NƠI LƯU DẤU NGƯỜI XƯA (chuỗi bút kí)
Khải Nguyên HT 15.02.2009 21:34:33 (permalink)
Nơi lưu dấu người xưa


 
      Ở nước ta ngày nay, tham quan-du lịch (trong nước) thường không tách rời lễ bái. Chẳng phải vì đền chùa miếu mạo thường gắn với thắng cảnh. Đúng là kiến trúc (tôn giáo) làm đẹp thêm cảnh và cảnh có hạng tôn thêm không khí linh thiêng, nhưng ở nhiều nước viếng cảnh không đi đôi với hành hương, trừ những dịp lễ hội. Có lẽ tuỳ dân trí chăng?
    Chúng tôi đến đền Kiếp Bạc vào một buổi sáng nắng đẹp, không oi. May, không là những ngày hội. Tôi không thích đến vào những ngày hội như hay gặp hiện nay. Cái ồn ào, náo nhiệt, xô bồ làm tổn hại cái linh thiêng. Mùi khói nhang không át được "mùi dịch vụ". Có lẽ đây chỉ là ý nghĩ của một anh gàn hoặc không thức thời.
    Ảnh cổng đền Kiếp Bạc trong sách giáo khoa tiểu học còn ghi dấu trong trí nhớ của tôi. Nhưng tôi không sao hình dung có những gì đằng sau bức tường cổng đền hoành tráng, uy nghi - có lẽ là độc nhất vô nhị trong số các cổng đền chùa ở Việt Nam. Nhớ một lần đã lâu, một anh bạn - một nhà sáng tác kịch bản và nghiên cứu chèo đã có tiếng tăm, phàn nàn: "Người ta buộc trâu ngay trong sân đền Kiếp Bạc!". Bây giờ đang cao trào phục hồi lễ hội và cầu cúng chắc là chẳng đền, chùa, đình, miếu nào vị bỏ quên.
    Đền Kiếp Bạc hiện ra trước mắt tôi đẹp hơn cái mà tôi hằng tưởng tượng. Tôi đã nghiệm thấy rằng trước khi đến tham quan nơi nào đó mà trí tưởng tượng quá tô lên thì thường ít nhiều thất vọng; đôi khi lẩn thẩn nghĩ: giá đừng xem tận mắt có khi giữ được ấn tượng hay hơn, kể cả một số điểm du lịch nổi tiếng của một nước láng giềng. Hiếm có ngôi đền nào ở ta có được dáng dấp và khung cảnh khang trang, bề thế như đền Kiếp Bạc. Sân đền rộng rãi, có cây cổ thụ. Ngoài đền, phía trước và hai bên, có nhiều đất trống, giá ở gần đô thị thì khó mà "yên", nếu không với những ông, bà "cai quản chuyện nhà đất" thì cũng với những ông, bà quan chức hoặc dân "tháo vát". Mặt bằng ấy thuận tiện cho lễ hội. Rất tiếc quanh đền đã không được qui hoạch thành vườn cây và vườn hoa để tôn thêm cảnh quan; không phải nơi nào cũng có điều kiện như ở đây. Những "công trình" mới thêm vào là những gian nhà xây thấp nhỏ trong sân đền dọc tường, chắc làm nơi bán hàng vào dịp lễ hội, nghĩa là để nặng thêm mùi "dịch vụ". Một người Anh gốc Hoa lai Việt, lấy vợ Việt, ra đi từ những ngày nước ta bị o ép nặng nề ở biên giới phía Bắc và phía tây - nam, thường đến nghỉ ở nhà riêng tậu ở ngoại thành Hải Phòng, nhận xét khi đi dạo trong sân đền: "Cộng sản vô thần nên bỏ bê những nơi thờ phụng như thế này" (Anh ta từng có lúc là đảng viên cộng sản Việt Nam). Thật ra, ở Việt Nam lúc này, điều đáng trách nơi các đền chùa chẳng phải là sự bỏ bê về mặt thờ phụng mà là sự sao nhãng về mặt du lịch. Điểm khác, lễ hội hơi nhiều, có phần rộ và lan tràn hơn thời còn chìm đắm trong xã hội tiểu nông xưa, phí phạm về thời gian, tiền của và công sức; trong sự phục hồi "vốn cổ" có nhuốm màu hủ tục.
    Đền Kiếp Bạc tọa lạc trên phần đất trang ấp xưa của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, một địa thế tuyệt đẹp. Phía sau, bên phải, bên trái là núi, xưa kia chắc kín rừng, nay là núi trọc nhưng đã lác đác bóng thông. Trước mặt là sông; trên sông ấy, một bãi cát nổi lên hình thanh kiếm, tương truyền đó là thanh kiếm của vương sau ba lần phá giặc xâm lược phương bắc đã đem ngâm sông để rửa sạch máu thù. Chọn nơi này về trí sĩ, vì danh tướng hàng đầu thế giới cổ kim quả có tâm hồn một nhà thơ và một nhà hiền triết.
    Đền đang được tu bổ lại. Chẳng công trình nào trên đất Việt Nam này là không chịu sự tàn phá của thời gian và chiến tranh. Riêng đền Kiếp Bạc trong cuộc kháng chiến chín năm của dân ta, giặc Pháp đã cướp đi hàng trăm đồ thờ bằng vàng và gần chục cái chuông đồng. Chiến lợi phẩm chiến tranh ư? Không! Đó là ăn cướp, xâm phạm tín ngưỡng, xâm phạm di sản lịch sử và văn hoá của một dân tộc. Nước Pháp có trách nhiệm chăng tìm hoàn lại những thứ ấy? và các thứ khác ở các nơi khác?
    Không phải ngày hội vẫn có khách hành hương, không đông, nhưng không lúc nào ngớt. Gọi là "hành hương" đúng hơn nói "tham quan", bởi vừa chân ướt chân ráo tới nơi người ta xăm xăm đi lễ đã. Đồ lễ thì sắm sanh từ nhà rất chu tất. Đoàn chúng tôi cũng vậy. Mấy bà kháo nhau: đến nơi nhờ các "tổ dịch vụ" sửa lễ thì bao giờ cũng bị "chém đẹp", nhất là những chốn như đền bà Chúa Kho. Vậy mà không tránh khỏi bị quấy rầy. Vừa xuống xe trước đền, đã bị vây bởi những người chào mời mua hương, vàng giấy,…, thậm chí có người còn giơ ra một ống đầy những thẻ tre nài khách bói lộc, bói duyên. Một người đàn bà chẳng gầy chút nào rao bán những đồng tiền đồng mỏng dính dập theo mẫu những đồng tiền cũ cho người ta dùng gieo quẻ. Lẩn mẩn nghĩ: có lẽ đây là một trong nguyên nhân mất trộm từ những mẩu dây điện bằng đồng trở đi, những đồng tiền kia khó mà "thiêng" được! Trước bàn thờ bên trái toà hạ điện, một người đàn bà béo tốt, tuổi hòm hòm, vóc to mặc quần xanh xám, áo đỏ đứng trên chiếc chiếu hoa trải trên nền nhà, tay múa may, người lắc lư, nói xưng xưng: "(Ta là) con gái họ Đỗ đã băm bảy năm làm tôi con cửa thánh họ Trần… Hễ ai có mặt tại đây hãy quì xuống!…".Có dăm phụ nữ, già có, trẻ có, sụp xuống xuýt xoa khấn khứa. Một bà từng cầm triện tại một "cơ quan chữ nghĩa" vào loại có tiếng ở địa phương nọ cũng ghé vào quì xuống vái, chợt thấy tôi đứng xem, vội đứng lên lỉnh đi không quên ban cho tôi một nụ cười giải hiềm. Những trò mê tín, dị đoan hầu như được tháo khoán từ nhiều năm nay, gần như được khích lệ (!), - điều khó mà tự hào với người nước ngoài đang càng ngày càng nhiều trên đất nước này. Dân "mê" đáng trách; dân buôn thần, bán thánh đáng trị; còn các nhà chức trách thì đáng gì? Xin mạn phép cụ Đồ Chiểu nhại mấy câu thơ của cụ: "Hỏi ông
chức trách rày đâu vắng? Nỡ để dân "mê" mắc nạn này!"
      Cũng có những con người đáng thương nhiều hơn đáng trách. Những em bé ôm một xấp vàng giấy và tiền "âm phủ" lẵng nhẵng theo khách nài nỉ. Tội hơn, mấy bé lên núi nhặt quả thông bán với cái giá một trăm đồng ba quả mà chẳng ai nhòm tới, có chăng là mấy cái máy ảnh và camera của du khách nước ngoài. Chẳng qua do nghèo! Có đâu nên thơ như trong truyện "Lẳng quả thông" của Pa-u-tốp-xki!
    *  *  *

      Côn Sơn cách Kiếp Bạc hơn mười ki-lô-mét đường đồi khuất khúc. Đường xấu ngay từ thị trấn Sao Đỏ rẽ vào. Dường như ở xứ mình thói ăn xổi, kiếm chác tủn mủn khó gột. Gặt hái thứ gì cũng chỉ muốn hớt ngọn, ít chịu chăm chút từ gốc.
    Lần thứ hai tôi đến Côn Sơn. Năm 1980, trong dịp kỉ niệm sáu trăm năm sinh Nguyễn Trãi, đi từ Hải Phòng phải qua bến Bình, đã ngỡ là bến Bình - than, nhiều người nói, hoá ra là "bến Bình… than!". Đợi qua sông hơn một tiếng đồng hồ. Một anh bạn ứng tác mấy câu thơ rất chi "có lập trường, quan điểm": "Bến Bình… than đợi phà/ ức Trai ở bên ta". Bây giờ đường tốt hơn nhiều, có cả một đoạn gần mười ki-lô-mét đường cao tốc từ Tiền Trung đến gần cầu Phú Lương mới rẽ. Bến Bình đã có cầu, chững chạc, duyên dáng vắt ngang qua sông Kinh Thầy. Chẳng biết những người bán vé phà, thường thu tiền mà không trao vé, và những người bán hàng quán hai bên bến nay làm ăn ở những nơi đâu. Những chiếc cầu nối những bờ xa, rút ngắn khoảng cách thời gian, không "gợi chút niềm thân mật" (Tràng giang - Huy Cận) mà gợi chút niềm hoài cổ. Chỉ với những lứa tuổi nào đó trở lên thôi. Mai đây, những cái tên Tam-soa, Bình, Ghép, Bến Thuỷ, …, rồi Gianh, cả Mĩ Thuận nữa chẳng gợi gì nhiều, kể cả khi đã có những trang văn, chẳng hạn như của Hồ Dzếnh nhớ về bến Ghép.
    "Trước đây, tôi vẫn thường nghĩ về Côn Sơn như là một nơi thâm sơn cùng cốc vắng dấu chân người. Rồi cây cối um tùm, chim kêu vượn hót; rồi đường núi khuất khúc bên những dòng suối đêm ngày thầm thĩ với gió ngàn; rồi không khí huyền bí và cổ kính, … Khung cảnh giả tưởng đó rõ ràng là không thích hợp, và chắc hẳn người xưa không mong ở đời sau một sự tưởng niệm kiểu ấy. Tuy nhiên, cần giữ và tạo một khung cảnh đáp ứng hơn nữa sự chờ đợi của khách viếng thăm, xứng đáng một di tích lịch sử và thắng cảnh được biết tiếng khắp nước và cả ở nước ngoài. Biết bao người đứng trầm ngâm bên dòng suối Thạch Bàn vào mùa khô hạn rồi trao đổi khẽ với nhau, ước ao rằng đến một lúc nào đó bên bờ suối trúc lại mọc đầy, và rừng cây lại phủ kín những sườn và đỉnh núi, để cho con suối cũ nhờ nước mạch mà quanh năm có thể dạo bản đàn "Lưu thuỷ" tự thuở ức Trai "Côn Sơn có suối rì rầm/Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai". Biết bao người ngẩn ngơ bên gốc thông già chỉ còn lưu dấu vết. Những vạt thông hiện tại thưa thoáng quá, lẻ loi quá, lại kém vẻ cổ thụ. Nào đâu cái nền của tứ thơ "Lâm tuyền ai rặng già làm khách?". Trên đây là những dòng tôi đã ghi lại lần đến Côn Sơn trước. (1)
    Côn Sơn giờ đã khác nhiều, từ quang cảnh cho đến không khí,   - còn khó gợi không khí hoài niệm hơn cách nay gần hai chục năm. Không thể không ghi nhận những việc tôn tạo: nhà cửa, tường bao, đường lên núi, cây cối, bia, … Trước đây thường phải mầy mò, bây giờ đã có các biển chỉ đường, các bảng tên di tích, một số ghi chú vắn tắt. Trên các sườn núi thông đã dầy lên, tuy chưa phải "Trong ghềnh thông mọc như nêm". Suối đã có nước. Tuy vậy đã vào mùa mưa mà nước cũng chỉ róc rách, chứ chưa được "rì rầm". Có lẽ rừng cây che phủ núi chưa đủ rậm chăng? Tôi tìm hoài mà không gặp trúc. Câu thơ Nguyễn Trãi: "Trong rừng có bóng trúc râm". Bốn bạn thiên nhiên trong Côn Sơn ca vẫn còn thiếu một. Một liên tưởng không mấy thú vị: Vì mến một câu thơ về chiếc lá đa rơi, lần trước tôi chưa kịp nhìn thấy cây đa đã phải lên xe vì trời sắp tối, lần này tôi quyết hỏi cho ra. Khốn thay! "Ở đây làm gì có đa! Họ phịa ra đấy". Phịa ra ư? Nghệ thuật có quyền và cần phải hư cấu, hư cấu như thật, hơn thật. Nhưng với một địa danh thực, lại là địa danh lịch sử mà mỗi dáng núi, mỗi hình đá, mỗi tên cây đều gợi nhớ thời xưa thì có nên vì một vần gieo mà "phịa" không? Dẫu tôn trọng hư cấu nghệ thuật thì cũng khó tránh cái cảm giác khó chịu về một sự dối trá, một sự báng bổ, báng bổ nơi lưu dấu người xưa, báng bổ lòng ngưỡng vọng của bao người.
    Thật bất ngờ, trong rừng thông mọc rất nhiều sim; đến mùa chắc là tím những màu hoa. Tôi gặp hai cô gái nhỏ đang bó những thân cây con cháy sém. Hỏi ra mới biết có những "du khách"chơi bời sao đó đã gây lửa bén. May mà… tôi rùng mình. Nếu lửa kịp bắt vào các cây thông thì sao! Việc chăm nom, bảo vệ nơi đây ra sao nhỉ? Những tấm bia đá tại các nơi Thạch Bàn, Thanh Hư động, nền nhà cũ của Nguyễn Trãi ghi các bài thơ, bài kí của Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Trần Nghệ Tông, Nguyễn Mộng Tuân dựng chưa bao lâu mà mặt khắc chữ đã bị vật cứng rạch nhăng nhít khắp cả. Riêng bài "Thanh hư động bi minh" Trần Nghệ Tông làm tặng Trần Nguyên Đán, ông ngoại Nguyễn Trãi, được viết bằng sơn trên tôn ốp mặt sau một tấm bia thì bị vạch sứt mẻ nham nhở không sao còn có thể đọc được. Cùng cảm tưởng "bị bỏ bễ" khi thăm "vườn thực vật Côn Sơn". Thấy nói vườn này do học sinh một trường phổ thông trung học ở thủ đô mang tên tác giả đại cáo bình Ngô xây dựng nên. Nom vườn tàn tạ, hoang phế. Các cháu học sinh ở xa vậy khó mà chăm sóc thường xuyên được. Các cháu đã có lòng và có công, sao địa phương không hỗ trợ? Có thể tổ chức cho một trường địa phương gần đấy kết nghĩa với trường Nguyễn Trãi nói trên để cùng lo chung được chăng? Hoặc giả mời một tổ phụ lão địa phương đỡ đầu; các cụ sẽ kết hợp trồng các cây thuốc, chẳng hạn?
    Nếu như bên Kiếp Bạc chỉ đứng nơi đất phẳng của đền cũng có thể thâu tóm được một vùng địa thế thì ở Côn Sơn phải trèo lên cao mới bao quát được cảnh trí vừa hùng vĩ, vừa nên thơ. Mới vượt chân núi sau chùa Côn Sơn dăm chục mét đã thấy hồ trước mặt, núi thấp hai bên vòng chếch ra phía trước như hai tay ngai, một cánh đồng mở ra, và rặng núi xa án ngữ. Muốn hưởng trọn vẹn cảnh sắc Côn Sơn thì phải dẻo chân leo lên đỉnh núi Kì Lân. Khá mệt đấy nhưng không dốc bằng Yên Tử và không xa bằng Hương Tích. Năm xưa, tôi đã ghi lại những dòng này: "Đứng trên đỉnh núi Kì Lân, ta tận mắt nhìn thấy sông Lục-đầu, một tên sông từng khêu gợi, ám ảnh trí tưởng tượng trẻ thơ của ta những giờ học địa lí và lịch sử. Sáu đầu sông đang trải ra trước mắt ta kia về phía  tây - bắc. Nơi đó, mùa hè năm 43, tướng giặc Mã Viện từng bị quân Hai Bà Trưng vây đánh kịch liệt suýt đại bại, may nhờ đạo quân Tây Thục sang tiếp viện kịp thời. Nơi đó, năm 1076, là một đầu mối của chiến tuyến sông Cầu nổi tiếng của Lí Thường Kiệt, cùng với trại thuỷ quân Vạn Xuân, chặn bước tiến của quân Tống xâm lăng, buộc Quách Quì phải giảng hoà rút quân về nước. Nơi đó gắn liền với bến nước Bình-than, chỗ họp hội nghị chính trị - quân sự tối cao thời Sát Thát; với Dược Sơn, kho thuốc sống (sinh dược) tại chỗ của quân đội nhà Trần; với chiến địa Vạn Kiếp đánh bồi quân Mông - Nguyên xâm lược năm 1285 đang rút chạy, khiến Tổng - nguyên - suý Thoát Hoan phải chui ống đồng trốn về bên kia cửa ải; với đền Kiếp Bạc thờ anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn. Xa xa, phía đông - bắc là dãy núi Yên Tử, chốn tu hành bí ẩn của ông vua anh hùng Trần Nhân Tông, một chiến khu thời tiền khởi nghĩa năm 1945, một căn cứ luyện binh và dụng binh thời kháng Pháp và thời chống Mĩ cứu nước. Côn Sơn với núi Kì Lân, núi Ngũ-nhạc cùng dãy Yên Tử nhìn xuống trấn ngự một trong ba đường tiến quân cướp nước xưa kia của bọn phong kiến Trung Quốc. Phía nam và đông - nam là hệ thống sông Thái Bình, cùng với hệ thống sông Lục-đầu, bao quanh vùng Côn Sơn và nối liền với vùng đông - bắc của Tổ quốc, một cửa ngõ nhòm ngó của "thiên triều" mọi loại, với những cái tên Bạch Đằng, Vân Đồn lừng lẫy sáng mãi trong lịch sử và sống mãi trong tâm trí muôn đời sau. Đứng trên đỉnh núi, ta còn thấy được sự tổng hoà của dĩ vãng, hiện tại và tương lai. Còn đây những chùa miếu cũ, những tên đất lâu đời; còn đây núi đồi nhấp nhô, sông lạch uốn lượn;… Sông núi vẫn là sông núi xưa còn lưu lại chiến tích oanh liệt của nhiều thế hệ và dường như còn phảng phất các anh hồn quá khứ. Cảnh trí không còn mang vẻ hoang sơ thời trước. Bốn bề bát ngát đồng ruộng, đan xen những con đường mới mở hoặc mới đắp. Thị trấn Sao Đỏ đã mọc lên. Nhà máy nhiệt điện Phả Lại vươn cao ống khói. Đó đây, những khu nhà cao tầng chen vào bức tranh cố hữu của đồng nội và núi rừng; những cột điện cao thế rải dài. Đổi thay thật ra chưa nhiều; hơi hướng văn minh hiện đại còn quá khiêm tốn. Dù thế nào lịch sử vẫn phải tiếp nối và đi tới; non nước phải được bảo tồn và khởi sắc". (2)
    Đỉnh núi Kì - lân bằng phẳng đủ rộng cho hàng trăm người cùng lúc thưởng ngoạn. Giá cắm trại vào đêm trăng vằng vặc thì lòng có thể phơi phới lên tiên. Ở đấy, có bàn cờ tiên. Năm 1991, người ta xây lên một thứ ki-ốt ngoại cỡ trống bốn mặt, hai tầng mái ngói. Chẳng lẽ để cho các vị tiên yên tâm đánh cờ vì thời nay tiên cũng đã trở nên dễ cảm mạo không còn quen dãi dầu phong sương, mưa nắng? Nhưng còn bàn cờ đâu nữa, con rùa đội tấm bia ngự mất rồi!
    Đọc trong bài kí của Nguyễn Phi Khanh ca ngợi động Thanh-hư của nhạc phụ Trần Nguyên Đán: "Hoa dọc suối, cỏ ven rừng, màu biếc sắc hồng phấp phới; bóng mát để nghỉ, chỗ vắng để ngồi, mùi thơm để ngửi, sắc đẹp để xem, …, tiếng suối tuôn reo, xa vời mà hư không, sâu thẳm mà yên lặng, hợp với tai mắt tâm hồn người ta…" (viết năm 1384). Cảnh tình ấy, ngày nay khó gợi ra với khách viếng thăm. Người ta đến, lễ và dạo qua phong cảnh, leo núi, ăn uống rồi về. Nếu lưu lại thì cũng chìm trong không khí ồn ào, nếu không lễ hội thì cắm trại. Mấy ai tha thẩn thưởng ngoạn và nghĩ suy. Chẳng có nơi và lúc để "nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu, tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng", nói chi nghe được "cha ông thuở trước ca hát mừng non nước hôm nay"! Thời thế khác có những cách tưởng niệm khác cùng những mối quan tâm khác. Câu chuyện đã một thời khơi gợi nhiều và sáng như một giai thoại đẹp: Hồ Chủ-tịch về thăm Côn Sơn nghỉ trong chùa ăn bữa cơm đạm bạc mang theo, cơm nắm với dưa và cá kho, trên một chiếc mâm gỗ mộc mạc và cũ kĩ, bây giờ ít được nhắc tới. Chuyện chưa đủ cũ để trở thành cổ tích, nhưng đủ cũ để không "hợp thời", để "phôi pha" trong không ít người!

     Có ai đã một lần được ngồi một mình trong không gian tĩnh lặng dưới bóng cây đại mà có lẽ thân cành từng vương tiếng giảng bài thâm trầm, lời bình văn sang sảng của người thầy lỗi lạc gần sáu thế kỉ trước cho tâm hồn lắng lại để thông linh tâm trạng người xưa: 
                                "
Bui một tấm lòng ưu ái cũ
                                "Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông"?

 
Hải Phòng, 6 - 1997


------------------
(
1) và (2) trong bài "Thăm dấu tích anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi" đăng trên báo Người giáo viên nhân dân số ra ngày 10/5/1980 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.03.2009 11:15:44 bởi Khải Nguyên HT >
#1
    Khải Nguyên HT 28.02.2009 11:05:21 (permalink)
    Hạ Long du kí

     
            Năm giờ rưỡi sáng lên một chiếc xe du lịch dài thượt hơn sáu chục chỗ ngồi, khách du của hai đoàn ghép lại mới hết ghế. Xe sang nhưng chỗ ngồi chật.Hải Phòng đi Hạ Long có thể dùng đường thuỷ qua sông Bạch Đằng rồi men theo bờ biển. Lối quanh co nhưng bù lại được thoả thuê ngắm cảnh non, nước, trời, mây. Đường bộ, thì đi lối Quảng Yên chỉ hơn bốn mươi ki-lô-mét, duy phải qua hai phà. Chẳng hiểu sao "nhà thầu" dịch vụ lại cho xe đi ngược đường Năm, qua Đông Triều, Mạo Khê, Uông Bí, xa gấp đôi! Mà đường sá thì nhiều đoạn xấu, xe rất xóc. Chả lẽ để cho thấm thía cái mệt rồi mới tận hưởng những ân huệ trời cho của Hạ Long?
           Đến Bãi Cháy thuê được tàu thì đã khá trưa. Con tàu nhỏ, không thuộc loại chở khách đường dài, nom cũng dễ coi, tương đối sạch, trừ buồng vệ sinh, cái tệ cố hữu chốn "xả" công cộng xứ ta, kể cả ở một số nhà hàng, khách sạn của ngành này, bộ nọ. Tàu vừa rời xa bờ một thôi, bà phụ trách nhà thầu chuyến đi đã đổ ào một thùng rác lỏng và đặc xuống biển. Mình kêu bà và kể lại chuyện một khách du "ba lô" người Pháp đi thăm Hạ Long về phàn nàn với mình rằng tàu du lịch đưa ông ta đi đã xả rác bừa xuống vịnh, ông ta hạ một câu: "Mong các ông hãy tôn trọng cái của quí mà thiên nhiên đã ban tặng các ông như chúng tôi vẫn tôn trọng nó". Bà ta nói, vui vẻ: "Được bài học nhỉ".   Tàu chạy chầm chậm để du khách ngắm cảnh. Năm xưa, lần đầu đến Hạ Long, mình "ngự" thuyền gỗ nhỏ chèo tay mải mê nhìn ngắm cảm thấy lướt nhanh quá những muốn dừng chỗ này, ghé chỗ kia. Bây giờ thì chẳng còn cái háo hức xưa. Mình còn khá. Những người khác, người thì ơ hờ ngó qua cửa sổ trong khi chuyện vãn với nhau, người thì nằm nghỉ hoặc ngủ.
           Trời nắng nhạt, mặt vịnh âm âm màu da trời bị ám mây. Không cảm thấy gió trời, chỉ gió tàu chạy, sóng lười biếng, biển lặng như hồ. Biển Hạ Long hiền hoà vậy… Đâu là nơi đoàn thuyền lương Trương Văn Hổ bị dìm nước sâu hơn bảy thế kỉ trước? Cửa Lục và các ngách biển khuất sau các đảo đá hẳn là nơi ém thuyền quân Đại Việt phục kích. Giặc phương Bắc đã bao lần trẩy binh thuyền qua đây để xâm lấn nước ta: Nam Hán, Tống, Mông - Nguyên… Và thế kỉ 20, tàu chiến giặc phương Tây, Pháp rồi Mĩ, từng quấy đục nước vịnh biển này hồi Pháp trở lại xâm lăng sau năm 1945; máy bay Mĩ từng quần nát vùng trời này hồi chiến tranh phá hoại. Đâu là nơi máy bay giặc rơi, và đâu là nơi tên giặc lái Mĩ đầu tiên, An-va-rết, bị bắt sống trên miền Bắc? Biển Hạ Long hiền hoà vốn không quen dậy sóng. Những tấm lòng bạn bè bốn phương yêu cái đẹp hùng vĩ và phóng khoáng hãy đến đây! Người lái tàu cho biết du khách ngoại quốc thích cho tàu neo lại một nơi thuận tiện trong vịnh rồi nhảy xuống tắm, bơi lội thoả thích. Nước biển hôm nay xanh mà không trong lắm, chắc vẩn nhiều tảo. Mình nhớ có một bãi cát nho nhỏ dưới chân một đảo đá dựng đứng, nước biển thuở ấy trong màu ngọc lam, tắm xong mình và Khoa lên nằm dài trên đệm cát trắng phau và mịn. Khoa giờ đã là người thiên cổ.
           Hạ Long có nhiều hang động đã biết từ lâu, một số khá nổi tiếng: hang Đầu Gỗ, hang Trinh Nữ, … Hang Đầu Gỗ hay Giấu Gỗ? Người thì bảo Giấu Gỗ, thời Trần giấu gỗ ở đấy để làm cọc bẫy quân Mông - Nguyên trên sông Bạch Đằng. Người thì cho là Đầu Gỗ, không giấu gỗ mà giấu các đầu gỗ thừa ra, sau khi cắt làm cọc. Nhưng ngẫm lại, chỗ đóng cọc trên sông Bạch Đằng khá xa hang này. Vả chăng, thời xưa chốn ấy rậm những rừng, lại đầy hang động, thiếu gì chỗ mà phải đưa ra giữa vịnh biển để giấu! Sự tích tên hang có thể thu hút du khách; song nếu không hợp lí thì cũng phiền. Có thể có cách giải thích khác mà mình chưa biết chăng? Lần thăm Hạ Long đầu tiên mình háo hức đến hang Đầu Gỗ. Hồi đó là điểm thăm ưu tiên của khách quốc tế khi đến Hạ Long. Miệng hang nằm khá cao so với mặt biển. Trước kia phải leo lên khá vất vả. Khi tổng thống Xu-các-nô nước In-đô-nê-xi-a đến Việt Nam, người ta cho xây bậc đi lên trong dự định đưa vị khách nguyên thủ quốc gia này du Hạ Long. May mà chuyến đi ấy không thực hiện, vào thăm hang rồi mình đã nghĩ vậy, bởi thấy chẳng mấy hấp dẫn. Mấy bó đuốc bập bùng soi mấy khối thạch nhũ và trần hang đen đúa. Nhóm tham quan hôm ấy chỉ đừng ở động ngoài. Về rồi, mình hơi tiếc sao không chuẩn bị đèn đuốc tử tế để đi sâu xem kĩ cả động ngoài lẫn động trong. Người ta truyền tụng chắc chẳng phải là vô cớ.
           Lần này, chốn thăm thú trước tiên là động Thiên Cung, một hang mới phát hiện gần đây. Tìm thấy sau, được thời, nên được chăm chút. Có bến cho tàu ghé. Đường lên xây cẩn thận, "dễ thương". Trong hang, một hệ thống đèn điện chẳng những soi sáng mà còn làm nổi cảnh trí, điểm tô thêm các hình thù đá. Thiết bị này mua tận bên Tàu và thuê người Tàu mắc hộ. Hang rộng, thoáng mát, lối đi quanh quất lên xuống khá "tạo cảnh", thạch nhũ sạch đẹp được ánh sáng màu tôn lên. Xem thật thú, và sảng khoái. Tuy nhiên tất cả quá sáng rõ như trong phòng trưng bày, mang vẻ quá tĩnh tại như đá vẫn thế. Giá như tạo được độ sáng tối, đậm nhạt cần thiết làm cho các thạch nhũ trở nên sống động có thể gợi cho du khách hình dung ra những hình tượng và cảnh sắc thú vị; và, nếu tạo được không khí và có sự gợi ý, còn có thể chắp cánh cho trí tưởng tượng của khách bay bổng. Tất nhiên, nếu chỉ đi lướt qua thì có khi người ta lại thích để vậy. Mình nhớ lần đi thăm một động của Trung Quốc. Trong hang sâu tối thui, đèn điện chỉ bật sáng theo bước người hướng dẫn để dẫn đường và để chiếu rọi các hình ảnh khớp với lời thuyết minh. Có cái hay là các hình nhũ đá đã được người ta gán cho những vật, những cảnh và lồng vào những câu chuyện lí thú thường là theo các tích xưa. Người xem chỉ còn việc nghe và nhìn mà thưởng thức. Song cũng có cái không hay. Chẳng còn chỗ cho tưởng tượng, suy đoán. Du khách lại phải bám sát người hướng dẫn, muốn nán lại xem kĩ một chỗ nào đó cũng không được. Du khách cũng không được thư thái để có cái thú len lỏi "dạo" trên các đường hang khuất khúc, hay cái sảng khoái khi lọt vào một đoạn hang cao rộng, thoáng đãng thoả mắt nhìn ngắm những thạch nhũ muôn hình nghìn vẻ. Xem xong, du khách chẳng thể nói là mình đã hiểu cái động mình vừa đi ra. Lúc sắp rời động Thiên Cung, mình hỏi một nhân viên trực: "Để đèn suốt thế này vừa tốn điện, vừa không kích thích được trí tò mò của khách, sao không để đèn tắt mở theo bước thuyết minh như bên Tàu?" Anh ta nói: "Động này không dài, vả lại nơi này giữa biển". Có lẽ anh ta có lí. Mình cũng không tin lắm cái câu gợi ý của mình.
           Đường đi liên hoàn từ lối ra động Thiên Cung thông sang lối lên hang Đầu Gỗ. Hang này nay đã có mấy ngọn đèn điện. Chỉ soi thôi, không có loại mang tính chất trang trí như bên động Thiên Cung. Lần này, mình chui vào tận động trong. Nghiêng ngó nhìn. Cảm giác hẫng. Nóng. Một màu xám bẩn trùm lên thạch nhũ, cả trên những "lưu danh, lưu bút" của khách tham quan viết bừa lên từ bao lâu. Mùi khai quanh quất, chẳng lẽ "lưu niệm" của loại khách du thiếu văn hoá?
           Khác với động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ vào ra chỉ một cửa. Dưới chân cầu thang có đường sàn trên mặt biển dẫn về lại nơi tàu đỗ. Mọi người uể oải đi. Giá hang Đầu Gỗ được săn sóc hơn! Mà, điều quan trọng, sao lại bố trí thăm động Thiên Cung trước? Từ một nơi mát mẻ, tráng lệ chuyển qua một nơi nóng nực, "tồi tàn", sau khi phải leo thêm những bậc cầu thang dốc đứng!  Hang Đầu Gỗ vốn không đến nỗi nào, có thể gây cảm hứng, nếu du khách từ tàu lên thẳng đấy. Tiếp đó thăm động Thiên Cung cảm hứng chỉ có thể tăng lên. ấn tượng đẹp theo du khách về tàu. Mình nói ra nhận xét này. Một bạn đồng hành gạt đi: "Tàu không đỗ được bên phía hang Đầu Gỗ". Lạ thật! Đảo ngược lộ trình chỗ âý một chút thôi, không được sao?
           Tàu rời chốn hang động vừa tham quan đi vòng len giữa các đảo đá trước khi về bến trong đất liền. Những khối đá lừng lững nhô lên từ biển đủ các dạng hình thù. Lưa thưa những cây nhỏ cố bám vào vách đá hoặc len giữa khe đá. Từ tàu nhìn lên thấy nhiều miệng hang rải rác lưng chừng vách các đảo, chẳng biết nông sâu, dài rộng cỡ nào vì cho tới nay khó ai với tới. Hẳn là có những hang động diễm lệ, kì bí chưa được phát hiện.
           Đang mùa du lịch mà tàu thuyền đưa khách trên vịnh thưa thớt. Ngành du lịch "xài" cái sẵn có của Hạ Long, cũng chỉ mới hời hợt bên ngoài. Dạo chơi trên vịnh, ngắm mấy đảo đá, thăm mấy hang động cũng thú đấy nhưng chưa đủ lực hút để nhiều người bỏ thì giờ và tiền bạc từ xa đến và đến rồi còn mong trở lại, nhất là với khách nước ngoài. "Muốn ăn hét phải đào giun", phải tốn công, tốn của. Có những việc chưa cần phải vốn to. Cảnh sắc tuyệt đẹp của Hạ Long sẽ trở nên phong phú và lôi cuốn hơn nếu có những xuồng chạy nhanh đưa du khách lướt khắp các luồng lạch chiêm ngưỡng cái hùng vĩ lẫn nét tinh tế. Có thể dùng thuyền nhỏ, xuồng nhẹ đưa du khách coi các hang luồn, hoặc đi vào các vụng ẩn kín trong lòng đảo đá. Những bãi cát nhỏ xinh, sạch tinh ven một hòn đảo khuất giữa trời nước và đá, du khách có thể đến tắm, nằm phơi, thậm chí có thể "píc-níc". Công phu hơn và tốn kém hơn thì có thể tạo các "sân" cho các trò chơi, các môn thể thao trên biển. "Xài sang" hơn nữa thì xe treo cáp, cầu treo trên vịnh, động thuỷ cung dưới biển, … Gọi vốn đầu tư chắc không quá khó. Mình đã nghe một người chuyên "làm ăn lớn", người đã tự giới thiệu "bốn đời tư sản", tỏ ý định làm "dịch vụ du hí" ở Hạ Long. Trước mắt, du khách sẽ thêm hào hứng biết mấy nếu được dẫn đến chỗ An-va-rết bị bắt, chỗ hạm đội Mĩ hạ neo khi vào vịnh Hạ Long định thăm dò và thị uy hòng cứu thực dân Pháp đang sa lầy nhưng rồi phải sớm rút lui. Mình sực nhớ có một "thung lũng" giữa một hòn đảo, đá xây thành bao quanh, mấy gia đình từng tá túc thời chiến tranh phá hoại của Mĩ, sao không thể trở thành một điểm tham quan nhỉ? Vẫn còn dân ở đấy thì cũng hay. Nếu không, có thể sửa sang thành một thứ vườn "Bồng lai" cho khách ghé lại dạo chơi hoặc trú ngụ ít ngày đêm giữa cô liêu trời nước. Có lẽ mình nghĩ kiểu lãng mạn ngớ ngẩn chăng?
           Trời chiều, ghé bãi tắm Bãi Cháy. Bãi cát hẹp. Nước hơi lờ lờ, trong hơn nước biển Đồ Sơn nhưng kém những Sầm Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu, … Ngày chủ nhật mà người tắm có thể đếm được, tất nhiên chỉ trên các ngón tay thì không xuể. Hình như không có người nước ngoài nào. Người ta nói họ chỉ hay đến vào mùa đông. Chẳng hiểu vì sao. Các nhà hàng, khách sạn xem chừng "cầm hơi". Vào một quán giải khát vỉa hè. Chị bán hàng không có tiền thối lại: "Các bác là khách mở hàng nhà em". Lúc đó đã bốn giờ chiều. Có thể chị ta bán vào buổi tối là chủ yếu.
           Hạ Long, Bãi Cháy không có sự phồn thịnh như đáng ra phải có, theo như tiếng tăm vốn có. Những năm gần đây, Bãi Cháy mọc lên nhiều nhà hàng, khách sạn tráng lệ. Nhớ lại năm xưa "tít" lớn "năm 1990, năm du lịch Việt Nam" mà buồn cười, cười mà buồn. Hồi đó, mình đã nghĩ: "Có cơ sở gì để đại ngôn vậy?". Nay thì với những cơ sở bất động sản như kia liệu đã đủ để có thể lớn tiếng mời chào? Tiền đồ của Bãi Cháy, về mặt nào đó-quan trọng, "ăn theo" Hạ Long. Mà Hạ Long hiện nay thì… con rồng đáp xuống ngủ trên biển trần gian chưa thực sự được đánh thức.

     
    Hải Phòng, tháng 8/1998


     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.03.2009 21:19:35 bởi Khải Nguyên HT >
    #2
      Khải Nguyên HT 02.03.2009 11:25:35 (permalink)
      Đồ Sơn trăn trở


                Tôi thả nổi người nằm ngửa. Nước biển hôm nay hơi mằn mặn, tuy vẫn đục nhờ nhờ; mọi hôm nước nhạt như nước ruộng, thả nổi người khó hơn. Sóng hiền lành, vỗ về chứ không xô đẩy. Cả người tôi dập dềnh, đôi chân hơi chúi xuống, mặt nhô lên. Bầu trời lãng đãng mây trắng. Đã cuối tiết Ngâu, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc chán rồi, cần những tấm voan che cho đỡ tủi, và cho đỡ ngượng nữa. Các triền núi phủ thông xanh ngắt cứ bồng bềnh, chao đảo, đôi khi chạy quanh.
              Đồ Sơn của Tố Tâm - Đạm Thuỷ trên các trang tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách chưa gây ấn tượng gì với tôi vì tôi được đọc khi còn bé tí. Đồ Sơn của Tiết Hằng - Việt Anh trong Dứt tình của Vũ Trọng Phụng và của "tay ba" trong một truyện ngắn của Khái Hưng mà tôi quên tên thì khơi gợi rất nhiều, ám ảnh nửa, đối với một học sinh trung học là tôi, lúc ấy tôi chưa một lần thấy biển. Đồ Sơn là một niềm mơ ước rất khó với tới.
              Tôi đến Đồ Sơn lần đầu vào mùa hè năm 1957. Lần thứ ba tôi thấy biển. Đồ Sơn khi ấy sạch bóng quân viễn chinh Pháp và bọn quan chức ngụy đã hai năm. Ấn tượng đến nay tôi còn giữ là bãi cát không trắng nhưng phẳng, nhẵn, chặt, và khá sạch. Bãi ngoài, sát bờ đường, mấy chỗ có những tảng đá chồng nhau, ngồi ngắm biển hoặc đọc sách những buổi chiều mặt trời khuất núi tây phía sau lưng thì tuyệt. Núi dáng đẹp nhưng hầu như không có cây to, trong chiến tranh, bọn Pháp đã "tàn sát" hết cây. Cỏ phảng phất màu vàng khô của nắng hè. Đường nhựa lượn sát biển đến tận cùng phía nam bán đảo. Nhà cửa men theo đường nhìn ra biển, thưa thớt cách quãng, chỉ dăm chiếc có một tầng lầu, côi cút và nhỏ bé dưới bóng núi và trước biển. Quang cảnh có vẻ tiêu sơ, tẻ. Ngày thường thì vắng nhưng những ngày nghỉ thì đúng là "dập dìu tài tử giai nhân", người chật trên bãi cát, trên bãi tắm. Dân "ở rừng về", "ở nhà quê ra" (chỉ những người từ vùng kháng chiến), không thể không ngỡ ngàng trước cảnh "triển lãm đùi đĩa" phái đẹp (ngôn từ của một ông nguyên là chánh văn phòng một bộ "bảo ban" tôi nên đi cho biết. Hồi ấy, họ chỉ bờm xơm miệng chứ không dám "thả dàn" như bây giờ). Đồ Sơn có ba khu, hai khu trong là khu vực dành riêng cho các quan chức bậc cao và các chuyên gia nên mật độ khách tắm biển ở khu ngoài cao. Một ông phó ti cười mà không có vẻ đùa, bảo: "Hai nơi ấy ngày trước dành cho Tây đầm, giờ cũng lại dành cho đầm, Tây". Tôi đã nghe hơn một người, cán bộ chứ không chỉ dân thường, nói như thế.
              Đồ Sơn bây giờ thông suốt cả ba khu vực, nếu tính cả mạn trái, phía bắc, nơi trước đây vốn là đất cấm dành cho quân sự, thì khu nghỉ mát Đồ Sơn trải dài chừng 5 ki-lô-mét ven biển. Ngày trước, đứng nơi bãi biển Đồ Sơn người ta không cảm thấy ngợp trước đại dương mở ra bao la trước mặt vì còn có núi vươn dài quanh quất kề bên. Người ta cảm thấy vừa nhỏ bé, vừa lớn lao hoà vào thiên nhiên còn có phần hoang sơ. Từ thời "mở cửa", nhất là từ năm 1990, "năm du lịch của Việt Nam", vùng vùng xây khách sạn, ngành ngành xây khách sạn, nhà nhà xây khách sạn, Đồ Sơn bắt đầu mọc lên những nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ nhiều tầng. Có toà cao tới tám tầng, chưa kể ba nóc thượng cao thấp khác nhau, gần 200 phòng trọ, lấy tên nhà nghỉ của một bộ (có lẽ phần vì ưu tiên phục vụ nội bộ, phần vì thuế suất thấp hơn khách sạn).  Núi Đồ Sơn, phía biển, hiện nay thông đã phủ gần hết, cao và rậm, song người ta có cảm giác như bị các toà bê tông lấn át.
              Mới đầu tháng chín, đêm đêm nhìn mấy khách sạn cao tầng không thấy ló ra một ánh đèn nào tưởng như đó là những di tích kiến trúc cũ. Mấy năm nay, Đồ Sơn không mấy hút khách tắm biển và khách du lịch. Còn nhớ năm trước có mấy người đến một số khách sạn hỏi thăm xem làm ăn ra sao. Khách sạn CĐ cao sáu tầng, ra đời từ hồi còn bao cấp. Giám đốc, một người còn khá trẻ, bay bướm, cho biết doanh thu chủ yếu là phòng trọ, hiệu suất sử dụng mùa hè đạt 70% số phòng, mùa đông chỉ 15%. Một nửa là khách nghỉ theo tiêu chuẩn của các cơ quan, xí nghiệp, một nửa là khách tự do. Ông ta thổ lộ:
      - Chúng tôi phải xoay găng lắm, phải có những mối dây liên hệ để "bắt" khách, những đoàn khách bất kì, trong nước hay nước ngoài. Nói xin lỗi, tôi đi vệ sinh cũng phải cầm máy điện thoại theo. Không nhạy bén, không kịp thời là mất khách. Tôi bảo các nhân viên: "Khách đã vào khách sạn ta mà để khách ra đi tìm nơi khác là tồi". Nhân viên của tôi có đến 40% trình độ đại học. Lương bình quân hơn một triệu đồng một tháng. Họ phải rất thạo nghề, linh hoạt. Chẳng hạn, người ta gọi điện đến thương lượng về giá cả vào lúc giám đốc đi vắng, nếu thấy có thể chấp nhận được thì "Dạ, xin chờ cho ít phút để hỏi ý kiến giám đốc đã", sau đó mới gật. Khách mặc cả cũng riết róng lắm, cho nên giá thuê phòng cũng lên xuống tuỳ mùa, tuỳ thời cơ.
              Chuyện mấy năm trước, năm nay xem chừng kém hồ hởi hơn.
              H.Y., nhà nghỉ của bộ nọ, cao tám tầng, thiết kế hai cánh chim tượng trưng, cho đến nay vẫn xệ một cánh chưa xây tiếp được; chỗ dành cho thang máy đang là hốc trống, đứng trên nhìn xuống hun hút rợn người. Vốn là định xây lên để kinh doanh từ cách đây mười năm; bị lỗ, chuyển qua bao cấp từ bốn năm nay, dành cho người trong ngành đến nghỉ theo tiêu chuẩn từ vừa đến sang. Phòng còn trống thì cho khách ngoài thuê. Hôm chúng tôi tới thăm, các phòng đều khoá cửa. Khách nội bộ thì hết đợt; khách ngoài thì không có. Cả một cơ ngơi đồ sộ đứng trơ vơ trong một khuôn viên khá rộng, cây cỏ có chiều hoang rậm. Toà nhà đã có dấu hiệu tàn tạ. Người phụ trách phàn nàn rằng không có kinh phí tu bổ; ngay việc chăm vườn cũng tự làm, không xuể.
              Các khách sạn, chính danh hoặc trá tên, chẳng "ăn nên làm ra" thấy rõ. Người ta đã đua nhau xây, phá vỡ cảnh quan thiên nhiên của Đồ Sơn; bây giờ "bỏ thì thương, vương thì tội", giữ báo cô những tháng ngày dài, trừ mấy tháng hè. Hàng mấy chục cán bộ, nhân viên "ôm" một cơ ngơi đồ sộ với những trang thiết bị và tiện nghi hiện đại phải bảo quản, nhưng hầu như chẳng có việc để làm, trong cái heo hắt của một khu nghỉ biển cuối chầu, ế khách. Nếu có tìm cách để kiếm thêm thì chẳng phải là một điều khó hiểu.
              Quốc doanh đã vậy, tư doanh năng động hơn chăng? Khách sạn H.T.Đ là khách sạn tư loại nhất Đồ Sơn. Năm tầng, trên nóc có ăng-ten pa-ra-bôn (thường là phải có đặc ân mới được phép trang bị). Ngay trước nhà kề cửa ra vào, trong các bể kính những cá song, ba ba,… đang nhởn nhơ bơi sẵn sàng ra nằm trên đĩa cho những khách háo đặc sản. Vào trong, trang trí nội thất kiểu Tàu, tranh Tàu, đồ Tàu. Một đầu bếp thuê tận Hồng Kông với lương 2.000USD mỗi tháng. Mấy vị "khách tham quan ngoài kế hoạch" chỉ định ghé qua, không ngờ một người đàn ông đã cứng tuổi đang ngồi nơi bộ xa lông sang trọng đứng dậy xởi lởi mời các vị ngồi chơi xơi nước (đúng nghĩa đen).
              - Khách sạn ta phát đạt chứ? - Một vị khách thấy cần hỏi cho phải phép.
              - Đây là bà chủ - người đàn ông trỏ một người đàn bà trạc ngoại tứ tuần. - Bây giờ bà ta đang ngồi đây và có thể thong dong tiếp các bác đủ nói tình hình khách sạn chúng tôi.
              Bà chủ có dáng âu sầu, ăn nói nhỏ nhẹ, kiệm lời. Còn người kia, một tay bẻm mép, là bà con, chẳng biết là quản lí hay cố vấn. Người chủ trương khách sạn này là chồng bà chủ, một cán bộ đương nhiệm của bộ Xây dựng. Khách sạn ngự ở một vị trí thuận lợi giữa Đồ Sơn phố và Đồ Sơn biển. "Hàng tháng cứ phải chi sáu bảy chục triệu đồng", vị "có vẻ cố vấn" than thở. Hỏi mức thuế phải đóng, cả ông ta cả bà chủ đều nín lặng. Có người nói chủ trương khách sạn này chẳng qua là nước cờ hướng tới tương lai của vị cán bộ bộ X.
              Loại thấp cấp hơn, nhà hàng, quán ăn, quán giải khát, quán trọ thì nhan nhản ở Đồ Sơn. Nói thấp hơn là nói về qui mô, chứ nói "tiện nghi" và "nội dung phục vụ" thì chửa biết "mèo nào cắn mỉu nào". Tất nhiên không phải là tất cả.
              Có một loại đúng là "thấp", ngay gọi là "quán" cũng chẳng ổn. Một quầy bày đủ các thứ giải khát tươi, chai, lon và thuốc lá đủ loại, nội và ngoại; những ghế vải gấp lại được rải quanh những chiếc bàn thấp; tất cả dàn ra trên một khoảng bờ hè sát biển thuê được của chính quyền sở tại dưới các tấm che mưa nắng tạm. Tối khuya chừng vãn khách, tất cả được gấp xếp lại qui tụ thành một thứ "ổ" hình hộp chữ nhật được che chắn cẩn thận, giữa là chỗ ngủ của chủ nhân. Tôi đã hỏi chuyện một cặp vợ chồng như thế. Họ từ một tỉnh gần thủ đô về "hạ cánh" tại đây đã mấy mùa. Người chồng còn kiêm cả nghề "xe máy ôm". Họ bảo không nhà cửa, có một đứa con gửi ông bà nội, cuộc sống tạm được. Một dạng "định cư trong du cư" chăng? Dạo cảnh ban đêm, những cái "ổ" của họ làm Đồ Sơn kém thơ mộng đi; nhưng ban ngày, vắng những cái "tiệm" lộ thiên của họ, vào những lúc này, Đồ Sơn cũng kém vui.
              Có một tốp người từ một nhà điều dưỡng ra ngồi hóng gió bên bờ biển đang bàn cãi đủ thứ chuyện. Một người nêu thắc mắc với vị giám đốc nhà điều dưỡng:
              - Cách nay hai năm, trên đài truyền hình trung ương, ông chủ tịch thành phố rồi ông giám đốc du lịch cũng của thành phố nói tình hình làm ăn của khu nghỉ mát Đồ Sơn khả quan lắm. Anh thấy thế nào?
              - Rắc rối lắm, nói ra chết đấy - Giám đốc nói vậy rồi cười khà khà. Lát sau, ông ta hạ giọng, - Thật ra thì mấy năm nay ế ẩm lắm. Mà khu nghỉ mát nào ở nước ta mà chẳng vậy. Thời trước, mới đây thôi, nhiều người đi nghỉ dăm ba ngày, mươi ngày chẳng phải bỏ ra đồng tiền túi nào. Đi lại, ăn ở, tiêu pha toàn dùng tiền "chùa", có kẻ còn xài xả láng cho cả vợ con. Bây giờ loại ấy còn ung dung nữa đâu. Người dân thường, những người lao động bình thường muốn đi hóng gió biển, tắm táp biển một tí, sáng đi tối về mang sẵn thức ăn đồ uống theo mà còn ngại. Vắng khách là phải.
              - Tiền chùa vung ra thời này mà ít đi à? - Một người lên tiếng phản bác. - Lại chẳng manh mún như thời bao cấp. Có điều bọn xài ít khi đến những nơi như Đồ Sơn. Chúng ra nước ngoài, thường là dưới cái vỏ "du lịch khảo sát thị trường". Còn trong nước, nếu muốn đi thêm cho đã, chúng phải đến những nơi như Vũng Tàu, Đà Lạt. Tôi biết chắc tập đoàn công ti xây dựng HảiPhòng năm nào cũng có mấy đoàn đi như thế.
              Đồ Sơn, hay bất cứ khu nghỉ mát nào, đâu chỉ trông mong vào lớp người ấy. Điều đáng suy nghĩ là ngay những ngày có hội chọi trâu ở Đồ Sơn phố, hàng vạn người đến xem mà khu Đồ Sơn biển vẫn vắng, kể cả khu hai, khu vẫn thu hút khách hơn, cũng thưa thớt người.
              Đồ Sơn có một thế mạnh. Khắp các bãi tắm biển ở nước ta từ Trà Cổ ở cực bắc đến các bãi của đảo Phú Quốc ở phía tây nam mà tôi được biết ít nơi có được cảnh quan thiên nhiên như ở Đồ Sơn.
              Nhưng Đồ Sơn lại có một điểm yếu so với các nơi khác: nước biển không trong xanh như nó vốn có vì gần các cửa sông nặng phù sa. Người ta nói từ khi có đập chắn Đình Vũ, bãi tắm Đồ Sơn có bùn đọng. Và bèo, và rác. Bèo và rác dồn từng mảng trên sóng nước; bèo và rác tấp từng đám trên bãi, dọn xong lại có.
              Đồ Sơn chưa phát huy được thế mạnh mà cũng chưa tận dụng được. Không nói "du lịch xanh", cái từ nghe cũng mới. Leo núi là cái thú của không ít khách du. Núi Đồ Sơn không chót vót nhưng đủ cao để ngắm cảnh làng quê. " Chiếc lá về đâu xa tít tắp / Nghìn làng ngó lại bé tèo teo" (Nguyễn Khuyến), và ngắm biển, nhất là những lúc chiều dần tắt - Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận / Không biết xa lòng có những ai? (Phạm Hầu). Vậy mà rất hiếm khách leo núi, kể cả lớp trẻ. Núi rất nhiều thông, đã khá cao to đủ để tạo cảnh, gợi cảnh. Hương thông thanh khiết, gió thông đưa mơ, bóng thông che chở cho lứa đôi du ngoạn hay tình tự.
              Nghe cũng nên thơ có pha màu lãng mạn đấy chứ nhỉ! Tiếc thay, không trúng "gu". Cái "văn hoá du lịch", "cái "văn hoá tình ái" đất này, thời này nó oái oăm lắm, tất nhiên không vơ đũa cả nắm. Độ nọ, lâu rồi, tôi nghỉ ở Đồ Sơn, người ta dọa: "Chớ lên núi, gặp rắn đấy". Tôi tin là thực, mãi sau mới biết họ nói chuyện gì. Thời đó phòng trọ hiếm và qui định nghiêm, trên núi vắng "hay có rắn (quấn nhau)". Bây giờ thì sẵn phòng cho thuê bất kể lúc nào, bất kể bao lâu, một giờ cũng được. Phụ trách nhà nghỉ của một bộ nói: "Chỉ cần người thuê có giấy tờ gì đó để vào sổ, còn thì mặc". Nếu không thì ế. Vào các nhà nghỉ, khách sạn cỡ đó thì "an toàn" gần như tuyệt đối nhỡ khi có "bố ráp". Nói vậy thôi, thực tế có vẻ "thoải mái" dần. Loại "nhà hàng" nhỏ đáp ứng tình hình nhanh nhạy. Các chủ tư nhân có những ngón riêng. Có khi gần như công khai.
      Bốn gã trai dừng xe máy trước một nhà hàng. Loại nhà hàng này nom "khiêm tốn" thôi, thường có những phòng con ở phía sau. Họ bảo chủ quán điều gì đó. Ông ta nhấc điện thoại: "Alô! Gọi bốn. Đúng chất Quảng Ninh nhé!" Bọn khách trong khi chờ ra ngồi quanh bàn ngoài trời nhậu nhẹt đùa bỡn với các cô tiếp viên. Lát sau, một chiếc taxi chở tới bốn cô gái trẻ son phấn đầy mặt. Chẳng hiểu có dấu hiệu gì để phân rõ "đặc sản Quảng Ninh" không. Chà! Nếu mọi việc "phi ăn chơi" trong đời đều được đáp ứng nhanh nhạy và đúng yêu cầu như vậy!
              Hôm đó, một ông rủ chúng tôi đến thăm một người quen mở nhà hàng ở mạn bắc khu nghỉ mát Đồ Sơn. Một dãy nhà mặt phố trông thẳng ra biển, thường là hai tầng. Năm vị bước vào một nhà giữa phố. Phòng ngoài khá hẹp, vừa làm phòng tiếp khách (có một bộ xa lông loại sang), vừa để bán hàng (chỉ có một tủ kính không lớn bày một số không nhiều mặt hàng, chủ yếu là hàng trang điểm). Bà chủ từng là cán bộ công đoàn một xí nghiệp to, chồng hiện vẫn đang là một cán bộ có cương vị. Sau một tuần nước, chuyện trò xởi lởi, bà chủ hỏi: "Các cụ làm tí tươi mát không?" Các cụ - đáng được gọi "cụ" thật - ngỡ là nói cho vui, bà ta bình thản tiếp: "Bây giờ đã thành phong trào rồi (!)". Một chiếc xe máy xịch đỗ trước hè đường. Một trai dẫn một gái ăn mặc ngắn và chật chào nhẹ bà chủ rồi lướt qua phòng. Bà chủ giới thiệu phía trong và trên gác có nhiều phòng cho thuê và nài các cụ "tham quan" cho biết các tiện nghi.  Những phòng nhỏ hẹp đúng là đầy đủ tiện nghi: máy thu hình, máy điều hoà nhiệt độ, quạt, phòng tắm và vệ sinh kề bên khép kín; đặc biệt, một tấm gương cực lớn dựng bên tường sát ngay giường, nằm trên giường có thể tự ngắm mình "toàn cảnh" một cách thoải mái (thật chu đáo hết chỗ nói!). Một phòng cửa để hé, có một đôi đang ngồi trong bóng tối nhờ nhờ. Một phòng khác cửa mở hờ, không thấy người nhưng lòi ra hai đôi dép. Ý chừng chủ nhân muốn ngầm giới thiệu rằng "vô tư" ban ngày, ban mặt như vậy đấy. Đích thị đây là "động" lầu xanh với mụ Tú Bà "thời mới". Vị dẫn đường nói nhiều nhà nghỉ, nhà hàng khác đều thế cả. Hỏi mụ Tú: không sợ ư? mụ điềm nhiên đáp: "Họ muốn "sống" thì phải để cho bọn em sống chứ". Trên đường về, một ông trong nhóm "tham quan" kể rằng: Phí "bảo kê" không chỉ bằng tiền mà có khi bằng "hiện vật". Một người quen "họ Tú" của ông ta cho biết các "chị em" rất sợ phải đưa thân "nộp phí", thường đùn đẩy nhau."Chúng chơi miễn phí nên phũ lắm (!)".
      Chợt nghĩ: nếu không bài trừ được, nên chăng hợp pháp hoá để dễ kiểm soát, kiểm soát bệnh tật, kiểm soát đối tượng các loại, để khỏi hỏng người chức năng, để khỏi thất thu thuế, và nhất là tạo một ranh giới không để tán phát trong môi trường xã hội lành mạnh. Còn nếu cương quyết bài trừ thì không thể cứ làm như từ trước đến nay.
              Mấy năm nay, Đồ Sơn có cơ được biết tới nhiều hơn, nhất là với số người nước ngoài nào đó. Một cơ sở liên doanh với nước ngoài: casino Đồ Sơn, một sòng bạc quốc tế đã bước vào hành sự. Sòng được đặt tại nơi tuyệt đẹp của bán đảo Đồ Sơn trông ra đảo Hòn Dấu. Nơi đó hồi thuộc Pháp là khách sạn Mũi (hotel de la Pointe), về sau là khách sạn Vạn Hoa, nay được cải tạo, mở rộng, nâng cấp thành một lãnh địa của vương quốc đỏ đen. Người nước ngoài đến đây sát phạt có thể đến thẳng từ sân bay, sau đó về thẳng. Sòng bạc Đồ Sơn thật ra chẳng giúp gì mấy cho sự thịnh đạt của điểm nghỉ mát này. Nó có góp vào ngân sách; nó cấp việc làm cho mấy chục người mà một bộ phận trong đó lương có nhỉnh hơn một số người làm công khác. Tuy nhiên, "nhân viên người Việt tại đấy thành một thứ máy. Như là bị cách li với thế giới bên ngoài. Đi làm về nỗi lo chính là ngủ để lấy sức hôm sau làm tiếp cho được minh mẫn, nhầm thì "khốn nạn". Học hành thêm, không. Nắm bắt tin tức, thời sự, hầu như không. Đẻ con chỉ được nghỉ ba tháng, coi như phải cai sữa cho con từ tháng thứ tư. Quan trọng hơn, thân phận con người!". Đó là suy nghĩ của một bà mẹ, một cán bộ văn hoá, có con làm tại đấy, bà đã nói ra với tôi. Nước ta cần người nước ngoài vào đầu tư để có thêm vốn, để tăng sản phẩm xã hội, để học kĩ thuật tiền tiến, để thêm công ăn việc làm cho người lao động. Sòng bạc Đồ Sơn chủ yếu là đáp ứng điểm cuối cùng. Đáng tiếc, cũng như tại một số cơ sở có người nước ngoài kinh doanh khác, tâm lí làm thuê khá nặng nề. Không có tấm gương cờ bạc này thì dân máu mê "nội hoá" cũng đã có thừa cửa đỏ đen, phố biến là "số đề", một loại hình được nuôi dưỡng bởi chính các cuộc xổ số hợp pháp liên tục bất tận.
              Dịch vụ nghỉ mát hợp pháp Đồ Sơn cho đến nay khoanh lại trong mấy "tiết mục" chính: tắm biển, ăn hải sản, nghỉ ngơi. Những thứ này không phải là thế mạnh của Đồ Sơn. Vừa đây, thêm một tiết mục biệt thự Bảo Đại. Nhà nghỉ mà thực dân Pháp ban cho ông vua hờ từ thời xa xưa bị đổ nát vì thời gian và chiến tranh nay được phục hồi "y như cũ". Không phải là phục hồi một chứng tích lịch sử, bởi có nhiều địa điểm đáng được lịch sử để mắt tới hơn nhiều mà việc trùng tu chưa với tới được. Cũng không phải là phục hồi một công trình kiến trúc, bởi mặt này không có gì đặc biệt để được ưu tiên. Vào "tham quan" rồi mới vỡ lẽ: các phòng trên gác, phòng vua và vợ vua, phòng các con vua… là dành để cho thuê với giá "ưu thu". Xác nhà thì có thể là như cũ, trang trí nội thất thì không. Đồ đạc, vật dụng trong các phòng đều hiện đại, có cả bồn tắm "mát xa", trừ những điếu bát hút thuốc lào, cổ hoặc cũ, trong một cái tủ lớn.  Cả những thứ cho khoác màu sắc cổ cũng không mang thần thái cổ. Ở cổng vào có lính mặc áo đỏ nẹp vàng, đầu đội nón bầu dục đỏ có chóp nhọn (kiểu nón dấu của lính thú đời xưa), chân quấn xà cạp đỏ, đi giày ba ta trắng (thay vì chân đất như lính xưa) và … không có giáo dài. Vào trong nhà còn có thêm "cung nữ" với áo đỏ nẹp xanh, quần trắng và "hài" thời mới. Khách tham quan cảm nhận ngay rằng đây chỉ là một cơ sở để làm dịch vụ du lịch. Tiền vé vào cửa, tiền thuê áo xống mặc làm vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử để chụp ảnh, chuyện ấy là thường. Đáng chú ý là giá thuê phòng một đêm: phòng hoàng tử, công chúa 350 đô la Mĩ, phòng hoàng hậu 600 đô la Mĩ. Chẳng biết có những ai, trong nước hoặc nước ngoài, sẽ sẵn sàng bỏ số tiền như thế để được "ngự" trong những phòng chỉ có danh hão. Cái "câu" du khách là cái chất vương giả toát ra từ vật dụng, bài trí mang dấu ấn cung đình và mang màu sắc thời xưa, từ cách đón tiếp, cung phụng đúng kiểu ngày trước, và cái không khí "ôn cố". Qua một lần nghỉ lại, ra về khách phải có được chút ấn tượng gì lưu lại. Nếu chỉ cần tiện nghi hiện đại thì họ có thể đến những khách sạn tân tiến hơn mà lại rẻ hơn. Hơn mười tỉ đồng bỏ ra, để "bảo tồn" thì không đáng, mà để kinh doanh thì liệu có phiêu lưu không, trong khi nước nhà đang cần vốn cho những công việc khác, cấp bách hơn. Ngay ngành du lịch Đồ Sơn, trước mắt và lâu dài cần nhiều công của để lấy lại tên tuổi vàng son cho Đồ Sơn.
              Chuyện đơn giản như leo núi, dạo núi cũng cần tạo điều kiện vật chất và tinh thần. Chẳng hạn, trên đỉnh núi ngày trước có trạm pháo phòng thủ bờ biển của quân Nhật (chẳng biết mấy khẩu pháo có còn không hay là đã hiến tế cho "sáng kiến" bán sắt vụn của ông T. mất rồi), du khách được chỉ dẫn (hoặc dẫn) lên đó chắc cũng khoái vì còn được ngắm trời, ngắm biển, ngắm đồng; nếu lại được thuyết minh về sự kiện quân Nhật đổ bộ vào Hải Phòng bất ngờ ra sao, các quan cai trị Pháp chạy xe vác cờ trắng đón đầu xin hàng ra sao thì hẳn cũng thêm thú vị. Quanh vùng Đồ Sơn có những thắng cảnh, di tích lịch sử, những điểm lễ hội, khách xa đến nghỉ chắc sẽ thích thú nếu có bản đồ hướng dẫn, càng thích thú hơn nếu lại có trạm xe của công ti du lịch sẵn sàng đón đưa. Nhiều người đứng trên phố biển Đồ Sơn ước có được một chiếc xuồng hoặc tàu con cao tốc xinh xinh để ngao du trên vùng biển, ra thăm thú đảo đèn Long Châu, vòng qua Cát Bà chơi và tắm biển tại đó (nước biển ở đó trong làm sao! ở đó còn rừng quốc gia trên đảo) rồi quay về. Sao lại không nhỉ! Hiện nay khách xa, nhất là khách sộp, ham ra Cát Bà hơn ra Đồ Sơn. Đi Cát Bà từ Đồ Sơn thuận hơn và thích hơn từ bến Bính chứ? Rồi những môn thể thao trên biển và dưới biển, vừa là du hí, vừa là rèn luyện; những cuộc thi, cuộc đua trên nước cổ truyền và hiện đại, còn có thể nghĩ đến đường xe điện treo cáp từ đỉnh núi này đến đỉnh núi kia, ra tận đảo Hòn Dáu,…
              Đồ Sơn xưa kia nổi tiếng, nhưng chỉ là của một số rất ít người. Bởi, thời đó, chuyện đi nghỉ mát là một sự xa xỉ quá ư xa lạ với tuyệt đại đa số người Việt Nam. Có thể Đồ Sơn xưa thơ mộng hơn nhiều, hợp với những Đạm Thuỷ - Tố Tâm ngày ấy, song chẳng thể nào sánh được cảnh rộn ràng, và xa hoa nữa, ngày nay. Dẫu vậy, Đồ Sơn nay chưa phải là nơi ước vọng khi chưa đến, và nơi lưu luyến khi rời đi, đối với khách du.

       
      Hải Phòng, 10 - 1999
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.03.2009 10:32:59 bởi Khải Nguyên HT >
      #3
        Khải Nguyên HT 04.03.2009 10:38:49 (permalink)
        Ai về Tây Bắc

             Miền Tây Bắc Tổ quốc ta, trong tâm trí tôi từ trước, là nơi xa xôi, heo hút, hoang rậm, trắc trở, người ta ngại đặt chân tới. Ngay câu hát hùng tráng: "Qua miền Tây Bắc núi vút ngàn trùng xa; suối sâu đèo cao bao khó khăn vượt qua…" dẫu có làm cho Tây Bắc gần hơn trong tâm tưởng, cũng là tô đậm thêm ấn tượng gian nan. Cả những trang bút kí của Nguyễn Tuân trong "Sông Đà" cũng vậy, vừa gây thi vị vừa "khủng bố tinh thần".
             Trước đây, tôi chỉ mới mon men rìa miền Tây Bắc khi từ vùng ngược Thanh Hoá theo đường rừng qua vùng thượng Phú Thọ. Hơn nửa tháng trời không thấy đồng bằng, không thấy chân trời; ngửa đầu nhìn lên, bầu trời rách tươm sau tàng cây rừng; hiếm khi có trọn một bãi nắng; họa hoằn lắm mới gặp mấy ngôi nhà sàn để nhờ trú đêm. Tự suy ra: vào sâu Tây Bắc sẽ ra thế nào!
        Vậy mà, vào cái độ "chân chồn, gối mỏi", tôi đã làm một chuyến du Tây Bắc, có điều, chẳng phải là cuốc bộ như xưa kia.
            

               Dặm dài Tây du
               Từ Hoà Bình đi vào cửa ngõ lên Tây Bắc mây mù lãng đãng. Đường ngoắt ngoéo hết lên lại xuống. Từ trên cao nhìn xuống, lờ mờ một điểm dân cư vẫy gọi dưới lòng thung trên đường vào thị trấn Mai Châu (vẫn còn thuộc Hoà Bình). "Mai Châu mùa em thơm nếp xôi" muốn ghé vào đấy quá nhưng chẳng phải đang đi kiểu "Tây balô".
             Đèo Phả Li, đất Sơn La, sương mù càng đặc hơn. Không ngắm cảnh được. Chỉ cảm giác âm u, hoang dại. Lần đi này, xuất hành không may! Sương mù loãng dần, trời ửng sáng. Cao nguyên Mộc Châu chạy dài bị kẹp giữa hai dãy núi cao. Những đồi chè trải ra hai bên đường. Không được thấy đồng cỏ với những đàn bò từng nổi tiếng. Thị trấn Mộc Châu nằm giữa một thung lũng hẹp. Mấy dãy nhà hai bên đường quốc lộ Sáu nom tươi tỉnh. Trời lại mưa nhỏ. Hiên sau nhà nghỉ Mộc Châu trông chếch ra những hòn núi tròn như những nấm mộ khổng lồ phủ xanh cỏ đang đua nhau leo ngược lên tận đỉnh dãy núi án ngữ một phía cao nguyên. Chợt nhớ câu thơ "Người đi Châu Mộc chiều sương ấy / Có thấy hồn lau nẻo bến bờ". Chẳng thấy lau lách, chẳng thấy "nẻo bến bờ". Bởi "cưỡi xe xem hoa" hay bởi sự đổi thay?
             Qua Yên Châu, cảnh sắc phong quang hơn. Thung lũng khép lại rồi mở ra, đồng ruộng rộng dần, có hơi hướng miền đồng bằng đôi chỗ. Nương nhiều, hiếm ruộng. Lúa gieo dày đang lên xanh. Ở Tây Bắc, nhiều nơi gieo thẳng. Trời thôi mưa. Sáng tháng Năm mà như vào tiết thu. Thị trấn Yên Châu, hầu hết là nhà ngói trệt, chen một ít nhà sàn. Trừ quãng giữa, nơi có vài nhà mái bằng, các nhà đều ẩn trong vườn, sum suê xoài, nhãn, vải. Một "thị trấn vườn", cũng nên thơ nhưng mộc mạc và chất phác, không được duyên dáng và "quí tộc" như "thành phố vườn" Huế. Nhớ bài hát "Người Châu Yên bắn máy bay" muốn tìm gặp các cô "con gái trắng nõn những búp tay" mà "dám bắn máy bay" và "bắn ngay!" Nhưng thời gian quá xa; thị trấn bây giờ 96% dân là người tứ chiếng, đâu rồi bóng những cô gái Mường hồn nhiên mà dũng cảm ngày xưa?
             Đường trường Sơn La, thỉnh thoảng gặp một điểm dân cư xinh xinh, thơ mộng nữa. Cò Nòi chỉ là một xã mà nom tựa một thị trấn dưới xuôi về mặt trù phú. Có cả một nhà lầu lắp kính màu. Vườn nhãn nối nhau hai bên đường. Cánh đồng tiếp giáp khá rộng. Thị trấn Mai Sơn, e nhiều thị trấn miền xuôi không bằng. Nà Sản gợi nhớ Lâm Đồng với những đồi đất đỏ thấp, phẳng. Đường vào sân bay qua một cánh đồng đã tầm mắt. Rải rác đồi cây ăn quả. Đồng mía cho nhà máy đường Sơn La dựng cách thị xã 33 ki-lô-mét.
        Gần đến Sơn La trên đường đã xuất hiện lẻ tẻ xe máy. Một chiếc xe công nông chạy cùng chiều không nghênh ngang choán đường. Một khu nhà mới bên một khu ruộng bị hạn không thấy gốc rạ. Một ngọn đồi đang san dở, đất vàng. Núi đá xuất hiện từ Cò Nòi, đã thấy đậm lên. Thị xã Sơn La có núi đá rải rác xung quanh gần, xa, không còn giữ được nhiều màu sắc sơn cước, do nhà cửa, do hàng hoá, và cả do người cư trú, người vãng lai.
             Khu Tây Bắc có nhiều đèo. Dài nhất là đèo Hoàng Liên Sơn, 54km, vắt ngang  hai tỉnh Lai Châu và Lao Cai (Trên truyền hình VTV3, trong một cuộc thi rất được mến mộ, người ta ra câu hỏi: đèo dài nhất Việt Nam? mà đáp án lại là đèo Pha Đin(!) ). Thật ra, đèo Pha Đin chỉ dài 32 km nhưng hiểm trở, một trong những "thách thức" suốt chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa. Đèo dốc quanh co liên tục, ngày trước là dải đường lát đá trườn mình giữa lau sậy, sim, mua, cây con chằng chịt, nơi ẩn nấp của thú dữ, kể cả cọp. Thời kháng chiến chống Pháp, người ta đặt dọc đường đèo những quán "tự giác" bán mía, chuối,… đề sẵn giá, ai dùng cứ tự bỏ tiền vào hòm. Các ống bương đựng đầy nước suối dựng tựa vách, dùng miễn phí. Ngày nay, đường nhựa khá tốt. Ít hoang vu hơn, có nơi cheo leo một lều canh. Thấp thoáng dưới lũng sâu những nương ngô. Dăm bản người Mông chênh vênh cao tít, lơ thơ nhà.
             Qua đèo Pha Đin sang đất Lai Châu, vẫn đường nhựa nhưng khuất khúc hơn bên Sơn La. Từ Tuần Giáo đến Điện Biên, núi vẫn ken dầy, lần đầu tiên, và duy nhất, trên dặm dài Tây Bắc ngoài các điểm dân cư, gặp một đoạn đường bằng phẳng rợp bóng cây to hai bên, và gặp hai toán học sinh bé giương cờ quạt đi hàng đôi. Các cháu lon ton trong trang phục dân tộc rực rỡ. Các cô giáo ăn mặc kiểu miền xuôi, không thấy ngước nhìn xe qua! (Xe,-và người, qua lại những nơi quá hẻo lánh này là hiếm và "quí").

               Trong các tỉnh Tây Bắc, Lai Châu hiểm trở hơn, heo hút hơn, mà cũng hùng vĩ hơn. Điện Biên đi thị xã Lai Châu, đường bắt đầu xấu. (Đường xấu còn kéo dài qua Phong Thổ đến cách Sa Pa 27km trên đèo Hoàng Liên Sơn). Suốt chặng đường hơn 100km, chỉ gặp một xe tải, một xe khách, hai xe con (hai xe này chắc là chở các quan chức đi dự lễ ở Điện Biên về), một xe đạp và một xe máy. Xe máy đây có vẻ là đi công chuyện, không như ở lân cận Điện Biên chàng trai người dân tộc cưỡi "ngựa máy" đưa "em" đi chơi thay vì cưỡi ngựa sống. Rất ít sườn núi có rừng rậm cây to."Phá rừng là tội ác", khẩu hiệu của tỉnh Lai Châu. Nhưng cũng như ở các tỉnh khác, rừng cứ bị đốt, phá. "Mười năm trở lại đây rừng mới bị đốt lắm, nhiều nhất là do người Mông. Có khi đốt vậy thôi", một cán bộ tỉnh Lai Châu nói. Dấu vết "chương trình 327" chỉ thấy ở vùng trồng trẩu trên đường vào Mường Phăng và khu đồi cũng trồng trẩu cách 25km đến Phong Thổ. Quá thị xã Lai Châu 10km thấy biển đề "Rừng khoanh nuôi thú", song không thấy có dấu hiệu đặc biệt gì về thú, mà cây cối cũng với vẻ của rừng núi kiệt. Năm 1981, đường Tây Bắc còn đi giữa rừng cây um tùm. Đi vậy, sợ thật, nhưng vùng thượng du mà vắng "rừng ra rừng" thì cũng buồn tình!
             Các địa danh ghi trên cột số bên đường Lai Châu rất gợi, nhưng đến nơi thường chỉ là bản lèo tèo. Hiếm nơi được như xã Nà Tấu, cách Điện Biên 20km. Nhìn chung có vẻ nghèo hơn bên Sơn La, nhà cửa thưa thớt, trước gặp nhiều nhà sàn, về sau nhà trệt nhiều hơn.
             Đôi khi gặp những cảnh kì thú. Bản ven suối; vạt rừng xanh; con đường đất đỏ uốn lượn leo dốc; những nương lúa, nương ngô chênh vênh bên sườn núi như những mảnh vá màu lá mạ trên nền nâu đất rẫy mới vỡ và nền xanh thẫm của thảm thực vật hoang hoá. Từ thị xã Lai Châu đi Phong Thổ, đường men ngược dòng Nậm Na, con sông nhỏ chảy vào sông Đà. Cảnh sắc dịu mắt hơn. Một cái bản gồ lên giữa sông, một cái đảo hình thuyền tựa làng Phúc Xá (Hà Nội) trên sông Hồng ngày nào. Chặng đường Phong Thổ - Sa Pa, thỉnh thoảng gặp những thác nước trên sườn dốc đứng. Nước tự lòng đất trào ra tận trên cao, gần đỉnh núi, tuôn trắng xoá như những dải lụa thả lưng trời xuống. Trên đèo Hoàng Liên Sơn càng hay gặp. Cả những nơi trụi rừng chỉ có cỏ dại, cỏ tranh, lau và cây bụi thấp tè. Có lẽ mùa mưa mới thế.
             Không ở đâu thấy rõ hơn, vật lộn với thiên nhiên để kiếm miếng ăn thật gian nan. Có nơi bạt ngàn chuối rừng trên sườn dốc đá nhô rải rác. Quả chuối rừng chín vẫn chát không ăn được. Người ta chặt chuối, đốt cỏ rồi gieo ngô. Ngô mọc lên, "ngô chen đá". Ngô thu hoạch được thì gốc chuối đã lại đâm cây mới. Lại tiếp tục đốn, đốt, …. Có lần bên kia một con suối to, một đồi tròn khá rộng ken dầy cây sắn tốt um xa trông như hình mâm xôi. Kề đó, một cái nhà đơn độc. Chung quanh là núi hoang. Ai ở đó? Giao lưu với "thế giới bên ngoài" ra sao? sực nhớ đến ngôi mộ xây trắng bên đường trên lưng chừng dốc núi, đơn chiếc giữa bạt ngàn đất đá, cỏ cây, xe vừa đi qua cách chừng một giờ. Người chết nằm cô độc đã buồn, người sống cô quạnh còn đáng buồn hơn. Đất thì bao la mà đất trồng lại hiếm. Trên đường đèo Hoàng Liên Sơn khi còn cách Sa Pa dăm ki-lô-mét, thấy người ta tranh thủ từng mẩu đất ven đường nhựa để trồng ngô, trồng rau. Còn "tranh thủ" sườn núi dốc thì hầu như suốt dặm dài Tây Bắc nơi đâu cũng thấy có. Lạ nhất là những ruộng bậc thang hai bên đường Sa Pa - Lao Cai. Nhiều mảng sườn núi rất dốc bày ra những thửa ruộng nước leo từ chân núi lên gần tới đỉnh dễ tới hàng mấy trăm bậc. Những dải ruộng đồng mức uốn lượn kéo dài nhưng rất hẹp. Có dải rộng chưa đến một mét. Chỗ rộng nhất không quá ba mét. Cuốc đào, san bằng, đắp bờ là kì công. Có được nước và giữ được nước kì công không kém. Rồi gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch làm sao? Công phu như đắp đê chống lụt, như đào mương chống hạn. Song, những việc kia là việc cộng đồng. Còn làm ruộng bậc thang này là công việc cá nhân, gia đình, nhiều lắm là một đội sản xuất hoặc một tổ đổi công, nếu còn tồn tại các dạng tổ chức này. "Phá rừng là tội ác!" Đúng! Trước nhất là đối với bọn lâm tặc và bọn bao che hoặc đứng đằng sau ăn chia với chúng. Không nghiêm trị bọn này cũng là tội ác. Đối với những người dân phá rừng để trồng trọt kiếm cái ăn độ nhật thì "việc làm đáng tội mà tình nên thương". Hãy giúp họ, hướng dẫn họ cách làm ăn chính đáng. Để những con người cần cù như vậy, làm việc không tiếc sức như vậy phải đói khổ, phải sống u mê, phải tàn phá môi trường của chính mình, cũng là tội ác.
               Rong ruổi đường trường Tây Bắc, ngoài các thị tứ, hầu như không gặp quán hàng, dẫu là quán nghèo thôn quê. Cũng hầu như không gặp người. Chỉ một lần, nơi một bản nhỏ dăm nóc nhà bên đường cách Phong Thổ chừng 30km, mấy cháu bé giơ lên hai con gà nhép đòi 80.000 đồng. Hành khách đi trên đường vắng, dù ngồi trong xe với nhiều người khác, cũng thích thú khi có bóng người bên đường. Vậy những ai sống ở chốn hoang vu, nhất là trẻ nhỏ, thèm được thấy người đến cũng là điều dễ hiểu. Họ mến khách một cách tự nhiên. Quãng giữa đường từ Điện Biên đến thị xã Lai Châu, đoạn đường xấu nhất, vùng đất nghèo nhất, chiếc xe đang khó nhọc lượn qua khúc đường gập ghềnh, một tốp trẻ lít nhít từ trong sân một ngôi nhà trệt tồi tàn, lẻ loi ùa ra reo vui vẫy chào. Đám nhỏ ăn mặc "sơ sài", có một bé phó hoàn toàn thân thể cho nắng gió. Hai bà ngồi trong xe chỉ trỏ, cười to quá; bọn trẻ ngỡ ngàng, còn bé kia thì giật mình vội lấy tay bưng "của quí" của mình lùi lại. Xe đang đi sát một vách đường gần dựng đứng, trời mưa, bỗng nghe có tiếng gọi từ trên cao. Một đôi trai gái, không nhìn rõ thuộc dân tộc nào, đứng trên cao tít chừng vài ba chục mét đang khom người khoa tay thân thiện. Họ đang làm nương hay đang kiếm củi giữa "trên thì trời, dưới thì núi rừng", họ muốn gửi gắm gì trong cái khoa tay kia?
             Vượt qua thị xã Lai Châu, đường trường vẫn heo hút. Nhưng cách thị trấn Tam Đường (huyện lị Phong Thổ) vài chục ki-lô-mét đã lác đác có người đi đường, lúc lúc tốp ba cô, một cặp vợ chồng, lại hai cô, rồi bốn bà già,… đều người dân tộc đội ô dưới mưa nhỏ hạt. Quá Tam Đường xa, gần tới Bình Lư gặp một toán chừng một chục phụ nữ Mông còn trẻ, có người mang theo con nhỏ, giương ô đứng bên đường, trời vẫn mưa. Trong xe có người lên tiếng: "Họ đi chợ tình Sa Pa đấy". Chẳng biết phải vậy không? Hôm ấy là thứ bảy, đúng phiên "chợ tình" vào buổi tối. Sa Pa còn cách… dăm chục ki-lô-mét!.

               Đâu Sơn La âm u
               Câu hát "Sơn La âm u núi khuất trong sương mù…" của một nhạc sĩ cựu chính trị phạm thời Pháp thuộc ám ảnh tôi hoài cùng bài thơ cũng của một tù chính trị cũ vịnh đất tù Sơn La:"Non cao bốn mặt trùng trùng / Ngàn cây man mác, rậm rừng hoang vu / Một vùng trời đất âm u / Đêm hiu hắt lạnh, ngày mù mịt sương". Nhà tù Sơn La cũ nằm trên một ngọn đồi, hồi đó bị toà công sứ Pháp án ngữ đằng trước, khu trại lính và khu gia binh ép kề bên, giữa bao la rừng hoang vây quanh. Thị xã Sơn La ngày ấy chỉ lèo tèo vài phố núi. Cơ sở "khai hoá văn minh" này của thực dân Pháp nay chỉ còn di tích. Năm 1952, sau khi ta tiến quân vào giải phóng Tây Bắc đợt đầu, quân Pháp đã ném bom xoá. Năm 1965, bom Mĩ lại bồi thêm "chiến tích" của đồng minh. Nay cả khu nhà tù chỉ còn lưu lại cổng, một số bức tường trên đó còn nguyên lớp vôi vàng ngày cũ (Sau hơn nửa thế kỉ! Dấu tích đô hộ thật khó phai!). Tường vây mới được phục chế sau này, cùng một số hạng mục cần thiết. Toàn cảnh hiện nay là những móng tường đá nham nhở, những mảng tường gạch trơ trụi, không kể khu xà lim ngầm ít suy suyển. Trên cảnh hoang phế đó, nổi lên khóm cây đào xanh um che mát cả một góc. Cây đào, truyền rằng do Tô Hiệu gieo hạt năm 1942 trong hành lang tuần tra của nhà tù và chăm sóc, từng bị mảnh bom phạt ngang, sau đó các chồi đã nẩy lên từ gốc cũ. Nhà tù này có cái lạ: mặt bằng các buồng giam thường có hình tam giác hoặc gần như thế trong khu nhà tù cũng có dạng tam giác, một kiểu "kiến trúc chéo" độc đáo. Chẳng lẽ lại là dụng ý một thứ đòn tâm lí hay cân não đối với người tù? Khỏi phải nói thân phận đọa đầy của người tù, phải làm ra cả những thứ để hành hạ mình như cùm, xích (có những khoen cùm nay còn "tốt"). Đấu tranh kiên trì, dai dẳng mãi đến 1941 mới giành được quyền tự quản, mới bớt được roi vọt, bớt được ăn chặn, hạch sách, mới có điều kiện chăm sóc nhau,… Đến đây, tự nhiên tôi nhớ đến ý kiến của một người quen. Ông ta là một đảng viên kì cựu, hơn bốn mươi tuổi Đảng. Ông ta nói: "Chẳng cần phải đấu tranh, chẳng cần phải đánh nhau để giành độc lập. Chế độ thực dân tự nó khắc phải tiêu (!)". Một thứ "sung rụng" luận kì quái.
             Đứng trên tàn tích nhà tù Sơn La, phía trước là những dinh thự mới, cột ăng-ten đài truyền hình cao vút, phía dưới, bốn chung quanh khu đồi, phố xá trải ra khá rộng trội màu trắng đỏ, núi gần xa chẳng còn hoang rậm, khách tham quan muốn hoài niệm một chút cũng khó. Ngay như với phần nhà tù Hoả Lò Hà Nội được bảo tồn nguyên vẹn, nhưng sáng quá, sạch quá, cũng chỉ để xem cho biết mà thôi.
         

               Gần nửa trăm năm mới thấy đây
               Tôi vốn hay tưởng tượng nhưng tưởng tượng khá là tồi. Đọc và nghe kể về thị xã Điện Biên Phủ đang trên đà phát triển, nhất là từ khi trở thành thủ phủ tỉnh Lai Châu, tôi chỉ hình dung ra vài ba phố xá ven chân núi phía tây cánh đồng Mường Thanh, cũng có nhà tầng, đường nhựa nhưng thưa vắng; những đồi nổi danh A1, C1, Him Lam,… nhô lên trơ trụi trong một không gian hoang vu.
             Sự thật khác xa. Từ ngoại vi, cách trung tâm chừng 6km, đã có bóng nhà cửa đó đây. Bên kia một con suối, lưng chừng đồi, ngự một biệt thự xinh xắn hai tầng có thể đặt ven Hà Nội mà không sợ kém thớ. Thị xã bất ngờ mở ra với phố phường đông vui. Khu trung tâm có hai con đường đôi rộng rênh cắt vuông góc nhau. Một cán bộ tỉnh Lai Châu cho biết thị xã còn hai trung tâm nữa tuy không có đường đôi như thế. Đứng trên đỉnh đồi A1 hay đỉnh đồi Him Lam có thể thấy phố xá bao quanh tứ phía, qui mô chẳng kém một đô thị miền xuôi cỡ thành phố Hải Dương. Thị xã nằm phía đông sông Nậm Rốm. Bên kia, cánh đồng Mường Thanh trải rộng thảm lúa đang vào hạt, trên đó lộ rõ một vệt thẳng tắp như một vạch đậm: sân bay dân dụng được cải tạo và nâng cấp từ sân bay dã chiến của quân chiếm đóng Pháp ngày trước. Đường phố Điện Biên khá rộng và thẳng. Một số nơi rợp hoa bằng lăng. Dường như loại hoa này ở đây to hơn và tươi hơn ở Hà Nội, chẳng hạn. Có đầy đủ nhà hàng, khách sạn, quán karaôkê, quán giải khát,… Có hầu hết các thứ hàng công nghiệp mà các đô thị miền xuôi có. Giống thị xã Sơn La, có nhiều xe máy "ôm". Xe xích lô ít và chỉ dùng để chở hàng. Như mọi đô thị đang phát triển, Điện Biên cũng bề bộn, song không có vẻ xô bồ. Sự hoạt động bon chen không lộ rõ. Dân phần lớn là người Kinh. Có những người đánh trận Điện Biên Phủ rồi ở lại góp phần xây dựng. Có những người đến đây thời phong trào "phát triển kinh tế, văn hoá miền núi" những năm sáu mươi. Có những người đến công tác dân sự, quân sự rồi nhận làm quê mới. Có những người trôi dạt đến tìm thấy điểm dừng chân trên bước đường kiếm sống. Sự "Kinh hoá" một đô thị miền núi thường mạnh hơn sự "bản địa hoá" những người tới định cư. Điều này tất nhiên không có lợi mấy cho sự bảo tồn bản sắc dân tộc địa phương. Vùng thôn quê ven thị có nhiều người dân tộc, chủ yếu là người Thái, song cũng đã có nhiều người Kinh xen cư.

               Dấu lưu chiến trường xưa
               Dưới chân đồi A1 nổi tiếng, nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ nằm trang nghiêm với nhà tưởng niệm trắng hình chữ A cách điệu, với lầu chuông vút lên trên một lễ đài trông xuống một quảng trường đủ cho những cuộc mít tinh vài ba nghìn người. Trong nghĩa trang, nhiều mộ không ghi tên; nghe nói để tránh người thân đến xin hài cốt liệt sĩ về quê(!). Thiết nghĩ, nếu có vậy thì cứ giữ nguyên mộ chí lại cũng chẳng sao. Sự "vô danh hóa" này có hợp lí và hợp đạo lí?
             Các địa điểm liên quan đến cuộc chiến nay đều còn nhưng dấu tích tất nhiên khó còn nguyên vẹn.Trường hợp như đồi C1 bị bạt đỉnh đi để xây cột truyền hình cho đến nay là hãn hữu. Hầu hết các đồi, cây hoang mọc đầy, chiến tích chỉ lưu lại trên tấm bia. Đồi Him Lam, ngoài cây dại, một phía thấy mọc rất nhiều tre, một số nhà dân đã len đến chân đồi. Chỉ còn một đoạn hào nhỏ sắp bị đất trôi lấp hết gần tấm bia lớn trên đỉnh. Đồi A1 còn giữ được hầm ngầm cố thủ của địch, hố bộc phá khoét bung từ ruột đồi (hiện nông choèn), cửa vào đường ngầm chôn bộc phá, một số đoạn hào. Hầm đặt sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm, người ta quen gọi là hầm Đờ Cát, đã được tu tạo lại y như thật. Cầu Mường Thanh cũ khung sắt, lát gỗ, vẫn còn, cách cầu mới hiện đại chừng 500 mét. Tôi đứng lâu trên cầu cố hình dung những bước chân quân ta rầm rập băng qua vào chiếm sở chỉ huy quân địch, sau khi cứ điểm bảo vệ cuối cùng của chúng, đồi A1, thất thủ, mà khó quá. Chiếc cầu di tích và chứng nhân nằm buồn đó như mọi cầu hết thời khác, lạc lõng, dẫu từng lúc vẫn có người và xe đạp đi qua. Đường đi vào cầu phía thị xã ngự một cái chợ trời lem nhem, thứ chợ quê. Sông Nậm Rốm chảy dưới cầu giờ là một lạch nước con, dẫu không phải mùa nắng hạn, len giữa các bãi ngô tươi tốt phủ gần kín lòng sông. Người ta nói "thủ phạm" là hai mương thuỷ lợi đông và tây. Khi tôi ngỏ ý: sông Nậm Rốm cạn thật là đáng tiếc, cảnh quan lịch sử của Điện Biên Phủ giảm nhiều ý nghĩa và vẻ đẹp, một quan chức Lai Châu nói chắc chắn: "Sông ấy, sẽ phải bảo tồn". Mong và tin sẽ là vậy. Gần đầu cầu, phía sân bay, một khẩu đại liên của Pháp ghếch nòng ảm đạm. Tàn tích chiến cụ của địch còn giữ được không nhiều. Hai chiếc xe tăng trên đồi A1 và gần hầm Đờ Cát, cánh quạt máy bay trên đồng Mường Thanh, … Không kể số đang trưng bày trong sân nhà bảo tàng (may mà "sáng kiến" bán sắt vụn kiếm ngoại tệ chưa bị huỷ hết những thứ đó như đã huỷ bao thứ ở các căn cứ quân sự địch xưa, nhất là của Mĩ).
             Khách tham quan biết ơn địa phương đã gìn giữ - cho cả mai sau, những dấu tích chiến địa, đã dựng nhà bảo tàng, đã xây nghĩa trang cùng nhà tưởng niệm. Tuy nhiên, với lòng ngưỡng mộ, tôi có đôi chút bất như ý. Đến thăm di tích, người xem mong tìm lại, hình dung được, ít nhiều bóng dáng thời xưa, thời xẩy ra sự kiện. Nên chăng khôi phục lại một số đoạn hầm nào có tính chất đại diện hoặc điển hình trên các đồi, trên cánh đồng Mường Thanh, cả trên đồi A1, cả quanh hầm Đờ Cát. Hầm sở chỉ huy của viên tướng này tuy có rào ngăn bảo quản nhưng có vẻ như một "vật thừa" hoặc vật bị đặt lạc chỗ. Chiếc xe tăng gần đó cũng có vẻ như vật bị bỏ quên hoặc vật vứt đi. Hình như thiếu sự "tạo cảnh", sự "kết liên" cần thiết để gây ấn tượng sâu cho du khách, để thu hút du khách, nhất là khách nước ngoài. Những xác chiến cụ địch còn "sót lại" trên chiến địa xưa hoặc được giữ trong sân nhà bảo tàng để dãi dầu mưa nắng như hiện nay, chẳng biết dăm chục năm nữa con cháu chúng ta còn được "xem" nữa không? Nhà bảo tàng là một cố gắng lớn của địa phương. Nhưng giá như các hiện vật, các mô hình,… phong phú hơn, "sát" hơn. Chẳng hạn, thành tích thồ xe đạp của dân công đạt kỉ lục 352kg/chuyến, vậy mà vật trưng bày chỉ lèo tèo mấy bao con chất hờ hững trên một chiếc xe đạp nghiêng nếu đựng gạo thật thì chưa chắc nổi 100kg. Về thuyết minh, các cô hướng dẫn viên tỏ ra chịu khó, nói nhanh, gọn và lưu loát, - lưu loát quá, có lẽ vì quá quen thuộc nên vắng cái "thần" trong giọng nói. Nhiều chỗ quá giản lược. Bản đồ có đèn "tắt, mở" nhưng không biết tận dụng, để minh họa các diễn biến trên các chiến trường trước chiến dịch Điện Biên Phủ chẳng hạn. Cuộc chiến 55 ngày đêm được thuyết trình qua phim vi-đê-ô, phương tiện hiện đại đỡ sức người, điều đáng mừng. Nhưng hơi phiền là băng hình nhoè quá. Mặt khác, bàn mô hình chiến trường toàn cảnh bằng thạch cao to rộng kề đó thành thừa, không được tận dụng ít ra là kết hợp. So với những lần trước đây tôi được nghe và nhìn về chiến dịch Điện Biên Phủ thì lần này giản tiện quá, kém hiệu quả. Tôi đã được xem trong phòng hình tròn mô hình trận Sta-lin-grát ở Von-ga-grat và mô hình trận Bô-rô-đi-nô ở Mat-xcơ-va. Người ta khéo kết hợp mô hình di động với hình vẽ tạo ra được chiến địa mênh mông. Vách phòng như không tồn tại, trước mắt có cả chân trời; nếu không biết trước thì có thể ngỡ không phải là phông, là hình vẽ. Khách tham quan có thể nhìn bao quát cả chiến trường và diễn biến của cuộc chiến. Trận Điện Biên Phủ xứng đáng có một phòng như thế tại chỗ và tại Bảo tàng quân đội.Với kinh nghiệm của người ta và với kĩ thuật ngày nay, việc đó hẳn chẳng quá xa vời.

               Nơi gần đây vẫn còn ít được biết tới
               Thấy tận mắt sở chỉ huy của địch rồi, câu hỏi được đặt ra: vậy sở chỉ huy của ta ở đâu? Trước đây thấy bảo tới đó rất khó, chỉ có thể dùng trực thăng, tôi cứ nghĩ nơi ấy ắt nằm tít trong rừng sâu. Thực ra chỉ cách thị xã Điện Biên 10km theo đường chim bay và nằm trong địa phận xã Mường Phăng. Đường ôtô tới đó gần đây đã được làm, rải nhựa, dài hơn 40km, quanh quất nhiều dốc, nhiều ngoặt, nhiều chỗ nương theo đường mòn, đường kéo pháo ngày ấy chủ yếu luồn trong rừng già. Ngày nay, đường qua rừng tự nhiên chưa đến mươi ki-lô-mét quãng giữa, còn lại là rừng trẩu của chương trình 327 hoặc những sườn núi trụi, những nương rẫy, gần hồ Pa Khoang cả một dãy đỉnh núi bị gọt trọc.
             Sở chỉ huy chiến dịch nay còn lại cái lán Tổng chỉ huy và lán Tham mưu trưởng. Lán bằng gỗ, tre, nứa được phục chế, gồm hai gian, mỗi bên rộng cỡ hơn chiếc chiếu đôi một chút. Hai lán thông với nhau bằng một đường hầm dài 97 mét, cao chấm đầu người, chèn gỗ, nay mới khai thông lại được 7 mét chưa có chiếu sáng. Đường mòn từ rìa rừng tới lán, nay được lát những tấm xi măng hẹp vừa một người đi, từng đoạn men một con suối nhỏ, xa chừng hai ki-lô-mét. Một người từng phụ trách tài vụ năm ấy cho biết xưa kia các bộ phận của sở chỉ huy rải ra trong khu rừng này. Ông trỏ một đoạn suối bảo đây là nơi bọn ông sáng sáng đánh răng, rửa mặt, và trỏ mấy nhà sàn bên kia suối kể chuyện thỉnh thoảng ra đấy mua sắn về nướng "cải thiện". Ngày ấy, nơi đây chắc là rộn rịp trong "bảo mật". Nay thì chỉ là một rừng vắng, không rậm lắm. Giá như phục hồi phần nào (tượng trưng cũng được) những lán, những đường mòn, những cột, dây điện thoại, bếp hậu cần,… cùng những biển ghi, biển chỉ đường để gợi hoài niệm về cơ quan đầu não của một chiến dịch lịch sử.
             Xã Mường Phăng là một xã giàu theo lời viên trung tá dẫn đường. Cư dân chủ yếu là người Thái. Nhà san sát men chân núi, hầu hết lợp ngói. Cánh đồng lúa nước khá rộng so với nhiều nơi ở các vùng bán sơn địa. Một trường Phổ thông Trung học Cơ sở khá khang trang. Đúng là một xã có vẻ khấm khá, hơn làng quê cũ của tôi.
             Nhân dịp kỉ niệm 45 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, người về thăm sở chỉ huy Mường Phăng khá đông. Buổi chiều chúng tôi đến, có hơn mười xe ôtô. Xe máy cũng nhiều. Có cả xe đạp, hẳn là từ những nơi gần quanh.
             Trước lối vào khu di tích, đã hình thành một cái chợ con con bán đủ "đặc sản" địa phương: sắn luộc, mật ong, rượu, thuốc nam, ghế song, thổ cẩm,… Mấy cháu bé người Thái ôm mỗi cháu một bó lá rừng cả nhánh lẽo đẽo theo chúng tôi:
             - Mời bác mua…
             - Cây thuốc đó à?
             - Ừ.
             - Sao lại "ừ"? Phải đáp "vâng" chứ!
             - Ừ.
             - Cha mẹ cháu có làm gì không?
             - Không.
             - Có làm ruộng không?
             - Có.
             - Con nuôi lợn, gà, trâu không?
             - Có.
             - Vậy là có làm đấy chứ.
             - Ừ.
             - Cháu có đi học không? Lớp mấy rồi?
             - Có. Lớp Hai.
             - Cây thuốc này nhà trồng đấy à?
             - Không. Cháu không có tiền học, phải vào rừng lấy bán.
             - Mỗi lần như thế được nhiều tiền không?
             - Hai nghìn. (chừng giá tiền một bát phở quê)
             Người đi cùng tôi nhận xét là các cháu có vẻ "khôn" (hàm ý "láu"). Tôi không nghĩ vậy. Mà nếu có vậy thì cũng do người "dưới xuôi" chúng ta cả thôi.
             Đường về, trời chiều đẹp tuyệt nhưng không ghé được hồ chứa Pa Khoang, một điểm sáng du lịch giữa núi rừng mà nếu nghỉ lại thì chỉ có sướng mê.Vì một cuộc tiếp xúc và chiêu đãi ngoài kế hoạch.
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.03.2009 12:12:20 bởi Khải Nguyên HT >
        #4
          Khải Nguyên HT 08.03.2009 11:51:34 (permalink)
          AI VỀ TÂY BẮC (tiếp theo)   


                 Một cuộc xuống bản

              
               Cô hướng dẫn viên mặc váy áo Thái, thon thả, dễ thương, tiếng nói thanh, êm. Cô xưng cô là người Thái. Một ông trong đoàn hỏi, bỗ bã : "Thái thật hay Thái giả đấy?" Cô cười e lệ chạy đi, tiếng cười trong vắt như "nước suối giữa rừng". Đoàn nhờ cô thu xếp cho một tối thăm một bản Thái nào đó. Cô bảo chương trình nên có ăn cơm Thái, uống rượu cần và múa xoè (với giá 60.000đ/người). "Ăn ngon, đảm bảo vệ sinh, các bác, các chú đừng lo". Cô sốt sắng đi gọi điện lúc gần 12 giờ trưa. Hơn một giờ sau, vì có cuộc chiêu đãi đột xuất, trưởng đoàn nhờ cô báo huỷ mục "ăn cơm Thái" trong chương trình xuống bản. Cô lắc đầu:"Người ta đã đi chợ sắm các thứ rồi, không bỏ được". Buổi tối, sau khi dự bữa ăn khá thịnh soạn, hơn ba mươi người lên xe đến nơi dự định, cách thị xã chừng năm ki-lô-mét.
               Một ngôi nhà sàn bề thế, dài 15 mét, rộng 8 mét, cột gỗ tròn bào nhẵn, thưng ván lợp ngói xi măng đúc. Một tấm màn hoa dày kéo suốt chiều dọc ngôi nhà che khuất một phần ba lòng nhà, hẳn là chỗ dành riêng cho những phòng nội thất. Một bữa ăn ê hề đã bày sẵn trên sàn đợi khách. Sáu mâm thẳng hàng gần sát tấm màn che. Mỗi mâm xen một người của chủ nhà để tiếp: vợ, chồng, con, dâu, cháu họ. Món ăn là đặc sản "cây nhà lá vườn"(chứ chẳng phải "đã đi chợ sắm các thứ rồi"!): da trâu nướng, cá nướng, thịt bò nướng, thịt dê nướng, nộm thịt, măng bao tử luộc, canh bí ngô xanh, xôi dẻo và rượu tự chế. Chủ nhà lấy làm tiếc rằng do bận tiếp một quan chức cao cấp từ Hà Nội lên dự lễ kỉ niệm vào ngày mai nên không làm cơm lam được. Ông là người to con, 64 tuổi, rắn rỏi, nói tiếng Kinh rất sõi, giọng vang, khoẻ. Ông luôn miệng giục khách nâng chén, cầm đũa. Ông đến từng mâm khuyên mời:"Của nhà làm ra, vệ sinh, không quí không mời khách. Người Thái ăn dai, đừng ngại ngồi lâu (ông đã biết khách vừa rời một tiệc xong)". Ông đích thân xé những khúc cá ao nhà to đầy đĩa bỏ vào bát khách. Trước khi xé, ông xoè hai tay "Tay tôi sạch đấy nhá", còn lấy giấy vệ sinh lau nữa. Nhưng hỡi ơi! Bụng của khách chẳng phải là bụng Lê Như Hổ hay bụng Trạng Ăn trong truyền thuyết. Cách chưa đến nửa giờ, dẫu trưởng đoàn đã khuyến cáo "chỉ ăn nửa bụng thôi!" thì cũng chẳng ai "nỡ" ăn nửa vời, chính trưởng đoàn cũng chén tì tì. Bây giờ các vị "lịch sự" nếm mỗi thứ một tí. Thức ăn không thật lạ, nhưng xôi thì dẻo cực kì. Nhưng ... cái gì cũng có thể "cố" được, chứ kẻ đã no thì... Mới hiểu thế nào là "thừa mứa". Một bữa ăn phi lí và vô duyên!
               Bù lại, khách được rộng tầm mắt qua câu chuyện cởi mở, khoáng đạt của chủ nhà. Năm 18 tuổi, ông vào dân quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Bản Long Nhai của ông bị giặc Pháp ném bom huỷ diệt ngay buổi đầu. Ông thoát chết nhờ đi tắm. Bản chuyển về đây thuộc  huyện Điện Biên tây từ năm 1983, vẫn giữ tên cũ. Dân xã gồm 51% Thái, 43% Kinh, còn lại là Khơ Mú. "Xã tôi chưa giàu lên đâu, tạm vậy thôi. Còn 8% nghèo". Ông từng làm chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, nay làm bí thư chi bộ, đã 21 năm. "Muốn thôi, chưa cho thôi". Bà vợ cũng còn khoẻ mạnh, lanh lợi có vẻ quen giao tiếp. Ông bà có đến 10 con. Hỏi làm sao mà khá giả, ông hồ hởi: "Tôi định làm nhà khách to. Sáu Dân bảo: làm nhà khách dân chửi đấy. Biết Sáu Dân chứ gì? (S.D. là tên thân mật của cựu thủ tướng V.V.K.). Tôi bèn làm trang trại". (Trước khi ra về, tôi được ông chủ dùng đèn pin dẫn đi xem vườn cây ăn quả - táo đang đâm chồi, vải vào quả xanh rất sai; ruộng lúa tẻ, lúa nếp rất dày, thấp cây 40 - 50cm, đã vào mẩy, chủ nhà ước năng suất 7tấn/ha/vụ; - ao cá trắm nuôi bằng giống tự cho đẻ. Dưới nhà sàn khá sạch, khô ráo, chỉ để nông cụ).Bữa ăn gượng gạo vừa dứt, dưới sân trước nhà đã nổi tiếng trống và tiếng chập choeng rộn rã, thúc giục. Đêm xoè bắt đầu. Hơn chục cô gái được triệu tập đến. Múa tập thể vòng tròn và múa đôi. Múa thì đơn giản, chỉ cần vung mạnh tay và dập bước chân cho ăn nhịp. Giữa vòng tròn là vò rượu cần. Từng lúc, người xoè xúm lại mút cần. Rượu nếp ủ men để nguyên không chưng cất. Có thể múa và mút thâu đêm. Được biết nhiều đoàn khách, trong nước và nước ngoài, đã từng về đây ăn, uống và múa. Có đoàn "Tây" ngủ lại ba đêm liền. Nhà chủ sẵn chăn màn cho khách. "Nhảy với Tây mệt lắm, nó vung tay rất khoẻ và nhảy dai", một cô thổ lộ. Lối sinh hoạt này "phục vụ khách du lịch" tất nhiên mang tính dịch vụ. Cô hướng dẫn viên "người Thái" hoá ra là người Kinh, con một quan chức của tỉnh, em kết nghĩa của chủ nhà tối đó. Cô thường tổ chức cho khách về đây. Các cô gái được gọi đến xoè gần như là chuyên trách. Dĩ nhiên chẳng phải là "gái xoè" như xưa kia. Dù sao, đây cũng là một "mục văn hoá" mang màu sắc dân tộc cần duy trì, nhưng cũng cần phải được nâng cao hơn, cần "có bài bản", tránh đơn sơ, đơn điệu và dung tục hoá, nghĩa là cần hoàn thiện hơn và "giữ gìn".

                Lễ kỉ niệm 45 năm

                Sân vận động Điện Biên với khán đài bao quanh không lớn chứa tới 12.000 người dự mít tinh mừng 45 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, một cuộc tập hợp và biểu dương lực lượng ngày nay không mấy hấp dẫn dưới xuôi. Ở đây, phía ngoài sân vận động, trên đồi, trên mái nhà, trong phòng học, phòng họp trông ra chen đầy người với đủ sắc màu của áo quần, mũ, ô (có lúc mưa nhỏ).
               Cuộc mít tinh  cũng mở đầu với đủ lệ bộ các bài diễn văn. May mắn là không lê thê. Phần lớn thời gian dành cho diễu hành và đồng diễn. Diễu hành quân và dân. Ba màn đồng diễn với qui mô hàng nghìn người của học sinh các trường Sư phạm và phổ thông. Có thể ngỡ như đang xẩy ra ở một thành phố dưới xuôi. Hơi tiếc là ba màu dùng trong các màn đồng diễn hơi gắt, không hài hoà mấy. Cũng là những màu trên thổ cẩm đấy thôi, song trên thổ cẩm là những hoa văn quyện vào nhau lại phối hợp với các màu khác nữa. ở các màn đồng diễn là từng màu riêng biệt trên cờ, băng, quần, áo.
               Có hai phóng viên nước ngoài, của AFP và của Roi-tơ. Cô người Anh thuê người Việt cầm máy nên ung dung khoanh tay đi lại nhìn ngó. Những gì họ quan tâm khác với các phóng viên trong nước. Có khi người phóng viên Pháp chỉ quay những bước chân diễu hành của tốp trẻ nhỏ. Các nhà báo của ta thì nhao lên chen nhau chụp, quay khi có quan chức cao cấp bước lên bục nói.
          Cuộc mít tinh như vậy là được. Nó không tưng bừng như ngày trước, song không miễn cưỡng. Buổi chiều, khi chúng tôi đến thị xã Lai Châu một cô bác sĩ người gốc dưới xuôi, còn rất trẻ, quan tâm hỏi: "Buổi lễ có vui không bác?" Cô tiếc vì phải làm việc không về Điện Biên dự được.Lần kỉ niệm 45 năm chiến thắng Điện Biên này, địa phương sở tại đứng chủ tổ chức. Dự định lần kỉ niệm thứ 50 sẽ do trung ương đảm nhiệm. Dịp này, một nữ kí giả Anh từng phụ trách ban Việt ngữ đài BBC có viết cho đài này một bài bình luận với nhận xét có hàm ý rằng: mọi năm lễ kỉ niệm tổ chức tại Hà Nội mà nay chỉ tổ chức tại chỗ và không thấy những nhân vật trọng yếu của Điện Biên Phủ năm xưa .v.v... Bà đầm Anh già này chưa bao giờ tỏ ra có thiện ý với Việt Nam trong các bài bình luận khi còn tại chức, nay đã về hưu vẫn là con chiên của lập trường chính thống Anh. Ngẫm ra, chẳng đài nào thật sự khách quan, vô tư, nhất là những đài do nhà nước quản lí hay tài trợ. Chợt liên tưởng tới một phát thanh viên của BBC, gốc Việt, ông X.K., người từng tán tụng đài là "khách quan, vô tư", một lần sau khi nghỉ hưu, trả lời phỏng vấn của chính đài này đã khuyên thính giả đừng tin những điều ông ta đã đọc trên đài và "Tây hay Đông đều là đồ chó đẻ".(Đáng khen là BBC đã cho phát những lời này, điều mà không phải đài nào cũng dám làm!).

                 Một thị xã
          hẩm hiu
                 Theo rõi dự báo thời tiết, sẽ thấy nhiều khi "riêng Lai Châu" nhiệt độ cao hơn về mùa rét so với lân cận. Phần trên của tỉnh Lai Châu được dãy Hoàng Liên Sơn chắn gió mùa đông bắc. Người Điện Biên bảo thị xã Lai Châu mát hơn và ấm hơn. Nhưng thị xã này không còn là tỉnh lị, nhường cho Điện Biên. Mọi đô thị trên đất nước ta đều đang có chiều hướng phình to và nhô cao. Riêng thị xã Lai Châu có vẻ teo tóp đi. "Ngày vui" của nó quả "chẳng tày gang". Cách mạng tháng Tám chưa kịp thấm thì năm 1946 bọn Pháp bại trận trước quân Nhật chạy qua Vân Nam trước đó đã quay lại chiếm đóng cho đến cuối năm 1953 khi quân ta lại vào giải phóng tiếp miền Tây Bắc, trước trận Điện Biên Phủ. Thị xã tỉnh lị Lai Châu "cầm chừng" trong một thời gian dài do vị thế phải trực diện đương đầu với địch họa và thiên tai, đang dần cố ngoi lên thì năm 1997 bị một trận lũ quét khủng khiếp. Ngấn nước còn lưu lại nhiều nơi. Tang chứng đập vào mắt nhất là xác nhà Văn hoá của tỉnh. Ngôi nhà to rộng, bề thế bằng bê tông cốt thép bây giờ đứng trơ khung bên đường. Lại thêm nỗi bị mấy kẻ túng quẫn vào đập phá lấy sắt thép đi bán làm cho càng thảm hại. Tình cảnh "ngoi ngóp" chưa biết đến bao giờ. Ai có vai vế, ai giàu có đều lần lượt dời đến Điện Biên hoặc nơi nào khác. Chẳng đâu giá nhà rẻ như ở đây. Một ngôi nhà hai tầng, có vườn rộng phía sau, rao giá mười triệu đồng chưa có người mua. Mai ngày, nếu làm nhà máy thuỷ điện Tạ Bú thì nơi này có cơ chìm sâu dưới hai mươi mét nước. Hiện tại, người dân thị xã Lai Châu vẫn phải sống, vẫn bươn chải. Chủ yếu là buôn bán. Một ít lâm thổ sản. Khách sạn tư nhân L.A. có một kho quả bồ hòn bán buôn, có chuồng nhốt thú rừng, một con mèo rừng và một con gấu đang chờ khách "gọi món đặc sản". Những cửa hàng tạp hoá nhỏ ê hề hàng Trung Quốc nổi bật là ô các loại và đồ nhựa, thứ mà ta sản xuất chẳng thiếu.
               Phía ngoài thị xã Lai Châu, trên đường đi Phong Thổ, một cây cầu dài, cầu Hang Tôm, bắc qua sông Đà. Cảnh trí thật đẹp. Chiếc cầu vắt vẻo trên sông, bên dưới nước đỏ phù sa (đang mùa mưa) tuôn ào ạt; hai bên núi lô nhô uốn lượn, rừng cây thấp thoáng xa, đây đó những mảnh vá nương rẫy trên sườn núi sẫm. Chắc chắn là lần cuối cùng tôi được nhìn lướt qua.

                 Về đây mây núi Sa Pa
                 Hè năm 1962, tôi đến Sa Pa. Mấy dòng nhật kí: "Từ Lao Cai lên Sa Pa bằng xe chở lợn (xe tải) ngồi trên ghế dài học trò. Đường toàn lên dốc, ngoằn ngoèo. Mưa nhỏ nhưng rát và lạnh. Xe đi trong mây mù. Nôn nao, mấy lần toan oẹ. Sa Pa là đây! Một phố nhỏ ngắn ngủi với một ít nhà gạch còn sót lại. Mấy ngả đường lổn nhổn đá quanh co ven đồi, lên xuống. Những nền nhà và đường trơ trụi, di tích của những biệt thự và khách sạn xưa kia, một thời phè phỡn của bọn thực dân và quan chức, rải rác đây đó. "Trạm nghỉ mát" vừa xây xong trên nền khách sạn Fansipan cũ. Đứng trong hiên nhìn ra lòng thung chếch trước mặt khí núi đùn lên như những mớ bông khổng lồ từ từ dâng cao khó nhận thấy; đỉnh Phăng-xi-păng khuất trong mây trắng. Chiều tối, sương mù như khói loã
          ng tuôn vào tận phòng. Không khí mát lạnh như vào cuối thu dưới xuôi..."
                 Lần đến Sa Pa này, không có duyên với mây núi. Buổi chiều hôm đến, mưa nhỏ hạt cho tới khuya. Hôm sau trời nắng to, chẳng bảng lảng chút mây mù nào. Sáng ngày thứ ba rời đi, tôi thèm có lại cái ấn tượng ba mươi mấy năm về trước. Sa Pa ngày ấy đẹp hoang sơ. Rất ít nhà và hiếm người. Một ngôi trường tiểu học cổ, lèo tèo học sinh. Một cái chợ không lều chợ; một dúm người bán và mua, mới họp đã tan. Được cái cảm giác sống giữa thiên nhiên cao rộng, phóng khoáng làm tâm hồn lâng lâng, bước chân lâng lâng. Leo núi, xuống suối, dạo bộ quanh quất, thăm mấy vườn đào, vườn hoa đơn lẻ... Duy, cảnh vắng khiến mủi lòng thương mấy cô gái Hà thành làm việc tại đài Vật lí địa cầu. "
          Đài ở trên đỉnh một ngọn đồi cách chợ Sa Pa độ hai cây số đường vòng vèo và 70 mét bề cao. Nhiều hàng cây pơ mu, phong cảnh có màu sắc ôn đới, tĩnh lặng, quá tĩnh lặng. Bóng một tà áo trắng, một khuôn mặt trắng hồng dưới làn tóc uốn nghé nhìn ra, thấy du khách, có mấy chàng trai, lập cập kéo dẹp tấm màn che cửa sổ, vội quá làm đứt dây treo... Sa Pa, thăm thì thú vị, ở thì buồn".
                 Sa Pa bây giờ đã là một thị trấn thực sự với nhiều khách sạn, nhà hàng, công và tư, nhiều nhà lầu. Chỗ xưa kia là trường tiểu học và đài liệt sĩ nay là những đường phố rải nhựa san sát nhà cửa. Phố xá ngày ấy chỉ còn lại ngôi nhà thờ đá và cái gọi là "nhà thầu". Chợ nay được xây khang trang hai tầng. Tầng trệt, chủ yếu là thực phẩm và hàng ăn, thưa thoáng. Tầng trên, chủ yếu là hàng vải, la liệt đồ thổ cẩm; có nhiều phòng trống hoặc khoá cửa. Dân các bản đến chợ chẳng mua bán mấy. "Phải bán gỗ pơmu mới có tiền tiêu", một thanh niên nói "hồn nhiên" (pơmu là loại cây quí hiếm cấm khai thác bừa, nhưng vẫn bị chặt trộm khá liều). Lâm thổ sản Sapa đâu có thiếu những thứ có giá khác: sa nhân, thảo quả, tam thất, nấm hương,... Người cùng phòng trọ với tôi kể rằng: năm ngoái ông ta lên đây có vào nhà một tỉ phú người Mông. Nhà lầu, xe dream, máy phát điện, các tiện nghi hiện đại; từng đống bao tải nấm hương, mộc nhĩ,... Anh ta bảo vừa có hổ, gấu, trăn nhưng khách Hà Nội lên mua hết rồi. Cảm thấy ở đất này thiếu chương trình, kế hoạch, thiếu hướng dẫn người dân. Vì sao mà những thứ cần giữ, cần bảo vệ cứ bị diệt dài dài?
               Chợ Sa Pa mãi tới gần sáu giờ rưỡi sáng mới lác đác có người bày hàng. Ngoài cửa chợ có những hàng quà sáng như dưới xuôi: xôi, bún, bánh mì,... Người bán, dáng dấp, nói năng thì rõ là người Kinh, song hỏi đến lại bảo là người dân tộc. Một chị bán chuối bị gặng hỏi thì lặng thinh. Bà bán xôi bảo là người Nhắng, nhưng tối hôm trước ngồi bán mía lại bảo là người Giáy. Một số thanh niên cũng hay xưng như vậy. Những "người dân tộc giả" làm ảnh hưởng xấu đến bản sắc dân tộc thật, xét cả hai phía.Nhiều cháu bé sinh ra và lớn lên ở Sa Pa. Các cháu thì không giấu gốc Kinh của mình, và không thật mặn mà với nơi "chôn rau cắt rốn". Một bé gái, quê Thái Bình nói: "Ở đây chán lắm. Ở quê nội thích hơn vì mát (?) và được các cô chiều". Một bé trai học lớp Một, cha làm thợ mộc, mẹ làm cấp dưỡng tại trường dân tộc nội trú, không biết tên quê quán, có ông bà nội, nhưng hè thường về với ông bà ngoại, thì "không thích quê vì nóng, nhưng lại thích vì có bạn". Những cháu bé này lớn lên sẽ lưu giữ những gì trong chiều sâu kí ức ấu thơ đây?

                 "Chợ tình" Sa Pa
                 Các vùng phụ cận Sa Pa có nhiều dân tộc thiểu số, đông nhất là người Mông, rồi người Dao. Ban ngày, nhất là buổi sáng, hay gặp ở Sa Pa những tốp phụ nữ người dân tộc, đông các bé gái 15, 16 tuổi, ngồi tụm lại đâu đó hoặc đi dọc các phố. Họ chào bán các thứ: túi thổ cẩm, vòng bạc, mật ong,... Họ rất thích được gọi vào hát hoặc đứng chụp ảnh chung, có thù lao. Một bé gái người Mông khá xinh gùi rau lợn sau lưng đang cùng bà mẹ trên đường từ chợ về bản, ngang dốc gặp một toán khách du lịch."Đi chợ tình về đấy à?" (hôm trước là thứ bảy) "Mới 16 tuổi chưa lấy chồng được, không đi chợ tình". Mấy ông rủ cô chụp ảnh. Bà mẹ nói: "Phải cho nhiều tiền à!" Chụp xong, đưa 5.000 đồng. Cô bé không chịu. Tưởng chê ít, mãi mới rõ là cô cần ảnh. Người ta phải hứa là sẽ gửi ảnh, cô mới chịu. Bà mẹ thì đã nhanh tay nhận tiền rồi. Hỏi địa chỉ để gửi ảnh, biết bé là con một chủ tịch xã.
               Tối thứ bảy, người dân tộc rủ nhau đến phố. Thường là thanh niên, cũng có các cặp vợ chồng, đôi khi mang cả con nhỏ theo. Đường xa, đèo dốc cũng đi, có thể mất cả buổi. Một số trước tiên đến lễ ở nhà thờ đá, nhà thờ đạo Cơ đốc La Mã . Đông người dân tộc theo đạo này. Nhà thờ chật ních. Lễ xong chừng tám giờ tối, họ hoà vào đám đông đến với cái gọi là "chợ tình".Có nhiều bài báo viết quá lời về chợ tình Sa Pa, hoặc thi vị hoá, hoặc gán cho nó tính chất hội trao duyên.
               Chúng tôi không gặp may khi định tìm hiểu. Tối hôm ấy trời mưa lất phất dai, đường nhớp nháp. Ở những nơi vốn đông nghịt vào dịp này - trên đường phố, chứ không phải trong chợ,- nay thưa thớt người. Đón đầu một chàng trai Mông hỏi chuyện:
               - Lần trước mình đã "bắt" được rồi, thằng bạn tranh mất.
               - Bắt như thế nào?
               - Trao một mảnh giấy hoặc hỏi "có đi không?", nó đồng ý là được.
               - Có hát không?
               - Hát cũng được. Mình thì không hát.
               - Mấy cô đi sau kìa, bắt đi!
               - Cùng họ, không bắt được.
               - Có hai cô đang tới đấy.
               Cậu trai Mông đến đón đường nói gì đấy bằng tiếng dân tộc. Hai cô né ra bỏ đi. Cậu ta bảo chúng tôi: - Người Dao. Không hiểu tiếng.
               Một tay rõ ra là người Á đông, trạc ba mươi tuổi, đội một cái mũ vải to vành có chóp nhọn như chóp nón, mặt lầm lì."Chinese?" Lắc đầu. "Japanese?". Lắc, vẻ khó chịu. Mãi rồi hắn mới mở miệng, giọng hơi gằn: "Corean". Chúng tôi quay đi. Một chị cùng nhóm (gọi là "chị" nhưng sắp có cháu nội) chạy tới kêu: "Thằng kia - chỉ gã đội mũ chóp - muốn bắt em". Mấy chị cùng nhau cười rất vui vẻ.
               Có bốn người da trắng, hai nữ, còn trẻ. Hỏi ra, hai cặp vợ chồng người Pháp. Nhân vui chuyện, hỏi đùa một anh: - Cho vợ đi "chợ" chứ? Anh ta cười tủm, lắc đầu quầy quậy: Không! Không!
               Hỏi chị vợ: - Vậy chồng thì được phải không?
               Chị ta cười ròn: - Cũng không được.
               Một anh hỏi: - Chợ là thế nào?
               Tôi nói: - Không phải chuyện mua bán đâu.
               - Cho? - Họ hỏi lại.
               - Không phải chuyện tình dục. Chủ yếu là người ta tâm sự với nhau, có khi hát đối đáp.
               Một bà già chẳng rõ là thuộc dân tộc nào cứ sán đến đòi bán vòng bạc, thổ cẩm, luôn miệng: "Mua đi! Mua cho tôi! Tôi nghèo lắm" Bà ấn cái túi thổ cẩm vào tay người Pháp: "Mất nhiều ngày mới dệt được đấy. Nghèo lắm, mua cho tôi". Họ vẫn không mua, tôi phải nói khéo mãi để bà già thôi ám họ.
               Hôm sau, tôi hỏi chuyện một số người địa phương. Ở "chợ tình" khi đã "bắt" nhau thì có thể tâm tình suốt đêm mặc người xung quanh, đứng, ngồi, "nằm" cũng được. Với người Mông, bắt nhau, hò hẹn phiên sau, thật ưng nhau rồi người trai chỉ việc dắt về làm đám cưới. Có trường hợp ưng nhau ở chợ tình nhưng cô gái bị chàng trai khác "cướp" về nhà. Trong vòng ba ngày, nếu cô gái chẳng chịu ăn gì thì được thả. Nếu cô chịu ăn thì nhà trai mổ trâu mời họ hàng, dân bản, nhà gái đến ăn uống. Riêng nhà gái còn được phần mang về. Làm vợ rồi, đến phiên chợ tình gặp người cũ mà còn vương vấn thì chồng cũng đành chịu. Nhân đấy, được biết thêm chuyện "kết hợp" nam nữ lắm vẻ, tuỳ sắc tộc. Người Dao "quản lí" lỏng. Lập luận đại loại: "Của tôi mà. Nhà nước có quản lí đâu". Người Giáy thì "nghiêm chỉnh", tuyệt đối theo chồng.

                 Cảnh đẹp Sa Pa
                 Thác Bạc cách Sa Pa hai ki-lô-mét. Từ độ cao dăm chục mét, nước đổ xuống trắng xoá. Tôi đã đọc một bài báo ở đâu đó phàn nàn việc nổ mìn phá đá để xây hai đường bậc thang leo lên gần đỉnh thác làm hỏng cảnh thác Bạc, và thác chỉ còn một cái khe con róc rách từ trên cao chảy xuống. Tôi có dịp hỏi chuyện mấy thanh niên địa phương. Họ nói:"Việc sửa sang thác Bạc có làm mất cảnh quan tự nhiên, song cũng làm đẹp lên. Còn thác thiếu nước hoặc ít nước đi là do rừng bị phá".
               Sa Pa có khu du lịch Hàm Rồng với những cái tên nghe đã hấp dẫn: Vườn lan, sân mây, rừng đá, sân ngắm đầu rồng, cổng trời, khu cắm trại và vườn quả, Tiên sơn động (thật ra chưa thành động),... Leo núi dốc và dài. Bù lại được thở không khí thanh thoát, trong lành (có lẽ nhờ vậy mà ít mệt hoặc mệt chóng qua) và thoả mắt ngắm nhìn: trước mặt là Phăng-xi-păng, nóc nhà của đất Việt, một màu xanh lam thắm (thực ra vào hôm có mây núi nhìn thích hơn), phía dưới là phố xá bày ra như ở các thị x Sơn La, Điện Biên nhưng nên thơ hơn vì cái thế cheo leo. Một du khách người Phú Yên nhận xét: So với Đà Lạt, Sa Pa còn giữ được vẻ hoang sơ. Tuy nhiên, thị trấn đang dự định phát triển phía tây bắc, và xây dựng một "làng dân tộc - phong cảnh" ngay trong khu Hàm Rồng. Phát triển là chuyện phải có. Vấn đề là giữ cho được cảnh quan đặc trưng, giữ cho được màu sắc thiên nhiên Việt Nam.
               Nhà thơ Xuân Diệu trong một bài thơ về Sa Pa có nói đến Thác Bạc, Cầu Mây. Cầu Mây giờ đã được (bị?) thay bằng cầu gỗ nghe chẳng được hấp dẫn như trước đây. Dẫu vậy, vẫn là nơi đáng thăm. Tuy nhiên trưởng đoàn khăng khăng: thăm thác Cát-cát (?) trước, còn thì giờ sẽ đến Cầu Mây sau. "Cát-cát", có lẽ từ tiếng Pháp cascade nghĩa là thác mà ra, là nơi hồi trước có nhà máy thuỷ điện nhỏ. "Cát cát còn hơn Thác Bạc nhiều lần", trưởng đoàn khẳng định. Đường đến đó khoảng bốn ki-lô-mét toàn xuống dốc. Xưa từng có đường rải đá đến lưng chừng, đi tiếp chỉ có đường mòn qua sườn cỏ dốc. Đoạn đường mòn sau này đã được xây thành bậc xi măng, nhiều chỗ dốc trên 60 độ (trưởng đoàn đếm được 973 bậc). Đoạn đường đá lở lói nhiều đang được lót thêm đá để rải nhựa. Đá lấy từ suối, đập nhỏ rồi gùi lên. Người làm là thanh niên Mông, trai thì đập, gái thì gùi. Các cô gái người nhỏ thó, nhiều cô chỉ cỡ 15, 16 tuổi cõng cái gùi đá to hơn người leo gần nghìn bậc thang dốc đứng đến mút đường đang rải đá, còn phải đi nữa, dưới nắng gắt. Dẫu là Sa Pa thì dưới nắng cũng chẳng mấy dễ chịu, nhất là trưa và chiều, đi không cũng đ túa mồ hôi rồi. Hỏi tiền công được bao nhiêu, lắc đầu không biết. Khổ thân các cháu! Chắc là bở các "cai đầu dài".
               Hai bên đoạn đường có bậc xi măng, trước trống trơ, giờ lác đác nhà dân người thiểu số. Vài nhà bày một ít chai, lon nước giải khát. Một nhà, một bé gái chừng 12 tuổi đứng cửa mời chào. Mấy lần gặp tốp các bé sáu, bảy tuổi chìa tay xin "cho tiền ăn kẹo!".
               Có nhà, có người cũng làm vui đoạn đường. Hiềm một nỗi, mùi khai nước đái trâu bốc lên nồng nặc, và từng lúc lại có một hoặc vài con chó xồ ra sủa ỏm tỏi khiến khách du hoảng, lo cho cái bắp chân.
               Xuống đến suối, một dòng suối nhỏ nước tuôn trào trên đá tảng, cũng đẹp mắt đấy, nhưng so với thác Bạc là chuyện buồn cười. Hỏi thăm đường vào cái thác "đẹp hơn thác Bạc" người ta bảo không có đâu, đi lên nữa cũng thế này thôi. Trưởng đoàn ngồi thừ ra. Năm trước, ông ta dẫn một đoàn trên đường đến đây bị mưa chạy vào trú trong trụ sở uỷ ban nhân dân một xã người Mông bị bắt giữ vì cái cớ rất vớ vẩn, mất cả vui. Ông chỉ mới nghe về thác "Cát cát", chưa tìm hiểu kĩ. Lẽ ra nên dành thì giờ eo hẹp thăm Cầu Mây và "bi đá cổ" nơi có dấu tích chữ viết thời tiền sử ở nước ta. Biết sao được! Trưởng đoàn thì cứ là trưởng đoàn. Dù sao cũng cảm ơn cuộc đi này. Được biết những chuyện mà những người hoạch định và thực hiện các "công trình du lịch" không biết hoặc không để tâm biết.

               Một thoáng hai bên biên giới
               Lao Cai năm xưa chỉ có mấy phố lụp xụp với con đường chính lượn khúc ven sông. Đi trong phố cũng thấy được đường xe lửa gần như song hành. Cầu treo lùng bùng vượt sông Hồng sang Cốc Lếu, một cái chợ gần như lộ thiên. Tôi đã ngủ đêm tại đây trong một quán trọ "bình dân" có phong vị lữ điếm trong các câu chuyện cổ. Ba mươi bảy năm rồi. Sau đó, người ta đã xây dựng lên một thị xã - tỉnh lị, tuy còn đơn sơ cũng đã khởi sắc. Nhưng rồi năm 1979 bị quân xâm lược Trung Quốc san thành bình địa. Cũng như ở Phong Thổ, Sa Pa, những người dân ngày ấy còn sót lại kể rằng những gì không cướp đi được chúng phá sạch, thậm chí đặt mìn phá đến cả ghi đường sắt. Lao Cai bây giờ đường phố rộng rãi, tuy có vẻ hơi cũ cũ, song xây dựng còn dở dang. Nhiều cửa hàng, khách sạn đề ba thứ tiếng Việt, Anh, Hoa. Cầu qua sông Hồng kiên cố. Chợ Cốc Lếu cũng hai tầng như chợ Sa Pa nhưng nhiều gian hàng hơn, bề bộn hơn. Đầy hàng thổ cẩm; kẹo bánh nội nhiều; nhưng cũng đầy ắp vải Tàu, chăn Tàu,...
               Làm thủ tục để ghé thăm đất bạn, thị trấn Hà Khẩu. Khác với ở Lạng Sơn, Móng Cái, lệ phí cao bất ngờ, 60.000 đồng/người, chưa kể tiền ảnh. Xếp hàng đến nửa giờ để lấy dấu vào giấy thông hành. Người đóng dấu bên ta chẳng cần nhìn mặt, nhìn ảnh. Còn bên kia thì chẳng buồn cầm giấy tờ, chỉ ra hiệu chìa chỗ cần đóng dấu ra thôi. Xem ra ở cửa khẩu nào cũng có chuyện làm chiếu lệ, nhất là phía bên ta. Người mình qua biên giới khá đông, mua bán kiểu cò con, tay xách nách mang, thì nhiều. Không nhìn thấy sự sách nhiễu. Một tay kiểm dịch viên, chắc là người Hán, còn trẻ, béo tốt, phổng phao, mắt gườm gườm, mặt lầm lầm, lảng vảng nơi rào chắn chẳng biết vì cớ gì.
               Hà Khẩu chỉ rộng chừng 5km2 nhưng đường phố chính và nhà cửa khang trang, có mấy ngôi nhà trên mười tầng. Các cửa hàng đều đề chữ Hán, chỉ vài nơi có thêm hàng chữ Việt nhỏ bên dưới (khác hẳn bên Lao Cai!). Hầu như không bán hàng nước ngoài. Mấy vị khách Việt nhà ta thích lùng mua thuốc hiếm như mật gấu..., và đồ chơi. Một ông đại tá mua một lúc bốn khẩu súng "hiện đại" có tiếng nổ "pằng, pằng" chói tai và tiếng hô xung trận bằng tiếng... Tàu! Ông ta hể hả lắm: "Bốn đứa cháu tôi rất kén đồ chơi. Cho chúng mừng, mà không tị nhau".
               Chúng tôi đang đi với chị P, người hướng dẫn, một trưởng phòng của Sở Du lịch Lao Cai, chợt một hột mận từ một gác hai ném xuống. Chị P chép miệng: "Chúng nó ghẹo người thanh niên kia đấy". Chị cho biết có đến hàng mấy nghìn gái Việt "làm ăn" ở đây, thường ở các hiệu gội đầu trên gác hai. Chúng trắng trợn chào khách. Còn bày trò moi tiền. Chị kể: "Một ông già bên mình sang đây tham quan, một đứa chèo kéo vào gội đầu, sửa móng tay. Ông ta từ chối, bảo không có tiền. Nó nói ngọt: "Cháu chỉ làm giúp thôi", không chịu buông tha. Làm xong, nó lẩn đi, chủ ra đòi tiền, lột đồng hồ của ông già". Người Tàu cũng có gái làm tiền nhưng kín đáo hơn. Chị P than thở: "Thật xấu mặt người Việt mình. Có mấy người Tàu sang Lao Cai lùng gái. Bảo không có đâu, chúng nói: Bên kia con gái Việt Nam đầy ra đấy. Bọn em phải giải thích: Đó toàn là bọn hư. Bọn hư thân mới trốn sang đấy. Bên này phụ nữ đứng đắn có đâu như bọn chúng". Viết những dòng trên tôi thấy ghê ghê, nhưng âu cũng là điều cảnh báo.
               Ở Hà Khẩu có một nơi được gọi là "chợ Việt Nam". Thật ra đấy là khu vực, không lớn, mà hầu hết các gian hàng là của người Việt. Họ thuê phòng của địa phương bán các hàng Việt Nam: nông lâm sản, hàng thủ công, hàng công nghiệp tiêu dùng (ít thôi) từ cái quạt nan cho đến giầy dép Bình Tiên. Và hàng ăn. Có nhiều khách ăn người Tàu. Chúng tôi vào ăn trưa. Ngon và rẻ. Hơi buồn một chút là khi gọi tính tiền chủ quán lại xướng tiền Trung Quốc (Nhân đây, xin nêu một thắc mắc. Đơn vị tiền Trung Quốc ghi trên giấy bạc của họ là nguyên (đọc theo âm Hán Việt), phụ đề trên màn ảnh truyền hình chữ Trung Quốc là           , chữ Anh là yuan; trong từ điển Larousse cũng ghi đơn vị tiền của Trung Quốc là yuan. Vậy mà báo, đài của ta đều viết hoặc nói là nhân dân tệ chẳng biết do đâu, rất mong được chỉ giáo. Nếu là danh xưng "tiền của nhân dân" như "quyền của nhân dân" chẳng hạn thì lại khác). Hỏi chuyện, người ta cho biết cũng kiếm được, tuy không nhiều. Cũng nhì nhằng, người làm phải lấy anh em, con cháu sang, có khi luân phiên nhau. Họ cũng buồn về số người "gây tai tiếng cho người Việt" trên đất người.
              
              
          Tây bắc không xa xôi
                 Hai tiếng Tây Bắc trước đây nghe "đáng sợ" cũng như hai tiếng Tây Nguyên, không chỉ là diệu vợi. Cũng ở Tây Bắc nhưng với hai tỉnh Lao Cai, Yên Bái cảm thấy gần gũi hơn với các tỉnh Sơn La, Lai Châu; có lẽ vì có đường sắt chạy qua, và tên con sông Thao (sông Hồng), con sông song hành với đường sắt, nghe không "hoang vu và cách trở" như con sông Đà. Không nên quên phần rộng lớn của Lao Cai, Yên Bái nằm bên hữu ngạn sông Thao với những tên đất "gây ớn" một thời: Than Uyên, Mù Cang Chải,... , những phần đất cũng dữ dội không kém.
               Hãy làm một chuyến du Tây Bắc, hãy nhìn tận mắt những phố phường, làng bản Tây Bắc, bạn sẽ thấy Tây Bắc không còn xa xôi, sẽ thấy Tây Bắc trong tầm mến thương của bạn.


          *Mấy câu thơ trong bài lấy từ bài thơ TÂy Tiến (Quang Dũng)

          Hải Phòng, 6 - 1999

          <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.03.2009 12:38:24 bởi Khải Nguyên HT >
          #5
            Khải Nguyên HT 12.03.2009 11:42:35 (permalink)
            Ghi vụn, chuyến thăm hồ Ba Bể


                   Heo hút Bắc Cạn
                   Tôi đã tới hầu khắp các tỉnh Bắc bộ nước ta, vậy mà với Bắc Cạn, một trong sáu tỉnh thuộc chiến khu xưa, thời tiền khởi nghĩa của cuộc Cách mạng Tháng Tám, lại chưa một lần được đặt chân tới. Không là một tỉnh biên giới mà Bắc Cạn nghe chừng heo hút, "khắc khổ". Cái tên tỉnh, không hiểu sao, nhiều lúc người ta viết Kạn thay vì Cạn cả trong một số văn bản chính qui cũng gợi sự trắc trở, xa ngái. Vẫn biết ngày nay đường sá, phương tiện đi lại đã khá lên nhiều, dẫu còn xa mới vào hàng tiên tiến, tôi vẫn ngại ngần khi cùng một ông bạn làm một chuyến du kiểu "Tây ba lô" (thật tình thì đâu đã xông xáo, dầu dãi được như họ).
                   Từ Hải Phòng đi Thái Nguyên gặp được chuyến xe "chất lượng cao" cũng khá thoải mái. Từ Thái Nguyên đi Bắc Cạn mới nếm mùi "hành" khách. Vừa đặt chân xuống bến xe Thái Nguyên, một thanh niên đến đon đả: "Hai bác đi Bắc Cạn thì mời lên xe. Chúng cháu đi ngay không rềnh ràng như các xe khác đâu". Vốn đã định nấn ná ở lại ít ra vài giờ thăm thú cái thành phố từng quen mà nay lạ hoắc, nghe bùi tai bèn leo lên xe. Thế rồi y như bản sao chuyện gặp ở bến xe Hà Tĩnh năm nào, xe thò ra thụt vào, quành đi quẩn lại, rập rình hơn tiếng rưỡi đồng hồ mới chịu chính thức rời bến cho. Xe chạy tuyến Thái Nguyên - Bắc Cạn. Nhưng lúc lúc lại trưng biển Cao Bằng lên trước xe, tại bến cũng như dọc đường, để dụ khách lên. Tới Bắc Cạn số khách này sẽ bị bán lại cho xe khác lên Cao Bằng, và dĩ nhiên lại lệ thuộc vào xe sau.
                   Tỉnh Bắc Cạn mới được lập lại chưa lâu, tách ra từ tỉnh Bắc Thái. Số phận tỉnh lị của nó, thị xã Bắc Cạn, cũng như của các tỉnh nhỏ khác tách ra từ cuộc "hôn phối" với một tỉnh có ưu thế hơn, hầu như bị bỏ lơ hoặc đối xử như với một thị trấn. Các tỉnh lị này lấy lại sức sống cũng tương đối nhanh. Thị xã Bắc Cạn đã kịp hình thành một khu trung tâm mới với những công sở khang trang và những con đường rộng rãi rải bê tông nhựa, trong đó có con đường đôi mà giải phân cách là những ô vườn hoa bề ngang chừng mươi mét, xinh xắn, được chăm sóc. Ngự một đầu vườn là tấm biển đề "Cấm người và thả súc vật" nom vừa tức cười, vừa cám cảnh. Tự nhiên nhớ đến chuyện tô giới của nước ngoài trên đất Tàu, thời các đế quốc còn làm mưa làm gió, đã trưng biển cấm bén mảng đối với "chó và người Trung Hoa". Một liên hệ chẳng mấy đắt, méo mó nữa, bởi chuyện sau chẳng phải là chuyện tức cười! Hơn nữa, rất khác nhau, một bên vô tình (và vô "câu cú"), một bên cố tình. Thị xã Bắc Cạn tọa lạc trên một thung lũng hẹp, núi đồi xen lấn. Có những khu nhà mới, như toà tỉnh uỷ, ngự trên cao. Khu trung tâm cũ có một cái chợ khá qui mô. Lâm thổ sản không nhiều như lí ra phải vậy. Không ê hề hàng Trung Quốc như ở chợ Lạng Sơn. Một phần lớn khu lồng chợ đầy hàng vải và hàng may mặc. Một cô bán hàng thanh minh: "Có nhiều thứ vải Việt Nam chứ không phải chỉ hàng Tàu đâu".   Thị xã đang trên đường kiến thiết. Song le, một cán bộ quan trọng của tỉnh trong câu chuyện thân tình hé lộ: nay đã sắp sang quí tư rồi mà chưa có cách sử dụng hết hơn trăm tỉ đồng trên cấp (Rõ ràng là "thật thà" hơn nhiều nơi khác, nhất là miền xuôi!).

                   So với nhiều thị xã, thị trấn, đây là một đô thị khá vắng, vắng xe cộ, vắng người lại qua. Gặp trên đường phố nhiều xe máy hơn xe đạp, chắc chẳng phải vì địa thế không thuận tiện cho xe đạp.
                   Có một chuyện "thật mà khó tin". Chúng tôi đang tìm "xe ôm". Trời mưa lất phất. Một cán bộ ban quản lí thị trường ở gần đấy đến bảo: "Trời này, họ chẳng chở đâu. Để cháu đi tìm cho". Nói rồi, anh phóng xe máy đi. Chừng mười lăm phút sau, anh mới quay lại cùng một người lái xe ôm. Anh này không tỏ ra sốt sắng cần khách lắm. Song cũng không bắt bí. Chả bù với ở dưới xuôi. Mời mọc, gạ gẫm, chèo kéo. Một người sở tại bảo: "Dân ở đây lười (?)". Xem ra thì chẳng qua họ làm nghề tay trái, không là nghề mưu sinh chính như các đồng nghiệp của họ ở nhiều nơi khác.
                   Bắc Cạn là một tỉnh thượng du, núi cao nhấp nhô bưng tầm mắt (ở lâu chắc là thèm chân trời), không hùng vĩ bằng ở Lai Châu, song đậm màu rừng hơn, có nghĩa rằng núi ít bị gọt trọc hơn. Những đồng lúa hẹp giữa các khe núi, ven sông, ven suối cũng rải rác nhiều hơn ở Lai Châu, nhưng không gặp dải đồng ruộng nào kế tiếp nhau, có chỗ khá rộng, như bên đường Lai Châu - Phong Thổ. Lúa đồng lên xanh, dầy, thấp cây, ông bạn tôi tưởng là mạ hoặc lúa gieo sạ như ở Nam Bộ. Không như ở Tây Bắc, không thấy mấy những nương ngô, nương sắn, ruộng bậc thang trên sườn núi. Được biết dân ở đây làm ruộng vụ mùa, còn vụ chiêm trồng ngô. Mấy năm nay, hạt ngô lai bán được giá.
                   Ven đường, thỉnh thoảng gặp cụm dân cư thưa thớt, nhà sàn cạnh nhà trệt, nhiều nhà lợp ngói lòng máng, kiểu ngói truyền thống. Đỡ hoang sơ và đỡ "lạnh" hơn đường trường Lai Châu.

                   Một gia đình trí thức dân tộc thiểu số
                   Phường Sông Cầu thị xã Bắc Cạn, cách cầu Khuổi Rằm chừng hai mươi mét, có ba ngôi nhà xây kiểu hiện đại bên một con đường nhựa đang "ngập ngừng" giữ đường làng và đường phố. Đó là các nhà của ông Ma Văn Tiều, một người Tày bản địa, và các con trai. Vợ chồng ông đều dạy học. Bà là giáo viên cấp hai; ông từng làm hiệu trưởng trường cấp ba thị xã cho đến lúc về hưu. Bà, vẻ người chân chất, có nét phúc hậu của phụ nữ Việt Nam nói chung. Ông thì cởi mở, bộc trực, tính cách của người miền ngược, nhưng bặt thiệp. Tiếp xúc với ông có thể nghĩ ông là thị dân miền xuôi. Năm 1986, ông về hưu, cảnh nhà bần bách, còn phải nuôi con ăn học. Vốn dạy địa lí, từng được dự lớp bồi dưỡng kiến thức về mỏ khoáng của chuyên gia Liên Xô, ông bèn đi tìm vàng. Ông chỉ ra mấy nơi có vàng, song người ta đào thì được còn ông chẳng gặp may. Năm 1993, ông cùng mấy người bạn, góp chuyên môn mỗi người một vẻ, đến Cao Bằng nhận thiết kế con đường Bảo Lạc - Nguyên Bình. Cặm cụi làm sắp hoàn thành, một chủ tịch huyện bắt phải nắn đường cho qua bản quê hương ông ta, dôi ra đến 7km, cũng phải chiều ý. Xong xuôi, đưa trình duyệt, ngưòi ta bồi dưỡng một khoản tiền "không đủ ăn quà sáng" và bảo chờ, rồi ỉm luôn. Mãi năm 2000, họ mới thi công, nói là theo thiết kế mới, thực tế thì chẳng sai khác bản của các ông trước đây bao nhiêu. Chẳng biết tiền công thiết kế vào túi những ai. Các ông lại nhận làm các bể chứa nước cho dân vùng núi đá gần như khan nước quanh năm. Vị phụ trách định canh, định cư, người Tày, ngồi bắt tréo chân, hất hàm: 
                   - Chúng mày đưa trước cho tao mười phần trăm, tao kí cho mà làm.
                   - Chúng tôi đang đói đây, đào đâu ra tiền mà đưa trước.
                   - Không có thì thôi, khỏi làm.
                   Cuối năm, anh ta trả tiền vào kho Nhà nước. Túi anh ta khát tiền, mặc đồng bào khát nước. Nếu là cán bộ người Kinh thì chắc là "tháo vát" hơn; tiền đã rời kho Nhà nước, khó mà quay lại.
                   Cuối cùng, ông quay về nghiên cứu cây thuốc và bài thuốc dân tộc. Có kết quả. Lại thêm nghề nuôi nhím. Cộng với sự tảo tần của bà vợ, ông bà nuôi con ăn học thành tài cả. Hai cậu con trai đầu tốt nghiệp đại học Sư phạm ra dạy học một thời gian, tỉnh điều đi, người thì sang công tác đo lường chất lượng, người thì làm địa chính. Vợ chồng người con trai út đậu cao đẳng Sư phạm ngoại ngữ, nay đang học tiếp đại học. Cả nhà trí thức. Người dâu đầu dạy văn cấp ba. Người dâu thứ hai là bác sĩ. Đại gia đình này cũng là một mẫu "đoàn kết dân tộc": rể (duy nhất) là người Kinh, con dâu thứ hai là người Thái. Đến chơi, không phân biệt được ai là Tày, ai là Thái, ai là Kinh. Trong nhà cũng không thấy rõ các dấu hiệu dân tộc. Bà vợ nói: "Người Tày chúng tôi đông nhất sau người Kinh, song về màu sắc trang phục, về văn hoá dân gian không phong phú bằng các dân tộc thiểu số khác. Những thứ này cũng phôi pha, mai một dần đi, nhất là khi đã ra ở nơi phố xá". E rằng những thứ bà nói sẽ chỉ có mặt trên sàn diễn và nơi lễ hội. Với các dân tộc thiểu số cũng vậy! Với người Kinh cũng vậy! 

                   Như là huyền thoại
                   Ông Tiều nói thuốc gia truyền ẩn trong các dân tộc có những môn hiệu nghiệm kì lạ. Có một chuyện nghe như huyền thoại. Xin kể ra đây, có giá trị khoa học đến đâu xin nhờ các nhà chuyên môn.
                   Ngày ấy, một nhóm học viên trường Quản lí cán bộ giáo dục đến Nghĩa Lộ "đi thực tế". Họ trọ trong nhà một thiếu tá quân đội vừa từ trong Nam ra nghỉ hưu sau 1975. Vợ người này đẻ xong bị sa ruột, một đống bèo nhèo đùn ra từ cửa mình, phải trải vải sạch để lót. Người ta định khiêng đến bệnh viện. Một học viên người Thái ở Phong Thổ nói: "Bệnh viện chẳng giải quyết được đâu".
                   Một người hỏi: - Anh giải quyết được à?
                   Anh ta bình thản: - Tôi chữa được.
                   Các bạn trong nhóm ồn lên: - Chữa đi! Chữa đi!
                   Anh ta thủng thẳng: - Tiền chữa phải nặng bằng người, gia chủ có chịu không?
                   Anh chồng đưa cái nhìn nghi hoặc nhưng cũng gật đầu vội.
                   Ông lang "tự nhận" nói: - Thế thì được. Cho một người nhà đi với tôi và hai anh bạn nữa. Mang theo cuốc, thuổng, dao, sọt!
                   Vào rừng, anh ta dẫn tốp người đi lòng vòng, lên dốc, xuống lũng, đào rễ cây này, chặt cành cây kia, hái lá cây nọ nhét chặt một sọt.
                   Anh ta dẫn mọi người tới một dòng suối rồi bảo:
                   - Bây giờ các anh về đi, nấu cho tôi 5 lít nước sôi thật sạch!
            ở lại một mình, anh ta moi sọt quẳng đi một đống tướng, chỉ giữ lại những thứ anh ta đã chủ tâm trước, rửa sạch, dùng đá suối làm công cụ giã nát, cho vào sọt địu về.
                   Tới nhà, anh ta nói ngay: - Nước sôi chưa? Ra ngoài cả đi!
                   Anh ta vốc từng nắm lá đã giã cho vào nồi nước sôi khuấn đều. Một chốc, anh ta múc ra một bát, tự nếm thử trước, trao cho anh chồng "uống vừa chưa?", rồi mới đưa cho chị vợ uống. Tiếp đó, anh ta dùng nước thuốc vẩy lên đống ruột. Cứ nửa giờ vẩy tiếp một lần. Sau chừng hai giờ đồng hồ, điều kì diệu xẩy ra: đoạn ruột sổ co dần vào khoang bụng. Thầy lang dùng vải sạch tẩm nước thuốc đắp lên bụng sản phụ từ cửa mình đến vùng rốn. Vài giờ sau, chị ngồi dậy được và có thể cho con bú.
                   Sáng hôm sau, anh người Thái tập hợp các học viên lại ngồi cùng chủ nhà. Anh nghiêm chỉnh nói:
                   - Lát nữa chúng tôi sẽ lên đường về lại trường. Có các anh đây làm chứng, gia chủ hãy thực hiện giao ước đi. Có gì "nặng" mang ra đây!
                   Thiếu tá về hưu, mặt không thảm như sáng hôm trước, cũng không rạng như buổi chiều, rót nước mời mọi người, tự mình làm một mồi thuốc lào, nhả khói qua lỗ mũi, rồi vào buồng lấy ra một vòng tay bằng đá quí, 10 lá vàng 9999,  2000 đô la Mĩ và hai vạn đồng tiền Việt Nam (bấy giờ số người được hưởng lương 100 đồng/tháng trong ngành giáo dục ở một tỉnh lớn không đếm đủ trên đầu ngón tay).
                   Các bạn học viên lác cả mắt, ngồi im phắc. Ngày ấy, ở miền Bắc chẳng mấy ai có nổi chừng nấy, đó là cả một gia tài không nhỏ.
                   Thầy lang vườn lắc đầu: - Chưa đủ. Còn gì nằng nặng nữa không?
                   Chủ nhà lẳng lặng đứng lên vào trong, lát sau xách ra một khẩu súng săn Mĩ mới cứng trao tận tay ân nhân và là "chủ nợ" (!) của mình. Anh ta cầm lấy xem xét, thử khoá nòng, rồi hỏi:
                   - Súng thì phải có đạn chứ?
                   Hai hộp đạn săn Mĩ mới toanh được đem ra đặt lên bàn.
                   Người "sách nhiễu" lẩn mẩn xếp riêng từng thứ của quí, nghiêng đầu ngắm nghía rồi… ngửa đầu cười ha hả. Dứt cơn cười, anh thong thả chỉ vào từng món:
                   - Tôi ở miền núi không biết tiêu tiền Mĩ. Chỗ tiền Việt này để bồi dưỡng cho chị nhà; chị còn yếu lắm, phải tẩm bổ nhiều, không được cất nhắc nặng. Vòng tay để chị khoẻ mạnh rồi thì trang điểm. Chỗ vàng này dành để nuôi cháu bé lớn lên và cho ăn học. Còn thứ này (anh giơ khẩu súng lên), chỗ tôi lắm thú rừng phá nương rẫy, có cả thú dữ, tôi cũng thích đi săn, tôi xin vậy.
                   Bị bất ngờ, chủ nhà thần mặt ra; còn anh em sau giây phút lặng đi cùng cất tiếng cười vui vẻ.
                   Ông Tiều cho biết về sau thầy giáo người Thái nọ cũng mách bài thuốc kia cho một đồng nghiệp ở Bắc Cạn. Tôi không tiện hỏi người đó có phải là ông không.

                   Đường vào hồ Ba Bể
                   Từ thị xã Bắc Cạn muốn tới hồ Ba Bể phải đi ôtô đến huyện lị Chợ Rã, cái tên đã đi vào thơ kháng chiến chống Pháp ("chuyện chợ Đồn, chợ Rã / ta đánh giặc chạy re / Hai đứa cười ha hả") nay được đổi là Ba Bể, theo tên cái hồ nổi tiếng.
                   Sáng sớm đã gọi điện cho xe ôm nhưng mãi chẳng thấy. Con chủ nhà bèn lấy xe của mình chở khách ra bến xe. Một cái bến gọn sạch, ít xe và cũng ít người. Xe đi Thái Nguyên, đi Cao Bằng, xe đi các huyện lị Chợ Đồn, Nà Rì, Ngân Sơn,… Một chiếc xe hai mươi chỗ ngồi treo biển đi chợ Rã, khí tã. Chủ xe là một chị trung niên. "Chuyến sáu rưỡi đã đi rồi, chuyến này là chuyến tám rưỡi. Chúng em không như bọn xe Thái Nguyên đâu (đâu chỉ Thái Nguyên, xe thường Hải Phòng cũng vậy thôi!), đến giờ là đi. Hôm nay, tám giờ em cũng cho chạy, đã báo với bến rồi". Y như lời.
                   Đường Bắc Cạn - Chợ Rã hơn 60km. Đoạn đến Phủ Thông uốn lượn nhiều, song dốc "nhẹ". Đường lát bê tông xi măng, bền hơn bê tông nhựa nhưng xe đi hơi xóc, giá phủ nhựa lên hẳn êm hơn và bền hơn. Từ Phủ Thông đến Chợ Rã xa 42km, ba đèo kế tiếp nhau, dốc tức nhất là đèo Thạch Ngoã. Vậy mà thấy ba cô gái, người Tày thì phải, đi xe đạp đang dổ dốc. Anh lái chiếc xe tôi đi, cũng là người Tày, nói: "Dân ở đây quen thế rồi". Đội đua xe đạp vượt đèo sao không lựa các tay đua ở vùng này nhỉ?. Đường chỉ rộng đủ cho hai ôtô tránh nhau, rải nhựa; có mấy chỗ lở lẹm sát vào mặt nhựa, cọc tiêu phải cắm lùi vào đến một phần ba lòng đường. Thấy nói con đường này đang được "chuẩn bị đại tu", còn bao giờ thì tuỳ… Năm xưa, dặm dài Tây Bắc suốt từ Hoà Bình cho tới Sa Pa dọc đường không gặp một cái chợ quê nào. Đường vào Chợ Rã lần này loáng thoáng vài ba cái chợ làng bản. To nhất có lẽ là chợ Pù Mắt. Chợ họp trên một ngọn đồi thấp, xe đi quanh dưới chân đồi không nhìn thấy được, song bãi đỗ xe có ít ra là dăm chục xe máy, xe đạp (xe máy có mòi nhiều hơn) đủ nói lên số lượng khách đi chợ, cả "chất lượng" nữa. Bởi, nói đến chợ quê người ta hay nghĩ đến hình ảnh vai gánh hoặc đầu đội nhịp theo chân bước.
                   Huyện Ba Bể (Chợ Rã), cùng với huyện Ngân Sơn, trước thuộc Cao Bằng, nhập vào Bắc Cạn sau khi tái lập tỉnh này. Thị trấn Ba Bể có địa bàn rộng hơn nhiều thị trấn dưới xuôi. Có cái lùi xùi của miền nửa quê. Ngay sau một ngôi nhà ba tầng đỏm dáng mặt phố là nương và ruộng. Có cái bề bộn của sự "vỡ da". Đường phố khá dài không được thẳng, chưa chú ý đến hè đường. Có nhiều nhà mới xây  dễ trông, không kệch cỡm hoặc khoe mẽ như ở nhiều nơi khác thuộc vùng "văn minh" hơn. Mướn các đội xây dựng dưới xuôi lên.
                   Trong số các nhà nói trên, có khách sạn tư nhân C.Q. Chủ mới 36 tuổi, là phó giám đốc một công ti trách nhiệm hữu hạn về xây dựng chuyên nhận thầu các công trình của Nhà nước nhiều tỉ đồng. Khách sạn cao ba tầng, các phòng trọ đều thuộc loại sang gắn máy điều hoà nhiệt độ. Có đầu bếp phục vụ khách tại chỗ. Một người Pháp đi cùng người hướng dẫn du lịch đang đặt bữa với chủ khách sạn. Anh hướng dẫn viên bảo: "Cứ tính cao vào! Bọn Tây thiếu gì tiền". (Sực nhớ lại lời than phiền của một khách du Tây ba lô: "Người Việt Nam các ông cứ nghĩ chúng tôi lắm tiền đi du lịch để tiêu bớt đi. Thực ra đâu phải thế. Chúng tôi đi trước hết là để biết thêm những xứ sở, những nền văn hoá,…").  Thực đơn thoả thuận là nem rán, vịt quay, rau muống xào, bí xào tỏi, khoai tây rán, trứng chiên và cơm; mỗi suất 25.000đ, sáu người vị chi 150.000đ. Mười đô la! Ông Tây rậm râu cười thoả mãn. Giá cả như vậy là khá "mềm" so với ở hồ Núi Cốc, Thái Nguyên, chúng tôi ăn vào mấy hôm sau.
                   Chúng tôi thuê phòng loại không có máy điều hoà nhiệt độ, bởi hôm đó trời dịu mà cũng vì túi tiền. Chủ khách sạn gọi dây nói đi đâu đó. Chốc lát, hai xe máy tới đón chúng tôi đến một khách sạn mới xây cách chừng trăm mét, cùng phố. Cũng là một toà ba tầng, thêm tầng hầm để ôtô. Nguyên là chủ nhân làm để đón cha mẹ đến ở, song họ không chịu, không muốn rời bỏ nhà cửa, vườn tược đàng hoàng ở vùng quê cách đấy 8km. Anh ta bèn cho sửa thành khách sạn có năm phòng trọ, mỗi phòng chừng 22 mét vuông (khí rộng so với tiêu chuẩn chung) có hai giường lớn tinh tươm cho hai khách trọ, có máy thu hình 21 inchs, quạt, bình nước nóng, bồn tắm (chưa sẵn sàng cho khách sử dụng),… Giá một ngày đêm là 80.000đ. Hôm đó chật khách, cả ta lẫn Tây. Khách sạn "em" này dành cho người em trai, Việt kiều ở Đức. Một trong hai người đến đón chúng tôi chính là anh ta, về thăm quê đã mấy tháng. Một chàng trai 33 tuổi, sáng sủa, khoẻ mạnh, có vẻ chân thật. Anh ta kể chuyện mình một cách tự nhiên, chẳng khoe mẽ, chẳng mặc cảm. Anh ta đã trốn sang Đức bằng con đường du lịch. Cùng chuyến đi và cùng mục đích, có một cô gái người Giảng Võ, Hà Nội. Cùng cảnh ngộ, giúp nhau, dựa vào nhau rồi thành vợ chồng. Họ đã có hai con, đứa tám tuổi, đứa lên năm. Chúng có biết tiếng Việt nhưng không rành bằng tiếng Đức. Đại loại, bảo về Việt Nam thăm ông nội thì hỏi lại: "Ông nội là thằng nào?" Chẳng phải cháu hỗn! ở bên đó, hai vợ chồng bán mĩ phẩm và làm đầu. Anh ta muốn xin nhập quốc tịch Đức nên cưới vợ Đức hờ. Một người bạn Đức "cho mượn" người yêu của mình trên giấy tờ. Phải sau 5 năm mới được xét; nay đã được ba năm. Tuy nhiên, anh ta nói cũng có ý định về làm ăn tại Việt Nam và sinh sống. Hiện đã mua nhà ở Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh hết hơn 500 cây vàng. Nhà mặt phố rộng 5 mét, sâu chỉ 4 mét, năm tầng trong đó có hai tầng hầm. Muốn mua nốt nhà áp sau nhưng chủ nhà chưa chịu bán. Xem ra có chí làm ăn. Song, không (hoặc chưa) tỏ dáng ông chủ. Anh ta làm cả tiếp tân và trực phòng, lúc cần. Quả làm chưa tốt, quên cả phích nước nóng cho phòng chúng tôi. Sáng sớm, xuống phòng tiếp tân, tôi thấy chủ khách sạn trải nệm, mắc màn ngủ ngay trên nền gạch men. Tại các thị tứ miền núi ngày nay, hầu như không có những người thuần dân tộc thiểu số hoặc thuần Việt (Kinh). Có thể dòng máu của họ chưa lai, song tác phong, nếp sống, cung cách làm ăn, lối ăn nói đã pha tạp, nhiều hoặc ít. Điều này có cả hay lẫn dở. Hay, nếu xét ở phía cạnh hoà đồng, hội nhập văn minh.  Dở, nếu nhìn ở mặt kiếm ăn theo kiểu mà ngày trước người ta gọi một cách nôm na là "con buôn", chưa nói tới mặt to tát: nhạt phai văn hoá truyền thống.
            Thị trấn Ba Bể cách hồ 23km. Có thể đi thuyền ngay từ phố chợ xuôi theo sông Năng, song sẽ mất nhiều thời gian. Chúng tôi chọn đường bộ. Đường đến hồ đã rải nhựa nhưng chưa có tuyến xe khách. Du khách đi lẻ chỉ còn cách thuê xe ôm. Cậu lái của chúng tôi là một thanh niên Tày, nói sõi tiếng phổ thông, có sự lịch lãm của người tiếp xúc nhiều. Cậu thuyết chúng tôi ngồi đôi, rẻ cho chúng tôi; thật ra tôi biết như vậy thì chuyến chạy xe của cậu ta sẽ thu nhập gấp rưỡi. Đường quanh co, lên lên xuống xuống, xe chở hai khách cùng hành lí mà cậu ta cứ phóng ào ào. Tháng 9 năm 2002 này là tháng "an toàn giao thông" mà chẳng thấy bóng dáng chú công an giao thông nào, kể cả ở các bến xe T.N, B.C! Cậu lái rất hay chuyện. Cậu gợi, rồi bảo: "Đến hồ, cháu sẽ gọi thằng bạn có thuyền cho thuê ở đấy đến cho hai bác. Nó lấy rẻ. Cháu sẽ bảo nó đưa các bác đi thế này…, thế này…" Cảm ơn quá! Lạ nước, lạ cái mà gặp hên thế này, còn gì bằng! Về sau, có người bảo cho biết: chẳng qua là kiểu "mồi" cho nhau học của người Kinh nhà ta cả thôi.
                   Xe lượn quành một khúc rồi xuôi dốc. Trước mắt đã thấp thoáng màu xanh của mặt nước.

                   Ba mà chỉ một
                   Hồ Ba Bể là hồ thiên nhiên lớn nhất nước ta. Từ xa xưa, dân địa phương chia hồ ra ba phần. Phía tây thông với sông Năng là Pé Lẩm; tiếp đó là Pé Lù (hay Bó Lù); rồi Pé Lèng ở phía đông. Trước đây, đọc báo tôi mường tượng có những chỗ thắt hẹp lại chia ba hồ. Hoá ra là một hồ thông suốt, khách du chẳng thể nào phân biệt được Pé nào với Pé nào.
                   Cái thú du lịch hồ Ba Bể trước tiên là dạo thuyền trên hồ. Trên là trời, mây trắng lang thang; dưới là mặt nước trong xanh chỉ hơi lăn tăn gợn sóng; xung quanh là núi rừng hoang sơ, thảm cây xanh dường như vẫn như thế tự ngàn xưa. Giá có thể đi vào đêm trăng chắc là kì thú, và cả… rờn rợn nữa.  Hiện tại, hồ chưa được (bị?) "cải tạo", "nâng cấp", khai thác nhiều. Khách còn được hưởng trọn vẹn cái hoang vắng, cái tĩnh lặng, cái thoáng đãng, cái trong lành của trời, đất, nước, mây, nếu như… máy thuyền đừng nổ to quá và hơi dầu cháy đừng bị gió quẩn đưa vào mũi khách. Có một lúc thuyền lướt dưới vòm cây, tôi ngửi thấy hương hoa rừng thoang thoảng. Đang khoan khoái lâng lâng thì mùi khí thải át mất.
                   Trong hồ, du khách có thể đổ bộ lên thăm Ao Tiên, đảo Bà Goá, bãi chợ Lèng. Chợ Lèng, một cái chợ miền núi, nằm trên bờ phía đông hồ trông xuống Pé Lèng. Khách du có thể thăm thú tìm hiểu hoặc mua sản vật địa phương. Chợ có một bãi chọi trâu. Gặp dịp, khách không chỉ được xem trâu chọi trâu, mà còn được xem bò chọi bò, và kì lạ hơn, trâu bò chọi nhau. Tất nhiên là trâu đực, bò đực. Không như loài người, giống cái loài vật không thượng võ cho lắm. Trâu bò giao đấu với nhau nghe lạ tai, song chẳng phải ngạn ngữ đã có câu "Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết oan" đó sao! Hà! Bò chọi với trâu thì thua là cầm chắc. Lầm to rồi! Đã nhiều lần trâu thua phải nhảy ùm xuống hồ đấy. Trâu bò vùng này thường thả rong ở các bãi cỏ trên núi. Của nhà ai có dấu hiệu riêng nhà ấy. Chẳng lẫn, chẳng hề có tranh chấp. Trâu bò chung bãi ít xẩy ra chuyện. Nhưng bò đực đụng nhau là dễ có "chiến tranh". Húc nhau chán hoặc một con bỏ chạy thì thôi. Nếu một con bị đánh rơi xuống vực thì sao? Các ông chủ của hai con vật hiếu chiến có lôi thôi với nhau không? Có chuyện bắt đền không? Không lôi thôi gì đâu. Chủ con bò sa cơ kéo nó lên xẻ thịt chia một nửa cho chủ con bò chiến thắng. Như là được hưởng chiến lợi phẩm ấy nhỉ. Chớ! Bò nhà ông, ông cứ việc nuôi. Khi nào bán hay mổ thịt, ông lại chia đôi với tôi. Lại thế ư? Chớ sao! Bò ông làm bò tôi chết, nếu không nó vẫn thong dong sống như bò nhà ông. Số phận hai con bò đã buộc vào nhau. Hai nhà chia đều nhau thành quả. Lệ bất thành văn của cộng đồng là vậy. Gần chợ Lèng, du khách còn có thể thăm thác Hoàng Tử, một ngọn thác rót nước từ trên cao mươi mét xuống.
                   Đảo Bà Goá là một đảo nhỏ lô nhô đá, đường kính chừng vài mươi mét, nhô khỏi mặt nước hơn ba mét, có cây cổ thụ che mát, có cây nghiêng xuống hồ. Đảo nằm ở ranh giới Pé Lèng và Pé Lù, bao quanh là bát ngát hồ. Ngồi trên đó đọc sách, viết lách, nhất là tình tự thì khỏi nói. Anh hồn goá phụ ngày xưa sẽ trông nom cho. Các thứ này chỉ có thể đặt ra với những du khách nghỉ lại dài ngày, chuyện không thể có lúc này, bởi quanh hồ chưa có nhà nghỉ, và chưa có dịch vụ đưa khách từ bờ đảo và đón về.
                   Pé Lù là phần hồ rộng nhất, bề ngang và bề dài. Có những chỗ phình ra theo thế núi hõm vào. Đó là nơi du khách cảm thấy thơ thái nhất. Đảo An Mạ rậm cây chơi vơi giữa hồ; một con trâu ai thả ở đó thản nhiên nhìn chiếc thuyền máy chạy qua khá gần.  
                   Muốn đến Ao Tiên thuyền phải đi vào cái vụng hơi khuất của Pé Lẩm. Leo dốc rừng chừng 50 mét rồi tụt dốc chừng 50 mét nữa. Một cái ao tròn vạnh, đường kính cỡ chiều dài hồ Gươm của Hà Nội, giữa cây ngàn. Tưởng đâu đang đứng bên một hồ nước do núi lửa tạo thành như ở Tây Nguyên. Một cái hồ trong một cái hồ! Chung quanh hồ, bờ dốc nghiêng chừng 45 độ, rậm rạp, hơi âm u. Người ta xây một cái bệ sàn nho nhỏ cho du khách trèo lên ngắm cảnh. Tôi đã đứng đó, một mình. Một cảm giác khinh khoái tưởng chừng tan ra trong một sự cô tịch ngưng thời gian. Sực tỉnh, cái cảm giác cô độc len vào. Ông bạn cùng đi ở lại trên thuyền cùng người lái thuyền ngoài kia, một dải rừng cây ngăn cách. Mà con thuyền giờ này cũng đơn độc giữa mênh mang trời nước và núi rừng. Cảm thấy nao nao, tôi rời bước. Rồi đây nếu dịch vụ du lịch hồ Ba Bể phát triển mà không xâm phạm vẻ hoang sơ của nó, - để cho tiên vẫn có thể lẩn giữa trần -, trên bờ Ao Tiên có thể dựng những lều cỏ, những nhà sàn nhỏ xinh cho khách nghỉ trưa hoặc qua đêm, hẳn là thú vị lắm.
                   Pé Lẩm thông ra sông Năng. Bình thường, nước hồ đổ vào sông này. Nước hồ trong xanh; nước sông đục lờ, mấy hôm trời rải rác mưa. Từ hồ đi ra rẽ phải ngược sông sẽ đến động Puông. Một đoạn sông Năng luồn qua động này. Như sông Luồn ở Ninh Bình. ở đây, bạn có dịp gặp sóc ngực vàng đuôi xù đi từng cặp, và bọn khỉ. Bạn có trèo lên xem thạch nhũ hãy cẩn thận, không khí không được trong lành như ở Phong Nha vì nặng mùi phân dơi, và có thể gặp rắn đấy.
                   Xuôi sông mươi cây số sẽ đến thác Đầu Đẳng, một cái thác không hùng vĩ mấy, đẹp, nên thơ. Một hàng lan can bên bờ vực cho du khách ngắm thác, chụp ảnh. Khách có muốn nhúng tay vào nước cho thấm thêm khí vị thác cũng không được, không có lối xuống. 
                   Sông Năng bắt nguồn từ Cao Bằng đổ vào sông Gâm, một phụ lưu của sông Lô, bên Tuyên Quang. Sông không lớn, song nước tải phù sa dài lâu đã tạo nên những bãi bồi bằng phẳng sát chân núi đá dốc đứng lởm chởm. Người dân trồng trọt trên đó, thường là ngô. Thấy có máy cày, máy bừa cầm tay, máy bơm nước, những thứ mà hiện nay chẳng phải vùng nào ở miền xuôi cũng sẵn.
            Hình như sắp vào vụ gieo trồng mới. Mùa lũ vừa qua, nước ngập băng bãi. Dấu tích nước dâng còn lưu trên cây sung, cây tre. Những cọng rơm rác, túi nhựa mắc lại trên cành cây ở độ cao hàng mét so với mặt bãi. Lác đác nhà cửa trên bãi, rìa bãi kề núi. Có một xóm, hai nhà sàn lợp ngói, hai nhà trệt lợp tranh, ẩn giữa dải cây xanh loáng thoáng nổi hình trên màu núi đá. Chợt nhớ câu thơ cũ: "Nhà ai rìa núi trông sang/ Khói bay phơ phất mấy hàng như kia" nói tâm trạng người xa xứ. Hầu hết các nhà đều đóng kín cửa, trừ một nhà, một người đàn ông gầy ngồi tựa cửa nhìn ra. Trong nắng nhạt, cái bãi nổi nom quạnh quẽ. Có nơi thơ thẩn dăm con trâu, một con ngựa. Nơi khác, một doi đất ven sông cách li với bãi bởi một dải nước hẹp, mấy đàn gà con đang quẩn quanh bên gà mạ dưới bóng mấy cây tre, cây sung. Lái thuyền giải thích: người ta di tản chúng ra đấy để chúng không bới hạt ngô trỉa. Một khu bãi dài hàng mấy cây số lọt thỏm giữa núi dựng đứng bao quanh, chỉ một khoảng nhỏ nhìn ra hồ nước mênh mông, hầu như bị cô lập với thế giới bên ngoài. Tôi tự hỏi cư dân ở đây xuất ngoại chỉ có thể dùng thuyền thôi ư? Bãi lặng có sinh khí hẳn lên khi có một bầy trẻ đi học về. Chúng từ một ngách đường men chân núi đá mé trên thác Đầu Đẳng đi ra. Trường học ở bên kia chân núi. Năm, sáu trẻ, một đứa dắt xe đạp. Không gì nhẹ lòng hơn khi nhìn trẻ tung tăng cắp cặp sách trên đường. Chúng tản dần về các đám nhà lẻ loi. Có hai cháu đi lên mãi gần song hành với thuyền chúng tôi. Chúng đi nhanh, thỉnh thoảng chạy đuổi nhau, lát sau vượt chiếc thuyền máy ngược sông.
                   Tình cờ, chúng tôi được trò chuyện với cư dân bãi nổi. Thuyền chở chúng tôi rời động Puông xuôi sông Năng một quãng, hai cô gái gọi xin đi nhờ. Các cô ngồi trên một thẻo đất kẹp giữa hai nhánh sông, phía sau là núi đá. Các cô đi chợ Giá ở thị trấn về bằng thuyền, đến đây thuyền rẽ theo nhánh phụ của sông Năng để các cô lên đây đợi, trong ngày thế nào cũng có thuyền qua. Cậu lái của chúng tôi nói vậy, nhưng tôi đoán hai cô đã thấy thuyền của chúng tôi đến động hẳn biết sẽ quay lại nên lên ngồi đấy chờ. Nếu không, các cô đã đổ bộ lên bên kia nhánh sông phụ, từ đó đi bộ về nhà. Hai cô đi chợ  bán hồng tươi, "được ít tiền lắm". "Sao không bán hồng ngâm?". "Người buôn không cho ngâm làm nặng thêm phải trả nhiều tiền". Chả lẽ là mánh khoé của dân buôn đối với dân vùng cao? Hai cô đều là người Tày còn rất trẻ, khá xinh, ăn mặc như con gái dưới xuôi, đã học xong cấp hai.
                   - Sao không đi học tiếp nữa?
                   - Nhà nghèo, ở nhà đi chợ thôi.
                   - Có đồng hồ đeo tay mà nghèo à?
                   - Trường ở xa, đi lại khó. Cháu ông N.Đ.M lấy chồng ở vùng hồ này cũng chỉ ở nhà đi chợ, làm ruộng thôi.
                   - Xa, khó đi lại thì ở trọ, hoặc học trường nội trú.
                   - Cháu có đi thi, con thương binh mà không được chiếu cố, con các thầy, con các ông ở tỉnh, ở huyện được xếp đặt cả rồi.
                   Trên đường hồ trở lại bến, chúng tôi gặp một thuyền đi ngược lại chở hai ông Tây và một người trai, hẳn là hướng dẫn viên du lịch, cùng hai bà có dáng dân quê. Họ đi về hướng sông Năng.
                   Cũng như lượt đi, còn lại chúng tôi "độc chiếm" cảnh hồ. Thú thì thú thật, song dường như phí phạm. Không chỉ ngành du lịch Bắc Cạn, mà ngành du lịch trung ương và các địa phương khác có vẻ còn ơ hờ với cái vốn quí trời cho này. Khách du trong nước và nước ngoài chưa nhiều người biết hồ Ba Bể; mà có biết thì không ít người ngại ngần mà "ái nhi viễn chi".
                   Song le, nếu rồi đây thuyền chở khách nườm nượp ngược xuôi trên hồ, liệu nước hồ, khí trời, cảnh quan có còn giữ được vẻ nguyên sơ, tinh khiết?  Chiều xế, nắng vàng làm lung linh mặt nước hồ. Nhưng kìa! hàng chục chai nhựa rỗng đang lềnh bềnh như muốn "hỏi han" thuyền chúng tôi. Hồi sáng, tôi lúng túng với mấy mẩu giấy gói bánh; mãi tới lúc tôi hỏi lái thuyền sao không sắm một cái sọt cho khách bỏ rác, anh ta mới đưa ra cái xô nhựa. Khách du có ai đó xả rác xuống hồ, chắc anh cũng làm ngơ. Chẳng trách được. ở nước ta cho đến lúc này, dường như ngay các nhà "chức năng" cũng ít ai chỉ vì trái mắt mà lên tiếng.
                   Gần đây, người ta phát hiện ra rằng hồ Ba Bể đang có nguy cơ bị bồi lấp cạn ngay trong thế kỉ này. Có thể là do thiếu cây rừng ngăn mưa lũ xói đất tải phù sa về. Có người nói vui: Hãy chờ đến lúc ấy mới xắn tay nạo vét, chỉnh trang, nâng cấp thành một trung tâm du lịch, vui chơi, giải trí luôn thể (!)
                   Bắc cạn không chỉ có hồ Ba Bể khiến du khách quan tâm. Đáng tiếc, những địa danh vang bóng một thời: Phủ Thông, Đèo Giàng, Chợ Rã, Chợ Đồn,…chẳng lưu giữ chút dấu tích nào của các chiến thắng xưa. Các căn cứ dân sự, quân sự thời "chiến khu Việt Bắc" và thời kháng chiến chống Pháp, trận quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn năm 1947 với ý đồ chộp đầu não kháng chiến của ta,… có thể tái hiện theo cách nào đó cho du khách, cho cả người dân địa phương không nhỉ?

            Hải Phòng, tháng 10 năm 2002
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.03.2009 12:33:52 bởi Khải Nguyên HT >
            #6
              Khải Nguyên HT 14.03.2009 16:14:11 (permalink)
              MỘT THOÁNG HÒA BÌNH

               
              Đường tới xứ mường
                       Từ Hải Phòng đi Hoà Bình có thể ngồi xe khách đến thẳng hoặc chuyển xe ở Hà Đông. Xe sẵn, song sự bất tiện cũng sẵn. Xe có thể dừng bắt khách dọc đường bất cứ lúc nào, và lèn bao nhiêu cũng được. Xe có thể ghé bốc hàng hẹn trước, lâu hay mau khách chớ nên sốt ruột. Các bao hàng, thùng hàng chất đầy gầm ghế, choán cả khoảng trống trên sàn giữa hai ghế. "Tôi không thể đặt chân được nữa đây này!" - một hành khách than. "Cháu chịu. Cô thông cảm" - phụ xe thản nhiên nói. Chủ xe, nhiều người ở nông thôn vươn ra kinh doanh, kéo theo cả những người thân quen dây rợ làm ăn, buôn bán thuận tuyến đường, các hành khách ngoại lai chớ mơ làm thượng đế. Một người vẫy xe dừng lại đàng hoàng bước lên, đàng hoàng "kêu gọi" chơi bài ăn tiền, có mấy tay (cò mồi) ngồi sẵn trên xe hưởng ứng. "Hành nghề" xong, chúng lần lượt đàng hoàng xuống xe. Chẳng thấy trả tiền đi xe. Một hành khách hỏi: "Cờ bạc bịp công khai vậy à?". Lái xe "vô tư" nói: "Bọn cháu không biết. Việc ai nấy làm (!)".
                     Xe qua cầu Chương Dương vòng phía nam Hà Nội né sự ùn tắc giao thông ở nội thành để đến Hà Đông (Hà Đông nhưng lại nằm ở tây nam Hà Nội). Xe đi vào vùng nông thôn xưa, nay lổ đổ phố xá. Sông Kim Ngưu bé như một dòng kênh từ ven đô chảy đến đã được thanh lọc mùi xú uế đi rất nhiều, song "trâu vàng" có hiện về chắc chẳng dám bơi lội; dẫu sao cũng có thể dạo hai bên bờ giờ đã được kè đá, có đường nhựa chạy song song và các cầu bắc ngang sông. Mong rằng nơi đây sẽ đô thị hoá một cách có qui hoạch, không để à uôm…  
                     Thị xã Hà Đông xưa, cái thị xã tỉnh lẻ nhỏ hẹp nhưng êm đềm, thơ mộng, nay không còn. Một đô thị đang phát triển, bề rộng và bề cao, dân số và xe cộ,… thay vào. Ngày trước, người đẹp "đất Hà Đông" của thi sĩ Nguyễn Bính sau "ba năm (chàng) trở lại" mà "Người cũ cô Oanh má vẫn hồng/ Tóc vẫn bỏ lơi, da vẫn trắng / vẫn nhìn thiên hạ lướt qua song". Ngày nay, những "cô Oanh" hiện đại hẳn ít ai "tóc vẫn bỏ lơi", cũng ít ai chịu cứ ngồi "nhìn thiên hạ lướt qua song". Thường thì có thể bắt gặp các cô tóc tai, áo quần đủ "mốt" phóng xe trên các đại lộ thênh thang của thị xã mà cách nay mới hơn chục năm khó hình dung được. Cái tấp nập của phố phường Hà Đông nay, nhất là cái xô bồ, nhộn nhạo, không là đất cho hồn thơ Nguyễn Bính.
                     Chặng đường số 6 từ Hà Đông đi Hoà Bình xưa nhỏ hẹp, khấp khểnh, song đi giữa ruộng đồng, núi đồi phóng khoáng; nay rộng rãi, phẳng phiu, hai bên nhiều đoạn san sát nhà cửa đua nhau phô cái lộn xộn phố phường tự phát. Thay vì thưởng thức cảnh quan, hít thở hương rừng, gió nội, du khách lại được "hưởng" bụi và tiếng ồn. Đoạn gần thị xã Hoà Bình không còn âm u, song lại hiếm đi nét hoang sơ làm dịu tâm hồn người.

              Thị xã vắt ngang sông Đà
                       Thị xã Hoà Bình thời thuộc Pháp lèo tèo, heo hút, vắng lạnh. Thơ thới hồi sau Cách mạng tháng Tám. Rồi nhộn nhạo, lơ láo và đầy bất trắc khi quân Pháp trở lại chiếm đóng. Giữa thế kỉ trước, đi đò đêm vượt sông Đà tại thị xã này. Thị xã nằm phía tả ngạn, tan hoang, im lìm, tối thui, không một bóng người. Giặc Pháp vừa rút chạy ít lâu sau khi thua to ở biên giới phía Bắc. Phía hữu ngạn là Phương Lâm, lèo tèo mấy quán hàng bằng tranh tre, đèn dầu leo lét. Nhiều người mắc màn cá nhân ngủ ngoài trời, thậm chí nằm suông, không màn, không chăn. Cán bộ, bộ đội đi công tác với ba lô, túi xách; dân buôn với tay nải, quang gánh. Chẳng đông, vài mươi người, khách và chủ. Trong một quán nước, một anh buôn chuyến đang vui giọng kể lể gì đó. Chủ quán bảo: "Anh hãy trả tiền quà hẵng!" Anh kia ra bộ ngạc nhiên: "Tôi trả rồi mà". Chủ quán cười mũi: "Anh đưa xấp tiền khoe rồi cất đi, đã trả đâu". Bên chõng hàng bày hoa quả lặt vặt, một anh chẳng biết là bộ đội hay cán bộ đang ngắm khẩu súng tay của mình. Bà hàng khen: "Khẩu poọc-hoọc đẹp nhỉ!" Anh có súng bỗng nổi sùng: "Súng này mà là súng Tàu à? Nói thế là coi thường tôi". Người đàn bà thẻn mẻn, chẳng biết sợ hay thẹn. Chợt có tiếng kêu: "Máy bay dấy!". Mấy ngọn đèn dầu tắt phụt. Chỉ khách vãng lai hơi nhốn nháo tí chút thôi. Tiếng ì ầm nghe xa lắm.
                     Bây giờ đố tìm ra chút dấu tích gì của thị xã cũ. Chẳng phải chỉ do công trình xây dựng nhà máy thuỷ điện. Hai cuộc chiến tranh, bom đạn Pháp, rồi Mĩ, đã nã xuống cái đô thị nhỏ bé không biết bao lần. Thị xã bây giờ trải rộng ra cả hai bên sông Đà một mặt bằng gấp hàng chục lần thời cũ. Nó cũng lâm vào tình trạng như ở nhiều thị tứ khác của nước ta bung ra ngoài tầm kiểm soát của những người có trách nhiệm và có thẩm quyền. Hoặc họ bất lực, hoặc họ để mặc, hoặc họ không nhìn ra, hoặc họ làm lơ "có lợi". Nối đôi bờ sông Đà là con đường nhựa rộng men dưới chân đập chắn ngang sông và chiếc cầu bê tông xây chưa lâu phía hạ lưu cách chừng hơn cây số. Đứng trên đồi đặt tượng Hồ Chủ tịch cạnh đập có thể nhìn bao quát một vùng. Hồ thuỷ điện chỉ mở ra một đoạn không dài, có bề rộng của sông Đà mùa lũ to. Ngược lên trên, hồ ngoặt, lượn theo hình sông, thế núi; tầm mắt bị ngăn lại. Mùa lạnh nên ít ai thuê thuyền vãn cảnh hồ. Thật ra, dạo hồ mùa này có cái thú riêng của nó. Tiếc rằng tôi chẳng tìm được "đồng minh".
                     Nhà máy thuỷ điện sông Đà là lớn nhất Đông Nam Á loại này,cho tới nay. Khách tham quan có thể vào sâu đường hầm chừng trăm mét đứng ngắm xa một chút phần trên một số tổ hợp máy phát điện đang hoạt động. Chỗ khách đứng nằm sâu trong lòng một quả núi cao vài trăm mét, và dưới mực nước hồ xa. Đường hầm rộng rãi và cao ráo nhưng thở thấy nặng mặc dù hệ thống thông gió vẫn hoạt động tốt. Phía dưới hầm này còn hai đường hầm nữa ở hai dộ sâu khác nhau dành cho các hoạt động kĩ thuật.
                     Vào thăm hầm thuỷ diện hôm đó có một nhóm Việt kiều Mĩ, trong đó có hai vợ chồng với hai đứa con. Người vợ khoảng trung niên, người gọn gàng, dỏng cao, có thể nói là xinh và trẻ. Chị là kĩ sư tin học, lương năm chừng năm chục ngàn đô la Mĩ, nhưng chị nói: "Bọn em chỉ tạm đủ ăn".
                     - Lương chị tính ra tiền Việt khoảng bảy, tám trăm triệu. Chắc chị nói khiêm nhường thôi. Chị vừa nghe cô hướng dẫn cho biết đấy: lương tháng của công nhân ở đây bình quân độ triệu rưỡi đồng, lương kĩ sư hai triệu, lương giám đốc bốn triệu; vậy xếp vào mức sống nào đây?
                     - Nhưng giá sinh hoạt ở Việt Nam rất rẻ; có được nhà riêng không khó. Bọn em có thể nói không bao giờ có được nhà riêng, bởi nhà mua trả dần kéo dài chưa biết đến bao giờ, như một thứ thuê dài hạn. Nếu không may thất nghiệp thì mất nhà. Chồng em cũng là kĩ sư nhưng đang thất nghiệp. Nếu em cũng mất việc nữa…
                     Người chồng nói: - Hiện nay người Ấn Độ và người Sai-na (China = Trung Quốc) sang chiếm chỗ người Việt Nam nhiều lắm.
                     Hai vợ chồng khoe các con đều biết tiếng Việt. Tôi thử hỏi chuyện, các cháu trả lời trơn tru, tuy rụt rè. Chị vợ nói thêm: "Con gái em là Phật tử nên càng phải rành tiếng Việt".
                     - Một số Việt kiều không muốn cho trẻ học tiếng Việt vì sợ sẽ khó nói tốt tiếng Anh. Anh chị nghĩ sao? - Tôi hỏi.
                     - Không phải thế - Người chồng đáp - Nhiều người lớn lúc mới sang có biết tí tiếng Anh nào đâu mà rồi vẫn thạo.
                     Những Việt kiều này cũng nhận rằng người Việt hải ngoại không đoàn kết trong làm ăn và trong việc giữ bản sắc dân tộc được như người Tàu và người Do Thái.

              Thương nhau đưa đến Hạ Bì - Kim Bôi
                       Đến thị xã Hoà Bình nói tên khu điều dưỡng nước nóng Kim Bôi thì ai cũng biết, nhưng hỏi đến "nội vụ" thì chẳng mấy ai biết. Họ rất ít đến nghỉ tại đấy. Thị xã đến đó cách khoảng ba chục ki-lô-mét, phải vượt dốc Cun, một cái đèo cao cỡ đèo Ngang nhưng khuất khúc hơn. Quá nửa thế kỉ trước con đường đèo này rải đá, len giữa rừng cây, khá nổi tiếng bởi "cọp dốc Cun". Ngày nay, đường mở rộng hơn và rải nhựa, phơi ra giữa đồi núi trọc.
                     Khu điều dưỡng nước nóng gọi theo tên huyện (Kim Bôi), song nằm trong làng Ba Mớ, xã Hạ Bì. Một thời, chưa lâu lắm, người ta dọa nhau: "Yêu nhau cho thịt, cho xôi/ Ghét nhau đưa đến Kim Bôi - Hạ Bì". Cứ ngỡ đường vào sẽ nhiêu khê rừng cây, đồi núi, khe suối. Bởi nghĩ ít ra cũng còn phảng phất cái bóng ma rừng thiêng, nước độc của nơi khỉ ho, cò gáy với những con người còm cõi, mặt bủng da chì. Hoá ra là một đoạn đường rộng rãi, phẳng phiu từ đường cái vào chỉ dăm trăm mét. Mấy tay lái xe ôm ở thị xã ra vẻ thật thà sẵn sàng chỉ dẫn trừ chi tiết trên. Nói là khu điều dưỡng, thậm chí còn tôn lên là khu chữa bệnh, thật ra chỉ có tắm và uống (nước khoáng). Nước nóng gần như lộ thiên. Chỉ khoan qua loa là nước trào lên. Khu điều dưỡng có các bể tắm, bồn tắm trong khuôn viên có tường cao bao quanh. Có hai vòi nước ngoài trời chảy suốt ngày đêm. Mùa có đông khách nghỉ, người ta bán cho khách mang về dùng và làm quà (500đ/lít). Còn thời gian lưu trú tại đó thì uống no miễn phí. Nước rất tinh khiết; cho vào chai mấy tháng không lắng cặn tí nào. Không có mùi diêm sinh như nhiều nguồn nước nóng khác. Đến nghỉ với cái ví tiền không được dầy thì vào một trong hai bể tắm cỡ bể bơi thông thường tha hồ ngâm hoặc vùng vẫy bao lâu cũng được, tất nhiên mỗi lần vào một lần vé (12.000đ/người). Khách rủng rỉnh túi, khách xài tiền "chùa" thì có bồn riêng các loại cho từ 2 người đến 10 người; cao cấp nữa thì bồn tắm có xoa bóp (mát-xa); tính thời gian 60 phút một. Nước chỉ nóng chừng trên 30 độ C. Mùa hè, vậy là thích hợp. Mùa đông, bể nước mặt thoáng rộng tản nhiệt nhanh, nước vẫn liên tục chảy vào bể, song không mạnh, họng nhỏ lại đặt phía trên, nước bổ sung lan toả một vùng hẹp bề mặt trước khi khuếch tán đi. Người vào tắm cảm thấy lành lạnh.
                     Khu điều dưỡng có nhiều nhà nghỉ các loại. Loại bét nhất cũng 70.000đ/ngày đêm cho một phòng 4 giường cá nhân, không máy thu hình, không điều hoà nhiệt độ, vòi tắm nước lạnh thông thường, loại phòng nghỉ phổ biến vài chục năm về trước. Một người khách đến quầy tiếp tân hỏi giá thuê phòng nghỉ, giá tắm, lắc đầu nói to: "Đắt quá! Xí nghiệp này đã cổ phần hoá chưa? Chưa à. Nên làm gấp đi thôi!" (Làm như là hễ cổ phần hoá xong tự nhiên mọi chuyện sẽ tốt đẹp, giá dịch vụ sẽ hạ, chẳng cần tác động nào khác!).
                     Mùa lạnh, khách ít, khu nghỉ dưỡng khá yên tĩnh, thoáng đãng (Vào mùa nóng, chắc không được vậy). Nghỉ dưỡng tốt, song chỉ vài ngày, có thể khách sẽ không biết tiêu thì giờ rỗi vào đâu. Xem ra ban điều hành tự bằng lòng với việc sử dụng của trời cho vào dịch vụ tắm và nghỉ thôi. Vào tay một đầu óc làm ăn lớn chắc hẳn đã có một khu công nghiệp không khói tầm cỡ. Công ti nước khoáng Kim Bôi chia một nửa khuôn viên, những tưởng cùng một chủ, té ra là của một tư nhân dưới danh nghĩa chủ tịch hội đồng quản trị kiêm giám đốc. Một tư nhân khác mua đất ngay cạnh đấy của xã Hạ Bì định làm khu du lịch kiêm điều dưỡng. Điều dưỡng, không chỉ tắm nước nóng, còn có tắm bùn và những trị liệu khác. Du lịch, mở ra các hướng cảnh quan, sinh thái, văn hoá; có thể tận dụng các hang động trong rặng núi đá vôi ngay kề đấy. Thời chống chiến tranh phá hoại của Mĩ, những hang này từng được dùng làm hầm trú quân sự và dân sự; nay hơi hướng lịch sử có thể làm đậm thêm chất du lịch.  Hiện người ta đang cho làm một con đường ô tô lượn theo thế đất.
                     Vùng Hạ Bì là vùng người Mường. Người ta nói người Mường là hậu duệ gần gũi nhất của người Việt cổ. Bản sắc của người Việt xưa lưu dấu chủ yếu trong người Mường nay. Đồng bào Mường cư trú nhiều ở Phú Thọ, Thanh Hoá, Sơn La, nhưng đông nhất là ở Hoà Bình. Có người nhận xét rằng các cô gái Mường không trắng bằng các cô gái Thái; điều này còn phải xem đã, chỉ biết xét về mặt xinh tươi, duyên dáng thì chửa biết "mèo nào cắn mỉu nào", - so với các cô gái Kinh thì cũng vậy. Dạo quanh Hạ Bì một đỗi chỉ thấy mỗi nhà sàn, còn lại là nhà trệt xây gạch hoặc đắp đất. Đường làng dốc lên dốc xuống nhưng khá rộng, không quá vắng lặng như nhiều làng miền xuôi; xe máy chẳng phải là của hiếm. Cách nay bảy năm, gần cả làng đói nghèo, nhiều khi ăn khoai trừ bữa. Không ít người bỏ đi đào vàng, kiếm tạm đủ ăn nhưng lê lết "không ra người". Nay thì dân đã có ba bữa cơm. Hỏi: Làm sao mà giờ khá lên? Đáp: nhờ có chỗ làm thuê. Làm thuê dịch vụ, làm thuê xây dựng, làm thuê đắp đường, làm thuê nghề rừng. "Giao rừng cho dân, người nhận rừng đời sống lên, nhưng rừng vẫn cứ kiệt. Đấy! con suối kia trước chảy tồ tồ suốt năm, bây giờ vào mùa này chỉ chảy rí rách; cánh đồng trước nhà này vốn lầy lội, trâu bước còn khó, giờ để trồng màu. Vì sao rừng kiệt á? Vì khai thác nhiều. Rừng giao cho "tôi", tôi đầu tư nhiều triệu đồng rồi thì tôi có quyền gọi người mang xe đến bán gỗ cho, hết gỗ đến củi. Có trồng mới nhưng không xuể. Chỉ cần vài năm là cho củi, bán được rồi; làm gì còn rừng cho ra rừng! Lại còn vì người này vào trộm của rừng người kia. Lệ cấm những ai không nhận rừng không được bén mảng vào rừng, còn đã là chủ rừng thì tự do đi đâu cũng được do vậy khó canh giữ. Thế nên giao rừng phóng tay như vậy là không ổn. Phải có cơ chế và chính sách hợp lí, cụ thể; phải có sự giám sát chặt chẽ". Những điều trên do một người dân Hạ Bì cho biết. Người đàn ông Mường 60 tuổi này sống trong một ngôi nhà gạch lợp ngói. Ông ngồi bên một khay ấm chén pha chè và một cái điếu cày, phong thái như một lão nông dưới xuôi. Ông bảo nhà có trồng lúa, ngô, khoai, rau; các con cho tháng vài triệu đồng; đời sống cũng được. Ông có bảy người con. Một người con trai làm ở khách sạn trên tỉnh. Hai người con gái trông trẻ tại một bệnh viện ở Hà Nội. "Chồng con gái lớn nhà tôi người Hà Nội lên đây công tác, thấy tốt tôi cho làm rể. Về sau không tốt đâm ra rượu chè, tôi cho li thân; vẫn không sửa, cho li hôn luôn. Có đứa con 7 tuổi để vợ chồng tôi nuôi. Tôi vẫn để cho nó đến thăm con nhưng không cho biết nơi vợ nó làm".  Vậy là một người ở Hà Nội lên miền ngược, một người ở Hạ Bì về thủ đô. Họ đã gặp nhau rồi lại chia lìa theo hai hướng ngược chiều. Con đường định làm cho khu du lịch tương lai đi sát ngay trước nhà ông. "Họ muốn mua một phần đất của tôi nhưng tôi không bán. Bán vậy, mất một phần nhà rồi thì hỏng luôn phần nhà còn lại. Vả lại, rẻ, chẳng bõ. Phải đâu đất của Nhà nước, họ cứ tự ý "làm" với nhau, dân chẳng ai được biết". Có một số nhà dân sẵn sàng bán cho người ta phá đi làm đường hoặc xây dựng gì đó. ấy là những nhà của công thời sơ tán tránh bom đạn Mĩ về sau cấp cho dân, có sổ đỏ hẳn hoi. Có ý kiến bảo không được bán, nhưng rồi huyện cũng phải chứng nhận cho bán.
                     Dân Hạ Bì cũng biết xài nguồn nước nóng ngầm. Người ta làm một số nhà tắm công cộng; chỉ là hai buồng tắm bằng gạch ngói sơ sài, nam riêng, nữ riêng; mỗi phòng có một vòi nước chảy liên tục. Ngày ngày dân làng đến tắm miễn phí. Người nơi khác đến phải trả 1.000đ/lần.
                     Không xa, sát ngay sau khu điều dưỡng có nhà tắm nước nóng của tư nhân với giá 10.000đ và 20.000đ/người/lần. Thấy nói cũng khá đông khách vì có gái "giúp tắm" (!). Buồn thay! và khốn thay! ở nơi heo hút như thế này, với loại hoạt động cho sự sạch sẽ như thế này mà thứ dịch vụ "văn minh" phố phường kia cũng thò vòi đến được.
                     Cả làng Ba Mớ chỉ còn 20 hộ nghèo, được nhà nước trợ cấp 2 hoặc 3 triệu đồng mỗi năm. "Họ sẵn tiền trợ cấp nên ăn sang hơn những người không thuộc diện nghèo. Họ chẳng thích làm gì cho khá lên". Mới thấm thía lời khuyên: "Cho cần câu và bảo cách câu cá tốt hơn mà cũng khó hơn là cho cá". Cho cá ít tốn công sức và không cần nhiều tâm đức, mà dễ được tiếng.
                     Ngày nay, đưa nhau đến Kim Bôi - Hạ Bì chắc chắn chẳng là ghét nhau. Đang mùa rét. Một chiếc xe chở dăm chục cán bộ, công nhân viên một nhà máy đến nghỉ một tuần. Một cặp vợ chồng đến nghỉ kì trăng mật. Rải rác ngày nào khu điều dưỡng cũng có khách. Tất nhiên là nhờ nguồn nước nóng. Nhưng có phải đến bây giờ mới tìm ra đâu!
                     Trên đường từ Kim Bôi về Hoà Bình, phía bên này dốc Cun mới có một khu du lịch sinh thái với hàng loạt vườn cây ăn quả mới trồng, nghe nói của tư nhân liên doanh với người nước ngoài. Chưa chính thức khai trương, song cũng nghe nói là đã thu hút du khách ngoại quốc. Cũng nghe nói nữa: giá cõi du này chẳng "mềm", riêng vé vào cửa đã 97.000đ (chẳng hiểu sao lại ra con số không gọn thế?).
                     Bản đồ tỉnh Hoà Bình chi chít những điểm du lịch, nhưng phần lớn ở dạng tiềm năng hoặc khai thác cái sẵn có là chủ yếu. Cần thiết phải được qui hoạch hợp lí và khả thi với tầm nhìn rộng và xa đã dành, còn cần chú ý đến phương tiện đi lại. Ngay khu vực đập thuỷ điện, khách vãng lai hoặc khách đi lẻ kiểu "Tây ba lô" muốn chiêm ngưỡng cảnh trí phải lụy rất nhiều cánh xe ôm. Mà các "vị" này thì có nhiều mánh lắm để moi tiền khách, kể cả khi đã thoả thuận trước rồi; họ còn ra hiệu cho nhau kéo đến gây sức ép "hội đồng". Phải chi địa phương chủ trương những tuyến xe buýt chu du hai bên thị xã, trên đập, trên đồi, ven hồ, và có thể vươn xa hơn nữa, do cơ quan du lịch đảm đương hoặc cho tư nhân thầu,v.v…
                     Đến Hoà Bình, khách xa muốn được ngắm cảnh quan kì thú, thiên tạo và nhân tạo, muốn được tắm nước thiên nhiên và không khí trong lành, muốn được thưởng thức văn hoá dân tộc, đặc biệt là của dân tộc Mường. Mấy cô gái Mường tôi gặp cứ ngỡ là người Kinh, do trang phục và cách nói năng cả họ; còn mấy cô ngỡ là người Mường thì lại là người dưới xuôi chính cống đổi lốt. Chẳng biết nên vui hay nên buồn?

               
              Hải Phòng, đầu năm 2005
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.03.2009 21:13:40 bởi Khải Nguyên HT >
              #7
                Khải Nguyên HT 16.03.2009 11:15:42 (permalink)
                Góp nhặt qua một chuyến đi xuyên Việt
                 
                 
                Chuyến tham quan - du lịch từ Hải Phòng qua miền Trung, lên Đà Lạt vào Nam Bộ đến tận Hà Tiên, ngót một tháng trời.
                      
                       Cảm tưởng lạ mà quen, quen mà lạ và lạ nhiều hơn:
                       Ngôi mộ tác giả Truyện Kiều nay không "cùng thập loại chúng sinh nằm kề" nữa và đã có "cành để gọi tiếng chim". Khu lưu niệm Nguyễn Du: nhà thờ họ, nhà ở đều bằng gạch kiểu cổ đơn sơ, cũ kĩ và trống trơ, hoang vắng; nhà trưng bày nghèo hiện vật; một khu vườn rộng với tường bao quanh có dấu bàn tay người chăm sóc, tuy quạnh quẽ. Hình như một số câu thơ ghi bằng chữ quốc ngữ, để thuyết trình, sai. "Thiên hạ thuỳ nhân khấp Tố Như"; nếu tôi không nhầm thì "hà nhân" chứ không phải "thuỳ nhân", đã "thuỳ" thì chẳng cần thêm "nhân" nữa. "Nghêu ngao vui thú sơn hà / Mai là bạn cũ, hạc là người quen", tôi đọc ở đâu đó "yên hà" thay vì "sơn hà". Tôi nêu thắc mắc, cô thuyết minh có vẻ muốn nghe ra, nhưng một anh cũng còn trẻ chừng là cấp trên của cô gạt đi, tỏ ý không có gì phải nghi vấn ở đây nữa cả. Đường từ khu lưu niệm ra mộ thi hào đi tắt qua một thửa khoai lang. Mấy người có tuổi cố tránh khỏi dẫm vào luống trong khi những cô cậu thanh niên thì cứ đạp bừa đi.
                Cầu Hiền Lương mới xây, hiện đại. Giá cái cầu cũ từng là nỗi nhức nhối của dân ta suốt hai mươi năm vẫn được giữ lại như một hiện vật bảo tàng! Cột cờ của chế độ Sài Gòn ở bờ nam được bảo lưu. Còn ở bờ bắc, cột cờ kiêu hãnh trong bom đạn ngày nào giờ chắc hoá thân vào khối tượng đài xi măng lưu niệm. Xe không dừng, chỉ nghe nói, biết thế. Hơi ngùi ngùi. Nếu cột cờ bờ bắc còn, hẳn tượng đài lưu niệm nói được nhiều hơn.
                     Huế lạ đi rất nhiều. Năm 1979, tôi gặp một Huế tĩnh lặng. Ngày ấy đang kì nghỉ hè, vắng bóng dáng học trò, Huế như thiu thiu trong nắng nồng. Rất ít xe ôtô, kể cả trên đường số Một băng qua thành phố. Đường ra Cửa Thuận cả buổi mới có một chuyến xe. Hiếm người đi dạo, hiếm các hàng bán rong. Đứng trên tầng thượng khách sạn Hương Giang sát bờ nam con sông làm duyên cho xứ Huế trông ra mặt nước trải ra man mác hai chiều, những con thuyền thơ mộng trong văn, thơ, nhạc, họa biến đâu trong niềm cổ tích? Cầu Tràng Tiền khuyết vòm cung trên hai nhịp gần bờ nam nom vẫn dễ thương trong cái dáng trầm mặc của nó. Buổi tối, tôi lững thững ra đó đi từng bước nhẹ mường tượng bóng nữ sinh áo tím thướt tha từng quấy rầy ước mơ của gã học sinh quê mùa chưa một lần biết Huế mà mê đọc tiểu thuyết "Huế, một buổi chiều". Tôi đã mượn xe đi một vòng Vĩ  Dạ những mong chớp được một hình ảnh sau "lá trúc che ngang". Chỉ thấy một thôn quê tươi lành mà kiêu sa ngầm. Huế ngày ấy dù sao cũng đã đáp ứng phần nào Huế trong trí tưởng tượng của tôi. Bây giờ dường như là một Huế khác. Rất nhiều xe cộ; rất nhiều người. Khó mà tìm được một quãng vắng, không gian hoặc thời gian, nơi phố xá như ngày ấy. Đêm đến, hai bên bờ sông Hương chạy qua hai đầu cầu Tràng Tiền và Phú Xuân biến thành bãi nhậu, ăn và uống. Cầu Tràng Tiền đã được sửa lại toàn vẹn, đẹp lên, song kém thơ mộng đi, hẳn không do tự thân nó. Ngày trước, tôi có thể đứng trên cầu một mình trong đêm mà ngắm, mà nghĩ. Bây giờ, muốn vậy e phải chờ lúc nửa đêm về sáng, mà vị tất. Sự ồn ã, xô bồ cũng đã lan đến thành phố thơ mộng này. Muốn thưởng thức những món ăn dân dã mà thanh lịch phải biết nơi và biết lúc. Một "thất ý" nho nhỏ: Bốn người đi ăn bún bò Huế song gặp phải tiệm "Huế dổm" hay sao ấy chẳng ra mùi vị Huế; phải trả năm nghìn đồng một bát, một cô bán tạp hoá người gốc Hà Nội biết chuyện bảo: "Bọn em ăn, chỉ phải trả ba nghìn rưỡi thôi". Đêm nằm trong nhà nghỉ lắng tiếng rao quà đêm mà không thấy. Sông Hương giờ hiếm bóng cô gái đứng chèo thuyền, thay vào đấy là tiếng máy nổ làm xao động cái uể oải của dòng sông nổi tiếng, cả tai tiếng. Trong thành cổ thêm một số công trình trùng tu. Điện Thái Hoà nom như mới. Còn nhiều hoang phế, điêu tàn. Lắm cảnh nghịch mắt. Cảnh chụp ảnh vua giả, hoàng hậu giả, bi trong hài. Thuê áo mão, hia hốt ở các đoàn tuồng, cải lương mà đóng bộ để chụp có khi xôm hơn và hợp hơn. Lăng Tự Đức, trong nhà thuỷ tạ cạnh hồ sen, một "vua" và một "hoàng hậu" béo ú "thảnh thơi" nằm trên sập ngự xưa, thấy khách tham quan vào chỉ người đàn ông nhổm dậy một chốc. Cũng ở lăng này, trong nhà bia, bọn người ở đâu tới không biết ngang nhiên đánh bạc cãi nhau ỏm tỏi át cả lời thuyết minh. Bia thì nước mưa dột ăn mòn đá vôi loang lổ; e rằng ít lâu nữa hết cả chữ. Có lẽ hiếm có nước nào mà việc quản lí các di tích lịch sử, các di tích văn hoá quá "dễ dãi" như ở nước ta lúc này! Nhà cụ Phan Bội Châu xưa, cột kèo mọt bày cả ra; đồ gỗ, đồ tre đan hỏng vứt vạ vật. Sực nhớ câu thơ "rỏ máu" của cụ: Những tưởng anh em vầy bốn biển / Nào ngờ trăng gió nhốt ba gian. Cảnh này, trăng gió "nhốt" vào đâu? Nhà lưu niệm "ông già bến Ngự" xây tử tế nhưng nội dung hơi "khiêm tốn". Nổi nhất vẫn là tượng chân dung nhà chí sĩ bằng đồng, rất to; công trình nghệ thuật của chính người Huế làm trước năm 1975, năm 1979 còn thấy để vạ vật vì một lí do khá là "hẹp hòi"!
                     Nha Trang, vỉa hè khá sạch và thoáng. Bãi biển phía nam lộn xộn những rác. Bà bán giải khát, một cán bộ công đoàn về hưu, mắt trước mắt sau dòm chừng để… chạy khi có bóng công an (Tuy vậy, bà ta vẫn còn giọng và dáng "cán bộ" lắm). Bà ta nói: "Cấm bán hàng để qui hoạch, nhưng hơn một năm rồi vẫn chẳng thấy động tĩnh. Chúng tôi mấy lần làm đơn đề nghị trong khi chờ đợi hãy tạm cho phép chúng tôi kiếm ăn nhưng không được chấp nhận". Nha Trang còn nhiều tiềm năng du lịch cảnh quan, sinh thái, du hí,… nơi biển, đảo, núi, di tích, chưa khai thác bao nhiêu.
                       Đà Lạt, những nơi hồi nào bị cấm vào để dành cho các vị quan to thì nay được là "điểm du lịch" như Dinh 2 (Palace 2), vườn hoa T.L.X (có lẽ nên tìm cho vườn hoa này một cái tên thích hợp hơn),v.v… thêm các công trình nhân tạo ở các thắng cảnh. Song, có nơi hơi lạm dụng át mất vẻ thiên nhiên như ở thác CamLi. Phân ngựa rải khắp đồi kề Thung-lũng-tình-yêu. Bên hồ Xuân Hương, ngoài phân ngựa, còn thêm rác và mùi khai ngự trị. Đường phố được nâng cấp. Các khách sạn được chỉnh trang hoặc làm mới. Thật tiếc! bãi cỏ thơ mộng bên hồ Xuân Hương bị thôn tính vào khuôn viên khách sạn Pa-la-xơ! Đà Lạt giờ đông hơn, ồn hơn, xô bồ hơn, và nóng hơn, có lẽ do rừng bị phá nhiều và người đông lên. Một ngôi chùa khá lớn, nghe gọi là chùa Tàu, vừa xây mới tinh trên đất Việt Nam mà không có qua một chữ Việt nào. Cũng vậy, biển hiệu của một số văn phòng đại diện hoặc trụ sở của người nước ngoài! Nhớ xa hơn, tại khu triển lãm Giảng Võ năm 1995, các gian hàng nước ngoài cũng chẳng trưng một chữ Việt nào, kể cả các bảng giới thiệu hàng họ. Các nhà chức trách nước mình "dễ tính" thật! Cũng chẳng biết nói sao. Ngay của mình tại sân bóng chuyền Phan Đình Phùng, thành phố Hồ Chí Minh, chẳng lù lù ở bảng ghi điểm hai chữ "locaux" và "visiteurs"đó sao! Động trời hơn, và lố bịch, ông chủ tịch thành phố H.P. thay mặt chính quyền sở tại lên chào mừng một cuộc thi đấu quốc tế đã dõng dạc đọc diễn văn bằng tiếng… Anh, và "chiếu có" đồng bào mình cho phiên dịch ra tiếng Việt tại chỗ, khiến một bà khách người Úc ngồi cạnh đấy cứ giương mắt ra nhìn, lạ lẫm và nghi hoặc, như thấy một vật lạ, chắc không phải chỉ vì phải nghe một thứ tiếng Anh "Việt-nam-midơ". Hành động "dũng cảm" này còn được vị chủ tịch kia "tái diễn" ở một cuộc khác, lần này bằng tiếng Pháp. Ai dám bảo "vị" kém tiếng mẹ đẻ? Và sao lại nỡ trách người nước ngoài sống và làm ăn trên đất Việt Nam không tôn trọng chữ Việt!
                     Đà Nẵng. Ngũ Hành Sơn trở nên "đông vui", dưới chân núi đã là phố xá sầm uất, phố "đồ đá mĩ nghệ". Các lối lên xuống được tu sửa thoáng đãng, dễ đi, nhưng giảm vẻ cổ kính và mất không gian cổ tích. Lối thoát "huyền thoại" của dũng sĩ Phan Hành Sơn hồi đánh Mĩ ngụy bị rác lấp. Đường vào hang có pho tượng Phật cao bốn mét sặc mùi khai nồng, không chỉ là tội của những khách tham quan thiếu văn hoá!.
                       Hội An không như hình dung qua báo và truyền hình. Phố cổ phải nhìn kĩ mới thấy, do nắng nóng một phần, phần chính là do cuộc sống bon chen, xô bồ làm mờ đi, che đi. Đường gỗ qua chùa Cầu cấm xe máy mà xe máy cứ phóng ào qua. ở xứ mình, cấm suông chẳng bao giờ có hiệu quả. Người hướng dẫn tự hào nói: "Hội An chúng tôi không có các người ăn xin quấy nhiễu du khách". Có lẽ đúng thế thật, không như ở Ngũ Hành Sơn, ở phà Gianh,… nhan nhản kẻ ăn mày.
                     Thành phố Hồ Chí Minh. Dinh Thống Nhất, bố trí tham quan hợp lí hơn và "nghiêm" hơn trước đây. Không có cái cảnh khách tham quan ngồi lên ghế, lên nệm nghỉ hoặc để chụp ảnh, như ở Dinh 2 - Đà Lạt chẳng hạn. Cô gái thuyết minh suôn sẻ hơn, nhưng cũng lạnh lùng hơn. Có điều lạ là nếu trước đây chỉ nói trống trơn "Thiệu", "Hương" thì nay một điều "tổng thống Nguyễn Văn Thiệu", hai điều "tổng thống Nguyễn Văn Thiệu", luôn luôn "nơi đây tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (họp, tiếp khách,..vv…)". Làm như nơi đây chỉ dành riêng cho tổng thống Thiệu. Chốn này đã trải qua ba đời tổng thống của chính quyền Sài Gòn, dẫu Nguyễn Văn Thiệu ở lâu nhất. Sao không nói " tổng thống chính quyền cũ", thậm chí " tổng thống Việt Nam cộng hoà" cũng được đi, mà cứ phải như là độc tôn Nguyễn Văn Thiệu? Cũng trong "ngôn từ và ngôn phong" có những câu thuyết minh như: "Vùng da cam là vùng cộng sản chiếm". Tưởng chừng đang dự buổi họp báo của chế độ Sài Gòn xưa. Phải chăng là do xu hướng "sửa sai" quá đà từ "tả" sang "hữu", hay một thứ "thời thượng"? Khi tôi đang viết những dòng này thì một đứa cháu vừa từ thành phố Hồ Chí Minh ra kể: sáng hôm 04/8/1996 cháu được nghe thuyết minh ở phòng trình quốc thư trong dinh Thống Nhất rằng "Phòng trình quốc thư nay đã chuyển ra Hà Nội"(!). Rõ ràng đây là chuyện nhận thức, không đơn thuần là kiến thức.
                     Sau ngày giải phóng miền Nam mấy năm, tôi đến thành phố này cảm thấy bỡ ngỡ và e ngại, chẳng phải vì vẻ hoa lệ mà vì "thành kiến" đối với đô thị tạm bị chiếm cũ. Buổi tối, không dám đi xa một mình; đi dạo chỉ quanh quẩn khu vực chợ Bến Thành. Ra công viên, dưới ánh đèn điện sáng như ban ngày mà thấy cô gái nào có vẻ quá tự nhiên là lánh đi sợ đụng phải gái làm tiền. Ngày ấy, thành phố chưa nhiều xe cộ lắm, nhất là ban đêm; cũng ít người đi trên hè phố. Tối đến trên các đường chính ra bến Bạch Đằng dòng xe đạp tuôn nườm nượp; người ta ra đấy hóng mát, có cả những người từ Chợ Lớn đến. Hỏi đường, gặp người dân được chỉ dẫn tận tình, rất dễ thương nếu là thanh niên hay trẻ em; nếu vớ phải một "ông" công an thì bạn sẽ được nhận những lời nghiêm nghị, lạnh lùng, có khi xách mé, cùng vẻ mặt tỏ ra "oai" và "uy" của anh ta. Muốn dạo phố tiện nhất là thuê xích lô; rẻ, phục vụ cẩn thận và hoà nhã. Đi xe buýt cũng tiện, ít phải chen lấn, nhưng có thể bị cướp giật, người của khách sạn dặn phòng xa thế. Sài Gòn, Chợ Lớn ngày ấy giá sinh hoạt không đắt đỏ. Nhưng sờ vào "tiệm" là có chuyện. Hôm ấy, tôi thử mò vào một tiệm cơm Tàu. Chọn từ thực đơn món rẻ nhất: cơm đĩa 90đ (cơm mậu dịch gần đó chỉ 10đ, ăn tốt). Khi ăn, gọi thêm tí chanh, tí hành, tí giấy lau; lúc trả tiền 115đ! Về "khoe" với bạn đồng hành: mới nếm sơ mùi Tầu Chợ Lớn mà tốn gấp mười một lần bữa ăn thông thường! Khách sạn Hướng Dương chúng tôi ngụ hình như là khách sạn "tiếp quản"; trừ lãnh đạo, những người phục vụ là "người cũ". Chúng tôi đưa quần áo nhờ là, trả tiền thì giám đốc bảo thôi. Chị phụ trách nhân viên nói: "Chúng em có khuyên là nên thu tiền để khỏi ảnh hưởng đến thu nhập của khách sạn nhưng chị giám đốc không nghe". Dễ dãi, khách thích đấy, nhưng là cách làm ăn tuỳ tiện của thời bao cấp, khó mà phất lên. Tuy nhiên, chưa tai hại bằng các kiểu xả láng và kiếm chác của mấy vị giám đốc thời mở cửa. Năm 1984, thành phố không thay đổi nhiều, có hơi "tã" đi. Lần này, thấy thành phố sôi động hẳn, đông chật, quay cuồng nhịp làm ăn, hối hả nhịp sống. Xe cộ nhiều, đặc biệt là xe máy. Đi trên đường cảm thấy rõ sự ô nhiễm không khí. Xe buýt không được ưa chuộng như ở những thành phố Âu Châu kể cả nơi có xe điện ngầm, không kéo dược nhiều khách như trước kia, kể cả những xe "đời mới" có trang bị máy thu hình cho khách xem (vì vậy người ta thu gấp đôi giá tiền qui định một cách tự nhiên chăng?). Đi xe xích lô cũng không còn rẻ, tuy có sự cạnh tranh của xe "ôm". Những người lái các phương tiện này giờ cũng đã pha tạp, ít chân chất, nhiều láu cá, nhất là những người nói giọng Bắc. Không đâu trên đất nước ta nhà riêng đúng là "khép kín" như ở thành phố này. Tôi tìm nhà một ông bạn, đến đúng trước cửa, hỏi một bà từ nhà sát bên cạnh đi ra, bà ta nói không biết là ai ở đó cả; gia dình ở cạnh nhau đã lâu đấy!
                     Vùng địa đạo Củ Chi, nhà khách, nhà bán đồ lưu niệm,… khang trang, đường sá láng nhựa, cây cối sum suê. Hơi tiếc cái khung cảnh và cái không khí Củ Chi những năm đầu sau giải phóng. Hồi đó du khách dễ cảm nhận hơn cái khốc liệt của chiến tranh, cái gian nan của những người bám trụ, do đó dễ thấm hơn cái giá của chiến thắng và cái vĩ đại của những sự tích anh hùng.
                     Cái đập vào mắt nhất trên đồng đất Củ Chi là ngôi đền nơi bến Dược. Gọi "đền" rất đúng tên vì đó là nơi thờ các liệt sĩ của thành phố Hồ Chí Minh và của các địa phương khác hi sinh trên đất thành phố. Một ngôi đền nguy nga và một cái tháp cao nhiều tầng. Chỉ riêng việc khắc tên 41.484 liệt sĩ trên đá lát tường quanh phòng đã khá công phu (dự kiến có thể đến năm mươi nghìn, bao nhiêu là xương máu! -gần bằng con số tử vong của quân Mĩ!). Duy, nhìn ngoài hơi loè loẹt, không hợp mấy với một nơi tưởng niệm.
                     Cao Lãnh, Đồng Tháp. Mộ cụ phó bảng Sắc dưới cái vòm bê tông mang hình cánh hoa sen với chín đầu rồng (cửu long). Dấu tích cuộc đấu tranh của đồng bào Cao Lãnh "dưới trào Mĩ-Sàigòn" để bảo tồn ngôi mộ nay chỉ lưu lại được trong mấy tấm ảnh. Tôi nảy ra ý nghĩ dở hơi: có phải sự trùng tu hoặc tôn tạo thiên về hiện đại hoá làm khô không khí hoài niệm cần thiết cho mỗi cuộc viếng thăm? Nhưng nếu dể tàn tạ như ngôi nhà cũ của "ông già bến Ngự" hay tiêu sơ như cụm nhà lưu niệm tác giả Truyện Kiều thì lại dễ gây nên nỗi ngậm ngùi.
                     Long Xuyên, cù lao Mĩ Hoà Hưng sầm uất màu xanh vườn, và thanh bình. Đến thăm quê hương cố chủ tịch nước Tôn Đức Thắng trước hết được hưởng cái thú đi thuyền máy trên dòng sông Hậu hào phóng không gian và gió lành. Cũng là loại nhà khá giả của nông thôn Việt Nam tồn lại từ thế kỉ trước, nhưng nhà cũ của gia đình cụ Tôn bề thế và khang trang hơn các nhà lưu niệm Nguyễn Du, dẫu cụ Nguyễn và cha anh cụ đều là quan to. Có lẽ một bên phản ánh phần nào cái trù phú của châu thổ sông Cửu Long, một bên mang dấu ấn đất nghèo Nghệ Tĩnh.
                     Cần Thơ như là một thành phố mới đối với tôi so với hơn mười năm về trước. Một thành phố trực thuộc tỉnh song phố xá rộng rãi mặt bằng và phong quang hơn nội thành Hải Phòng,-một thành phố trực thuộc trung ương. Viện bảo tàng quân khu Chín gây ngỡ ngàng về tầm một bảo tàng địa phương (ở nước ta). Một số thiếu sót không nên có: bản đồ và bản đồ nổi quân khu ở tầng dưới không có đảo Phú Quốc; chân dung Trương Định để tóc ốp gáy như thanh niên ngày nay… Giải khát ở đất Tây Đô giữa một miệt vườn bao la mà chẳng có một thứ nước quả tươi nào, chỉ toàn những Cola, 7Up, La Vie,…!
                     Châu Đốc, đền bà chúa Xứ núi Sam. Một tín ngưỡng lạ xen và hoà vào dòng tín ngưỡng pha tạp của một bộ phận cộng đồng Việt - Phật giáo. Người tham quan và hành lễ từ xa đến nườm nượp. Họ đến với bà Chúa mà hình như chẳng hề nghĩ thật ra mình lễ ai, vì tín ngưỡng gì. Một số không nhiều có ghé qua lăng Thoại Ngọc hầu gần đấy. Rất ít người tìm đến di tích cuộc chiến đấu kì lạ của du kích núi Sam. (Mà người ta có lẽ lo tôn tạo khu vực đền bà Chúa cho to đẹp hơn là bảo tồn di tích núi Sam kháng chiến. Đền bà chúa Xứ tôi được xem nhiều trên báo, trên truyền hình; mà chỉ mới đọc được một bài báo nói về di tích du-kích-chiến núi Sam!).
                     Hòn Đất, Kiên Giang. Tìm đến mộ chị Sứ (cái tên trong tiểu thuyết đã nổi tiếng hơn tên thật ngoài đời) thật gian nan, không chỉ vì đường quá xấu và lắm ngả, mà trước hết thiếu những tấm biển chỉ đường ở những nơi cần thiết. Nơi đây lẽ ra phải là nơi hút khách du lịch trong và ngoài nước. Hang Hòn với những vết dạn bom còn hằn trên đá; con suối cứu tinh và cạm bẫy (do kẻ địch); nơi hành hình người nữ du kích anh hùng; quần thể núi giữa đồng bằng; một vùng biển đẹp kề đó tạo cảnh cho một ngôi chùa cổ.
                    Đường đất Kiên Giang - Cần Thơ dằng dặc, hai bên đường, trừ các điểm thị tứ, chỉ thấy những nhà tranh thấp nhỏ như đã mọc lên từ hàng nghìn năm nay và rất nhiều trẻ con sàn sàn tuổi nhau đứng nhìn chiếc xe, một mẩu vẩy của văn minh, lướt qua. Bức tranh sống động của hai bạn đồng hành: nghèo đói và đông con.     

                      
                       Tham quan và hiểu biết
                       Đi tham quan, một phần quan trọng là để học hỏi. Song tham quan theo lối "cưỡi ngựa xem hoa" mà thiếu những hiểu biết nhất định, chẳng riêng tri thức, thì "tham quan" không ra ngoài hai chữ "đi chơi". Có những người già ham tìm hiểu chăm chú nghe thuyết minh, trong khi những người khác, trước hết là lớp trẻ, điều quan tâm hàng đầu là chụp ảnh. Phong cảnh cũng chỉ ngó qua. Di tích lại càng ngó qua hơn, nếu đó là di tích kháng chiến, di tích cách mạng thì… Trong đoàn có một anh chừng chưa tới ba mươi tuổi, bà mẹ cùng đi với anh khoe là "ngoan nhất nhà". Đến điểm tham quan nào anh ta cũng chen đi trước, xô lấn bất kì ai, nghiêng nghé nom dòm, chọn nơi chụp ảnh, xéo lên cây cỏ, lên hoa, vứt bừa đầu thuốc lá; chen vào trước lại tranh ra trước, bỏ lại đằng sau lời thuyết minh cho đám người lớn tuổi. Mấy người trẻ khác trong đoàn không "năng nổ" đến mức như vậy nhưng cũng cùng "xu hướng".
                     Có những vị quá tự tin thích giải thích mỗi khi có dịp. Đại loại như một vị đáng kính giảng giải khi qua đèo Xông Pha: "Đèo này cao, khó đi, không giống nơi nào nên còn có tên là Ngoạn Mục, hay hơn". Còn vị trưởng đoàn thì lúc sắp đến toà thánh Cao Đài ở Tây Ninh đã giới thiệu: "Đạo này thờ ba vị: Nguyễn Bỉnh Khiêm của ta cùng một ông Tây và một ông Tàu"!.
                     Một số người trở lại nơi mình đã từng qua muốn biết kĩ hơn hoặc nhìn nhận những đổi thay. "Đi một ngày đàng…" thường còn ghi dấu vào những buồn vui của một đời người.

                      
                       Tham quan và lễ bái.
                       Dường như không tách rời. Có khi như là cái "mốt". Nhiều ông, nhiều bà đứng lễ thành kính lắm; nhưng khi thắp hương chủ yếu lại là để chụp ảnh, nghĩa là trước hết xoay xở sao cho tấm ảnh "ra dáng" đã.
                     Lễ bái cũng có những chuyện kì khôi. Mấy bà trong đoàn - từng là cán bộ, có cả trí thức hạng trung - vốn hay đi lễ chùa vậy đều là phật tử, chính thức hoặc bán chính thức. Thế mà đến thánh thất Cao Đài, Tây Ninh, thấy ba tượng người đứng cuối phòng kính cẩn hướng về đại điện, các bà sụp xuống lạy, khiến mấy vị áo quần trắng - đệ tử Cao Đài - đứng trực gần đấy và mấy "Tây ba lô" tròn mắt. Ra ngoài, tôi hỏi:
                     - Xin lỗi, các bà có biết vừa lạy ai không?
                     - Không. Sao cơ?
                     - Vậy sao lại lạy?
                     - Thì người ta thờ mà.
                     - Đây là đền Cao Đài. Họ thờ Phật, Chúa, Tiên, Thánh… hỗn hợp các tín ngưỡng đông tây. Nhưng đạo Phật, đạo Thiên Chúa,… không coi là đồng đạo. Ba tượng đứng cuối phòng kia là tượng ba chức sắc đầu tiên, khởi xướng đạo Cao Đài.
                     Các bà có vẻ không vui mà không muốn nghe.
                     Đến đền bà chúa Xứ, núi Sam, mấy bà, cả mấy ông nữa, đứng khấn vái thành kính trước bàn thờ linga, nơi có mô hình cái dương vật cách điệu cực kì to. Họ chẳng biết thờ linga là thờ gì, cứ kêu cầu cái đã.
                     Ở Hội An, hội quán Phúc Kiến, các bà khi vào lễ chẳng hề nghĩ rằng đó chỉ là nơi thờ những người cầm đầu một đoàn thần tử nhà Minh di cư đến Việt Nam để trốn nhà Thanh. Hội quán là một thứ "nhà thờ tổ" hoặc "đình" của các bang người Hoa định cư.
                     Chuyện lễ bái ở xứ ta thật nhiêu khê, nhất là từ những năm "mở cửa". Những người "ăn nên làm ra" nhờ mánh khoé, nhờ quyền hành,… cần chỗ dựa để vững tâm mà "dấn thân" lôi kéo cả rất nhiều người vốn chẳng có gì phải "hối lộ" thần thánh. Hễ chỗ nào đã có cắm hương, chẳng cần biết mô tê gì, chẳng biết thờ ai, người ta cứ xông đến thắp nhang khấn vái. Nơi đình chùa đã đành, bất kể gốc cây, hòn đá, tượng con vật. Rồi tệ đốt vàng mã. Tưởng như đang trở lại thời xa xưa, thời của đa thần giáo, của tín ngưỡng táp nham, khi nhân loại chưa thoát vòng mông muội. Tiếc thay! Tình trạng này đang được thả nổi. "Tôn trọng tự do tín ngưỡng" chăng? Người nước ngoài nhìn những cảnh này chắc "phục" dân trí nước ta lắm!

                      
                       Môi trường và thắng cảnh, di tích văn hoá, di tích lịch sử.
                       Khỏi nói hiện nay các thắng cảnh, các di tích và môi trường các nơi này đang bị đe dọa bởi các dịch vụ dành cho du khách hoặc quanh các lễ hội. Hãy để cho người ngoại quốc nhận xét. Ở Tháp Bà, Nha Trang, nơi khá ồn và khá bẩn, tôi gặp hai vợ chồng người Pháp "Tây ba lô". Hỏi cảm tưởng, họ khen chung chung về lòng mến khách, về cảnh đẹp. Tôi đề nghị nói thẳng, người chồng nói: "Người Việt Nam các ông nghĩ chúng tôi là những người giàu đi du lịch để tiêu tiền. Thật ra, chúng tôi đi trước hết là để biết thêm một nền văn hoá, hiểu con người, xứ sở, và mong được tạo thuận lợi về mặt này… Ở xứ các ông, môi trường ít được quan tâm. Hạ Long tuyệt đẹp. Vậy mà chính người của tổ chức du lịch đưa chúng tôi đi lại thản nhiên đổ rác xuống biển. Mong các ông hãy tôn trọng của báu thiên nhiên tặng các ông như chúng tôi tôn trọng nó". Thiết tưởng chẳng cần bình luận thêm.

                      
                       Tham quan - du lịch, lắm nỗi
                       Đi tham quan, du lịch dài ngày, rong ruổi trên các nẻo đường đất nước thật là thú. Nhưng chuyến đi cập rập quá chăng? Đến Hà Tiên chỉ dừng ở cạnh chợ hơn tiếng đồng hồ rồi "rút quân", chẳng hòn Phụ Tử, chẳng Thạch Động. Đến Phan Thiết chỉ để ngủ qua đêm, không biết đến khu bảo tồn trường Dục Thanh, đến mũi Né. Qua Quảng Bình phớt Luỹ Thầy, động Phong Nha. Qua Hà Tĩnh, lờ ngã ba Đồng Lộc dù chỉ phải rẽ mươi cây số, toan lờ cả khu lưu niệm Nguyễn Du. Chẳng phải do thời gian. Chuyến đi do một câu lạc bộ của những cựu chiến binh trung - cao cấp tổ chức (cho cả những người không thuộc câu lạc bộ, lệ phí phải đóng như nhau). Trước khi đoàn đi, ông chủ tịch câu lạc bộ, một người đáng kính thật sự, đến chúc lên đường đã nhấn mạnh rằng câu lạc bộ chỉ "phục vụ" không "làm dịch vụ". Hẳn ông ta không biết rằng chiếc xe mà đoàn thuê để đi là của vài ông trong câu lạc bộ "liên doanh" với các lái xe. Những người trong đoàn không hiểu được vì sao có lúc lái xe lái cả trưởng đoàn. Phí tổn cả chuyến đi trao trước trọn gói, riêng phí xe là một triệu đồng mỗi người. Một ông bạn đi nhiều, biết nhiều bảo: "Các ông đi và về giỏi lắm là sáu nghìn ki-lô-mét. Ông có biết thành phố Hồ Chí Minh đi Đà Lạt ba trăm ki-lô-mét hết bao nhiêu tiền xe khách không? Bốn chục ngàn đồng, mà đi xe Toyota mười hai chỗ ngồi hết ý nhé!" Khi biết chúng tôi đi chiếc Hải Âu, ông ta rũ ra cười: "Tôi biết loại xe ấy rồi. Chuyển từ xe tải sang chứ gì. Xóc kinh khủng, đệm ngồi rất cứng, chỗ dựa chỉ đến ngang lưng. Bây giờ ngay xe khách đường gần người ta cũng chẳng muốn xài. Đi du lịch, lại là đường dài, bằng xe ấy thì chịu các ông thật!" Rõ ra giọng của người chẳng phải bỏ tiền túi ra để "du".
                      Tôi cười xoà. Chuyện tham quan - du lịch xứ ta còn lắm nỗi, lắm thứ nhân danh. "Phó thường dân" đi được là quí rồi.

                 
                Hải Phòng, 8 - 1996


                <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.03.2009 11:37:23 bởi Khải Nguyên HT >
                #8
                  Khải Nguyên HT 18.03.2009 21:31:22 (permalink)
                  Bất ngờ một điểm dừng chân

                         Đoàn tham quan - du lịch chúng tôi, từ Hải Phòng, sau một chuyến di dài suốt miền Trung lên Đà Lạt, vào Nam Bộ đến tận Hà Tiên, trên dường trở về, một chiều muộn vượt Đèo Ngang, ước chừng không đến kịp thị xã Hà Tĩnh trước tối như dự tính, đã dừng tại Mũi Đao, một chốn hẻo lánh trên quốc lộ 1. Nơi đây chỉ có một nhà trọ mang cái tên khá kêu "Khách sạn Hoành Sơn" của Công ti du lịch Hà Tĩnh với khoảng ba mươi giường. Gần đó là một đồn biên phòng, rồi một trạm xăng. Ngoài ra không thấy bóng một nhà dân nào. Những tưởng chỉ nghỉ qua đêm, sáng hôm sau đi sớm. Nhưng rồi chúng tôi bị hấp dẫn ngay bởi bãi biển liền kề sau khách sạn. Một bãi biển hình vòng cung lõm như bãi biển Trà Cổ. Cát bãi không được chặt và phẳng phiu như ở Trà Cổ, song trắng hơn, sạch hơn. Phía bắc có một bãi đá, ngồi hóng gió biển khi nắng chiều đã nấp bên kia núi, hoặc ngồi chơi đêm trăng thì chỉ có khoái. Xa hơn một chút, có những hòn đá khá phẳng có thể ngả lưng nằm ngắm trời, ngắm biển, hoặc thả hồn vào thiên nhiên hoang sơ. Nước biển rất trong và rất mặn như tại hầu hết các bãi tắm miền Trung. Nước biển Đồ Sơn chẳng bao giờ dám mơ đến đã đành, mà ngay nước biển Bãi Cháy cũng chỉ sánh được vào đầu mùa nghỉ mát. Bãi tắm thoai thoải, không đột ngột sâu như bãi Nha Trang, không "cát trôi" như bãi Vũng Tàu, mà chỗ nông không kéo quá xa bờ như bãi Mĩ Khê (Đà Nẵng), và cát không dính tí bùn như ở bãi Trà Cổ hay bãi Cháy. Đặc biệt, không khí thật trong lành, không nhiềm mùi đô hội, mùi tạp của con người; ở đây chỉ có mùi biển khơi và mùi núi rừng (và cả mùi "hoài cổ" nếu du khách muốn, vì khá gần cửa ải Đèo Ngang).
                         Ngoài xa, cách bờ chừng mươi hải lí có một đảo nhỏ, đảo Hòn La, dài chưa tới trăm mét, rộng chưa tới hai chục mét, những hôm trời trong đứng trên bờ có thể nhìn thấy. ở đấy có nhiều chim và… rắn, nhưng không đáng sợ, nếu không có ý định lùng sục trêu chọc chúng. Đảo có hang mát lạnh vào những hôm nóng nhất, có nước ngọt. Du khách người nước ngoài thích thuê thuyền ra đấy chơi.
                         Bên kia đường quốc lộ 1 là núi rừng. Trước đây từng là rừng rậm, đêm đêm nghe vọng tiếng thú rừng, đôi khi cả tiếng cọp săn mồi. Cách đây dăm năm, rừng đã bị phá trụi; gần đây mới được trồng lại, đã có bóng râm và đã có tiếng chim. Một nơi khá tĩnh lặng, xa chốn phồn hoa, hoà vào thiên nhiên, có biển, có núi, có cả suối - nước ngọt thật sự ngọt. Đêm và ngày được nghe cả tiếng biển lẫn tiếng rừng (Tảng sáng hôm ấy, đang mơ màng, tôi mơ hồ nghe tiếng chim hót).
                         Những ai khoái nhậu, có sẵn tôm, mực, cá… tươi nguyên. Món cháo cua biển sáng hôm đó là món điểm tâm "hay" nhất mà chúng tôi được thưởng thức trong suốt gần một tháng xuyên Việt, đi và về.
                  Nếu có gì đáng phàn nàn thì ấy là còn phải "xài" điện máy nổ; ngày hè cũng chỉ có điện vào bữa ăn trưa, và đêm đến, chỉ có đến hai giờ sáng. Một điểm nữa, các vòi nước trong các "toa lét" xuống cấp nhanh quá chỉ sau mấy năm, tuy chưa phải là không dùng được nữa. Thấy nói cuối năm nay sẽ có điện lưới quốc gia, và tỉnh đang có kế hoạch nâng cấp khách sạn Hoành Sơn.
                  Nơi đây nếu được bỏ thêm công, thêm của vào để tạo nên rừng cây ăn quả trên đồi núi xung quanh; tạo điều kiện và cảnh quan cho du khách cắm trại, leo núi..vv… (nhưng đừng đô thị hoá) thì chắc chắn sẽ là nơi dừng chân lí tưởng cho du khách và hành khách trên tuyến đường dọc theo đất nước qua miền Trung nhiều nắng lửa và gió Lào.
                         Được biết "Tây ba lô" và cả "Tây" đi xe sang trọng, thường dừng chân chốn này. Nhiều khi chỉ định ở qua đêm, nhưng rồi họ nán lại hai, ba ngày. Đáng tiếc, đoàn chúng tôi, ông "trưởng đoàn" và cả lái xe (!) - do đã nhận khoán chuyến đi nên có lí do để vội, dù chuyến đi không mang danh "dịch vụ", đành phải sớm "chào tạm biệt" Mũi Đao.
                         Hẹn gặp lại Mũi Đao "hay" hơn.

                  02-7-1996
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.03.2009 21:35:04 bởi Khải Nguyên HT >
                  #9
                    Khải Nguyên HT 21.03.2009 11:37:23 (permalink)
                    Vui buồn một lần thăm quê

                           Đường đất Hà Tĩnh quanh quanh.
                           "Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh" một tỉnh nghèo, có đường bộ, đường sắt xuyên Việt ngang qua mà như là khuất nẻo, ít được nói đến, không kể thời chiến tranh phá hoại của Mĩ. Cùng là xứ Nghệ, vốn thuộc châu Hoan, châu Bố - Chính xưa, đến đời Minh Mạng tách ra song vẫn chung một tổng đốc cai trị, nhưng nói đến xứ Nghệ thường người ta chỉ nghĩ đến Nghệ An. Người dân hai tỉnh xưa nay không hề biết địa giới hành chính, vậy mà thời sát nhập Nghệ Tĩnh lại có tình trạng khó dung nhau, trước hết là ở giới điều hành trên tỉnh. Rõ ràng là chẳng phải tại dân. Ngày nay, vẫn có hội đồng hương Nghệ Tĩnh tại nhiều tỉnh bạn.
                          Câu ca nguyên là: "Đường vô xứ Nghệ quanh quanh" bây giờ không thật đúng nữa. Đường nội xứ cũng vậy. Tôi được đi trên con đường vào loại sang nhất trong các tuyến dài ở nước ta. Quốc lộ số Tám từ thị xã Hồng Lĩnh, một thị xã mới chào đời nơi bãi Vọt cũ dưới chân núi Hồng trên đường quốc lộ số Một, chạy ngang phía bắc tỉnh, vượt Trường Sơn sang nước bạn Lào, mới được nắn lại, mở rộng và rải bê tông nhựa dăm năm nay. Còn nhớ năm xưa khi còn là một học sinh tiểu học, tôi phải cuốc bộ bảy mươi ki-lô-mét vào tỉnh lị để thi học sinh giỏi toàn quốc. Đường số Tám, đường số Một thời đó chỉ rải đá, chân trần tôi đã quen đạp đất vậy mà vẫn rát gan bàn chân. Cả tuyến đường chỉ có một chiếc xe khách lúc đó đã treo bánh. Bây giờ xe đã sẵn, chủ yếu là xe tư. Với các tuyến chính, chực bên đường để vẫy, chẳng phải đợi lâu. Song hành khách còn khuya mới là Thượng đế. Hành hạ hành khách thì đâu cũng vậy, tuy nhiên kiểu Hà Tĩnh có những nét riêng. Anh vẫy xe đi H.T. chẳng hạn. Lên xe, anh trả tiền trước và yên trí. Đến H.L., họ mời anh xuống và bán anh cho một xe khác. Anh không phải trả tiền thêm nhưng phải ngồi chờ chán chê. Và đây là một dạng "hành" khách khác. Bữa nọ, một ông bạn tôi từ thị xã Hà Tĩnh đi Kì Anh. Lúc 9 giờ 15, ông ta lên một chiếc xe trong bến thị xã. Nửa giờ sau, trên xe khách đã ngồi gần kín ghế. Lái xe cho xe ra khỏi bến. Nhưng … xe đi một vòng thị xã lấy thêm khách, chất thêm hàng rồi lại quay về bến. Ba lần như thế. Đến 12 giờ 10, nghe tiếng kêu: "tủ đến rồi!" Thì ra họ còn chờ người chở tủ đã hẹn trước. Vậy mà chẳng một câu nói lại với hành khách. Hẳn lần này thì thoát. Bấy giờ xe đã chật cứng, nhiều người phải đứng. Xe rời bến chạy về cuối thị xã và… rẽ vào một cái chợ cách đường chính gần hai ki-lô-mét. Đến đây, lái xe được một người công an "hỏi thăm" về chuyện quá tải. Nhưng được thả rất nhanh (về sau, một khách quen hỏi: "Phải cúng bao nhiêu?" Đáp: "Một trăm, hắn cho khất"). Xe đến đậu cạnh một đống bao tải ních chặt cây cải và củ cải nguyên lá. Chuyển và xếp hai chục bao tải này mất gần ba mươi phút. Có hành khách bất bình toan hô hào mọi người xuống xe tìm đến xe khác cho chủ xe "trắng mắt ra" nhưng không thành. Xem ra hành khách ta, trong đó có ông bạn tôi bền gan chịu đựng thật.
                          Một hành khách vào loại "một thời vang bóng" ngồi cạnh ông bạn tôi nói vui: "Người ta nói rằng bị bóc lột có khi người ta chịu được còn bị áp bức thì không. Chúng mình bữa nay vừa bị áp bức, vừa bị bóc lột mà vẫn chịu tốt".  Dọc đường xe còn dừng lại nhiều lần để "ăn" thêm khách, thêm hàng. Có hai thanh niên mang theo xe đạp; họ chỉ cần đi một đoạn ngắn, một người 13km, người kia 10km mà họ thích cho xe đạp nghỉ trên nóc ôtô. Thật là "phú quí sinh lễ nghĩa". Trước kia, chừng ấy đường đất, người ta không ngần ngại đi bộ. Bây giờ, họ thà bị nhồi đứng trên xe khách chật như nêm thay vì đạp xe mươi cây số nơi đồng quê khoáng đạt.
                          Hà Tĩnh còn có một phương tiện đi lại đường trường mà nhiều địa phương khác không có. Từ trung tâm lâm trường Hương Sơn đến thị trấn Phố Châu và đi xa hơn nữa, có đến mười lăm chiếc xe lam. Lạ mà không lạ là chẳng chiếc nào được đăng kí, vì xe nhập lậu hay sao đó, mà vẫn hành nghề, công khai vì giấu sao được. Mỗi khi có vị chức trách nào sờ đến thì vị chủ xe khó thoát món "mãi lộ". Những chiếc xe lam với tiếng nổ đanh như tiếng sét cho đến lúc này vẫn giúp ích cho những người cần đi. Nhưng liệu có nên thả nổi?

                           Miền quê trăn trở
                           Lâu ngày trở lại quê, tôi gặp những dấu hiệu đáng vui. Trong bữa cơm tại nhà ông anh ruột, tôi đòi món "nhút ngọn đỗ" một thứ dưa làm bằng ngọn đỗ xanh muối thật mặn, dành để ăn quanh năm. Bà chị dâu cười bảo: "Bạc triệu cũng chẳng kiếm được cho chú đâu. ở ta, bỏ làm món đó lâu rồi". Cả món cà, muối mặn đến mức một quả con ăn vừa một bát cơm. Cả món trám muối ăn dè. Những thứ ấy, lớp trẻ quê tôi khó biết, những thứ thức ăn của thời quá nghèo khổ và quá lạc hậu. Còn nữa, bây giờ khoai sắn chủ yếu dành cho chăn nuôi. Xưa kia, ngay nhà cha mẹ tôi, từng bị qui thành phần lớp trên, cơm chỉ không độn khoai vào ngày mùa và ngày Tết. Khoai lang tươi rửa sạch thái mỏng phơi khô cho vào chum, vò ăn dần. Thức ăn nghèo nàn, hồi đó cơm trộn khoai tôi lại thấy dễ ăn hơn. Bây giờ muốn ăn "ôn cố" mà không được.
                          Nhà cửa quê tôi còn kém xa nhiều làng mạc ở đồng bằng Bắc bộ có lắm nhà xây kiểu mới khoe dáng, khoe màu, nhưng đã rải rác mái ngói, tường gạch thay cho mái tranh, phên thưng. Điều đập vào mắt ở những làng tôi đi qua là những ngôi trường khá khang trang. Xã tôi, xã Sơn Phúc, xưa là thôn Phúc Đậu, nơi có động Tiên Hoa mà Lê Lợi từng đặt đại bản doanh, có "cây thị ăn thề" từng chứng kiến cuộc thề giữa thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn với Nguyễn Tuấn Thiện, thủ lĩnh nghĩa quân bản địa. Sơn Phúc, thuộc loại xã nghèo nhất huyện Hương Sơn, hồi trước có một ngôi trường cấp một lợp tranh hẹp như một cái chuồng bò, tối và nóng như một cái lò bánh. Nay xã đã có hai ngôi trường tiểu học và trung học cơ sở kề nhau trên một ngọn đồi thấp sáng màu mái ngói tường vôi mới, có sân rộng, có những hàng cây thoáng mát. Tuy nhiên bên trong còn những bộ bàn ghế xộc xệch chắc là lưu lại từ thời mái tranh lụp xụp.
                          Có lẽ trong bốn mục tiêu công ích nông thôn ở Hà Tĩnh thì trường là khả quan hơn cả. Về trạm (xá), cơ sở vật chất nói chung vẫn nghèo nàn, "thầy" và "thuốc" còn lắm nỗi. Điện đã về hầu hết các làng, nhưng người ta chỉ xài khi thật cần thiết, có nhà cả tháng chỉ hết vài số (kwh), giá điện còn quá cao so với túi người dân. Điện cũng mất luôn. Hôm tôi về, mất năm ngày liền, cả tỉnh. Còn đường thì hầu hết là đường đất, không kể những đường quốc lộ, tỉnh lộ chạy qua. Người ta nhìn thấy dấu hiệu đổi mới ở nông thôn một số địa phương khác không chỉ qua những nhà xây "hiện đại" mà còn qua những con đường làng, đường liên xã rải nhựa hoặc đúc bê tông. Vùng quê tôi chưa dứt được bóng dáng xơ xác của một thời xưa cũ.
                          Cảm tưởng ấy càng đậm nét hơn khi nhìn đến vườn tược. Những khu vườn pha tạp đủ loại cây: cây ăn quả, cây lấy gỗ, cây lấy củi, rồi chè, rồi bầu bí, rồi mây tre nơi bờ rào. Lối canh tác kiểu này ít tốn công sức chăm bón, phù hợp với kiểu kinh tế tự cấp, tự túc còm cõi. Buồn thay, đã thành nếp quen! Người ta càng có cớ để không đổi mới cách làm ăn khi một số người, không nhiều lắm, phá bỏ vườn tạp để chuyên trồng cam không thành công. Cam bù Hương Sơn ai đã ăn một lần thì nhớ đời. Nó khác xa cam sành Bố Hạ, cam chanh Xã Đoài. Có quả ngày Tết lên đến hai mươi ngàn đồng. Những quả cam dày vỏ, chín vàng, múi mọng nước vừa ngọt, vừa chua thanh. Chẳng hiểu do đâu cây cam bù những người này trồng chỉ được hai năm là thoái hoá. Quả cam trở nên mỏng vỏ, chua lè. Chưa có ai nghiên cứu xem tại sao. Chẳng có ai hướng dẫn cách làm vườn. Các loại cây ăn quả khác cũng vào dạng trồng manh mún. Phong trào làm kinh tế vườn quê tôi xem ra còn èo uột. Mô hình V.A.C nơi quê tôi có chiều thiếu vắng. Cũng phải thôi, nơi có rất ít ao chuôm.
                          Ai cũng biết chỉ trông vào cây lúa từng hộ giỏi lắm là đủ ăn. Kinh tế tiểu nông cũng đã biết đến giá trị của cái vườn, của nghề phụ.
                          Xưa kia đi trên đường cái quan ven sông Phố, đi trên đê sông La, sông Lam,… sáng chiều bóng các cô gái hái dâu, giặt sợi sáng cả khúc sông. Xưa kia, chợ Phố, chợ Thượng, chợ Vinh,… ngày phiên dưới bến thuyền ken chật, trên bờ người chen hàng, tiếng ồn chợ vang xa hàng cây số (chắc hẳn đã gợi tứ thơ Huy Cận: "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều"). Sắp đến phiên chợ thuyền xuôi ngược rải ra trên dòng sông xanh chở nông thổ sản, hải sản, người ta gọi là "đò dọc". Giá bạn được một lần đi đò dọc trên sông Phố, sông Sâu, sông La, sông Lam,…, nhất là vào đêm trăng lại có các bạn thuyền nổi hứng vừa chèo chống, vừa cất giọng hò. Cảnh nên thơ của một thời làm ăn lụn vụn, với những vườn cây trồng đủ thứ cau, trầu, chè, chuối, mít, cam, bưởi, dứa,… với các nghề thủ công tự sản tự tiêu: trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, trồng mía, ép mật, đẽo guốc, chằm nón, làm mắm,… Ngày nay, những thứ đó đã thành lạc hậu hoặc đã phôi pha. Người ta hay nói hiện đại hoá trên cơ sở phát huy truyền thống. Nhưng nói chỉ để mà nói. Hình như chưa có ai, chưa có cơ quan nào nghĩ đến việc vực dậy những gì còn khả dĩ, tổ chức lại, thổi vào đấy luồng sinh khí mới của khoa học - kĩ thuật, của cung cách làm ăn tân tiến và của nền kinh tế thị trường. Chưa nói chi tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế qui mô và toàn diện. Những người tinh nhạy và có gan bươn chải thường hướng về buôn bán, buôn Bắc - Nam, buôn biên giới, buôn trên biển (không từ buôn lậu, tất nhiên). Hướng sản xuất chưa thu hút họ vì điều kiện, vì môi trường kinh tế, vì lợi nhuận.
                          Mức sống của người Hà Tĩnh khá lên rõ nhất ở các thị tứ. Cách biệt hẳn với nông thôn - ngay vùng kế cận, không như nhiều nơi khác. Thị trấn Phố Châu tại một miền bán sơn địa nay đã có khách sạn, nhà tư nhân nhiều tầng, có ôtô tư, nhiều xe máy, có nhiều nhà mắc điện thoại. Một ông từng dạy cấp Một, khốn khó vì hơi nhiều con, nay bà vợ dược sĩ kinh doanh thuốc tây, một hôm đàm thoại qua luồng điện với một người cháu họ vốn cũng từng long đong, nay khấm khá ở một tỉnh kề thủ đô, hai bên cả cười khà khà: "Ai ngờ chú cháu ta có ngày ngồi ngay tại nhà mình gọi nhau qua nửa nghìn ki-lô-mét, hè!" Mốt khao sinh nhật kiểu mới cho người lớn tuổi giờ không chỉ đóng khung nơi các thành phố. Mức sống phải "thong thả" mới nghĩ tới chuyện ấy được, không nói các cháu học sinh. Chỉ là dấu hiệu đáng mừng thôi. Tuy nhiên… Người ta kháo nhau lễ "ăn sinh nhật" ông nọ, một công chức về hưu bản tính điềm đạm có con cái, dâu rể thành đạt - có người từng du học. Trong buổi họp mặt long trọng có đông đảo bà con, bạn bè, các con ông đã mừng cha nhiều… "phong bì"! Mức sống khác nhau nhìn nhận cuộc sống không giống nhau. Một người cháu tôi đang sống khó khăn nói chuyện không được lạc quan cho lắm, nhất là khi đề cập đến họa tham nhũng. Cô em họ anh ta đang ăn nên làm ra thì nghĩ khác: "Nói gì thì nói, nước ta vẫn phát triển hàng năm tám, chín phần trăm đấy thôi. Chúng nó vơ vét ở đâu chẳng đụng đến mình, nghĩ chi cho mệt". Người anh cười khẩy: "Cô chỉ căn cứ vào cái nồi của cô để đánh giá chuyện đời. Chỉ nói đơn giản thôi, nếu không có bọn tham nhũng, buôn lậu đục khoét thì các con cô được học trong những điều kiện tốt hơn, sống trong môi trường xã hội khá hơn hiện nay". E rằng những lời đó khó lọt tai không ít người.
                          Ở nông thôn quê tôi, vài nghìn đồng là to. Một con bò giá một hai bạc triệu là gia sản không nhỏ. Nhiều nhà có vài con bò để cày bừa, không kéo được thì bán giết thịt. Khó nói đến chuyện bò sữa. Nhiều người rất nghèo, ngân hàng cho vay vốn không dám nhận. Tôi hỏi có phải vì thủ tục lôi thôi và phải lót tay không. Họ nói những chuyện ấy đã bớt nhiều rồi, cái chính là vay chẳng biết để làm gì, chẳng lẽ để ăn tiêu, mua sắm, rồi lấy gì mà trả. Vậy là Nhà nước giúp vốn là cần, song cái cần hơn là bày cách làm ăn. Đang sống bùng nhùng trong nếp kinh tế tiểu nông, mấy ai đã nhanh nhạy xoay xở trong kinh tế thị trường! Vả chăng, hướng tới dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng thì không thể thả lỏng mặc qui luật "khôn được dại thua". Chẳng biết Bộ "Phát triển nông thôn" nghĩ sao?
                          Vùng quê nào không vào mùa thu hoạch cũng trầm lặng, trừ những nơi rộn rã nghề phụ. Quê tôi thực sự buồn. Tôi đạp xe lòng vòng mấy làng chỉ gặp một người đàn bà đi xe đạp vai… vác cày (!) và vài ông về hưu, cán bộ có, bộ đội có, chăn mấy con bò ven đường. Một ông đại tá chưa già mấy hí húi trong một mảnh vườn tạp, đúng cảnh "về vườn". Lương hưu đại tá thừa sống ung dung ở nông thôn (dân làng tấm tắc: Tiêu gì cho hết (!)). Nhưng chẳng bì được với một đại tá khác, người cùng xóm nhưng nghỉ hưu tại một thành phố phía Nam, riêng món tiền cho người nước ngoài thuê nhà đã thu ròng mười lăm triệu đồng hàng tháng. Ông ta về làng, ngoài các khoản khác, bảo trẻ con chơi bóng, thưởng tại trận mười nghìn đồng cho ai ghi bàn. Trong tâm tưởng, tôi vẫn giữ hình ảnh một làng quê đầm ấm thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Nay cảm thấy hiu hắt. Đang những ngày vào đông. Đường thôn ấm lên lúc tan trường. Tôi muốn hoà vào những bước chân thơ trẻ ngày nay những dấu chân của đứa bé thò lò mũi xanh ngày xưa, nhưng các cháu nhìn tôi bỡ ngỡ.
                          Làng quê chẳng còn như xưa, nhưng tôi nhìn vào vẫn là màu xanh cây vườn ôm ấp, thấp thoáng những mái nhà tranh xen ngói. Đột khởi lên đó đây những tháp chuông nhà thờ màu vàng. Các nhà thờ được xây mới lại hoặc tu sửa, mở mang và tô điểm khuôn viên, tôn cao tháp chuông. Nhà thờ T.N cũ bị dập đi làm lại cao rộng có thể đặt lọt thỏm ngôi nhà thờ lớn nhất vùng trước đây vào trong. Và tháp chuông vút lên chót vót như một thứ vọng lâu ngóng xa hàng mươi  ki-lô-mét. Nghe nói đó là công quả của Việt kiều gốc xứ đạo. Những người công giáo lưu vong đã "tốt đời" nơi xứ người có nhã ý lo cho bà con nơi nước cũ được "đẹp đạo". Âu cũng là lòng thành. Có khác với Hoa kiều, Do Thái kiều và nhiều "kiều" khác đối với nước gốc của họ. Họ nghĩ đến đầu tư kinh tế hơn.

                           Kì vọng
                           Hôm ngủ lại nhà chú em, tôi đang ngon giấc thì reng, reng, reng… chuông đồng hồ báo thức đổ hồi. Mới bốn giờ sáng. Tôi vốn không dễ ngủ nên toan bực mình, sực nhớ ra thấy yên dạ. Đứa cháu học lớp mười một thường dậy học bài vào giờ này. Người ta hay phàn nàn học sinh bây giờ ít chăm học cá nhân. Học sinh nông thôn, học sinh con nhà nghèo nói chung không có điều kiện. Phải làm việc giúp gia đình, thì giờ riêng chẳng còn mấy, lại mệt bã người, khó mà chăm được. Việc lên lớp, việc thi các cấp dễ dãi cũng thêm vào một cái cớ. Tôi gặp trên cầu Thọ Tường (Đức Thọ) ba cháu bé gái xách ba cái ấm nhôm. "Các cháu đi mô đó?", "Đi bán nước". "Được nhiều không?" "Bữa được một ngàn, bữa được ngàn mốt, có bữa được hai ngàn". "Các cháu không đi học à?". "Có, học một buổi, bán một buổi" "Tự học vào lúc mô?" "Buổi tối, học đầu hôm. Mà bác hỏi mần chi?". Thằng cháu tôi trước đây, ngoài buổi tới trường, suốt ngày chăn bò, cắt cỏ; tối đến mới mó đến sách vở một tí đã lăn ra ngủ. Đến khi cháu lên cấp ba, chú em tôi thấy "mỗi năm cứ lên một lớp" kiểu này chẳng ổn. Chú mới bán mấy con bò lấy tiền gửi tiết kiệm làm "vốn" cho con ăn học. Với lãi suất bây giờ chắc chẳng được bao lăm, cái chính là để "giải phóng" cho con. Thằng bé cũng biết phận, ngày ngày đạp xe gần mười cây số tới trường; về nhà cặm cụi học tập, thức khuya dậy sớm.
                          Dân Nghệ Tĩnh vẫn có tiếng là chịu học và học giỏi. Thời xưa và mãi tới gần đây, nhiều nhà văn hoá, nhà khoa học nổi tiếng xuất thân từ xứ Nghệ. Nhưng mấy lâu nay, trong bảng vàng học sinh giỏi, Nghệ An còn vớt vát được chút ít, chứ Hà Tĩnh thì quá khiêm tốn. Có phải vì Hà Tĩnh không có một trung tâm văn hoá, khoa học? Có phải vì gánh nặng phí tổn học đường đối với đa số người dân của một tỉnh nghèo? Có phải vì chưa có một chính sách chiêu hiền đãi sĩ thích hợp để có thầy giỏi, trò giỏi? Và những "nghịch lí"… Trong thời gian thăm quê, tôi nghe nhiều người nói trường Cao đẳng Sư phạm H "nổi tiếng" tiêu cực trong tuyển sinh". Dư luận này đúng, sai ra sao trông vào các nhà chức trách phân định. Một lần tôi nghe được mẩu đối thoại sau đây: "Thằng nớ, bạn thân của mi, học kém mi nhiều mà vào được CĐSP, còn mi trượt vỏ chuối". "Tau mần chi có bảy triệu đồng như hắn. Mà có thì tau cũng nỏ chơi". Tôi muốn hỏi rõ nhưng hai cậu lảng: "Chúng con không muốn hắn bị đuổi". Nhân tiện nói thêm, cùng dạng tiêu cực trong việc tuyển vào đại học, đứa cháu gọi tôi bằng ông chú họ cho biết vừa qua cháu thi vào đại học Sư phạm Vinh và đại học Bách khoa Hà Nội "tha hồ giở tài liệu chép, giám thị mặc kệ". Tôi hỏi vì sao cháu trượt, cháu bảo cháu chỉ chép được phần lí thuyết, bài toán quá khó nhiều người bí, cháu chép của bạn nhưng sai. Tôi bảo cháu cần dựa vào sức học của mình, thi vào được còn phải học được. Tuyển sinh hiện nay có nhiều chuyện đáng buồn và đáng lo, ở mọi cấp học và không chỉ ở một nơi.
                          Những người Nghệ Tĩnh xa quê thường chạnh lòng nhớ tới tỉnh nhà khi theo dõi các cuộc thi đấu thể thao, văn hoá. Một cái tên chợt loé lên trong một cuộc thi chạy đường dài rồi chìm mất cũng đủ gây hẫng. Mới đây, đội vật Hà Tĩnh được xếp thứ tư, trong số huy chương có một Vàng và đội "Bảy sắc cầu vồng" được nhất trong vùng bắc Trung Bộ là niềm an ủi, dẫu còn nhỏ nhoi. ở Hà Tĩnh, hầu như xã nào cũng có sân vận động, - không phải ở tỉnh thành nào cũng được như thế -, là một trong những tiền đề để phong trào thể dục thể thao tỉnh nhà vươn tới.

                           Những người được hưởng "ưu đãi kháng chiến"
                           Ông anh họ tôi năm nay tám mươi tuổi ngoài, hoạt động Việt Minh thời kì tiền khởi nghĩa đến cải-cách-ruộng-đất phải nghỉ. Ông đã rời xã cũ đến ở với con cháu tại một xã xa. Vừa qua, ông được hưởng "ưu đãi kháng chiến" hai triệu một trăm nghìn đồng. Cán bộ xã cũ đưa đến tận nhà; ông biếu phần lẻ, họ nhất định không lấy: "Nếu thế thì bọn con đã giàu to!". Anh con cả của ông, một cán bộ lâm trường về hưu nói: "Cán bộ xã bây giờ dễ lắm. Xin chứng nhận để kết nạp Đảng cho chú út nhà cháu chỉ mất có mấy hộp bia. Họ lại tự lo chạy xin dấu huyện cho nữa". Có phải vì "cán bộ dễ tính" mà nhiều người nói, không chỉ ở một xã, rằng: muốn được hưởng "ưu đãi kháng chiến" chỉ cần chịu khó và biết cách. Ở xã nọ, một ông xưa nay chỉ quanh quẩn ở nhà "xua gà và trông con cho vợ" mà đã được hưởng "ưu đãi kháng chiến chống Pháp" chờ nhận nốt "ưu đãi kháng chiến chống Mĩ". Một thương binh loại một trên bốn "về mắt" mà tự lái xe con của mình đàng hoàng. Một người khác cũng là thương binh mắt lại là do mắt lác bẩm sinh, ai cũng biết. Tôi nhớ cách đây đã lâu, bên hồ Gươm, nghe mấy người kháo chuyện quê họ có người vốn đi lính cho Pháp hồi Pháp đang muốn tái chiếm Đông Dương bỗng nhiên thành thương binh kháng chiến. Gạt mọi lí do "tiêu cực" sang một bên thì cán bộ xã có thể là "dễ tính", "nể nang". Họ lại chẳng biết mấy về thời cha anh. Dễ tính "chả mất gì". Hồi trước, về quê, biết tin bà thím họ vừa được nhận lụa chủ tịch nước tặng những người thọ trăm tuổi trở lên, tôi hỏi chủ tịch xã: "Sao có chuyện lạ vậy? Bà ấy chưa đến chín mươi". Ông ta cười: Xã khác khai thì xã mình cũng khai lấy một người. Mất gì đâu (!) Còn nể nang? Một phần là do người chứng. Ông L hồi kháng chiến chống Pháp có làm phó chủ tịch huyện mấy năm. Có người đến nhờ ông chứng nhận cho ông ta là có hoạt động ở xã nọ. Ông L có biết người này, hồi đó anh ta chỉ đi buôn, ông không thể vì quen mà làm ẩu. Nhưng rồi người kia cũng nhờ được người chứng. Ông L nói với tôi: "Nếu huyện và xã bảo quản giấy tờ tốt thì chỉ cần giở sổ sách ra là biết thật, giả. Tiếc rằng…". Trong dân, người thuộc lớp trước biết các sự việc ngày một ít đi, mà có biết họ cũng chẳng nói sợ mang tiếng kèn cựa hoặc "mất gì của mình". Đền công kháng chiến là một chủ trương hợp tình; khí muộn mằn nên gặp nhiều khó khăn, nhưng không nên vì thế mà "trao nhầm", phí phạm, trong khi những người đáng hưởng thì không được hưởng hoặc hưởng chưa tương xứng với công lao, làm giảm ý nghĩa một nghĩa cử quốc gia. Ý nghĩ trên đeo đẳng tôi, nặng nề thêm khi tôi đến ngã ba Đồng Lộc.

                           Ngã ba Đồng Lộc
                          Một nơi từng được báo chí trong, ngoài nước nói tới nhiều vậy mà mình là người Hà Tĩnh lại chưa một lần đặt chân tới! Mấy năm trước, trong chuyến đi xuyên Việt, khi đi ngang qua Hà Tĩnh, nhiều người đề nghị rẽ thăm ngã ba Đồng Lộc, chỉ cách thị trấn Nghèn trên đường số Một chừng mười ki lô mét, nhưng ông trưởng đoàn, một đại tá về hưu, nhất định không nghe. Chẳng phải ông ngại khó, bởi hàng năm ông vẫn cầm đầu trên dưới chục chuyến tham quan - du lịch, mươi cây số có chi mà ngại, ngại chăng là chuyện thâm thủng…, chẳng hạn, nấn ná phải ngủ thêm tối thì khoản chi thêm có ít đâu, khoán rồi! Đường tới ngã ba Đồng Lộc có nhiều lối, nhưng lối từ Nghèn vào là tiện nhất. Tôi vẫn mường tượng ngã ba này ở nơi heo hút lắm. Thật ra, cách vài ki-lô-mét phía ngoài là làng mạc, chỉ phía trong là đồi núi trập trùng. Mười ngôi mộ trong một khu xây vuông dưới chân một sườn núi dốc. Mười người, đều là dân Hà Tĩnh, nằm đây mãi mãi là "cô gái", tuổi đời từ mười bảy đến hai mươi bốn, có lẽ chưa được biết vị nụ hôn đàn ông. Song, chắc hẳn hương hồn các cô thanh thản hơn những đồng đội thanh niên xung phong nay sống tàn tạ cô đơn, hoặc gánh hậu quả của chất độc Mĩ nơi con cái mình. Tôi lẩm cẩm nghĩ: Những chị em bám trụ ở Trường Sơn, bám trụ cầu, đường trong bom đạn dài ngày đều xứng đáng được phong "anh hùng". Và "đền công đáp nghĩa" trước hết là sẻ chia những số phận không may trong số họ. Khu mộ các "cô gái Đồng Lộc" khiêm nhường, u tịch. Sườn núi bên này đầy thông lẫn ít bạch đàn, tiếng lá rì rào. Trời se se. Nằm đây các cô có đỡ lạnh? Trên mỗi mộ đầy chân nhang, ai đó cắm tặng một bông hồng nhựa đỏ, và đặc biệt, một đoá hồng bạch chỉ mới hơi héo. Phía trước đài thờ là hai vòng hoa nhựa. Một bình hương bằng đá cẩm thạch khắc tinh xảo với hàng chữ: "Kính viếng hương hồn mười cô tiên Đồng Lộc - 1996" Cô tiên? Đúng! Vì các cô là bất tử.
                          Được biết địa phương đang có kế hoạch xây dựng nơi đây thành khu du lịch. Một toà nhà ngói đỏ au phía trước khu mộ cách dăm chục mét, nhà khách hay khách sạn gì đó. Một sân vận động đang được san lấp. Một con đập tạo hồ nước đang được hình thành. Để là khu du lịch thật thì còn nhiều việc để làm. Trước hết là ý đồ và qui hoạch. Vết tích chiến tranh hầu như chẳng còn gì ngoài mấy hố bom kéo thành vệt nay mai chắc sẽ bị lấp. Một hố bom liền kề trước khu mộ đã được kè đá trong lòng chống bồi lấp. Cái hố khí bé và nông khó gợi lên ấn tượng gì. Chắc hẳn sẽ có một nhà bảo tàng, nhưng giá như sự khốc liệt của chiến tranh được minh họa cả ở ngoài trời trên thực địa. Nhìn những sườn núi trọc phía sau chợt nghĩ nếu nơi đây biến thành một rừng cây ăn trái… "ăn quá nhớ kẻ trồng cây", một liên tưởng. Muốn gì thì cũng cần một cái nhìn tổng thể, kín kẽ. Sát bên khu mộ là một toà nhà xây dở. Một trẻ chăn trâu nói sẽ bị đập bỏ vì không đúng chỗ. Quả thật, ngôi nhà ấy mọc lên sẽ "nhấn chìm" khu mộ. Và cần thực thi chu đáo. Nhà tưởng niệm hình lục giác phía ngoài làm chưa xong mà một góc bậc lên xuống lát đá hoa đã bị bong và bệ xi măng trước thềm đã nứt. Công trình đâu chỉ để cắt băng khánh thành quay phim, chụp ảnh xong là… xong!

                           Ghi ở "Trung tâm"
                           Chẳng biết có địa điểm thứ hai nào trên đất nước ta mà dân cư ở đó đến nay chẳng thuộc đơn vị hành chính cơ sở nào không? Nơi đây vốn đặt cơ quan đầu não của lâm tường thường được gọi là "Trung tâm lâm trường Hương Sơn". Người ta quen nói tắt là "Trung Tâm", lâu dần trở nên một địa danh có tên trong mạng giao thông cả vùng, cả trong một số công văn, giấy tờ. Cách đây mấy chục năm, nơi đây ngoài nhà làm việc, nhà ở, xưởng của lâm trường, chỉ lèo tèo những nếp nhà dân, thường là lợp tranh. Nay, đã là một dãy phố hầu hết là nhà xây, dài hàng ki-lô-mét, nhan nhản những cửa hàng ăn, uống, tạp hoá… Sự khá lên nhờ một phần vào rừng, một phần vào vị thế gần cửa khẩu Việt - Lào, với cái hay, cái dở của việc khai thác rừng, của việc buôn bán qua biên ải. Người dân ở đây muốn xin chứng nhận giấy tờ phải đến một xã nào quanh đó miễn người ta đồng ý cấp có khi phải đến xã gốc rất xa. Nghĩa vụ đóng góp thì sao? - Đầy đủ. Bằng cách nào? - Qua ban đại diện nộp lên huyện. Còn bầu cử đại biểu nhân dân các cấp? - Bầu cử cấp huyện trở lên thì huyện trực tiếp giao hòm phiếu về. Bầu cấp xã, phường thì được miễn (!).
                          Thành ra một thứ "xóm trực thuộc huyện". Xóm, vì không triện nên không thể ngang xã. Nhưng lại giao dịch thẳng với huyện! Từ năm 1973, dân ở đây đã xin được công nhận là thị trấn, nhưng mãi chẳng ai duyệt. Nghe đồn rằng năm nay, 1997, may ra thì được.
                          Từ "thị trấn sắp sửa" này, đi sâu vào phía rừng không thấy được hoạt động lâm trường. Vì chỉ thị đóng cửa rừng của thủ tướng ư? Không. Tỉnh chủ trương không đóng cả, nghĩa là có cửa đóng, có cửa mở ("lệ làng phép vua" chăng!). ở một "cửa mở" thấy vắng ngắt, không đi sâu vào chẳng biết khai thác ra sao, chỉ thấy phía ngoài có một đống gỗ lớn thân khá to đã được đẽo vuông nằm vất vưởng bên suối. Người cháu dẫn tôi đi bảo đó là gỗ phế thải vì dãi dầu mưa nắng quá lâu. Ở một trạm gác "cửa đóng" thấy một toán người ngồi chơi bài. Hai thanh niên đang tắm suối. Suối này thuộc đầu nguồn sông Phố nước trong leo lẻo chảy xiết, lòng suối lổn nhổn đá cục. Hai cậu vừa tắm vừa mò tôm bằng tay không. Những con tôm cỡ ngón tay cái, trong rổ chừng hai kí tươi nguyên. "Chúng cháu có bảy ngày chủ nhật mỗi tuần", một cậu nói, không tỏ ra vui, không tỏ ra chán. Những người ở trạm hầu hết còn rất trẻ. Chả lẽ chẳng có việc gì cho họ động tay, động não!
                          Lâm trường Hương Sơn một thời được nói tới nhiều trên báo, đài, thường là khen. Đến lúc những cơn lũ sông Phố, vốn đã dữ dằn, tác quái nhiều hơn, người ta mới nhận ra đã đốn hạ quá tay. Cũng có nghĩ tới việc trồng mới sau khi khai thác. Khoảng  1959, giám đốc D đã gây dựng rừng mỡ và cho trồng thử vài chục héc-ta cây tếch lấy giống từ In-đô-nê-xi-a. Qua hai đời giám đốc nữa đến đời N "trị vì" từ 1988. Những vạt rừng non đang lên mơn mởn bị triệt thẳng tay. Những cây gỗ non mới bằng bắp chân bị đốn xuống làm nhà tạm, làm củi, làm những gì nữa có trời biết và cũng chẳng hiểu vì sao! Tất nhiên là rừng vốn có, rừng đại ngàn đang lùi dần, chẳng được yên. Chưa hết, N còn cho "thanh lí" máy móc, xe cộ, các loại phụ tùng, nhà xưởng, cả các nhà của 6 dội xây cơ bản, 6 đội trồng cây, 12 dội khai thác, toàn nhà gỗ tốt. Chỉ còn giữ lại nhà giám đốc, hội trường, hai xưởng cưa,… Cơ ngơi lâm trường gần như sạch bách. Xong "chiến tích" ấy năm 1991, N "hạ cánh an toàn". Trong cơn "vận hạn" của lâm trường, nhiều cán bộ, công nhân viên tự lo tháo thân vì nghĩ lâm trường sắp vỡ đến nơi, hoặc bị sa thải. Toàn lâm trường, trước đây có ba ngàn người, nay chỉ vài trăm. Giám đốc C lên thay cố xoay xở. Nhiều người cho rằng e còn lâu mới phục hồi được như xưa, chưa nói đến làm "giàu" lên.
                          Cho đến nay, người dân vùng lâm trường - nếu không buôn bán hoặc xâm hại vốn rừng thì chỉ ăn vào rừng và đất rừng theo kiểu cò con. Hai thanh niên tôi gặp bảo họ thường sang Lào bắt các vật quí hiếm: rùa, tê tê, trăn…, vì bên này đã kiệt, để chuyển bán sang Tàu.
                          Trong khu vực lâm trường có suối nước khoáng Nác Sốt (nước nóng). Nước từ lòng đất trào ra nóng đến tám mươi độ, có thể vặt lông gà, vịt. Trước, nước tự do tuôn, ai muốn xài thì cứ việc. Nay, người ta đổ đá sỏi lấp lên thành đống và đặt bơm hút nước để kinh doanh. Nếu làm ăn được thì cũng góp phần tăng của cải cho xã hội và tạo công ăn việc làm cho một số người. Hiện đã làm dịch vụ dăm bồn tắm, còn đóng chai nước giải khát thì vẫn còn ở dạng sắp sửa, có gì đó nhùng nhằng dính đến cái hỗn danh "Minh nhớp".
                          Cách Trung Tâm không xa là mỏ thiếc đang khai thác thủ công. Trạm lọc đã được xây ở huyện lị nhưng rồi lại dùng làm việc khác.
                          Một vùng ma thiêng nước độc ngày xưa, qua nhiều bươn chải, đang đợi để cất mình. Thị trấn Trung Tâm trở thành một đô thị phồn vinh chẳng là ảo tưởng, nếu…

                           Trên đường thiên lí
                           Cùng với cả nước, Hà Tĩnh đang đứng trước những vận hội mới. Không như thời dân Nghệ Tĩnh phải phá bỏ vườn tược nơi đất bằng dời nhà lên đồi núi để "sản xuất lớn", cái thời khẩu hiệu: "mo cơm, quả cà với tấm lòng cộng sản dựng xây chủ nghĩa xã hội" xuất phát từ huyện Quỳnh Lưu, nơi mà các nơi khác được khuyên đến tham quan để học tập, nhưng rồi trong dân gian lại lưu truyền câu vè: "Không đi không biết Quỳnh Lưu / Đi rồi mới biết mắc mưu ông buôn bò!"(Hồi ấy, người đứng đầu huyện Q.L. vốn xuất thân nghề buôn bò). Một ông vốn "duy ý chí" bây giờ cũng nói: "Cái tỉnh ta thiếu là tiền vốn, kĩ thuật, cùng người biết làm ăn và dám làm". Hà Tĩnh có tiềm năng về vườn, về rừng, về khoáng sản, về biển, cả về du lịch. Vịnh nước sâu Vũng áng, mỏ sắt Thạch Khê, rừng cấm quốc gia Vụ Quang,… những tài nguyên đang ngủ yên. Những bãi biển đẹp, rải rác trên dải bờ biển dài hơn một trăm hai mươi ki-lô-mét từ Cửa Hội đến Hoành Sơn; những hồ nước Kẻ Gỗ, Sông Rác; những di tích, danh thắng núi Hồng, đèo Ngang,… đang chờ tận dụng. Hiện tại, Hà Tĩnh chưa có sản phẩm công nghiệp gì đáng kể. Con đường liên quốc gia - đường số Tám - chưa thấy phát huy tác dụng kinh tế đáng có. Liên doanh khai thác ti-tan ở Kì Anh còn đó. Người  Ô-xtra-li-a thì mang các triệu đô-la về nước; phía Việt Nam nhận số lỗ bạc tỉ. Những dự án đã hoặc đang hình thành. Người Hà Tĩnh cũng như người cả nước có thể hi vọng. Tuy nhiên… Nhớ năm xưa, trong dịp kỉ niệm ba mươi năm giải phóng thành phố Hải Phòng, thủ tướng đương nhiệm hồi đó về dự có nói: "Các đồng chí ạ, dân người ta ăn gạo, ăn cá, thịt chứ không ăn giấy đâu". Câu nói đã gây phản ứng rất khác nhau giữa lãnh đạo và dân chúng địa phương. Câu nói ấy, ngày nay vẫn chưa lỗi thời.
                           Hà Tĩnh nằm dọc đường thiên lí Bắc - Nam có từ nghìn xưa. Đường thiên lí, cái tên gợi "xa lắc và nhọc nhằn", đã thượng lộ thì phải đi và phải đến. Nhanh hay chậm tuỳ sức, tuỳ chí, song còn phải tuỳ tâm nữa.


                    Hải Phòng, 12-1997

                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 23.03.2009 10:15:57 bởi Khải Nguyên HT >
                    #10
                      Khải Nguyên HT 23.03.2009 11:09:58 (permalink)
                      Ghi vội nơi mảnh đất Lâm Đồng

                             Vốn quen nghĩ theo báo chí nói về mùa khô Tây Nguyên đầy nắng gió và bụi mù trời, tôi bị bất chợt hai buổi chiều mưa kéo dài khá nặng hạt tại hai nông trường của công ti Lâm Hà. Một lãnh đạo nông trường nói: Mọi năm vẫn có vài ba ngày mưa chào Tết âm lịch, năm nay mưa trễ, tiễn Tết. Mưa khiến trời trở lạnh, song không làm dậy sắc hoa núi rừng, bởi nhìn quanh xa chỉ thấy các sườn đồi trơ trụi, loáng thoáng vài mảng rừng, nhưng là rừng tái sinh. Bỗng nhớ lời anh bạn kể: trong một lần họp về phong trào giúp các tỉnh kém phát triển hơn, một lãnh đạo tỉnh Đắc Lắc đã  báo cáo trước đại diện chính phủ "địa phương bạn đã "giúp" thực hiện xong việc phá rừng tại tỉnh chúng tôi". Nhìn gần, những vạt chè (tại nông trường, gọi là trà), vạt sắn không che được màu đất ba-dan và cỏ dại. Sắn nhỏ cây và cao chừng nửa mét. Nom còi cọc và như sắp lụi tàn. Nhổ thử một gốc, củ nhỏ và ngắn nhưng sai, cân vừa đúng hai kí. Xuân Anh, phó giám đốc công ti Lâm Hà, người trực tiếp chỉ đạo hai nông trường, phàn nàn rằng sau mỗi trận mưa, củ sắn bị xuống bột. Công ti kí hợp đồng vay vốn và bán sản phẩm với công ti Vêđan của Đài Loan. Trong khi chờ nông trường lắp đặt xong máy nghiền bột, phải chở củ ra Long Thành bán cho Vêđan với giá 350 đồng/kí, sau khi đã phải "cò kè bớt một thêm hai". Mà cứ giảm lượng bột trong củ một phần trăm là mất 5 đồng! khác với sắn, chè là đối tượng liên doanh. Chè mới trồng hai năm nom bé nhỏ, cao chừng 30cm, lá xanh sẫm xỉn màu, nhưng đang nhú ra những lá non. Chè lấy giống từ Đài Loan, giống chè được giá nhất thế giới hiện nay. Chè giống giâm cành từ đất bạn chở qua chỉ sống một phần ba. Thiệt hại do cây giống chết, mỗi bên chịu một nửa, phía bạn đòi thanh toán ngay, nhưng rồi cũng phải nhận là chỉ giải quyết sau khi có lãi.
                            Kinh doanh nông trường Tây Nguyên là một bộ phận trong hoạt động đa dạng của công ti Lâm Hà, thành phố Hồ Chí Minh. Hai nông trường, 1 và 2, có diện tích tổng cộng chừng 6000ha. Ngoài chè, sắn, còn trồng mía (đã cho ra sản phẩm) và dự định trồng dâu.
                            Không còn cái khung hùng vĩ núi rừng tây nguyên bạt ngàn nguyên thuỷ, cảnh nông trường cũng khá đẹp với những hồ nước thay thế lòng thung, với các con đường đất đỏ mới mở và đang mở, với những nhà dân rải rác đó đây, với những dải đồi nhấp nhô trải ra xa tít song không vướng tầm mắt như ở Việt Bắc, và nhất là với không khí trong lành, thanh thoát.
                            Xuân Anh và các cộng sự của anh đã phải bỏ ra một năm trời khảo sát. Anh kể anh đã phải đích thân lặn lội xem xét tỉ mỉ, sau khi rút bài học của một nhà doanh nghiệp Tây Âu sang khảo sát ở nước ta. Xuân Anh hỏi: "Ông có bao nhiêu là cán bộ tài năng dưới quyền, sao còn phải xông pha như vậy?". Đáp: "Tôi đã phải trả giá cho việc phó thác cho cấp dưới. Những chốn trữ lượng cao nhưng heo hút thì họ lờ đi, họ chỉ tán vào những nơi mà điều kiện ăn ở, đi lại dễ chịu, vì họ phải trực tiếp làm mà". Các anh phải hai lần làm dự án, hai lần ra trung ương duyệt. Được phê chuẩn rồi, các anh lập tức cho làm đường, đắp đập tạo hồ nước. Cỏc người lãnh đạo sở tại hỏi: "Sao chưa có quyết định mà các anh đã vội đầu tư?". Cười trả lời: "Có bắt đầu làm các anh mới chính thức cấp đất cho chứ". Chỉ sau khi có đường ôtô vào, nhất là có hồ nước, phía bạn mới bàn đến chuyện hợp tác đầu tư. Công ti Lâm Hà để ra ba tháng thăm dò khả năng, phương tiện, giá cả mới đi đến kí kết hợp đồng với bạn. Về sắn, hi vọng chẳng bao lâu nữa nông trường sẽ giao bột cho Veđan chứ không giao củ nữa, như vậy tất nhiên là hay hơn, lãi nhiều hơn, thêm công ăn việc làm cho người sống trên đất nông trường. Về chè, có phức tạp hơn, vì đây là liên doanh từ khâu trồng trở đi. Phía Đài Loan cử một chuyên viên trồng chè sang nằm vùng chỉ đạo. Đó là một người họ Tô, trạc 40, đậm người, dáng cởi mở, chất phác, bập bẹ dăm tiếng Việt, còn sống độc thân, theo lời anh ta. Qua người phiên dịch, anh ta nói nếu điều kiện cho phép, anh ta sẽ lấy vợ Việt và sẽ ở lại Việt Nam. "Con gái bên nước tôi dám cưỡng hiếp con trai á. Làm vợ chẳng chịu nấu cho chồng ăn. Do văn hoá Mĩ". Anh không thích Mĩ. Được hỏi về chè Việt Nam so với chè Đài Loan, anh bảo: "Khó so sánh lắm. Chỉ biết giá chè Ô-Long của Đài Loan cao gấp nhiều lần". Họ Tô hay nói đến "để có lợi cho công ti (liên doanh)". Anh hỏi Xuân Anh: "Tôi mua gỗ của tư nhân được không? Để có lợi cho công ti mà. Gỗ nhà nước đắt". Gỗ tư nhân ở đây là gỗ lậu. "Mua ít một thì có cách nào tránh khỏi kiếm lâm phạt không? Để có lợi cho công ti mà". Trong liên doanh, phía Việt Nam góp 30% vốn, chủ yếu là đất đai. Tôi hỏi Xuân Anh về một vài ý kiến trên báo chí dường như là góp lời kêu hộ các nhà đầu tư nước ngoài về giá đất của ta đắt. Anh nói:
                            - Ta chậm phát triển nên mới cần họ đầu tư nhiều. Anh tính ta có gì để góp ngoài đất đai, tài nguyên và sức lao động. Mà sức lao động của ta thì quá rẻ. Vào loại rẻ nhất thế giới. Một công nhân trồng chè bên Đài Loan hưởng lương tối thiểu 1000 đô la Mĩ/tháng, mà việc nặng họ chẳng chịu làm. ở đây người làm công chỉ được mỗi ngày từ 10.000 đến 15.000 đồng Việt Nam. Chuyên viên Đài Loan sang đây trông coi việc trồng chè mỗi tháng lĩnh 15.000USD. Anh ta ăn tại nhà người phiên dịch chỉ hết 30.000 đồng Việt Nam/tháng. Lương phó giám đốc của em tính ra chưa được 100 đô một tháng. Giờ nếu tính giá đất rẻ nữa thì hoá ra người mình chỉ làm tôi mọi cho họ thôi hà!
                            Điều phó giám đốc Xuân Anh nói thật đáng để mọi người quan tâm, kể cả các nhà hoạch định chính sách. Không chỉ về giá đất. Lương tối thiểu Nhà nước qui định cho công nhân Việt Nam làm trong các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài là 30 đô la Mĩ. Qui định ấy hẳn là căn cứ một phần quan trọng, nếu không chủ yếu, vào mặt bằng giá cả Việt Nam so với thế giới, và đề ra cách nay đã nhiều năm. Nhưng, chẳng hạn, giá gạo bán lẻ tại Việt Nam giữa năm 1990 vào khoảng 8.000 đồng/kí, trước Tết ất Hợi vừa qua là khoảng 40.000đ/kí. Trong khi giá gạo thế giới nói chung không xê dịch bao nhiêu, và tỉ giá VNĐ so với USD cũng vậy.
                             Chuyện tự nhiên là Việt Nam càng hoà nhập vào thế giới thì mặt bằng giá cả ở ta càng nâng dần lên mức thế giới. Liệu mức qui định lương tối thiểu nói trên có cần và nên điều chỉnh kịp thời không?
                             Nông trường của công ti Lâm Hà không dùng công nhân nông nghiệp mà giao vốn cho dân làm và thu mua sản phẩm. Theo Xuân Anh, đó là cách làm mới để tránh vết xe đổ của các nông trường quốc doanh trước nay. Trong phạm vi nông trường, đã có sẵn một số dân: người dân tộc thiểu số và người di cư từ các tỉnh. Hộ nào nhận điều kiện làm việc của nông trường thì ở lại; những hộ khác thì được đền bù những đất đai khai phá và đưa ra khỏi nông trường.  Trong khi góp phần thực hiện chương trình 327, một mục tiêu đề ra cho nông trường (theo lời Xuân Anh) là góp phần dãn sức ép dân số ở thành phố Hồ Chí Minh (!), gồm cả những người tứ xứ dồn về. Hiện đã định cư được 120 hộ dân thành phố Hồ Chí Minh và gần 400 hộ dân các tỉnh bạn. ở nông trường 2, đang xây 40 ngôi nhà chuẩn bị đón dân thành phố Hồ Chí Minh lên. Tất nhiên nếu hai nông trường này làm ăn nghiêm chỉnh và thành đạt thì rất có lợi cho địa phương. Nó góp một điểm sáng khai phá đất đai, đem lại sự phồn vinh trong tương lai. ấy vậy nhưng chẳng phải bao giờ nông trường cũng được yên thân để lo toan công việc của mình. Đường sá vừa mở, hồ nước vừa đắp xong, một người nhân danh một công ti tư nhân đem nguyên vật liệu đến xây nhà, đem máy đến làm đất rồi trồng mía trên khoảnh đất kề một đoạn hồ nước vốn được dự kiến dành để dời xóm người Cà-tu trong chân núi cách hai ki-lô-mét đến định cư trong nông trường. Anh ta đã nắm trong tay giấy bán đất của tỉnh sở tại. Chỉ có quyết tâm của bốn mươi ba hộ đồng bào dân tộc dời đến khu đất dành cho mình mới gỡ cho nông trường một bàn thua trông thấy. Sau này vẫn còn những lời đánh tiếng "sẽ thu hồi", "sẽ cắt đất". Lại còn những trường hợp, cạnh con đường đang mở, dân ở đâu đến chiếm một khoảnh, phát dọn, rồi bán lại cho người khác. Dẹp những chuyện ấy khá hao phí công sức và thời gian.
                             Còn nhiều "phức tạp" khác cho công ti Lâm Hà mà Xuân Anh không muốn nói ra, nhưng tôi cũng đã kịp tìm hiểu phần nào. Chẳng hạn, từ khi không còn trực thuộc thành phố, công ti phải gánh thêm những "thủ tục", kể cả loại thủ tục như trong dịp Tết vừa qua với những loại quan chức cần “bôi trơn”.
                            Trước mắt, nông trường còn rất nhiều việc phải làm, đều vào loại "xây dựng cơ bản": tiếp tục mở đường, mở rộng diện tích trồng trọt, đưa điện lưới vào, lập nhà máy chế biến. Nhà máy chế biến - theo Xuân Anh - chỉ nên lập loại nhỏ. Ngày nay kĩ thuật tiến rất nhanh, trang thiết bị phải thay đổi cho kịp. Làm to, cồng kềnh, tốn kém, lại khó đổi mới. Mặt khác, chè hái xong phải chế biến trong vòng ba mươi phút, nếu không chất lượng sẽ giảm. Do vậy, cần đặt nhà máy gần nơi thu hoạch, vừa giảm thời gian vận chuyển, vừa giảm phí vận tải.
                            Điều này Xuân Anh học được trong chuyến đi thăm Đài Loan. Anh được phía đối tác mời cùng với vợ. Song anh bảo: lần này đi để học hỏi nên cần hai cộng sự cùng đi. "Vợ tôi, để vào dịp khác". Sang đó, nhóm các anh được ở khách sạn năm sao, và được đưa đi giải trí nhiều. Riêng cái khoản "tươi mát" thì các anh từ chối. "Nếu thấy phía đối tác bê tha, thích hưởng lạc thì họ sẽ thiếu tin tưởng. Còn làm ăn gì được!". Suy nghĩ được như vậy, liệu có nhiều người không, những ai ở vào những dịp tương tự, dẫu biết người ta có thể "nắn gân" mình nhiều kiểu để liệu bề lung lạc? Xuân Anh nói đến lương tâm. "Có cái vui thấy mình làm được việc. Bù đầu và vất vả lắm anh ạ. Trước nhất là lương tâm". ít ra thì đây cũng là một người có bản lĩnh làm việc, tôi nghĩ. Tôi nhớ một mẩu chuyện anh kể. Một lần, anh đưa người của phía đối tác lên Lâm Đồng làm việc. Một quan chức trung ương nhân gặp hỏi: "Sao không cho bạn đi xe đẹp hơn, thoái mái hơn?". Đó là chiếc xe Xuân Anh vẫn dùng để đi công chuyện. Thật lạ lùng, một câu hỏi như vậy! Chợt nhớ chuyện một thành phố nọ tiếp đãi như thượng khách một đoàn đông người từ Thái Lan sang. Trước khi về, họ hứa hẹn chuyện làm ăn. Chờ mãi, mới vỡ lẽ ra rằng doàn kia do một công ti du lịch nước ấy tổ chức. Công ti nọ chắc chẳng ngờ được một chuyến viễn du thượng thặng cho khách mà lại miễn chi cho mình. Ai cũng rõ người nước ngoài nếu vào nước ta đầu tư là để làm ăn, để kiếm lời, chẳng bao giờ vì ba cái vụ đãi đằng hậu mà nhân nhượng cho ta. Ta mà khôn và vững thì được chia phần thích đáng. Trái lại, thì chỉ được những mẩu xương mà hầu hết chui vào túi những tên "Giu-đa" của dân tộc, của đất nước.
                            Tôi có cái tật xấu là khi thì cả tin, khi thì hoài nghi dẫn đến hay suy đoán linh tinh. Dù vậy, tôi cảm thấy hai nông trường này cùng Xuân Anh và các cộng sự của anh có thể tiến xa trên con đường làm ăn chính đáng, nếu... Với các anh, tài là phải thường xuyên học hỏi, rèn luyện, đã đành. Vấn đề là điều kiện để có thể "toàn tâm". Còn về đức... Lâu nay, những cụm từ "đạo đức cách mạng", "chí công vô tư", đời thường không nhắc đến nữa. Dường như là xa xỉ, dường như là lạc điệu. Do vậy, chỉ nên nói hẹp lại, có hai điều ràng buộc: pháp luật và lương tâm. Pháp luật hình như còn nhiều kẽ hở, và sao có lắm người thao túng quá đi! Còn lương tâm, không đến nỗi quá hiếm ngay trong thời buổi kinh tế thị trường. Song le, chẳng nên đem lương tâm làm vật hiến tế cho sự cao vọng lẫn tham vọng, khi môi trường xã hội cứ khêu gợi, như xúi người ta "tiêu cực". Cơ chế và đãi ngộ đúng đắn sẽ giữ được cho tài năng và nhân cách khỏi sa vào những toan tính không xứng đáng. Chân lí cũ mèm này xem ra còn phải nhắc lại dài dài.   


                      III / 1995

                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 31.03.2009 12:23:14 bởi Khải Nguyên HT >
                      #11
                        Khải Nguyên HT 31.03.2009 13:18:03 (permalink)
                        Ai vô Đông Hà...
                         
                         
                               Câu trong bài hát "Bình Trị Thiên khói lửa" của Nguyễn Văn Thương: "Ai đã vô Đông Hà, đã qua Ngô Xá, đã đi Bích La, Thuỷ Ba, Triệu Phong". Năm 1948, miền Bắc nước Việt từ Hoành Sơn trở ra, nhất là ba tỉnh bắc liên khu Bốn: Thanh - Nghệ - Tĩnh, hướng về ba tỉnh nam liên khu: Bình-Trị-Thiên đang bị giặc Pháp tung quân ra đánh chiếm hòng cắt miền Nam nước Việt khỏi nguồn tiếp viện và chỉ đạo từ miền Bắc. Không khí hừng hực căm thù y như hồi 1945 nghe tin giặc trở lại xâm lăng Nam bộ. Tôi bấy giờ là một cậu học sinh choai choai, tôi cũng cảm thấy đau như quân giặc dày xéo lên làng xóm mình. Tôi làm một bài thơ gửi đăng tờ báo địa phương - tờ báo viết tay, in đất, ra đời vào dịp ấy. Bài thơ mang hơi hướng "yêng hùng" lãng mạn nửa mùa với những câu đại loại như: "Sát khí che mờ cây núi Ngự / Máu hồng nhuộm tối nước sông Gianh / Cửa Tùng réo sóng hờn cô quạnh / Dấu cũ ai chôn cựu đế thành" Tuy vậy, cũng mang một tấc lòng thành.
                               Quê tôi ở Hà Tĩnh. Hà Tĩnh và Quảng Trị có những nét tương đồng. Cả hai đang là tỉnh nghèo. Nghe nói  một số vị lãnh đạo Quảng Trị không thích nghe hai tiếng "tỉnh nghèo" ; nếu có vậy thì tôi xin thất lễ. Song, nói "nghèo" không là thở than, không là cam phận, mà là nhìn thẳng vào thực trạng để tìm cách thoát nghèo, vươn tới giàu, thì tiếng "nghèo" chẳng tội tình chi! Hà Tĩnh và Quảng Trị thuộc những tỉnh miền Trung chịu đựng nhiều nhất nạn gió Lào về mùa hè, và về mùa đông giơ lưng ra (hay phơi mặt ra thì cũng rứa) hứng gió mùa đông - bắc và mưa lạnh dầm dề.
                               Thuở nhỏ đang học lớp ba, tôi thích đọc sử kí và địa lí nước nhà, đến nỗi thầy giáo giao soạn các câu hỏi vấn đáp cho các bạn cùng lớp. Hồi đó, tôi đã biết Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên vốn là châu Ô và châu Rí của xứ Chiêm được đổi bằng nước mắt và mối tình (thật ra có thể là giả định về sau) của công chúa Huyền Trân. "Đi đi em hỡi Huyền Trân! / Đi đi cho anh vẹn chữ trung thần" lời Khắc Chung trong một vở kịch thơ. Tôi cũng đã biết Hà Tĩnh (cùng Nghệ An) và Quảng Trị (cùng Quảng Bình) ở hai phía sông Gianh chia cắt thời Trịnh - Nguyễn; một bên là địa đầu Đàng Ngoài, một bên là địa đầu Đàng Trong, cùng chịu nạn binh đao suốt gần nửa thế kỉ. Đàng Ngoài và Đàng Trong gần mà xa, xa mà gần. Xa vì ở hai bên bờ giới tuyến, ở hai phía đối địch. Gần vì con sông dù rộng, dù sâu, dù bị cấm đoán không thể ngăn người dân hai bên tìm cách đi lại với nhau, không thể ngăn lòng người. Dân các vùng hai bên có thể là họ hàng, là thân quen của nhau, qua lại làm ăn. Trong các cuộc giao tranh, mỗi khi quân bên này tràn qua bên kia, lúc rút về hẳn có mang theo dân thường cùng của nả cướp được. Có phải vì vậy một phần, phần quan trọng, chăng mà tiếng nói mang "đặc sản" chung: chi, mô, răng, rứa, mi, tau, eng, o,…, nhưng mà giọng thì nặng (nam Nghệ An, Hà Tĩnh) nhẹ dần qua Quảng Bình, Quảng Trị tới Thừa Thiên-Huế. Con gái Hà Tĩnh và Quảng Trị đều đậm đà, chân chất, song cái duyên Quảng Trị "thanh" hơn, gần với các cô gái Huế. Quảng Trị, xứ gió Lào, cát đụn mà người dễ thương.
                                Có hai địa danh trên đất Quảng Trị và đất Hà Tĩnh như hai vết thương lịch sử gắn kết với nhau: Tân SởVụ Quang. Tân Sở, nơi Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi xuất bôn ra chiếu cần vương chống Pháp. Vụ Quang, bản doanh của Phan Đình Phùng - Cao Thắng, hai lãnh tụ cuộc cần vương lớn nhất, quan trọng nhất, dài nhất.
                                Hà Tĩnh có đường Tám, Quảng Trị có đường Chín - những đường liên quốc gia, nối nước bạn Lào (và tương lai gần, Thái Lan cùng các nước Nam Á) với biển Đông. Có điều Hà Tĩnh, khi đường Tám được nâng cấp thành con đường đẹp nhất nước (hồi đó), con đường của triển vọng xuyên Á, thì các vị có trách nhiệm còn đắn đo hoặc còn mải toan tính điều chi khiến con đường bị "lỡ duyên". Và duyên ấy chuyển dần vào các tuyến đường phía nam, trong đó có con đường Chín.
                               Cả hai tỉnh, cũng như hầu hết các địa phương khác ở nước ta, có những địa danh lẽ ra lấp lánh mãi trong lịch sử và trong tâm hồn người. Tiếc rằng… có phải ai qua Hà Tĩnh cũng nhớ tìm đến quê hương Tiên Điền của Nguyễn Du, Uy Viễn của Nguyễn Công Trứ, tìm đến Ngã ba Đồng Lộc. Rú Nài, trận địa phòng không thắng oanh liệt nhất không quân Mĩ giai đoạn đầu chống chiến tranh phá hoại, ngày nay được mấy ai nhắc đến? Cửa ải Hoành Sơn vốn đã hiu hắt trong hoang phế, bây giờ có hầm đường bộ xuyên đèo Ngang hẳn cũng khó tiện đường cho khách du ghé chân.V.v… Những ý nghĩ không mấy nhẹ nhõm này cũng đến với tôi khi "vô Quảng Trị". Xưa kia, người ta biết tới Quảng Trị thường là qua Cửa Tùng, bãi tắm biển vào loại đẹp nhất nước và Lao Bảo, chốn thực dân Pháp đày ải những người yêu nước. Nửa sau thế kỉ 20, Quảng Trị nổi tiếng với những địa danh: cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, đảo Cồn Cỏ, Khe Sanh, Cửa Việt,… Song bây giờ đến hoặc qua Quảng Trị, những ai hỏi Tân Sở là đâu? những ai muốn được thăm Lao Bảo, Khe Sanh, Cửa Việt, Thành cổ,…? Xe lướt qua cầu Hiền Lương, qua Dốc Miếu, mấy ai còn cảm xúc, dù là thoáng qua, như những năm đầu sau ngày Toàn thắng năm 1975?    Lần này tôi tới Quảng Trị khi trời tối đã lâu, tôi cố tìm một dấu hiệu nhỏ khi qua hai nơi này mà chẳng được. Giá có đèn chiếu sáng, có biển đề,… Hành khách ngồi chật trong xe hình như chẳng ai chia sẻ cảm nghĩ ấy của tôi. Trách khách vãng lai, khách du vô tâm, vô tình cũng phải. Để di sản tự thu hút khách cũng được. Song le… chẳng phải chúng ta muốn "gà đẻ trứng vàng" sao?

                               ***
                               Năm 2001, tôi còn lưu mấy dòng ghi chép:
                               "Ôi! Câu hò Hiền Lương…", ngày nay đến cầu Hiền Lương mấy ai còn nhớ bài hát làm xao xuyến lòng người Việt Nam một thời.
                               Năm 1979, cầu Hiền Lương cũ ngày đất nước bị chia cắt chỉ còn một nhịp trơ vơ giữa lòng sông. Năm 1996, đi qua đã thấy bị huỷ hoàn toàn, tôi có than trong một bài bút kí đăng trên tạp chí Văn: "Giá cái cầu cũ từng là nỗi nhức nhối của dân ta suốt hai mươi năm vẫn được giữ lại như một hiện vật bảo tàng!" Năm 2001 này, mừng thay! thấy nó lại "hiện về" coi như nguyên vẹn nằm khiêm tốn và an phận chếch phía dưới chiếc cầu mới bề thế, hiện đại. Chiếc cầu khi "sinh" thời chưa bao giờ mang niềm tự hào nay được phục chế - hơi sai vị trí cũ - có quyền hãnh diện là một "chứng nhân" lịch sử.
                               Ngày trước, chỉ là một cây cầu ngắn mà suốt hai thập kỉ cầu Hiền Lương luôn luôn phải mang hai màu khác nhau trên hai nửa. Cách đây mấy năm, trên một tờ báo lớn ai đó viết rằng: nửa cầu phía nam đối phương cho sơn xanh thì nửa phía bắc ta sơn đỏ; họ lại sơn đỏ thì ta sơn xanh. Sự thật ngược lại hoàn toàn! Ta chủ trương giữ cho màu sơn của cầu thống nhất mà phía bên kia không chịu. Chính họ mới hành động như bài báo mô tả. Chỉ mới qua chưa tới một phần tư thế kỉ mà đã dễ sai lạc như vậy! Những người thuộc lớp sau không đáng trách; đáng trách là kiểu tìm hiểu "nghe hơi". Không hiếm những chi tiết trong các bài đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng bây giờ sai lạc kiểu đó.
                                Vượt sông Bến Hải trên cầu Hiền Lương, tôi bỗng nhớ tới mấy câu thơ của V.H.C.: "Hẹn một ngày trở lại cố đô / Lưỡi lê no máu rửa Tây Hồ (!)/Trên đài chí sĩ bàn tay vẫy / Đại định non sông một bóng cờ (!)". Những câu thơ Vũ thi sĩ làm năm 1954 dâng Ngô "chí sĩ". Chính quyền họ Ngô ngay sau hiệp nghị Giơ-ne-vơ đã chủ trương "bắc tiến", lớn tiếng hô hào "lấp sông Bến Hải (!)". Chẳng lời tán tụng nào, lời hưởng ứng nào "hay" hơn, "hùng" hơn, "kịp thời" hơn những lời thơ trên! Giờ đây, ít ai nghĩ rằng: giả dụ không may mà lịch sử diễn biến khác đi, Hà Nội chứ không phải Sài Gòn thất thủ thì cuồng vọng "lưỡi lê no máu rửa Tây hồ" có thể dẫn tới những thảm kịch nào?  
                               Cầu Hiền Lương cũ được phục chế lưu lại, song các cột cờ, các trạm gác hai đầu cầu của hai bên đối địch không còn. Đáng tiếc! Người bây giờ có thể ít quan tâm, nhưng mai sau con cháu chúng ta có thể sẽ ngẩn ngơ tiếc như chúng ta nay trước dấu cũ Luỹ Thầy, chẳng hạn.
                               Dốc Miếu sạch nhẵn căn cứ Mĩ ngày nào; cả hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra cũng vậy. Những người Mĩ chủ chiến trước đây hẳn hài lòng, và lí ra phải chịu ơn những người Việt Nam đã có "sáng kiến" bán sắt vụn.
                               Đôi bên bờ Hiền Lương đồng ruộng trải rộng. Lúa trĩu bông mẩy, mặt bằng thảm lúa thấp dưới cả những bờ con nhìn lướt qua ngỡ là thảm cỏ; cây lúa thật thấp tưởng chỉ hơn gang tay. Mé biển phía xa, mới năm năm trước thấy dựng lên bức tường trắng - những đụn cát, nay đã thay bằng bức tường xanh, hẳn là rừng dương (phi lao).
                               Dải đất hẹp miền Trung vậy mà cũng có những cánh đồng nhìn thoải mái con mắt; song nhiều cát, quá nhiều cát! Có một cái cầu trên quốc lộ Một bắc qua một lạch… cát! Đã chớm vào mùa mưa nhưng nước chưa đủ ngấm lòng lạch.

                               ***
                               Tôi đi trên đường phố Đông Hà khá vắng, thưa người và xe. Ngay trên đường Một qua thị xã cũng thoáng xe cộ. Sống ở Hải Phòng đường phố luôn luôn chật xe và người, tôi vẫn tiếc nhớ cái vắng lặng này. Anh nhớ tiếc cái vắng lặng thời bao cấp, thời nghèo nàn lạc hậu ư? Không! cái vắng lặng, nhất là vào giờ làm việc, của các đường phố văn minh, đúng nghĩa hiện đại nơi những thành phố được quản lí tốt, phát triển có tầm nhìn rộng và xa, những Pa-ri,  Mát-xcơ-va, Bắc Kinh,…, kể cả Băng-cốc. Có người bảo cái xô bồ, ồn ã, luộm thuộm của hầu hết đường phố Việt Nam hiện tại là tất yếu của sự phát triển. Tự bào chữa vụng hay ngụ ý khôi hài đây?
                               Cái vắng lặng dễ thương của Đông Hà rồi đây e sẽ không còn. Đông Hà đang phấn đấu để năm 2006 lên đô thị cấp ba và sẽ lên đô thị cấp hai vào năm 2007. Chúng ta sẽ có thành phố Đông Hà. Cầu cho tân thành phố này sẽ tránh được những bất cập của những thành phố đi trước.
                               Đông Hà hầu như không còn chút dấu tích gì của năm 1979 khi tôi lần đầu đi qua, một thị xã lầm bụi, đường sá chắp vá, nhà cửa tạm bợ. Chứng tích chiến tranh có lẽ chỉ còn nơi hai chiếc xe tăng rỉ cạnh một bùng binh rộng bị những thanh sắt và những tấm bê tông che lấp khó nhìn thấy. Nếu là một triển lãm tại chỗ, một thứ bảo tàng ngoài trời thì cần những dụng công và đầu tư cần thiết để chúng không biến thành những mớ sắt vụn. Đông Hà, cũng như thị xã Hà Tĩnh, thời hợp nhất tỉnh lớn gần như bị bỏ bê hoặc rơi xuống hàng thị trấn. Và một trong những chứng tích của thời kì mầy mò sau khi trở lại là mình muốn vươn tới, muốn làm cái gì đó, những cái gì đó, là cái công viên. Một khuôn viên khá rộng có vườn hoa, thảm cỏ, có hồ dài, tuy hẹp, "nao nao dòng nước uốn quanh / nhịp cầu nho nhỏ (giữa chừng) bắc ngang", nom tiêu sơ, có màu hoang phế nơi cỏ hoa, nơi chiếc cầu bị lở nhiều bậc. Mặt tiền là "cửa hàng - bãi" bày những chậu để trồng cây đúc bằng xi măng lấn cả vào vườn. Tuy nhiên, kề đấy là vườn chơi của con trẻ còn khá nguyên vẹn. Và xa hơn một chút là nơi ươm cây; những bầu cây giống đã và đang được chuẩn bị xếp cạnh nhau trên một bãi rộng. Có thể nghĩ rằng ngày mai của công viên đang được lo toan để tương xứng với tầm mới của đô thị. Thiếu không gian cho cây xanh, cho mặt nước, đô thị khô xác đi; càng nhiều lầu cao, đường rộng càng khô xác. Nhiều đô thị của ta, hễ có bãi trống, hồ ao là người ta nghĩ tới trước tiên là san lấp lấy mặt bằng xây dựng (hay mượn danh nghĩa xây dựng để toan tính!).
                                Nhà văn-họa sĩ Tấn Hoài dẫn tôi đi thăm thú Đông Hà. Anh quê gốc ở Triệu Phong, từng làm việc ở Quảng Trị nhiều năm, bây giờ sống ở phía nam nhưng vẫn là "thổ công" ở đây. Anh biết nhiều về Quảng Trị có thể viết một pho sách dày. Anh chỉ cái bùng binh, - một bãi cỏ tròn khá rộng, giữa có cái cột cao, kể rằng trước đây là cái lô cốt to và cao có từ thời Pháp; hồi chủ tịch Phi-đen Cát-xtrô vào thăm vùng giải phóng Quảng Trị năm 1974, ông đòi trèo lên đỉnh quan sát, ta phải can ngăn, lo ông trở thành mục tiêu cho quân địch bên kia sông. Phải chi trong quá trình xây cái mới, việc dung nạp hay loại bỏ những gì vốn có không là những bài toán khó cho cả đầu óc và tấm lòng!
                               Đông Hà thời thuộc Pháp, trước 1945, chỉ là một thị tứ ít tên tuổi. Đông Hà nổi lên từ sau khi được giải phóng năm 1972, nhất là từ đầu năm 1973, là nơi chính quyền cách mạng miền Nam Việt Nam khẳng định sự tồn tại "vật thể" của mình, và cũng khẳng định giới tuyến chia cắt đất nước đã bị xoá bỏ trên thực tế.
                               Xưa chưa xa, Đông Hà trước mặt là biển cát, sau lưng là núi rừng, may còn có đường thiên lí và đường sắt đi qua suốt bắc-nam. Nay, trước mặt là cảng biển Cửa Việt, và, cũng là trước mặt, cửa khẩu Lao Bảo có thể "nhìn" thấu chiếc cầu bắc qua sông Mê-Công ngăn cách Lào và Thái Lan, và còn có thể thấu tới những vùng Nam Á xa xôi. Vị thế này, không nhiều đô thị nước ta có được.

                               ***
                               Chỉ riêng Quảng Trị cũng có thể cung cấp tư liệu, vật thể và phi vật thể, cho giới văn học-nghệ thuật, trước hết là văn học, dựng lên pho sử thi từ giai đoạn mất nước đến khi giành lại nước. Tiếc rằng chúng ta đã để tiêu tán không ít, có những thứ chẳng thể nào lấy lại được, chẳng thể nào bù đắp được. Ồi! nhắc chi thời xưa cũ. Nó chỉ gợi lại những mất mát đau thương. "Khép lại quá khứ" rồi mà! Khép lại quá khứ, chứ đâu phải quên! Thiên hạ, những nước giàu mạnh, văn minh, những xứ hơn nửa thế kỉ nay không có chiến tranh, đâu có quên những gì cần phải nhớ. Không nói những chứng tích hoành tráng, Li-đi-xe, Ốt-xven-xim,…, Người ta giữ lại cả những gì tưởng là nhỏ nhặt. Bảo tàng ở Xanh Pê-téc-bua còn lưu những trang viết của một em bé Nga sáu tuổi chết đói do giặc phong toả thành phố. Khách du đến Bơ-ruých-xen ngày nay còn được dẫn đi xem nơi một chú bé tè vào dây cháy chậm cứu toà nhà đẹp nhất nước Bỉ khỏi khối thuốc nổ của phát xít Đức. Những di tích, những lưu niệm nêu bài học cảnh giác về thiện-ác, văn minh-bạo tàn ở nước ta vô vàn. Nhưng còn lại chẳng nhiều. Riêng ở Quảng Trị chẳng hạn: đâu rồi bức ảnh treo người cụt đầu mà một tờ báo Pháp chống chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương đã đăng? đâu rồi tấm ảnh tên lính lê dương một tay xách chiếc đầu còn rỏ máu, tay kia lôi người con gái Việt trần truồng? đâu rồi viên gạch có một không hai, vô tiền khoáng hậu bao bọc đầu người du kích bị giặc cắt lìa cổ?… (Những tư liệu, anh Tấn Hoài, tác giả truyện ngắn "Viên gạch lạ", cam đoan với tôi rằng mình chính mắt thấy). Còn có thể nêu rất nhiều câu "đâu rồi?" ở Quảng Trị, ở toàn cõi Việt Nam.
                               Người ta nói: ta chưa có những tác phẩm văn nghệ nói được, nói hay về cuộc đấu tranh giành lại nước, về thế kỉ vừa qua (có khi nói một cách hay ho là "xứng tầm thời đại"). Song, có ý kiến cho rằng cần có độ lùi thời gian cần thiết. Cuộc chiến nước Nga chống Na-pô-lê-ông phải hơn nửa thế kỉ sau mới có Chiến tranh và hoà bình (CTVHB) của Lép Tôn-xtôi. Cuộc nội chiến giải phóng nô lệ ở Mĩ phải bảy chục năm sau mới có Cuốn theo chiều gió (CTCG) của Mác-gơ-rít Mít-seo. Vấn đề là phải có một Tôn-xtôi, một Mít-seo (mặc dù gần đây một nhà thơ, được một nhà thơ có "mác" tán dương tập thơ mới ra "đặc trưng của thơ hiện đại ngày nay", đã hùng hồn tuyên bố: "Tôn-xtôi (có) là cái gì! Pút-xkin (có) là cái gì! Huy-gô (có) là cái gì!"). Nhưng vấn đề nữa, quan trọng chẳng kém, phải còn có ở mức độ nào đó những tư liệu, hiện vật, thực địa,… Tất nhiên, tác phẩm tương lai, nếu có, không nhất thiết phải như CTVHB hoặc như CTGG, không nhất thiết nệ vào "nguyên vật liệu hiện thực", song phải có "bột" để "gột nên hồ", để gợi tứ, gợi ý, từ đó mà thăng hoa. Tuy nhiên, khi Tôn-xtôi viết CTVHB nước Nga đang tiến tới bỏ hẳn chế độ nông nô và đang manh nha chủ nghĩa tư bản, song xã hội Nga, truyền thống Nga chưa mấy thay đổi về cơ bản. Xã hội Mĩ, từ cuộc nội chiến đến khi Mít-seo viết CTCG, vẫn là phát triển theo đường hướng ổn định một quốc gia tân lập, ý thức và tình cảm lịch sử khôn mấy hỗn tạp. Cả hai trường hợp, tác giả đều rất có bản lĩnh, rất chủ động trước những ảnh hưởng ngoại lai, nếu có, về tư tưởng, về thi pháp,… Còn trường hợp của ta, đã và sẽ có những tiền đề gì để tác phẩm "lớn" ra đời? Và có chăng ý đồ lớn, tâm lớn, tầm lớn? Đâu đó, khi mà lối sống, nếp nghĩ, cách cảm thì "phong phú" song nổi đình đám lại là những "sáng tạo" lại những gì thiên hạ đã "đi" qua, có khi đã thải loại,...   

                               ***
                               Một du khách Tây Âu, loại "Tây ba lô", tôi gặp trên một chuyến tàu suốt bắc-nam từng thổ lộ: "Người Việt Nam nghĩ chúng tôi giàu, đi du lịch để tiêu tiền; thật ra chúng tôi đi cốt để tìm hiểu những vùng đất, những dân tộc,…". Tìm hiểu mà chỉ qua lời hướng dẫn viên (thường là không đầy đủ, thậm chí thiếu sót hoặc sai lệch) thì khá hạn chế, kể cả khi có thực địa, có hiện vật nhưng bày biện chiếu lệ. Khách du đến cầu Hiền Lương nếu được bước đi trên chiếc cầu cũ, được trầm ngâm trước các trạm gác hai đầu cầu và hai cột cờ hai bên phục chế như cũ cùng một phần tiêu biểu cho khung cảnh trước đây, kể cả hàng rào dây thép gai và chuồng nuôi heo trá hình ở bờ nam, rồi có thêm chiếu phim tư liệu nữa thì có lẽ "đi không dứt". (Tôi lẩn thẩn nghĩ thêm: lúc ấy nếu mời họ xem phim truyện "Vĩ tuyến 17, ngày và đêm" thì…). Dốc Miếu với hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra cũng vậy. Nhiều nơi khác, không chỉ ở Quảng Trị, cũng vậy.  
                               Nơi có thể nói là làm thoả mãn (tương đối) du khách là địa dạo thôn Vĩnh Mốc. Đã hai lần thăm địa đạo Củ Chi, tôi cho là ở Vĩnh Mốc "cũng rứa thôi". Thật là "bé cái nhầm!". Chỉ riêng điều này đã khác: địa dạo Củ Chi là căn cứ đánh địch ngay trong lòng địch. Địa đạo Vĩnh Mốc là thôn dân cư dưới "đất ta" ngày đêm hứng chịu bom đạn giặc từ trên trời và từ ngoài biển, và còn là "hậu phương" trực tiếp của đảo Cồn Cỏ. Địa đạo Vĩnh Linh là nơi chôn rau cắt rốn, theo đúng nghĩa đen, của 17 người, nay còn sống 16 người, trong đó một người được học lên trở thành viên chức. Cũng như ở Củ Chi, nơi đây ngày trước mặt đất trần trụi, đất đá tanh bành, toang toác hố bom đạn, nay vườn cây sum suê, đặc biệt là hồ tiêu. Quãng giữa thế kỉ trước tôi đã được xem bức tranh "Thôn Vĩnh Mốc". Nay trước mắt khác hẳn. Du khách xuống thăm ba tầng địa đạo cũng không khác cái "thú đi dạo" là mấy, tuy mang tâm trạng lạ lùng, cảm phục. Giá tạo điều kiện cho khách sống thử một thời gian trong đó, chẳng hạn một ngày đêm. Thử hình dung một cặp vợ chồng với "căn hộ" sâu trong lòng đất!
                              Nghe nói người dân nơi đây đang đòi được chia phần "làm du lịch". Với cái lí: địa đạo là công trình, là mồ hôi, nước mắt và máu của họ, là lịch sử và niềm tự hào của họ; bây giờ còn vấn đề cuộc sống của họ nữa. Cũng nghe nói đã ba lần họp dân với Nhà nước, - Nhà nước đây cụ thể là bên văn hoá-du lịch, kết cục phần thắng vẫn thuộc về Nhà nước. "Giả sử địa đạo hỏng, sập, ai sửa chữa?", một trong những cái lí của bên "có lí".
                              Thăm địa đạo Vĩnh Mốc, - sau khi dạo thăm cầu Hiền Lương, Dốc Miếu, - rồi lên tàu cao tốc ra thăm đảo Cồn Cỏ, sau đó quay về nơi nghỉ mát Cửa Tùng, lộ trình "du" này chẳng xoàng đâu nhé! Còn nhiều lộ trình khác. ít có địa phương nào đậm đặc các điểm du lịch như Quảng Trị, về lịch sử, văn hoá, sinh thái, cảnh quan, cả điểm "hành hương".

                               ***
                               Ai vô Đông Hà hãy đến thăm trụ sở tạp chí Cửa Việt, một ngôi nhà riêng của báo rất đàng hoàng nằm bên một trong những con đường chính của thị xã. Toà báo cũng có một chiếc xe hơi bốn chỗ ngồi loại "xịn". Qua bấy nhiêu, thấy hoạt động văn học-nghệ thuật được coi trọng, và có vẻ như người Quảng Trị "chịu chơi" hơn người nhiều địa phương khác giàu sang hơn. Tạp chí Cửa Việt ra hàng tháng, mỗi số ngót trăm trang. Chỉ riêng điều này thôi, các tạp chí cùng loại, - tạp chí của các hội văn học-nghệ thuật địa phương khác, phải ngả mũ trước các bạn đồng nghiệp "Bình-Trị-Thiên (từng) khói lửa" (các tạp chí Sông Hương, Nhật Lệ đều ra hàng tháng). Nữa, ai đến Cửa Tùng sẽ nhìn thấy một cơ ngơi "phong lưu" nhìn ra biển có chữ đề "Nhà nghĩ của hội văn học Quảng Trị". "Nghĩ" chứ không phải "nghỉ". Anh Y Thi, phó tổng biên tập tạp chí Cửa Việt, giải thích: Đây là nơi đến để nghĩ mà sáng tác chứ không đến để nghỉ. (Y
                        Thi là một "chàng" khá đẹp trai, nho nhã, có bộ ria "chinh phục" <phái đẹp>. Anh là người Kinh từng lăn lộn công tác ở Tây Nguyên. Lưu niệm của đồng bào Thượng, ngoài cái tên chẳng biết còn gì khiến vợ anh không an tâm nữa không?). Các văn nghệ sĩ ai chẳng muốn được đến một nơi như thế để "nghĩ".
                         
                        Hải Phòng, 11 - 2005

                        #12
                          Khải Nguyên HT 19.04.2009 17:36:54 (permalink)
                          nền ngôi trường cũ

                                Buổi ấy của năm 1956, hoà bình vừa trở lại trên miền Bắc nước ta gần một năm, sau khi thực dân Pháp bị đánh bại. Chuyến ôtô từ Hà Nội vào đến Vinh thì đã hơn năm giờ chiều. Tôi mang hành lí xuống xe, đúng tần ngần giây lâu, cố moi kí ức để nhận biết nơi này. Tôi qua Vinh lần cuối đã bốn năm, từ thời trên đống gạch vụn bạt ngàn lơ thơ từng chùm cây dại, sớm chiều hai chiếc máy bay Hen-cat đen chũi của Pháp lượn vòng quen lệ gieo rắc khủng bố trên cảnh hoang tàn. Dẫu vậy, hồi ấy qua sự đổ nát, người ta còn dễ tìm ra những dấu tích quen thuộc. Thế mà giờ đây tôi cảm thấy lạc lõng. Tôi đang đứng trên bãi bến xe khá rộng đầy cát sỏi và bụi vàng. Tiếng ồn từ chỗ xếp hàng trước trạm công an để ghi tên lấy vé xe, tiếng va chạm từ chỗ đang rỡ hàng, tiếng rao quà vặt gây một thứ âm thanh hỗn độn trong buổi chiều đã nhạt nắng. Khó khăn lắm tôi mới nhìn thấy dấu tích một cái nền xi măng chạy dài thẳng tắp, trên đó người ta dựng trạm công an kiểm soát bến xe và hàng rào bao quanh khu vực ti Giao thông. Phóng tầm mắt theo dấu chân tường còn lại, tôi đếm được gần hai mươi phòng kế tiếp nhau đều đặn. Có phải đây là trường trung học phổ thông Nguyễn Công Trứ mà hồi thuộc Pháp gọi là collège Vinh? Đúng rồi! Kia là ba lối đi xoè nan quạt từ cổng chính tiến vào trường. Bãi bến xe đúng là sân vận động ngày xưa. Trên nền cũ của nhà chơi có mái (préau), hai quán hàng bằng tre núp dưới bóng dăm cây xoan và phi lao mọc lên lộn xộn từ những cái hố đào xuyên qua nền cứng. Cái sân cỏ vuông vắn với những hàng phi lao vút thẳng nằm lọt giữa khu trường, thường làm nơi chào cờ buổi sáng đầu tuần, giờ mất dấu dưới những ngôi nhà lá của ti Giao thông. Tôi lần được chỗ lớp học ngày xưa của tôi. Nó có vẻ hẹp hơn cái phòng học trong kí ức tôi. Trong một lúc, tôi trở về với thời học sinh tuổi nhỏ.

                                 *  *   *
                               Học xong lớp đệ nhất trung học phổ thông (lớp đầu cấp trung học cơ sở ngày nay) tại trường trung học Trần Phú bên Đức Thọ - Hà Tĩnh, tôi xin chuyển về trường Nguyễn Công Trứ ở Vinh. Mang cái học bạ có "xếp hạng ưu", tôi lên xe lửa tới Vinh nộp đơn. Lần đầu tiên tôi đi loại phương tiện này, và cũng là lần đầu tiên tôi đi Vinh. Tàu hôm ấy rất vắng khách, riêng mình tôi một toa. Trời mát, nắng dịu. Tôi đứng tựa cửa sổ ngắm những đồng ruộng, làng mạc tiếp nhau hiện ra gần xa, vừa khoan khoái, vừa nao nao. Nghĩ tới cái trường tôi đã giã từ, chắc là mãi mãi, lòng tôi hơi se lại. Nhưng Vinh đang ở phía trước đoàn tàu, cái thành Vinh mà trí tưởng tượng háo hức của tôi không thể hình dung được gì khác hơn cái phố huyện mà tôi quen thuộc dàn rộng ra. Còn nhớ lúc tôi đang học lớp ba, thầy giáo cho đề luận (tập làm văn): "Tả một chuyến đi Vinh". Tôi đã "tả" những là tàu đi qua đường hầm này nọ, và ở Vinh thì "nhan nhản nhà cao cửa rộng". ý sau, tôi nhặt từ một bài tả cảnh Chợ Lớn trong sách giáo khoa, còn ý trước thì viết bừa theo chuyện nghe lỏm được hoặc đọc ở đâu đó. Chính thầy giáo khi ra đề luận ấy cũng chưa hề biết Vinh. Bây giờ thì tôi đang đi tới Vinh, cái thành phố Vinh mơ ước. Và trường Nguyễn Công Trứ ở thành Vinh ấy. Trước đấy, chẳng bao giờ tôi dám mơ tới chuyện bước chân vào trường này, lúc nó còn là trường "côn-le" dưới quyền một hiệu trưởng người Pháp, - trường công duy nhất loại này cho hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Nghe nói học trường đó, nhất thiết phải ở nội trú với lệ phí gấp đôi tiền ăn trọ ở ngoài, phải có ít nhất hai bộ áo quần đồng phục mặc ngoài, mấy bộ đồ lót đúng kiểu, và này nọ… Lại nghe nói ở trong trường phải nói toàn bằng tiếng Pháp. Những cứ "nghe nói" vậy, tôi đã cảm thấy cao xa vời vợi. ấy thế mà nay tôi sẽ vào học ở đó.
                                Nếu như trường Trần Phú học ghé trường tiểu học của huyện bốn bề trống trải, khách qua đường muốn đến nom dòm lúc nào cũng được, thì trường Nguyễn Công Trứ, riêng biệt ở ngoại vi thành phố, bao quanh là một hàng rào cọc xi măng cốt thép, người ngoài chỉ có thể ngấp nghé nhìn vào qua một dải sân vườn. Hàng rào thấp, dễ dàng nhảy qua, vậy mà không hề có trẻ con hay người lớn tự tiện vào chơi hay nghịch phá. Nếu không có đường quốc lộ số Một và đường xe lửa đi qua phía ngoài thì trường hoàn toàn cách li với mọi tiếng động ô hợp đời thường có thể ảnh hưởng không tốt tới các hoạt động của nhà trường. Trường không có lầu trông không đồ sộ, nhưng xinh xắn và qui mô. Các khu nhà nối nhau có dáng hình chữ nhật mà hai cạnh dài song hành với đường cái kéo dôi ra hai đầu tựa hình cái khuôn đúc gạch. Ngôi nhà dài phía ngoài gồm mấy chục phòng dùng làm phòng học, thư viện, phòng chứa đồ thí nghiệm, phòng làm thí nghiệm với những chiếc bàn đá lát kính và những ghế ngồi cao dần lên về phía sau,… Hai nhà chơi có mái nối ngôi nhà này với ngôi nhà dài phía trong. ở đó, có phòng họp, phòng nhạc, phòng đọc sách, phòng thể thao. Cạnh trường là sân vận động, không lớn, nhưng đủ để đá bóng, đồng diễn thể dục và hoạt động thể thao học đường. Sân trường rậm cỏ và thưa cây. ở trường Trần Phú, thầy hiệu trưởng làm cả việc văn phòng, đôi khi kiêm cả đánh trống. Còn ở trường Nguyễn Công Trứ, theo nếp cũ từ thời mồ ma Pháp, vẫn có bộ phận văn phòng đàng hoàng, có người lao công, người gác cổng, và một tổng giám thị, dẫu lúc này không tổ chức nội trú nữa chẳng có nhiều giám thị để mà "tổng". Người gác cổng làm chức trách thật "siêu". Vô phúc cho những cậu học sinh nào đi muộn hoặc chuồn trước giờ! Cu cậu khó mà lọt khỏi cặp mắt cần mẫn của ông ta, dù rằng có thể đó là một chàng trai thực sự, đĩnh đạc ra dáng; dù rằng không hiếm những cậu tinh ma, bẻm mép, có đủ các ngón láu cá.
                                Năm học trước, năm học đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, khác với ở trường Trần Phú là nơi không có gì khác hơn là sự hồ hởi, trường Nguyễn Công Trứ khá sôi động với không khí chính trị của thành phố dội vào. Quân Tàu Tưởng đóng một lữ đoàn ở Vinh và những vùng phụ cận. Quốc Dân đảng hoạt động công khai. Trong hội đồng giáo sư nhà trường, - thời đó, các giáo viên cấp trung học đều gọi là giáo sư - có một số đảng viên Quốc dân đảng, đứng đầu là hiệu trưởng. Kì bầu cử quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, cuộc vận động rất sôi nổi. ở Vinh, các ứng cử viên quảng cáo rầm rộ. Những câu vè, ca dao hô hào bỏ phiếu cho người này, người nọ chăng, dán khắp nơi. Nhà tư sản - ứng cử viên nọ cho căng những tấm biểu ngữ vừa to, vừa cao ngang tầm tòa nhà hai tầng. Có những buổi diễn thuyết tranh cử và tranh luận với cả cử tri. Một lần, một nhà cách mạng - ứng cử viên lên diễn đàn, một giáo sư, đảng viên Việt Quốc (tên gọi tắt Việt Nam Quốc dân đảng), đã nêu câu hỏi: "Nếu trong quốc hội mà đại biểu bảo hoàng chiếm đa số thì chế độ dân chủ cộng hoà có bị thay thế bởi chế độ quân chủ không?" Diễn giả cười nụ, không nhìn người hỏi mà nhìn bao quát cử tọa đang ngồi chật ních phòng họp, nói: "Trước khi trả lời, tôi xin hỏi: chúng ta làm cách mạng để làm gì?" cả phòng xôn xao. Ngừng một chút, ông tiếp: "Vậy mà để cho cơ sự biến trá đến thế thì thật là "ôi thôi!" phải không đồng bào?" Tiếng vỗ tay tưởng có thể tung cả trần nhà. Kể cũng lạ, chính người hỏi câu này khi thấy ông hiệu trưởng, người vừa là bạn vừa là thủ lĩnh của ông ta, cũng ứng cử đại biểu quốc hội, đã bảo, nửa đùa nửa thật: "Người ta bầu những người đã từng vào tù ra tội, chứ bầu các anh để khi Tây đến các anh chạy dài à?" Tình hình chính trị ở Vinh hồi đó không phức tạp như ở thủ đô, song cũng có chuyện. Đôi khi đáng lẽ là bi, qua miệng học sinh truyền nhau lại thành ra hài. Một số học trò lớn lớp đệ tứ, lớp cuối của trường trung học phổ thông ngang với lớp Chín bây giờ nhưng lớn tuổi hơn nhiều, do ít nhiều nhiễm cái men "bất phục tùng và phản kháng" và ưa cái kiểu "cách mạng" của Dũng trong tiểu thuyết Đoạn tuyệt" nên dễ ngả theo những gì có vẻ ngang tàng. Khi hiệu trưởng "việt quốc" bị cất chức, có vài mươi cậu đứng lên vận động bãi khoá. Họ chia nhau đến nấp cạnh các ngả đường có nhiều học sinh đi học qua lên tiếng kêu gọi: "Yêu cầu các bạn quay lại, đừng đến lớp! Hãy tỏ thái độ của chúng ta!" Tất nhiên là chẳng thể có kết quả gì. Có chăng là vài cô cậu bé con đang đi bỗng nhiên nghe có tiếng nói ở đâu vọng ra thì lơ láo nhìn quanh, hơi nhớn nhác một chút rồi vẫn tiếp tục đi thẳng đến trường. Mấy cậu cầm đầu bị mời đến thăm nhà đá hai hôm. Các "vị" tuyệt thực không chịu ăn cơm; nhưng cuối ngày, người ta mang phở đến, các vị cũng dùng tạm. Chẳng ai bị đuổi học. Chuyện này cũng chóng đi vào quên lãng. Bởi, tuổi trẻ và tuổi nhỏ tuy hiếu động và háo chuyện thật nhưng buổi đầu cách mạng mới thành công có biết bao điều mới mẻ lôi cuốn, có biết bao cái kích động hướng nghĩa, nhất là tiếng súng kháng chiến phía Nam đang rộ và bọn Pháp đã có mặt ở Vinh dưới danh nghĩa "Tiếp phòng quân" thay quân Tưởng giải giáp quân Nhật. Do vậy, người hiệu trưởng mới, một người không rõ màu sắc chính trị mà cũng không có uy tín chính trị, được yên lặng chấp thuận. Về ông hiệu trưởng này có một chuyện, nói là thú vị thì không đang, mà bảo là chuyện tầm phào thì không đúng.
                                   Tôi vào học được gần một tháng rồi mà vẫn chưa được gặp ông hiệu trưởng. Ông tổng giám thị thay ông điều khiển các buổi chào cờ. Tôi được tường mặt ông trong một trường hợp hiếm có. Một buổi, tôi cùng một vài bạn vào toà án tỉnh xem xử. Cửa toà án luôn luôn rộng mở, trẻ con cũng vào dự được miễn là biết giữ đúng phép tắc chốn pháp đình. Khi toà mời nguyên cáo, tôi giật mình vì nghe đúng tên ông hiệu trưởng. Một người cao lớn như người Âu, mặt đầy râu cạo nhẵn để lại một vệt xanh mờ vắt từ má qua cằm. Bị cáo mảnh người, mặt xương, mắt sâu. Năm học trước là giáo sư trường Nguyễn Công Trứ, ông ta bị kiện là đã công khai nói xấu và phỉ báng ông hiệu trưởng trong hội đồng giáo sư. Trả lời toà, ông nói mình đã vạch mặt một tên nguy hiểm chui vào hàng ngũ giáo sư, hồi thuộc Pháp "nó" đã có nhiều "thành tích" với bọn thống trị. Ông ta luôn mồm gọi "nó" khiến chánh án phải gõ búa ngắt lời, nhắc nhở. Toà hỏi: "Ông có nói rõ tên ai không?" Đáp: "Tôi chỉ nói rằng cái gian xảo của nó biểu hiện ở bộ râu quai nón". Nghe vậy, ông hiệu trưởng bất giác đưa tay lên sờ má. Lục sự tuyên đọc một số tài liệu, trong đó có bản nhận xét về ông hiệu trưởng của viên công sứ Pháp ở một tỉnh ngoài Bắc hồi y còn làm chúa tể ở đấy: "… Nếu người Pháp cần một người trung thành và tận tụy khi gặp khó khăn thì ông X là người có thể tin cậy được". Được nói lời cuối cùng trước khi toà phán quyết, bị cáo gằn giọng, giơ tay lên điểm nhịp cho lời nói: "Tôi đã tố cáo, tôi sẽ còn tố cáo nữa vì lợi ích của đất nước". Ông ta được trắng án. Ra về, ông bảo người bạn đi cạnh: "Cái thằng hồi đi học chuyên cóp bài của tao giờ lại ngồi xử tao". Về sau, tôi không biết gì về ông ta nữa. Ông hiệu trưởng thì lẳng lặng trở về với cương vị của mình. Ông là người điềm đạm, kín đáo, tôi chưa được thấy ông đứng nói chuyện vói ai bao giờ. Năm 1950, nghe nói ông ta đã "dinh tê", chẳng rõ thực hư. Mẩu chuyện trên chỉ phản ánh một nét sinh hoạt nhỏ nhoi và riêng biệt có lẽ chỉ xẩy ra ở Vinh và ở thời điểm ấy. Cũng có chút nghĩa lí. Thuở Cách mạng tháng Tám mới thành công, thường thì những ai bị coi là tay sai của chế độ cũ đều không đáng dung và không đáng dùng ngay cả trong mắt người dân thường. Và nữa, từ bấy đến nay tôi chưa thấy ai kiện, chưa thấy ai xử những chuyện như thế.

                                 ***
                                Tôi trọ học trong thành cổ. Đó là toà thành kiểu Vauban, người Pháp giúp Gia Long xây lên. Thành hình chữ nhật gần vuông, mỗi bề độ hơn sáu trăm mét, bốn góc có vọng lâu vừa là tháp canh. Mặt ngoài thành cao chừng sáu mét xây toàn bằng đá ong và vôi vữa (chưa có xi măng) mà vững chắc; chúng tôi trèo lên coi gần khắp, chẳng thấy nứt nẻ chỗ nào cả. Phía trong đắp đất dày đến đỗi có thể làm nhà ở trên mặt được, và chỉ cao thua phần xây ngoài khoảng nửa mét. Thành có ba cửa: Tiền, Hữu và Tả. Không hiểu sao lại "Thanh vô Tiền, Nghệ vô Hậu" - thành Thanh Hoá không có cổng trước, thành Nghệ An không có cổng sau? Quanh thành có hào rộng gần ba mươi mét, bấy giờ nhiều chỗ đã cạn, người ta thả rau muống tốt um. Các cầu rút bằng gỗ bắc qua hào trước cổng thành không còn rút lên được nữa. Cổng thành xây vòm cuốn rất đồ sộ và kiên cố, phía trên là địch lâu. Hai cánh cửa lim nặng chịch, gần thế kỉ rưỡi rồi mà vẫn vững chãi. Ban ngày, cánh cổng mở rộng, ôtô qua lại dễ dàng. Đêm đến, người ta mở một cánh cửa nhỏ trổ nơi góc dưới của một trong hai cánh cửa lớn, người đi bộ ra vào vẫn thoải mái. Một lần, ba đứa nhỏ chúng tôi đi xem chiếu bóng về vào quãng chín giờ tối. Chúng tôi vừa bước chân lên cầu rút thì một tiếng hô đột ngột như tiếng sét, không phải hô giật giọng mà hô kéo dài như thể ra lệnh cho hàng ngàn quân hoặc gào lên với người đứng xa hàng ki-lô-mét: "A…a…ai? Đứng lạ…ạ…ại!" Lúc ấy, chúng tôi chỉ cách cổng thành chưa đến mười mét. Tôi giật thót người. Thằng đi bên cạnh tôi vội bíu chặt lấy cánh tay tôi. Định thần nhìn lại qua ánh đèn điện lờ mờ thì ra một anh bộ đội đang đứng gác cạnh cái chòi mé cổng. Tôi lấy giọng bình tĩnh vừa trả lời, vừa bước lên: "Chúng tôi đi xem xi-nê về", bụng vẫn chưa hết hoảng. Anh gác cổng hỏi với giọng bình thường và thân mật như không phải anh vừa ráng hơi quát tướng lên: "Phim gì thế? Hay không?" Tôi nghĩ bụng: chắc anh này lần đầu đi gác muốn ra oai tí chút hoặc muốn thử giọng đây; hay vì chính anh ta cũng sợ?
                                Trong thành, có một trại lính cũ của Pháp, - rồi của Nhật, sau cách mạng bộ đội ta đóng, - chiếm gần nửa phía sau thành, phần đằng trước, ngoài toà tỉnh đường của quan lại Nam triều trước đây, xây kiểu ta hơi lai căng kiểu tây, và một số công sở khác gồm cả toà án đã nói tới trên kia, có nhiều nhà dân nép ven tường thành. Dân thợ, dân buôn thúng bán bưng hoặc chạy chợ. Công tư chức hạng dưới… Đường đi trong thành không rộng lắm vừa đủ cho xe ôtô tránh nhau; hầu hết là đường đất pha cát mịn. Có nhiều cây cổ thụ và những bãi cỏ rộng. Nơi ấy, khá yên tĩnh và mát mẻ so với nơi phố xá ngoài thành. Để làm khu học xá hoặc khu văn hoá thì tuyệt. Tiếc rằng, trải qua hai cuộc kháng chiến thành đã bị san bằng, giờ chỉ còn trơ lại cái cổng thành trước, cổng Cửa Tiền như mọi người quen gọi, và hai cổng Tả, Hữu.
                                Tôi trọ trong nhà một ông Hàn. Do đâu ông được phong "hàn lâm" thì không biết. Chỉ biết dù là ông Hàn, một hàm xôi thịt có cỡ ở các làng quê trước cách mạng, ông vẫn đưa vợ con ra tỉnh buôn vặt và nấu cơm trọ cũng đã lâu lâu. Cả hai ông bà đều sống phải chăng, không ồn ào, một điều hơi lạ với một ông chủ trọ và một bà buôn chợ. Mỗi khi chúng tôi nghịch quá hoặc mải chơi, ông chỉ nhắc khéo, không ra bảo ban, mà cũng chẳng phải là than phiền. Tôi ở đúng cái xóm trọ của học sinh nghèo. Khó có nơi thích hợp hơn với việc trọ học và với túi tiền lép. Tuy là một xóm người tứ xứ, pha tạp nhiều nghề, nhưng hiếm những vụ cãi cọ, chửi bới nhau; cũng hiếm chuyện trẻ con nô đùa ầm ĩ, ngỗ ngược. Tôi từng đọc những chuyện về các xóm nghèo đô thị ngột ngạt, u uất, lục đục, nhếch nhác, … Cái xóm nhỏ trong thành Vinh mang dáng dấp một xóm quê, hầu hết là nhà gỗ lợp tranh, có sân nhỏ ngăn cách nhau bởi hàng rào cây sống ít nhiều được xén tỉa. Một xóm hiền hoà, bình lặng, khá sạch, có nhiều cây xanh, có giếng nước trong mát. Duy một điều khó "thương": chẳng có nhà vệ sinh, riêng cũng không, công cộng cũng không! Trên mặt thành sau lưng xóm,  cạnh những bãi trồng rau là những nhà xí lộ thiên, gọi đúng tên là bãi phóng uế, mọi người tự do ngồi "xả" ở đấy kể cả khi không chỉ có một mình. Cái tệ "thứ nhất quận công, thứ nhì…" ngự ngay giữa thị thành!
                                Sống nơi ấy tôi vô tư như ở xóm quê mình. Tôi cứ nhởn nhơ nghĩ rằng thành Vinh cứ thanh bình mãi vậy. Một đêm về gần sáng, tôi chợt thức giấc vì một tiếng rú dần vút cao ngân dài như lời hú gọi, rồi hạ xuống trầm trầm vang động gợi cái gì đổ vỡ ghê gớm, và tắt dần tựa một tiếng gầm gào cố nén. Lát sau đã nghe tiếng chạy thình thịch và tiếng hô sang sảng ngoài đường. Thì ra tiếng còi thành phố thức thanh niên dậy tập thể dục quân sự. Thành phố vẫn giữ bộ mặt thường ngày, nhưng trong cái tấp nập và ồn ã quen thuộc, tôi cảm thấy đã có gì khang khác. Trên đường phố, xen giữa các dòng người xuôi ngược (đi bộ, thời ấy xe đạp cũng hiếm nói chi xe có động cơ), có những tốp tự vệ nam và nữ mang súng hoặc gươm, gậy bước đi trang nghiêm và bận rộn. Người ta đục nhiều lỗ châu mai trên tường nhà nhìn ra các ngã tư.
                                Ở một phố đẹp của Vinh, nhưng khá vắng, có một ngôi nhà mà ai đi qua cũng nhìn một tí, hãnh diện lẫn căm ghét. Đó là trụ sở của ban Liên kiểm Việt-Pháp, một ban được lập ra theo Hiệp định sơ bộ  6-3 kí giữa Việt Nam và Pháp để giải quyết những chuyện nảy sinh giữa hai bên. Cạnh cổng, có một bộ đội của ta và một lính Pháp đứng canh, cách nhau một khoảng chiều rộng của cổng. Tại Vinh, quân Pháp chỉ có mấy chục mống lại đóng kề sân bay khá xa thành phố nên người dân đỡ chướng mắt và hầu như không phải đối phó với những vụ khiêu khích. Tôi nhớ chỉ có một vụ rắc rối nhỏ. Một chiếc xe con của bọn Pháp phóng nhanh ở một chỗ ngoặt tông phải một chiếc xe tải của ta bị bẹp hông. Thằng lính Pháp lái xe may phúc chỉ bị xây xát xoàng. Nó chui ra khỏi xe, mặt đỏ tai tía, cà khịa với người tài xế Việt. Anh này điềm nhiên vạch lỗi của nó. Hai bên không hiểu tiếng nhau. Mấy học sinh đi qua đấy quây lại dùng tiếng Pháp đồn cho thằng Tây một chập. Mặt nó tái ngắt phải yêu cầu mời ban Liên kiếm đến. Cuối cùng, chúng nó đành kéo cái xe bẹp về. Qua vụ đó, tôi càng nghĩ là bọn Pháp không đáng sợ, và tưởng đâu rằng ở nơi nào chúng cũng dễ dàng xử nhũn nếu ta cứng lí, tuy có nghe loáng thoáng những vụ chúng khiêu khích tại Hà Nội và gây hấn tại Hải Phòng.
                                Lâu dần tôi cũng quen với tiếng còi thành phố; nó không quấy giấc ngủ say lúc về sáng của tôi nữa. Tôi ít nghĩ đến cái họa giặc Pháp đang đe dọa từng ngày, từng giờ cuộc sống yên lành. Bỗng đêm ấy, còi thành phố kéo sớm hơn thường lệ, lúc đang canh khuya, cùng tiếng súng nổ ran ở mạn đông bắc. Tiếng súng chỉ dồn dập một lúc rồi im bặt. Cái yên ắng khuya khoắt tiếp theo đó sao mà dồn nén. Ấy là đêm 19 rạng ngày 20/12/1946. Sáng ra, trên mặt tường thành phía sau nhà trọ, tôi thấy có các anh bộ đội phục, cách quãng nhau mỗi người độ mười mét, súng lăm lăm hướng ra ngoài qua các kẽ châu mai. Chúng tôi vẫn cắp sách đến trường. Trên đường đi thấy mọc thêm một số ụ súng có người trấn giữ. Đến trường, tôi được biết đêm qua ta đã tóm gọn hơn sáu chục lính Pháp tại trại quân của chúng. Sự  chống cự rất yếu ớt. Một chiếc máy bay của chúng mới hạ cánh hôm trước bị tịch thu. Nhưng khoái nhất là tin do thằng Trọng B., một bạn học cùng lớp, tung ra: ở Huế, ở Nam Định, bọn Pháp hàng rồi, còn ở thủ đô chúng sắp sửa hàng (!). Tôi còn nửa tin nửa ngờ thì nó đã giơ tay chém vào không khí, cái môi trên có nốt ruồi ở chính giữa vốn đã nhọn càng nhọn ra, giọng Bắc chẳng lẫn chút nào dẫu nhà nó vào Vinh đã lâu, cả quyết: "Thì anh tao làm ở thông tin tỉnh, anh tao nhận điện hồi đêm mà!" Người nó cao kều, cổ nó dài, nó phải hơi cúi xuống người nghe để thuyết phục. Không thể không tin nó được! Tôi sướng quá. Tôi đem tin đó loan ra, bị chế nhạo là đứa nói dóc. Cái thằng Trọng B.! Nó là dân chơi phong lưu trong mắt bọn nhóc nhà quê chúng tôi. Với nó thì cái gì cũng "trạng" như không. Nó thu tiền mua sách giáo khoa cho bạn cùng lớp, không có sách, nó ỉm luôn tiền. Hỏi, nó nói ráo hoảnh: "Tao tiêu mất rồi". Nó hẳn thừa biết rằng không ít bạn học của nó để đi học được bố mẹ họ phải lo đến méo mặt. Cái thằng! Nó là dân nhạc, sau này từng ngồi ghế trên trong hội nhạc. "Tỉnh bơ" được như nó chắc chẳng bao giờ "gặp nạn".
                                Buổi sáng ấy, các lớp không sao học được bình thường. Chiều đến, giờ học vừa bắt đầu thì ông chủ tịch uỷ ban hành chính tỉnh đi xe đến. Các giáo sư và học sinh nhanh chóng tập hợp để nghe ông nói chuyện. Khác với mọi lần, ông có vẻ trang nghiêm và suy tư. Ông nói về âm mưu của thực dân Pháp, báo tin cuộc kháng chiến toàn quốc đã bắt đầu và lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch. Trong những lời ông nói, có một ý khó quên, với tôi, bởi khi nghe xong một giáo sư đã nhún vai và hơi nhếch mép: "Làm cách mạng, chẳng những chúng ta phải đương đầu với bọn thực dân Pháp, mà còn phải sẵn sàng đương đầu thắng lợi với bọn đế quốc xâm lược khác như Anh, Mĩ…" Phải! Hồi đó chẳng dễ mà tin rằng ta sẽ thắng Pháp, nói chi thắng Mĩ, nhất là trong tầng lớp trí thức. Ông chủ tịch truyền lệnh của uỷ ban tỉnh tạm thời đóng cửa trường, ông có vẻ xúc động. Tôi về nhà trọ thu xếp vội để về quê, hầu như chẳng buồn bã chi. Như là tôi tin sẽ sớm trở lại ngôi trường mà tôi đã quen hơi bén tiếng. Tôi có ngờ đâu ngày hôm ấy là ngày mở cửa cuối cùng của nó.
                                Gần hai tháng sau, qua Tết âm lịch, trường Nguyễn Công Trứ mở cửa lại, chia làm hai phân hiệu "tản cư" ở hai huyện lị. Cho đến lúc đó, và vài năm sau, trường này vẫn là trường trung học phổ thông duy nhất của tỉnh Nghệ An. Khi có tin trường chiêu sinh tôi đang ốm nên nửa tháng sau tôi mới tìm đến được.  Vì chưa biết đích xác địa điểm, tôi phải xuống Vinh để hỏi thăm. Vinh lúc này người vẫn đông, sinh hoạt vẫn náo nhiệt. Song, quang cảnh khác lạ hẳn, đến không nhận ra thành phố Vinh cũ, nếu chỉ thoạt nhìn. ở các ngã tư, góc phố, những ụ đất chướng ngại và những ụ súng mọc lên lù lù như những ngọn đồi con trên đó, nhiều thân cây tươi làm trụ đã mọc cành lá xanh tốt. Đứng giữa phố nhìn lại có thể tưởng phố xá đến đó là tận. Tôi tìm đến ngôi trường của tôi. Cổng trường đóng kín. Tôi gọi người gác. Ông ta không cho tôi vào. Tôi nói khó: mình là học trò cũ của trường muốn vào thăm nơi cũ. Ông nhìn soi tôi, ngần ngừ một chút rồi rút then cổng. Tôi lại đặt bước trên lối đi thẳng tắp từ cổng vào trường mà mới đây tôi còn ngày ngày đi về. Những lá phi lao chết khô phủ đầy mặt đường rên khẽ dưới bàn chân tôi. Ngôi trường đứng đó, các cửa đóng im ỉm, hoang lạnh. Những chiếc lá khô đuổi nhau lạt sạt trên nền xi măng của nhà chơi, tưởng chừng như đó là vang bóng của những bước chân non trẻ đã từng chơi đùa nơi đây thuở nào. Cái sân vuông, cỏ mọc um tùm, những hàng phi lao đã bị đốn trụi (Người ta đã nhanh tay thật, đi trước khá lâu lệnh tiêu thổ kháng chiến!). Tôi dạo trong hành lang, nghe trong tiếng dội của mỗi bước đi một niềm hối tiếc. Tôi chưa yêu đúng mức ngôi trường này, hay nói cho công bằng, tôi chưa kịp yêu nó như cần phải yêu. Tôi cũng chỉ mới "quen biết" Vinh. Nếu không có bọn cướp nước thì làm gì nhà trường phải tản cư, chắc là tôi sẽ qua thời niên thiếu ở nơi đây để bước vào tuổi trưởng thành với những mơ ước vô lo, và có thể có cả ảo vọng. Tôi lặng lẽ đi trở ra, quên cả chào người gác cổng.
                                Tối hôm đó, tôi lên đò dọc theo kênh đào đi Sa Nam, huyện lị Nam Đàn. Lên đây, nhà trường như xa không khí kháng chiến, tuy mỗi buổi chào cờ thường có một thầy giáo đứng ra đọc báo Cứu Quốc (chậm có khi gần tháng) và thỉnh thoảng chúng tôi cũng dự mít tinh hoặc liên hoan văn nghệ với địa phương. Chúng tôi là "dân tản cư" học nhờ trường tiểu học. Có những lí do mơ hồ nào khiến tôi nhớ ngôi trường ở Vinh và thành phố Vinh, nơi tôi đã gửi một mảnh đời yêu tin vừa trong sáng vừa dại khờ. Một nỗi nhớ dai dẳng có pha mùi hoài vọng. Những tối trăng đẹp, tôi hay ra ngồi trên mặt cống nông giang hóng gió. Vào lúc này, ở đó khá đông người, phần lớn là học sinh. Họ trao đổi, bàn cãi đủ thứ chuyện. Tôi ít tham dự, chỉ ngồi ngắm trời sao hoặc dõi sóng trăng trên sông Lam rập rờn về xuôi. Và, thường là thả hồn về Vinh, qua một hình ảnh nào đó, toà thành, những con đường rợp bóng phượng,... nhất là ngôi trường, và có khi bóng dáng một cô bạn học cùng lớp mà tôi chưa dám kết thân. Âu cũng là một thứ tâm trạng lãng mạn của lứa tuổi choai choai. Gần cuối năm học ấy, người Vinh ùn ùn tản về các vùng quê. Chính phủ chủ trương triệt để phá hoại các đô thị để chống lại giặc Pháp đang mở rộng tấn công ("tiêu thổ kháng chiến"). Trước tiên là những thành phố như Vinh. Một nỗi nuối tiếc gần như là xa xót tràn ngập lòng tôi. Cùng với Vinh ngôi trường sẽ không còn nữa, cũng như các ngôi trường khác từng chứng kiến những tháng ngày tôi mài đũng quần trên ghế học trò. Tất cả sẽ chỉ còn nền và gạch vụn. Trên hoang tàn, quá khứ vỡ ra...
                                Ba năm sau, tôi hành quân qua thành Vinh. Tôi chưa có chút ý niệm nào về "thành phố trụi". Vừa bước chân lên cầu Cửa Tiền đã có thể thâu tóm toàn cảnh Vinh vào trong tầm mắt như nhìn trên bản đồ, các đường phố hằn rõ trên bãi gạch vụn. Toà thành cổ chỉ mới bị bóc lớp đá xây ngoài, đứng trơ vơ nhìn tháp nhà thờ Cầu Rầm vút lên lơ láo và trơ trọi. Mấy ngôi đền, chùa rải ra đó đây. Mới biết Vinh có khá nhiều đền chùa. Dãy phố Khách của người Hoa, phố duy nhất được phép giữ lại, nom tẻ ngắt với các mặt trước nhà vẽ hình cờ Trung Hoa dân quốc (vẽ vội khi có tin quân Pháp gây hấn ở Hải Phòng, để tỏ rõ đây là nhà cửa của ngoại kiều, xin để yên cho! Lúc này quân Tàu Tưởng đã rút hết về nước, họ chẳng muốn chung nạn với người Việt). Chúng tôi bước đi trên các đường phố trống trơ, qua từng chỗ lại hình dung ra những chốn quen cũ. Tôi buột miệng kêu lên: "Vinh vẫn y nguyên, anh em ạ!" Người đi bên tôi cười mũi: "Bình địa hết, còn nguyên nỗi gì!" Quả thật, câu nói của tôi ngố thật. Thực ra, lời tôi đã phản ý tôi. Tôi muốn nói người ta vẫn nhận ra Vinh thân thuộc, và Vinh không biến mất trong tâm tư mỗi người.
                                Chúng tôi đi qua phía ngoài ngôi trường. Một khoảng đất rộng lổn nhổn gạch ngói vỡ và vôi vữa thay thế cho cái cơ ngơi xinh xắn, ấm cúng và kín đáo sau những hàng cây xanh tốt xưa kia. Cái hàng rào xi măng dài theo đường quốc lộ đứng lẻ loi như còn cố lưu lại làm chứng tích một dĩ vãng nhiều xáo động. Đáng tiếc! Ngôi trường chỉ mới thoát vòng kiềm toả của chế độ thực dân chưa đầy hai năm!

                                 * * *
                                Năm 1997 về Vinh, tôi vội ghé lại cái bến xe ngày nọ. Trước mắt tôi là những công trình xây dựng khang trang, nhưng lòng tôi chạnh buồn, chẳng còn chút vết tích nào của nền ngôi trường xưa. Xa Vinh, tôi "nhìn" rõ Vinh mồn một. Song, đó là Vinh của ngày nào. Ngày nào ấy, tôi có thể lang thang ban đêm qua các phố xá mà không sợ lạc. Bây giờ, rời nhà người thân tôi đang ở chơi, tôi chẳng dám đi xa. Đứa cháu đèo xe máy đưa tôi qua đường Quang Trung và đường Phan Đình Phùng ngày trước, - hai đường phố vốn dài rộng nhất Vinh kéo gần suốt chiều dọc và chiều ngang thành phố ngày ấy -, tôi chẳng thể nhận ra. Nhiều đường phố Vinh bây giờ thênh thang rộng có cả đường đôi, giữa là một dải hẹp trồng hoa và cây xanh. Vinh trải rộng ra ôm trọn nhiều vùng ngoại vi cũ, cả Tràng Thi và Bến Thuỷ. Dấu tích xưa chỉ còn các cổng thành cổ và mấy ngôi đền chùa. Nhà thờ Cầu Rầm đồ sộ, hồi tiêu thổ kháng chiến vẫn được giữ lại, đã bị bom Mĩ đánh tan. Tôi tự nhủ lòng: cái thành phố Vinh đơn sơ của thời cơ cực, nghèo hèn, làm ăn tủn mủn phải nhường chỗ cho một thành phố Vinh hiện đại. Nhưng giá Vinh còn lưu được toà thành cổ và vài khu phố cũ! Lần thứ hai Vinh được xây dựng lại. Cái hiện đại ở Vinh đã ló dạng, tất nhiên chẳng phải ở mấy cái nhà cao tầng khoe dáng khoe sắc một cách hợm hĩnh của những ai hãnh tiến, cũng chẳng phải ở những chiếc ôtô sang trọng mà bất minh, ở những chiếc máy điện thoại cầm tay phô phang,...
                                Tôi ghé thăm trường Phổ thông trung học Huỳnh Thúc Kháng, trường kế thừa trường Trung học phổ thông (1) Nguyễn Công Trứ và trường Trung học chuyên khoa (2) Huỳnh Thúc Kháng xưa kia. Đang giờ chơi, tôi tha thẩn trong sân, trong hiên trường, cố mường mượng mình là một cậu học trò mà không nhập vai được. Ông hiệu trưởng niềm nở tiếp tôi, biết người khách "không mời" từng là học sinh của cả hai trường tiền thân của trường này. Ngồi nghe ông nói về những thành tích và những triển vọng của trường, tôi thầm mừng cho các cháu học sinh. Không phải là "hậu sinh khả uý" mà "khả tín", có thể tin các cháu tiếp nối cha anh làm rạng thành phố Vinh cũng như làm rạng đất nước.
                                Tôi đứng trên cầu Bến Thuỷ lộng gió. Cầu được xây chưa lâu, sau ngày "đổi mới". Năm 1946, một chú trò nhỏ cuốc bộ sáu ki-lô-mét từ trong thành Vinh đến đây leo lên phần mũi còn nhô lên của chiếc tàu khách bị máy bay quân đồng minh đánh chìm (thế "mạng" cho quân Nhật) ngắm trời nước chán lại ngóng chuyến phà để sang với dãy Hồng Lĩnh bên kia sông mà mãi chẳng được. Cái bến phà Bến Thuỷ, tôi có nhiều "duyên nợ" những lần trở lại quê hương, cả những lần trong chiến tranh phá hoại của Mĩ. Bến Thuỷ nay không còn "bến" nữa. Bến đò, bến phà thường ghi dấu trong kí ức của khách lữ hành, càng nhiêu khê, trắc trở càng đọng lâu. Một cái cầu, xe vút qua là thôi, ít ai còn nhớ đến. Tân tiến lên, mất hay được? Đừng trách lớp sau vô tâm. Cũng chớ chê lớp cũ lẩm cẩm.
                                Đừng nhấm nháp quá khứ dù có hay mấy, nhưng cũng chớ phủi tay! - Tôi tự nhắc mình.

                          -----------------
                          (1) Tương đương trường Trung học cơ sở nay.
                          (2) Tương đương trường Trung học phổ thông nay 
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 19.04.2009 17:55:27 bởi Khải Nguyên HT >
                          #13
                            Chuyển nhanh đến:

                            Thống kê hiện tại

                            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                            Kiểu:
                            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9