương
Tâm sự sau xưa giãi
Nghìn thu một tấc vàng.

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.
 
Chú thích:
(1) Núi Bình San, còn gọi là Bình Sơn hay núi Lăng; là một dãy núi nhỏ thấp che chắn phía sau thành Hà Tiên xưa. Đây là một trong mười cảnh đẹp được Mạc Thiên Tứ ca ngợi trong bài ''Bình San điệp thúy'' (có nghĩa là ngọn núi như tấm bình phong sắc xanh lớp lớp). Trên đỉnh núi hiện còn lưu lại vết tích của đàn Sơn Xuyên và đàn Xã Tắc.
 
(2) Chùa Tam Bảo (Hà Tiên) còn gọi là ''Sắc Tứ Tam Bảo tự'', tọa lạc ở số 328 tổ 2, ấp Ao Sen, đường Phương Thành, thị xã Hà Tiên. Khi Mạc Cửu đến lập nghiệp ở trấn Hà Tiên, mẹ ông là bà ''Thái thị'' (Thái Thái phu nhân), vì quá nhớ thương con, dù tuổi đã ngoài 80, vẫn từ Lôi Châu (Trung Quốc) vượt biển sang. Mạc Cửu phụng dưỡng mẹ rất chu đáo và để cho mẹ có nơi tu hành vào những năm cuối đời, ông cho lập Tam Bảo tự vào năm 1730. Sau, bà mất tại chùa và chùa cũng đã bị thời gian & chiến tranh phá hỏng (nay chỉ còn các bức tường thành). Năm 1930, Hòa thượng Phước Ân đời 40 dòng Lâm Tế tông cho xây lại và tồn tại cho đến nay. Nơi chính điện chùa hiện còn lưu giữ pho tượng đức A-di-đà bằng đồng do Mạc Cửu hỉ cúng. ở sân, có tôn trí tượng Quan Thế Âm lộ thiên. Đây là ngôi chùa cổ nổi tiếng và là một trong những thắng cảnh của đất Hà Tiên.
 
(3) Vài Website bảo rằng đền thờ do Mạc Thiên Tứ xây dựng là không đúng. Ông Tứ chỉ xây dựng mộ cho cha, còn nơi ông thờ phụng cha chỉ là một gian trong ngôi nhà ở.
 
(4) Theo ''Hoàn vũ kỷ văn - Thiên Nam dư địa khảo'' của Cửu Chân Tĩnh Sơn Nguyễn Thu đời Thiệu Trị, thì: ''Đền thờ Mạc Thiên Tứ, tại huyện Hà Châu, xã Mỹ Đức... Mạc Hầu Hy, Mạc Hầu Diệu lại cấu kết bọn xấu lập ra phe nhóm quấy rối, kịp có vụ biến ở thành Phiên An, bọn này hùa theo bè lũ Lê Văn Khôi để tạo phản, đến nỗi mắc phải họa tru di. Vì thế đền thờ của họ Mạc bị bỏ phế, đáng ngẫm thay!” (tập IV, tờ 12 a và b. Dẫn theo bài viết của nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt, ghi nơi mục tham khảo). Nhưng riêng chi tiết “đến nỗi mắc phải họa tru di” là không chính xác. Thi sĩ Đông Hồ, người xứ Hà Tiên cho biết mãi đến đời Mạc Tử Khâm (đời thứ bảy, tính từ Mạc Cửu), do không có con trai, khi ấy dòng học Mạc mới kể như tuyệt tự, chứ không phải vì “họa tru di” nào cả.
 
(5) Đại Nam nhất thống chí, phần  Lục tỉnh Nam Việt, chép: “Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), nhân nhân tỉnh hạt xây sửa lợp ngói, trước sân đào giếng, theo núi dựng nhà…”(tập hạ, Nha Văn hóa Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa, Sài Gòn, 1973, tr. 73). Vậy, theo tài liệu này thì ao được đào thời Mạc Công Du, cháu nội ông Tứ.
 
(6) Trong tờ Sắc, phong cho Mạc cửu thụy là Võ Nghị, do vua Minh Mạng ký ngày 24 tháng 9 năm Nhâm Ngọ (1822), đã ghi rõ: “Tặng Hà Tiên Trấn Khai trấn Thượng trụ quốc Đại tướng Quân Võ Nghị Công Kinh Sự”.
 
(7) Nguyễn Hữu Lập, người xã Trung Cần, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Ông thi hương tại trường Nghệ An, đỗ Hoàng giáp năm Nhâm Tuất (1862). Trước khi thăng thụ Tri phủ An Biên (nay thuộc Kiên Giang), ông đã trải qua chức Tham tri Bộ Hộ.
(8) Ghi theo nữ sĩ Mộng Tuyết. Sách ''Sổ tay hành hương đất phương Nam'' ghi Mạc Mi Cô là con gái thứ năm của Mạc Cửu. Và cũng theo sách này, thì truyền thuyết kể rằng Mạc Mi Cô lúc mới sinh, đã có mái tóc dài một thước. Mới 3 tuổi răng đã mọc đủ, ăn nói rành rẽ, nhưng xương sống yếu phải nằm một chỗ. Cận thần cho là điềm xấu, nên người đứng đầu họ Mạc đã sai người đem chôn sống cô. Không lâu sau, những lời đồn đãi về cái chết bí ẩn của người con gái xấu số ấy cứ lan truyền; và nhiều người còn tin rằng cái chết của cô có liên quan đến một bài sấm truyền dài 25 câu, nói úp mở về một kho tàng của dòng họ Mạc được cất giấu ở Hà Tiên. Đọc thêm chi tiết trong bài viết Lịch sử Hà Tiên và một bài sấm truyền của Đông Hồ in trong ''Văn học Hà Tiên'' (tr. 135-149) và chương 10 có tên ''Tiểu thư Mạc Mi'' cô trong ''Nàng Ái cơ trong chậu úp'' của Mộng Tuyết (tr. 62-87). Thêm nữa, tục truyền ''Mạc Mi Cô'' được phối tự ở bên tả đền thờ họ Mạc, trông ra cổng tam quan, những việc quái lạ cứ xảy ra luôn, nên người ta đã cho xây kín cổng bên trái lại cho đến nay. (theo ''Sổ tay hành hương đất phương Nam'', tr. 367-368).
 
(9) Mộ Nguyễn Hiếu Túc, vợ chính của Mạc Thiên Tứ, vào mùa Thanh Minh năm Tân Hợi (1911) đã bị viên chủ tỉnh người Pháp lúc bấy giờ cho khai quật để tìm vàng (Văn học Hà Tiên, tr. 138)..
 
Nguồn tham khảo
-Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Nxb. Giáo dục, 1998.
- Đông Hồ, ''Văn học Hà Tiên'' (tái bản). Nxb Văn nghệ TP. HCM, 1999.
- Mộng Tuyết, ''Nàng ái cơ trong chậu úp''. Nxb Văn hóa, 1966.
- Sổ tay đất phương Nam'', Nhiều tác giả, Huỳnh Ngọc Trảng chủ biên. Nxb Tp. HCM, 2002.
- Trương Minh Đạt, ''Nghiên cứu Hà Tiên'', Nxb Trẻ và tạp chí Xưa & nay ấn hành, 2008.
-Một trường hợp lộng giả thành chân trong nghiên cứu sử của Trương Minh Đạt, tại địa chỉ:
 [http://www.hannom.org.vn/web/tchn/data/0304v.htm]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.02.2009 15:50:03 bởi rongxanhag >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9