TỘI LỖI NGUYÊN THUỶ +...
Khải Nguyên HT 17.02.2009 18:32:49 (permalink)
Tội lỗi nguyên thủy
-truyện ngắn- 
 
 
      Bấy giờ là vào đầu năm 1973. Giám đốc Sở tức tốc đi xe com-măng-ca về nơi trường cấp ba sơ tán. Khốn kiếp! Đang lúc hiệp định Pa-ri thắng lợi to như thế; toàn sở đang bấn lên lo chuyển cơ quan về nội thành! Các anh đã họp bộ tứ chưa? Đã họp thường vụ chưa? Giải quyết cho gọn. Đừng làm rùm lên! Sao cho các anh lãnh đạo trên đỡ bận tâm. Nhưng không được xuê xoa! Nghệ thuật nghệ thiếc gì? Đồi trụy! Tư tưởng đồi trụy! Sinh hoạt đồi trụy!
      Tội nợ là ở bức tranh. Ở tác giả của nó chứ! Cái tay họa sĩ nửa mùa kia. Cái anh giáo văn ngông nghênh dám múa bút vẽ kia. Giáo Tân à? Ngộ nhỉ! Anh ta nom chẳng có dáng một giáo viên văn học, nhưng lại có mẽ nghệ sĩ kia đấy! Cao, to xương, da nâu, trán dô, cằm bạnh đen những ria. Ăn thì vào cỡ ngoại ngạch: với muối trắng không thôi có thể "xực" một lúc bốn suất cơm nhà ăn tập thể. Nói thì bỗ bã. Ai đời trong một buổi đào hầm phòng không, anh ta bảo một cô giáo vừa trẻ, vừa xinh, chưa mấy quen thân: "Chị cứ nghỉ cho khỏe dành sức chiều "phụ đạo" học sinh. Tôi sẽ đào luôn cho chị, đảm bảo vừa vặn kích thước chị nằm thoải mái, kể cả áo quan". Mặc thì… nói khó tin. Anh ta có một chiếc quần màu xanh; một miếng vá cỡ nửa mặt bao diêm cũng màu xanh nhưng nhẵn một cách khả nghi, và sau mỗi lần giặt lại có vẻ mới ra. Giới tọc mạch phát hiện ngay: dán giấy tô mực, trời ạ! Có chị giáo viên cám cảnh mới đề nghị vá hộ, nhưng anh chàng cảm ơn và cứ lần lữa. Làm thì… Để có thực tế cho việc phân tích đoạn văn tả người kéo cày thay trâu, thầy giáo ta mới rủ một học sinh đến tán một nông dân chịu cho hai thầy trò được è cổ thay trâu một buổi trên mảnh ruộng phần trăm. Đúng là gàn nòi, ít ra cũng đã có lí lịch từ đời ông bố. Hôm hắn ta sắp lọt lòng mẹ, ông bố đang chơi cờ ở nhà một người bạn. Được báo vợ đang chuyển dạ ở nhà, ông ta phẩy tay: "Chờ tí! Đang dở ván cờ!". Nếu ông bạn không xóa ván cờ đi thì cơ sự chưa biết sẽ ra sao: thằng bé chui ngược - Ngược! Âu cũng là cái "nghiệp" của đời hắn chăng?      Các vị có trọng trách hoặc có vai vế trong trường đều dè dặt khi nói đến anh ta, dè dặt một cách hạ cố. Khi phân các giáo viên về ở nhờ nhà dân, các vị cứ lo lo. Ngữ này mà sống chung với nông dân thì "ngon" làm mất uy tín nhà trường lắm. Thôi, ưu tiên hắn được ở nhà một ông cụ đang sống một mình. Chủ nhà dành hẳn cho một buồng riêng biệt. Ông cụ ban ngày đi trông coi ao hợp tác, tối về cơm nước xong là đi ngủ. Vậy là rảnh nhé!
      - Các vị cứ nghĩ theo kiểu chính thống nên cho là vậy, chứ Tân chẳng cần đến những quan tâm bề trên ấy đâu. Ngay tối đầu, anh và chủ nhà đã trải chiếu ngoài sân ngồi uống chè, ngắm trăng, chuyện trò tới khuya…
      - Ờ, ngày đầu chủ nhà xã giao chứ gì. Biết rồi! Biết rồi! Mà không chừng hắn ta "phượu" mấy bài thơ tủ với ông già. Nghe đâu ông này cũng sính thơ, loại "con cóc" hoặc "Bút Tre" ấy mà. May phúc hắn, đắc địa đó.
      - Tôi thì không gần gũi anh ta mà cũng không hợp tính nhau. Nhưng nghe chuyện chị Cam, nhà cạnh nơi Tân trọ, thì tôi thấy mình không làm được như thế. Chị Cam có chồng đi chiến đấu xa. Chị không ưng gửi hai con cho nhà trẻ và lớp mẫu giáo nên hợp tác xã khoán cho chị những việc lẻ để có thể tùy nghi mà làm. Thường khi đi làm, chị giao đứa nhỏ lên hai cho đứa nhớn lên năm trông; thỉnh thoảng chị đảo về thăm chừng. Bữa đó, chị ta đi làm cỏ khoai xa nhà. Vào giữa buổi, chẳng hiểu vì sao đứa em khóc thét lên. Đứa chị dỗ mãi không được cũng khóc nốt. Tân đang soạn bài bèn chạy sang. Anh ta trổ tài dỗ cũng không xong, mới hỏi đường ra chỗ người mẹ, bảo: "Các cháu đang khóc quấy, chị về xem sao. Để cuốc đấy, tôi trông cho". Chị Cam mãi đến gần trưa mới ra làm tiếp được thì thấy… thầy giáo nhà ta đang cởi trần vun luống khoai và công việc sắp xong. Tân lân la thăm nhà trẻ và lớp mẫu giáo địa phương. Anh ta thu xếp thì giờ sang chơi với hai đứa bé. Thế nào mà được ít lâu sau người mẹ vừa vui vừa lạ lùng bảo: "Sao chú khéo dạy trẻ thế?". Anh ta cười: "Tôi học lỏm các chị giữ trẻ và dạy mẫu giáo đấy". Chị Cam lắc đầu hồ nghi: "Chú nói thế chứ các cô ấy cũng ba vạ lắm". "Tại chị không tìm hiểu đấy thôi. Cứ mạnh dạn tin người ta, có gì thì đi lại thân mật trao đổi, góp ý". Chưa hẳn người mẹ đã nghe ra, nhưng có lẽ nể Tân chị ta đã cho con đến nhà trẻ và lớp mẫu giáo. Vậy đó.
      - Hắn ta chúa thích chơi trội. Lắm khi chỉ lăng xăng mà được tiếng thơm đáo để. Đúng như nhận định của trên, của lãnh đạo, cả của tập thể: "thích nổi, hay đánh lẻ; yêng hùng cá nhân chủ nghĩa". Không thích chơi trội mà ra cái điều ta đây hay vẽ! Học vẽ bao giờ? ở đâu? được mấy ngày? Được tí tiền lương, nếu không dốc hết ra mua sách học ngoại ngữ, sách hội họa Tây, Tàu thì cũng sắm vật liệu vẽ. Hôm bức vẽ "Cô gái hé của" đến tai lãnh đạo. Bức vẽ mới tởm chứ! Thế mà dám đặt tên là Sắc đời - các anh đã nhắc nhở rồi. Vẽ con gái gì mà đứng kín kín hở hở sau cửa; rình không ra rình, chờ không ra chờ, như gọi, như ve, đến là khêu gợi. Khéo mà sa vào lãng mạn suy đồi. Y như rằng! (Những người phán những lời trên hẳn chẳng biết rằng bức tranh ấy sau đó được đem bày ở một cuộc triển lãm tại Thủ đô và được giải B).
*
      Tai vạ khởi đầu tự bức vẽ mà cô giáo Thìn tầm được đem khoe. Thìn là người mà Tân đã có "nhã ý" đào hộ cái "huyệt" hồi đầu năm học. Chị cũng dạy văn, hơn Tân vài tuổi và đã có chồng. Khi đã quen thân, chị đôi khi gọi Tân bằng "chú". Hai người hợp nhau vì cùng cảm thấy khốn khổ bởi cái xiềng sách giáo khoa. Họ cũng gặp nhau ở quan niệm "chuyện văn nghệ, có biết cảm mới thật là hiểu. Chỉ nắm lí luận không thôi thì không nên dạy văn". Bức vẽ - gọi theo lối cố ý bôi bác, chứ đích thị là một bức tranh - là phiên bản của một bức tranh cổ kể chuyện bà E-va đang hứng chịu cơn thịnh nộ của Thượng đế vì đã xui chồng ăn trái cấm. Cặp vợ-chồng-thủy-tổ-loài-người vốn vẫn sống nhởn nhơ trong vườn Địa-đàng chẳng hề biết đến áo quần là gì. Thế mà lần ấy đấng Toàn-năng đến, hai vị đâm ra luống cuống chẳng biết giấu tấm thân lõa lồ vào đâu, bèn nép vào sau cây. Ngài hiểu ngay là họ đã phạm điều cấm kị: cắn vào quả "khôn".
      - Tài thật! Lột được cái vẻ thẹn thùng, vừa ăn năn, vừa kinh hãi - Thìn tấm tắc. Chị vốn là tín đồ đạo Cơ-đốc, nhưng không mấy ngoan đạo.
      - Theo tôi thì bức tranh này sai căn bản về quan điểm - Tân quả quyết - Giả dụ buổi sơ khai của loài người đúng như kinh thánh đã nói thì nếu không có tội-nguyên-thủy của bà E-va, nhân loại đến tận bây giờ vẫn còn ở vườn Địa-đàng sống giữa cầm thú và như cầm thú với phương thức hái lượm, hoàn toàn theo bản năng. Kể cũng hay! Phát lộ nhân tính đầu tiên lại là sự xấu hổ. Người ta nói con người có "thất tình" - bảy thứ tình: hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục. Nhưng ai dám bảo cầm thú không có những thứ "tình" ấy? Khác nhau là về trình độ và biểu hiện. Duy điều rõ ràng là cầm thú không biết xấu hổ. Có thoát kiếp thú vật mới khám phá ra rằng ở truồng là khó coi! Kinh thánh vô tình mà thâm đấy chứ! Cái xấu hổ nguyên sơ ấy là một đột phá tình-ý người, một đột phá ý thức, báo hiệu con người bắt đầu thoát vòng mông muội, - đáng để "bị đuổi" khỏi vườn Địa-đàng. Cần xem lại cái tội "tổ tông" ấy của loài người. Bà E-va trong bức tranh này nom tội nghiệp quá! Tôi sẽ vẽ lại. Chị Thìn làm mẫu cho tôi nhé. Khuôn mặt chị rất hợp.
      - Ấy chết! - Thìn giẫy nẩy - Để vẽ và E-va ấy à? Chịu thôi.
      Hoành, bạn của cả hai, nghe thủng chuyện phá lên cười:
      - Hay đấy! E-va và A-đam không một mảnh lá che thân.
      Tân từ tốn nói, trái với thói quen bô bô của anh:
      - Không, tôi chỉ nhờ bộ mặt thôi, còn thì tôi phải vẽ mò chứ.
      - Nhất định không! - Thìn bặm môi - Anh tưởng là chuyện đùa là?
      Đúng là chẳng phải chuyện đùa. Nó đã trở thành nỗi ám ảnh đối với chị. ám ảnh trong giấc ngủ. ám ảnh cả khi đang giảng bài trên lớp. Lòng yêu nghệ thuật và trí tò mò không để chị yên. Và… cô gái nào, dẫu khiêm nhường đến đâu, được người ta đề nghị vẽ mình mà chẳng "hởi dạ" tí tỉnh? Song, chị dù sao cũng mang tính số đông phụ nữ Việt Nam; chị lại là cô giáo. Làm sao thiên hạ có thể tin rằng người đàn bà trần truồng trong tranh mang khuôn mặt chị lại không phải là chị? Tân cam đoan rằng chỉ vẽ thể nghiệm không trưng ra ngoài. Thuyết phục mãi rồi Tân cũng có được "cô người mẫu" bất đắc dĩ. Xưởng vẽ là gian buồng anh đang ở nhờ.  Anh để ra một tháng phác thảo bố cục bức tranh mà anh định đặt tên là Tội lỗi nguyên thủy. Chuẩn bị chu đáo để chỉ phải nhờ "bộ mặt mẫu" một sáng chủ nhật thôi. Tạm hài lòng về khuôn mặt bà E-va, Tân dồn sức "sáng tạo" những phần còn lại của nữ nhân vật.   Bây giờ thì chính người mẫu nóng lòng muốn được thấy bức tranh hoàn thành. Nhưng thời gian cứ trôi. Thìn không còn đọc thấy trên mặt chàng nghệ sĩ vườn của chúng ta những nét phấn khích nữa. Thay vào đó là nét ủ dột bàng bạc, đôi khi ảm đảm. Một lần, không nhịn được chị vờ hỏi:
      - Sao chẳng thấy chú Tân vẽ phong cảnh nữa nhỉ?
      Câu trả lời lạc đề, nhưng đúng như ý Thìn chờ đợi:  
      - Tôi làm hỏng mất bức tranh dự định rồi chị ạ. Trí tưởng tượng của tôi quá tồi. Song ngay cả các họa sĩ bậc thầy thế giới xưa nay vẽ tranh khỏa thân cũng đều phải cần tới người mẫu.
      Có cái gì đó toát ra như cái hơi tuyệt vọng từ giọng nói và trên vẻ mặt của Tân khiến Thìn phải lảng chuyện. Đồng nghiệp và học trò thấy Tân vẫn vậy, chỉ có Thìn là nhìn ra, hoặc đoán ra, cái sắc diện rầu rĩ tiềm ẩn.
      Sáng chủ nhật ấy, Tân lại giở bức vẽ dở dang ra nhìn ngắm. anh đã vẽ lại lần thứ năm. Anh khổ tâm vì thấy như mình phản lại mình. Bà E-va và ông A-đam đứng chịu tội trước Chúa Trời phải là… không với dáng nhẫn nhục, hối hận càng không, mà là hổ thẹn  - hổ thẹn chứ không phải e thẹn! Trong nỗi hổ thẹn ấy có sự ngỡ ngàng trước nhận thức mới mẻ là sự trần truồng và trần trụi về xác và hồn, có sự chịu đựng đớn đau, có sự thôi thúc vươn dậy. Đó là nỗi hổ thẹn của niềm tự hào làm Người - cái biểu hiện vĩ đại nguyên thủy của sự đương đầu mà nhân loại sẽ phải trải. Thần thái ấy của bà E-va, người "đầu tiên" trong tội-lỗi-nguyên-thủy, không chỉ thể hiện trên nét mặt mà phải tỏa ra từ toàn tấm thân trinh trắng hoàn mĩ chính Thượng đế đã tạo tác. Chỉ riêng động tác lấy tay kéo lá che thân cũng là một biểu hiện. Phần thân thể Tân vẽ chắp vào đã làm hỏng bộ mặt mà anh đã phần nào đắc ý. Nhân vật trung tâm này mà vẽ hỏng thì bức tranh có xong cũng chẳng ra cái nghĩa lí gì. Dù anh thể hiện được nét bối rối lẫn trong vẻ thịnh nộ của Chúa thì hình tượng này cũng sẽ lạc lõng, nếu không là vô duyên. Tân ôm đầu, mấy ngón tay bấu vào tóc như muốn rút ra. Bỗng anh giật tờ giấy khỏi giá vẽ quẳng vào góc nhà. Anh xoay người và thấy có ai đứng nơi cửa ra vào. Anh chưa nhận ra ngay là Thìn. Chị đến từ nãy. Lúc này nhìn mắt bạn, chị thoáng lo ngại.
*
      Trong hội đồng nhà trường xôn xao những lời bàn tán và lên án. Gớm thật! Dám vẽ tranh khỏa thân! Đâu như chính cô giáo ta chủ động. Nghe mà hãi, hơn cả trường hợp bà E-va phạm tội. Thời bà E-va, Thượng đế là duy nhất. Thời nay, "Thượng đế" lại nhiều không chỉ vì "nhân dân là chủ". Những ông "đầy tớ dân" còn "thượng đế" hơn cả Thượng đế, thực sự và chánh hiệu.
      Bức tranh vẽ xong, Tân tặng luôn cho Thìn. Và chị đã đưa vào bộ sưu tập tranh nho nhỏ của mình; bộ sưu tập vẫn cất kín trong rương, bởi chồng chị, một cán bộ có xe con đưa đón, không muốn ngó thấy vì chúng "không có tính tư tưởng". Vậy mà tin vẫn lộ ra. Khó hiểu mà cũng dễ hiểu, với cái thời buổi này!
      Bà thư kí công đoàn nhìn Thìn với vẻ mặt cảm thông, rồi nhẹ giọng như chị nói với em, như mẹ bảo con:
      - Em ạ, nữ giới mình vốn hay thương người nên dễ nhẹ dạ, lắm khi lại như bị ma khiến, quỉ xui. Chị cho rằng trong việc này em không có lỗi, à có lỗi tí ti thôi. Chẳng qua là nạn nhân của một sự tán tỉnh dụ dỗ.
      Thìn đã hơi cảm động trước thái độ của một người vốn nổi tiếng là sắc mắc, nghe đến câu cuối, chị thấy nhột: Sao mà đúng giọng ông chồng mình thế!
      - Thưa chị, em tuy non nớt, nhưng những gì đụng đến nhân cách thì em không nhẹ dạ đâu. Chẳng ai dụ dỗ được em cả.
      - Thế chuyện không mặc quần áo để cho chú Tân vẽ là có thật chứ?
      - Vâng.
      - Tại sao em lại làm như vậy?
      Tại sao mình lại làm như vậy nhỉ? Lúc đó, mắt Tân vằn lên và như loáng nước. Mình ngỡ anh ta phát điên. Nét buồn đau sâu sắc trong mắt anh ta làm mủi lòng hơn mọi lời thỉnh cầu. Mà vì cái gì kia chứ? Vì một ý đồ nghệ thuật không tồi. Mình đã giao hẹn chỉ để vẽ nửa người phần trên, rồi có phải là "ma xui, quỉ khiến" không khi mình thấy Tân quẳng bút cúi đầu bất lực sau khi đã thay luôn mấy tờ giấy vẽ?
      - Em chẳng biết nói sao đây. Có cái gì đấy lớn hơn những suy nghĩ tầm thường của em đã xui khiến…
      Bà công đoàn cười nhạt: - Cái lớn hơn sự tầm thường lại xui làm việc tầm thường, dưới mức tầm thường nữa kia.
      - Em không nghĩ vậy.
      - Cô không nghe người ta đồn đại những gì à?
      - Không, em không nghe.
      - Họ nói tôi nghe đầy cả lỗ tai. Bà kéo dài giọng - à, bà E-va ngày xưa gây tội tổ tông, bà E-va thời nay mắc tội hủ hóa. Họ còn mô tả những chuyện khiếp lên được ấy.
      - Lời đồn đại có cái đúng, có cái sai. Nếu tin cả vào lời đồn thì chị cũng như em khó mà ngóc đầu lên được.
      Bà công đoàn bèn từ từ đỏ mặt. Ngày trước, bà đã từng bị người ta đồn rằng: trong một chuyến đi vinh dự đến một nước bạn, bà đã để cho trưởng đoàn mặc đồ ngủ vào phòng riêng lúc đêm khuya. Vụ đồn thổi được dập tắt. Người ta nghiêm chỉnh tuyên bố: "Ai nói lung tung làm mất uy tín đồng chí chủ tịch thành phố, kẻ đó chịu trách nhiệm!". Do vậy, bước đường thăng tiến của bà êm ru. Hiện tại, cái ghế hiệu trưởng một trường phổ thông đang ở trong tầm tay bà.
      Bà công đoàn đã nhếch cười, lại trở lại cái giọng "chua - ngọt" quen thuộc:
      - Hôm trước, anh bí thư nhận định trong cuộc họp bộ tứ rằng lời trình bày của anh Tân rất vô lí. Suốt mấy giờ đằng đẵng trong một phòng vắng với một người phụ nữ chỉ để làm nghệ thuật nghe đã khó lọt tai, huống hồ đây lại bày ra đấy. Chị em mình với nhau, chị thông cảm với em, đàn bà chúng ta thường là bị động.
      - Chẳng phải ai cũng như ai đâu, chị ạ. Tin hay không tin là quyền người ta. Còn hôm ấy, chú Tân thì mải vẽ, em thì mải đọc cuốn "Chiến tranh và hòa bình" của Tôn-xtôi - Thìn nói nhỏ nhẹ, nhưng thâm tâm chị muốn thét to lên: "Đúng! Tôi có xốn xang, tôi có nghĩ vẩn vơ khi nhớ đến ông chồng tôi. "Dạy văn, em phải nhớ rằng văn chỉ để tải tư tưởng chính trị. Văn nghệ ma giáo lắm. Chúng chỉ là những thứ hoa hòe trong nhu cầu văn hóa của nhân dân". Ông ấy chỉ có mỗi say mê là được bắt tay các ông bự và răn dạy, uốn nắn người khác. Tôi không thể không so sánh hai con người, không "giá mà…". May mà tôi vớ được cuốn tiểu thuyết rất hấp dẫn. Đấy! Các người cứ buộc tội tôi đi! Đừng hành hạ chú Tân nữa".
      Đánh lẻ không được, họp hẹp không xong, phải đưa ra "khoáng đại hội nghị công đoàn". Cuộc họp kéo dài tới khuya. Những người "tôi có ý kiến" không nhiều, nhưng được cái là không lúc nào ngớt, khiến chủ tọa phải gạn, phải gợi. Nhiều ý kiến hùng hồn đụng đến cả những chuyện không trực tiếp liên quan đến "tội lỗi" đang được xét. Có đến mấy ý kiến xoáy vào động cơ học tiếng Anh của Tân. Giàu tính thuyết phục hơn cả là ý kiến của hiệu trưởng.
      - Anh Tân không thực thà, thiếu thành khẩn - Thủ trưởng không "đồng chí Tân" như lúc đầu cuộc họp nữa - Động cơ nào? Tư tưởng nào chi phối? Anh nói rằng anh muốn phản bác một quan điểm của một bức tranh về bà E-va. Nhưng, một là bà E-va là ai? (Có tiếng nói leo từ một góc phòng họp: "Bà E-va và ông A-đam là thủy tổ loài người, theo kinh thánh đạo Cơ-đốc"). Hừ! Một là bà E-va như thế là sản phẩm của tôn giáo - thuốc phiện của nhân dân. Chúng ta đã biết tổ loài người là khỉ, chẳng e-va, e-viếc nào sất. Anh Tân và chị Thìn đồng mưu truyền bá tranh phản động. Hai là, anh là giáo viên, chẳng phải họa sĩ, bức tranh kia chẳng can cớ gì đến anh. Cần phản bác thì lí ra phải báo cáo, đã có trên đâu đến phần anh lo. Anh đi bỏ lơ nhiệm vụ chính của mình. Ba là, trong xã hội ta ngay họa sĩ chính tông cũng không được phép vẽ tranh khỏa thân. Đó là khiêu dâm, là tư tưởng đồi bại, trong lúc toàn dân đang dốc sức cho tiền tuyến lớn. Bốn là, ai còn lại gì họa sĩ với người mẫu, lại là người mẫu cởi truồng…
      Hiệu trưởng nói hay đến nỗi có mấy người đã toan vỗ tay. Hoành từ đầu cuộc họp chỉ ngồi hút thuốc tràn với cái vẻ vừa lơ đãng vừa sốt ruột vì phải ngồi họp lâu, đến lúc này mới xin nói:
      - Tôi chơi thân với đồng chí Tân nên tiếc cho bạn - Anh ta khịt mũi hai cái, nhíu trán dừng lại đúng năm giây - Cái máu nghệ sĩ làm hại đồng chí ấy. Nhưng cái chất nghệ sĩ thiếu định hướng, hay có thể nói cái thứ nghệ thuật mượn màu triết lí rởm còn tai hại gấp mười. Tôi có được xem bức tranh. Ông chúa Trời trong tranh, nhìn qua dáng người thì như đang giận dữ, mà nhìn kĩ vẻ mặt, nhất là đôi mắt, thì như đang ngỡ ngàng chiêm ngưỡng. Đồng chí Tân giải thích rằng: Thân thể con người, trước hết là thân thể phụ nữ, là một báu vật của tự nhiên. Nếu quả Thượng đế đã tạo ra theo mẫu của mình thì ban đầu có thể ông ta chưa ngờ đó là một tuyệt tác. Chỉ khi nó được phô bày dưới cái vẻ e ấp, mới bộc lộ những nét tuyệt mĩ. Vừa rồi có người nói đến cái "đinh" của bức tranh làm tôi nhớ tới lần tranh luận trong phòng nghỉ giáo viên. Đồng chí Tân nói: "Cái sự biết xấu hổ không đáng xấu hổ. Từ xưa đến nay, biết bao người làm càn, mọt dân, hại nước, người ta kêu, người ta chửi, mà vẫn cứ lì ra đấy ư? Biết xấu hổ thì dạy cho ra dạy, làm cho ra làm, lãnh đạo cho ra lãnh đạo". Nghe như cuồng chữ, mà chẳng phải. Cuồng nghệ sĩ, có lẽ cũng khó tin…
      Thìn ngồi nghe, chẳng hiểu anh ta định nói đỡ bạn hay tố cáo bạn.
      Tân ngồi dựa lưng vào vách phòng, tay khoanh trước ngực. Anh vừa mệt, vừa buồn nản, vừa bực. Người ta buộc nhiều thứ tội, nhưng chung qui là tư tưởng sa đọa dẫn đến hành vi sa đọa. Khốn khổ cho Thìn! Anh giữ vẻ bình thản, ít ra là bề ngoài. Bỗng đại diện cấp trên đùng đùng đứng lên trỏ tay:
      - Các đồng chí hãy nhìn mặt anh ta mà xem kìa! Tập thể góp ý thấu tình đạt lí đến thế mà anh ta vẫn cứ nhơn nhơn ra, lại còn dám nhe răng ra nữa. Tôi đề nghị chấm dứt cuộc họp tại đây.
      Khốn khổ cho chính anh! Anh hơi hô răng, khi anh mải nghĩ để môi trên hé ra thì nom như nhếch cười. Vị đại diện cấp trên vẫn "quan tâm" đến anh rất sát đã không chịu nổi.
      Chẳng phải đợi lâu, hai tuần sau Tân bị đuổi khỏi ngành giáo dục. Hiếm khi công việc được giải quyết chóng vánh như vậy.
Thìn được phép "xin chuyển ngành", do có bàn tay của ông chồng. Nhưng với một điều kiện: chị phải "thành khẩn nhận tội" với chồng - chỉ với chồng thôi. Từ lâu, đức lang quân đã cảm biết người vợ đang dần thoát ra ngoài vòng chế ngự tinh thần của mình nên muốn nhân dịp "may" này đưa cô nàng vào lại khuôn phép. Thìn từ chối. Anh chồng chìa đơn li dị ra - hẳn là chỉ dọa - chị kí ngay. Thế là chị cũng bị đuổi ra khỏi ngành nốt. Bức tranh cùng bộ sưu tập của chị bị những người có thẩm quyền tịch thu để nghiên cứu như những tang vật, những chứng cớ.
      Tân đến gặp Thìn:
      - Bây giờ chị định sao?
      - Tôi đã định xin đi thanh-niên-xung-phong vào phía trong, nhưng lại nghĩ chẳng nên để người ta đánh giá thấp động cơ của chị em.
      - Chúng ta có sức, chẳng lo chết đói. Nhưng trong tình cảnh chúng ta, dựa vào nhau cũng dễ sống hơn. Tôi muốn chị đi cùng tôi. Chị thấy thế nào?
      - Cảm ơn anh. Tôi chẳng có gì nhiều để lựa chọn. Song, tôi không muốn để mọi người đều có thể nghĩ rằng chúng ta bị như thế này là đáng đời.
      - Chị tin rằng có người quan tâm đến số phận chúng ta ư?
      - Người bình thường dẫu có quan tâm thì cũng chẳng thể làm gì được. Nhưng cũng nên để cho lương tâm họ còn có chỗ để tin.
*
      Năm 1981
      Chiếc tàu tuần tiễu biên phòng đuổi bắt hụt một chiếc thuyền máy vượt biển trái phép. Mấy ngày sau, cũng chiếc tàu ấy vớt được xác một người chết trôi ngoài biển. Khám xét kĩ thì thấy đầu nạn nhân bị đánh mạnh phía trên gáy. Chẳng phải chết đuối. Không có tiền nong, vật dụng gì trong người, ngoài một mẩu giấy mang mấy dòng chữ: "Tôi nhắc lại: cái vốn ngoại ngữ tự học và các tài lẻ của cậu đừng để phí hoài. Nếu cậu đã biết nghĩ ra thì nơi và giờ hẹn như đã nói. Nếu không, lượt sau đàn em của tôi sẽ tìm đến. Trong mọi trường hợp, cậu kín miệng cho! H.", và một bức thư, người gửi là Trần Thị Thìn, trại viên một trại chăn nuôi lợn; người nhận là Tân, công nhân tu sửa hè đường thành phố. Thư khẩn khoản nhờ tìm mọi cách lấy lại bức tranh nào đó "đừng để lạc vào những bàn tay bẩn thỉu".
      Chắp lần các đầu mối, câu chuyện được dựng lại như sau:
      Người bị chết chính là Tân, chàng "họa sĩ vườn" khốn khổ năm nào. Sau khi bị kỉ luật, Thìn và Tân mỗi người một nơi, nhưng họ vẫn giữ được liên lạc với nhau. H. chính là Hoành, đồng nghiệp cũ của cả hai, người đã cậy cục chuyển ngành để rồi nhảy lên phụ trách một xí nghiệp kinh doanh. Bộ sưu tập còm về tranh của Thìn, sau vụ án, nằm mốc meo trong tủ hồ sơ lưu của ban tuyên giáo chờ ngày được thanh lí để ra với các bà "chè chai, lông vịt". Một hôm, Hoành đến gặp chồng cũ của Thìn xui đòi lại, nhân danh đồng sở hữu trước khi li dị. Rồi anh ta gạ mua với cái giá rẻ mạt, nói là để lấp chỗ trống các bức tường phòng khách xí nghiệp mình. Anh ta làm nhà giáo thì tồi, song óc kinh doanh thì lại có tài đánh hơi những điều mà ngay các vị tai to mặt lớn hơn anh ta nhiều cũng không để ý. Thìn biết chuyện, đã tha thiết đề nghị Tân lấy lại bức "Tội lỗi nguyên thủy". Đang nổi tiếng ăn nên làm ra, dưới gờm trên nể, giám đốc Hoành đánh bài chuồn khi sắp bị lộ tẩy "lãi giả, lỗ thật". Y xếp trả cẩn thận thẻ đảng viên và các bằng khen cá nhân của y trong ngăn bàn đặc biệt của thủ trưởng, nhưng lại cuỗm đi mớ ngoại tệ được cấp để "mở rộng kinh doanh", một sự "thất thoát" lớn mà rồi các cấp trên cũ của y lẽ ra phải đau buồn lắm lại có người thở phào, nhẹ người. Hoành thuyết Tân cùng đi, tính rằng có thể tận dụng các khả năng của anh, ít ra là trong buổi đầu bỡ ngỡ ở nước ngoài. Đến đây hơi khó đoán định. Hoặc là Tân "đã biết nghĩ ra: như bức thư kia gợi ý. Nếu vậy thì vì sao anh lại bị giết? Hoặc là Tân đã phát hiện ra Hoành mang bức tranh đi, anh bám theo để giành lại và đã bị hắn cùng đồng bọn đánh gục vứt xuống biển. "Xác chết không biết nói", ở đây câu châm ngôn này đúng cả nghĩa đen.
     
      Vào hơn bốn thập kỉ sau, tại Paris, cuộc bán đấu giá đang hồi bốc. Đó là bức tranh có thể gọi là đương đại. Con số hai triệu năm chục Euro chưa phải là con số cuối cùng. Tên bức tranh không còn là "Tội lỗi nguyên thủy" nữa mà đã được đổi ra một thứ tiếng nước ngoài "Germum". Một từ có thể hiểu là "Mầm", là "Căn nguyên" gì đó.
 
   Hải Phòng , 7-1993
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.03.2009 10:51:35 bởi Khải Nguyên HT >
#1
    Khải Nguyên HT 03.03.2009 10:41:29 (permalink)
    PHẬN
    - Truyện ngắn -
     
              Ta chẳng ngờ lại gặp ông ta tại bến sông này. Con sông trong ánh sáng âm u dường như không có bờ bên kia. Dòng nước đen ngòm nhưng vục tay xuống thì thấy rõ từng ngón. Ta rất khát mà chẳng dám uống. Nghe nói uống nước này sẽ đâm lú. Trước đây, mình đã uống nước này đâu mà có lúc cũng lú. Có lẽ tại mình hay gặp may. Một thằng bạn vốn thân nói: "Mày từ bùn lầy ngoi lên được cái số". Cái giọng có mùi đố kị. Chẳng "cái số" nào tự đến tay cả. Ta từng lận đận chẳng riêng vì quá ỷ vào sự ban phát của Nàng Thơ. Đất đồng chiêm lầy thụt bám chặt thân phận cha mẹ ta, tưởng rồi ra lại níu kéo bước chân ta. Những ai đó từng viết rằng ta có số đỏ vừa bước vào trường tiểu học đã gặp được một thầy giáo mộ văn chương và có lòng ươm tài năng; lại cũng vận đỏ mà được nhà thơ lớn nâng đỡ, dắt dìu. Ờ, hồi đó nói thế chẳng hề chi; ta đọc, ta nghe cảm thấy vừa biết ơn, vừa tự hào. Về sau, ngẫm lại thấy sai quá! Thiên tài cũng phải có điều kiện. Người ta tán tụng thiên tài, chẳng ai tung hô điều kiện, càng không để điều kiện phủ bóng mờ lên thiên tài. Ta chẳng thích câu của tay nhà văn nào đó: "Trong mỗi con người Việt Nam chồm hổm một kẻ nông dân". Người ta thường chập làm một "nông dân" với "nhà quê". Ta làm gì còn cái lốt nhà quê. Những cậu bé sớm rời nông thôn ra tỉnh học rồi bay luôn mấy ai như ta! Anh nông dân nào ban đầu cũng rất khiêm tốn, cái chính là do tự ti. Nhưng khi đã có một "chỗ ngồi" nào đó rồi thì… (Thật ra thì anh thành phần khác cũng rứa, song họ "khéo" hơn). Ta không thế. Ta giữ lâu, giữ mãi cái dáng vẻ khiêm tốn, song không nhà quê. Phong thái đã đành, cả cách nghĩ nữa. Ai bảo tư duy nông dân đều nhà quê? Lối trao chuyện quảng giao, cách lập ngôn tưng tửng của ta chẳng ai học nổi chính là thăng hoa từ sau lũy tre làng qua đầu óc thơ thiên bẩm của ta. Thằng bạn không đủ tầm để hiểu ta. Ta xởi lởi với hắn, sẵn sàng khen; mà hắn thì luôn luôn phục ta. Có lúc tình bạn nhạt nhòa. Có tình bạn thật không? Câu hỏi đến dở, dở hơn hỏi tình yêu có thật không. Tình yêu! Một khái niệm mê hoặc. Ta quen biết rộng, lại nhiều người biết tiếng, nhiều người chìa tay ra, nhiều người chạy đến, vậy mà một mảnh tình vắt vai đúng nghĩa lại khó. “Ái nhi viễn chi” thì có cơ… Biết bao cô nàng đọc thơ ta rồi viết cho ta tưởng chừng sẵn sàng đặt trái tim lên đĩa hiến dâng, nói lóng kiểu hiện đại là "sẵn sàng chết".
              Chẳng thấy phà hay đò gì cả. Không có gió, - chốn này chẳng hề có gió-, mà lạnh heo heo. Lần đầu tiên ta thật sự cảm thấy bơ vơ. Chỉ mới đây quanh ta quá sẵn người. Không kể những người đỡ nâng, người khích lệ ngày bé. Lớn lên, thêm lắm người tâng bốc, chèo kéo. Lúc này đây, chẳng còn mống nào. À, còn ông ta, nhưng…
              Con người chưa già mà chẳng còn trẻ kia, ông ta, im lìm ngồi dựa gốc cây cách mươi bước chân, không ngửng lên, không hé mắt. Chẳng lẽ lão lại chết nữa! Có nên đến đánh thức ông ta dậy để "bầu bạn" tạm thời không? Đây cũng kể như đang là tha hương.
              Ta gặp lão -nói lão gặp ta thì phải hơn- ở nước ngoài, chỗ cô em họ lão. Lão nghe tên ta thì "à" lên: "Chào nhà thơ!" Ta chẳng thích cái giọng thân tình "bằng vai" kia, nhưng được cái âm sắc ngưỡng mộ chuộc lại. Ta biết lão có "thơ thẩn" nhì nhằng. "Em có đọc mấy bài của anh. Anh viết được lắm, có bản sắc". Lão chỉ hơi mủm mỉm cười, nhưng chắc là sướng mê, cái mũi cứ muốn ngọ nguậy. Được nhà thơ tiếng tăm khen thì khỏi phải bàn. Cái cô em họ của ông ta cũng dễ thương, hơi cứng một chút. Định nói chuyện văn chương, rốt cục lại là chuyện hàng họ. Ông ta có vẻ muốn ta và cô em… Chán một nỗi, cô nàng dường như coi ta thuộc "giống trung". Ta cũng rất "hồn nhiên" với cô nàng. Người thông minh, bặt thiệp vẫn có thể hồn nhiên chứ! Thơ ta già đi, ấy không! già dặn lên, mà tình ta còn hồn nhiên lắm lắm. Với cô em, ta hồn nhiên theo nghĩa khác. Chẳng phải ta không biết có những tay nhà văn, nhà thơ xắn tay "nhiệt tình" hướng dẫn, dìu dắt những "em" viết truyện, làm thơ, rồi dìu cả cách "xâm nhập tình cảm" và thực hành luôn. Hắn nọ, nổi danh hơn ta về hậu vận, lại tỏ ra "tự nhiên" một cách trơ tráo, thường khi rủ các em hâm mộ mình đi nhậu bia rồi mượn hơi men đè con người ta ra hôn, và còn nữa... Có lần, được mời về một trường Trung học nói chuyện thơ, tối đến đang ngơi trong phòng khách "buồn tình" ngó ra thấy một chị đang dọn dẹp trong sân trường bèn tới gạ. May mà chị kia không làm toáng lên. Cái nổi tiếng, hắn dùng làm cái khiên cho cái bê tha của hắn. May mà ta chưa đủ lọc lõi và lì lợm như hắn, mà cũng không bao giờ muốn theo chân hắn. Tình cảm trong thơ ta chẳng phải bao gìờ cũng là thứ thiệt, song tình yêu trong đời ta cần thứ thiệt -hẳn đi rồi! Cô bạn của cô em họ lão ta lại khó "nắm bắt" ở dạng khác. Cô du học để làm cái "phó Nghè" tâm lí học mà chẳng tâm lí mấy nỗi hoặc quá tâm lí, ta chẳng biết nữa. Bạn cô chưa kịp giới thiệu cô ta đã nói như reo: "Em đọc thơ anh từ trong nước. Đã được xem anh diễn thuyết. Nhà thơ nhiều người biết, em út được nhờ đây". Ta hơi bị bất ngờ, đang "giao đãi" thì cô ta đã chun môi: "Gớm! Chưa chi đã từ nan rồi". Lại thật! một câu dung tục được nói ra cách nào đó khiến ta như bị lật áo. Ta đành cười vô tư: "Nào đã nhờ gì đâu mà trách nhau từ nan", bụng nghĩ: nhờ gì nhỉ? hẳn là học tiếng. Tưởng vậy, nhưng cô ta đâu cần vậy. Cái mà dân xuất ngoại mình cần đầu tiên khi đặt chân lên đất khách là "mối". Mặt này thì bạn cô ta là chúa rồi. Chẳng nhẽ mình là con bài dự trữ? Có lần cô ta bảo: "Anh làm thơ về bọn con gái li hương đi!" Đã có lúc đêm khuya ta mơ hồ cảm nhận Nàng Thơ chấp chới trong hình bóng cô ta, rồi lại bạn cô ta… Làm thơ, tứ thơ nào chợt hiện là ta chộp (cái từ nghe chẳng thơ tí nào mà gọi đúng tên chuyện "bếp núc" của ta). Với các cô nàng thì…Cho tới lúc ta gói ghém mọi thứ để về nước, hành trang tinh thần lẫn vật chất về phái đẹp xuất ngoại vẫn chỉ là những tứ thơ "ương". Chẳng có nàng nào cặp với ta về. Chẳng có nàng họ "lưu" nào quyến ta ở lại. Thắng bạn chí cốt ở bên nhà viết thư sang: "về dễ, đi khó". Ta hiểu ý hắn (thời đó là vậy, chẳng như sau này), nhưng ta phải về thôi. Về với hào quang của ta, về làm sống dậy "vang bóng" cho to hơn, cho cao hơn. Nơi xứ người, kiếm đâu ra công chúng ngưỡng mộ, dù chỉ ở tầm lão kia, trong cộng đồng dân lưu vong, nói chi trong dân bản xứ.
     
              * * *
              Chẳng ai xui, chẳng ai dẫn mà tôi lạc bước đến bến này. Ngẩn ngơ trước cảnh sông nước đượm màu thê lương, tôi mệt mỏi ngồi xuống. Trong phút tọa thiền, tôi bỗng mơ hồ nghe có tiếng mách bảo hãy quay gót. Toan đứng lên thì hắn đến; không mở mắt mình cũng biết hắn đến. Chẳng phải do mình có "công năng đặc dị" gì đâu mà có lẽ do cái mùi "nhà thơ đặc hiệu". Dẫu sao thì ấn tượng buổi đầu về hắn vẫn khó phai. Không vì hắn đã có mấy lời khen mình dù mới sơ ngộ. Hắn khen, giọng không hay, hơi lè phè, nhưng lời lẽ vừa hung dị, vừa có cánh làm cho khuôn mặt vuông, hơi thô tháp, trở nên nhẹ nhõm, và cái thân hình thấp bè dường như dọn bớt bề ngang tăng thêm bề cao. Cái đám đàn bà con gái "siêu thị" đến là quá quắt. Bữa ấy, mấy cô vừa lưu học sinh, vừa dân "lao động xuất khẩu" đang ngồi tán chuyện, có mặt nhà thơ, cô phó Nghè tương lai chợt nẩy ra sáng kiến: Đố thi sĩ làm xong một bài thơ tình trong hai phút. Chỉ hơn một phút, nhà thơ đã cho ra sáu câu lục bát hoàn chỉnh một tứ thơ. Có tiếng la lên: "Giỏi cực! Người đố phải thưởng đi!". "Thường gì nào?". "Nụ hôn" -nhiều tiếng nói ào lên. "Không được! -Tiếng cô em họ tôi át đi- Phải để người thắng cuộc hôn người đố". Tiếng vỗ tay lốp đốp. Một cô đứng lên hoa tay: "Tôi dám chắc thi sĩ lừng danh của chúng ta tuy viết những câu thơ tình nóng sốt nhưng chưa hề biết hôn là thế nào đâu". "Xạo!". "Cược nào! Một chầu đặc sản ở chung cư số Năm nhá. Có nhà thơ đang ngồi đây, anh hãy nói thật đi!"  Họ dồn một hồi, nhà thơ lúng túng cười xòa: "Gì mà chẳng biết". "Thế thì anh thực hành luôn xem nào! Lấy thưởng. Mà thôi! Với đứa nào ở đây cũng được". Anh ta mặt đỏ rần. Cô đặt cược ra bộ giải cứu: "Chúng mày như bà la-sát cả, anh ấy thèm đụng vào à. Anh cứ thử hôn cô gái trên tờ lịch kia kìa! Cho chúng nó trắng mắt ra". Nhà thơ cười trừ cố lảng. Cả bọn nhao nhao: "Đúng là không biết thật", "Quê quá!" cô "giải cứu" lại tức mình hộ, đẩy anh ta đến trước cô gái trên tường: "Anh hãy tỏ ra cao thủ đi! Đừng để em bị thua cược". Nhà thơ chẳng làm thế nào được, kiễng chân chụm môn áp vào đôi môi đỏ chót trên tờ lịch. Các nữ quái cười phá lên: "Cộc mũi nhau rồi, ông anh ạ. Lại chẳng kêu gì cả. Hôn môi là khó ghê! Phải học thôi!" Tôi đâm ghét mấy người kia, bực luôn với cô em họ. Bọn này không biết quí người chân chất. Văn nghệ sĩ là chúa phóng túng, được người hiếm hoi vậy lại coi rẻ. Một người nổi danh mà vẫn giữ được nét đôn phác, mà vẫn xởi lởi, mà vẫn thấy được cái hay của người khác, … Cô em họ bảo tôi: "Em nói thật nhé: Nghe anh ta, anh đừng vội sướng". Còn cô bạn của cô thì: "Cái tay ấy chẳng biết xuất khẩu thành thơ có ra gì không chứ xuất khẩu thành lời khen thì chúa. Với bất cứ ai, dù thân dù sơ". Các cô cứ bi quan hóa tình người! Anh ta được cuộc đời ưu đãi nên lòng không chật. Để cho thơ bay cao và tỏa rộng chứ! Nhà thơ đích thực là phải vậy. Có đâu như ai nổi máu thiên tài, "khiêm tốn" đấy mà "mắt xanh, mắt trắng" đấy.
              Gặp nhau lần đầu, tôi đang ăn cơm cùng cô em họ, mời, anh ta chẳng chút màu mè: "Em vừa mới ăn xong, nhưng xin ngồi tiếp anh cho vui". Anh ta ung dung đưa tay cầm cái nem rán lên cắn, nhau rau ráu: "Thứ này dùng đũa thì giảm ngon". Khẩu khí nhà thơ đích thực quả có khác. Nữa, đúng là một con người giản dị, xuề xòa một cách vĩ đại hoặc vĩ đại một cách xuề xòa. Cô em họ của mình từng ốm người vì thức chép thơ và mơ được diện kiến nhà thơ, nay đã hơi quá lứa còn đòi gì nữa cơ chứ. Cô mải mê chạy hàng xách hơn là lo học. Cô bạn "sắp sửa phó Nghè" của cô, thường đi đi về về cái thành phố cách hàng nghìn ki-lô-mét, một tối tôi gặp đang lúc nhón từng túm đồng hồ đeo tay điện tử loại rẻ tiền làm giả một nước kề cận cho vào một cái túi du lịch ngoại cỡ chuẩn bị ra ga nhảy tàu khuya, -"bất cứ lúc nào" vì đã "nắm" các tay lái tàu-, miệng ơ hờ: "Cái lí tưởng biết nó hình thù ra sao mà xây dựng với bảo vệ! Bây giờ đồng đô-la có giá vượt xa đồng tiền tại đây thì rõ ràng". Ờ, nhà thơ ta không buôn bán gì thì phải. Nghỉ thì ngủ vùi, chín mười giờ sáng mới dậy; hoặc đến la cà, tán gẫu nơi các khu lưu trú có bạn bè. Người mình có dịp ra nước ngoài mà không xoay xở kiếm chác thì thật là một "sự cố"! Cô em họ tôi khịt mũi: "Chưa biết thế nào. Cái vẻ ngoài ươn lười, xuê xoa có khi náu những toan tính khó lường". Lại thói đời!
     
              *  *  *
              Ta biết chắc lão rất phục ta, -điều này chẳng làm vinh dự thêm cho ta mấy nỗi. Về nước, ta đã quên ông ta như đã quên bao nhiêu kẻ từng hâm mộ ta, loại cỏ rả, xin lỗi, ta nói lại, loại "triển vọng mơ hồ". Gặp lại lão là một tội nợ. Lần nọ, ta đang được mấy người vai vế tiếp trang trọng, ta chuẩn bị ra hội trường đăng đàn nói chuyện văn thơ, lão đến chào ta một cách quá gần gụi. Ta mà ngang tầm lão ư, trong con mắt những người đang đàm đạo cùng ta! Ở nước ngoài ta đãi lão với tư cách người đồng bang trong cái xô bồ nơi xứ người. Thế mà lão quên ta là ai, lão là ai. Lão chẳng hiểu gì cả. Có một thứ đẳng cấp mà những người như lão "mãi mãi là một anh nhà quê" không thể nào "giác ngộ" được. Ta chưa hề nhà quê! Thời bé tí chẳng cần nói. Vào độ tuổi thiên thần này, với tạng loại người hơi bị hiếm, không khí nông thôn chỉ có nâng tâm hồn thanh sạch bay bổng mà thôi. Cái hơi nhà quê chẳng thể làm ô nhiễm. Lớn dần lên ta đi nhiều, khí vị đường trường vương hồn thơ làm cho cốt cách thơ trở nên hào sảng. Ta cố tránh nhiễm phong thái "thượng lưu hiện đại". Ta ung dung, đĩnh đạc mà vẫn mang vẻ khiêm nhường khi lên bục diễn giảng, khi thượng sân khấu, khi tiếp xúc công chúng độc giả, nhất là với các giới nữ sinh, nữ nghệ sĩ, kể cả nữ doanh nhân. Ta chẳng cần xuất khẩu thành thơ, một kiểu dùng thơ dọn đường hoặc một cách giải tỏa tâm lí, ta xuất khẩu thành những câu dí dỏm mà uyên bác, những ý ngộ, thậm chí tếu táo, được nâng lên tầm triết lí hàm ý phán truyền, cho khoác vỏ ngôn từ cách riêng. Người đời khó tính, song chẳng khó dắt mũi lắm đâu. Chỉ một chút khác lề thói đã có thể nên chuyện, tuy thực ra vẫn là lề thói đấy thôi. Ăn may, có thể làm một "hiện tượng". Nói thơ ta hết thời đã đành là nhãn quan kém, mà nói ta dùng lợi khẩu ("lợi bút" chứ!) để chinh phục cũng là ý thức non. Chuyện chinh phục lúc này ta chỉ quan tâm "một" mà thôi. Song, đây là chuyện khó nói, và khó… rành rẽ. Bởi "tình" hay bởi "danh" đây? Hay bởi "tài"? Trong làng văn nghệ, "thu nhập" của ta giờ chỉ kém các "sao hát" thôi.
              Có những sự ngưỡng mộ làm phiền người ta. Khốn khổ! Khen cũng không biết đường khen. Như hạng ông ta kia. Chỉ biết tán tụng mấy bài thơ thuộc thời trẻ dại của ta, cái thời ta lên hương song thơ ta chưa vào "trường cách tân", nó vương hơi bản năng mà không là vô thức, nó mang mùi tự phát chứ không phải thăng hoa. Tầm thẩm thơ của họ chỉ đến vậy. Thơ ta, như bất cứ thơ thứ thiệt nào, ngày càng kén độc giả. Thế giới này, đời sống càng bộn bề, cuộc sống càng bon chen, càng năng viện đến tâm linh. Mà trong chuyện tâm linh, ai cũng có cái thớ của mình. E rằng rồi ra mỗi thi sĩ chỉ có mỗi độc giả là chính hắn. Ngày nay nhan nhản câu-lạc-bộ thơ, định kì người ta đến đọc thơ cho nhau nghe, vỗ tay rôm rả; tan cuộc, hầu như mỗi người chẳng còn nhớ gì ngoài bài thơ mình đọc. Dù sao, nhen và giữ lửa được cho không khí thơ cũng là tốt; nhu cầu làm thơ chưa bao giờ cao như lúc này! Thơ ta có quyền đòi có công chúng! Nhưng là công chúng tự đến như trước kia. Không phải vì tiếng tăm cũ! Không phải vì xảo thuật văn chương mới!
              Thơ Việt đã được mời đi đọc ở Mĩ, ở Tây Âu. Một công chứng có chọn lựa. Họ đến, ít nhiều có sự đẩy đưa chính trị, văn hóa, có cả sự tò mò. Thưởng thức thơ qua chuyển ngữ thì cũng tựa như hôn qua lần vải. Được cái tiếng Việt có cung bậc thanh âm (Nghe nói ngày trước có một nhạc sĩ Pháp qua Việt Nam gặp lúc hai người đàn bà đang chửi nhau; anh ta chẳng hiểu gì nhưng nghe có vần có điệu bèn kí âm và được một khúc nhạc độc đáo). Người nước ngoài nghe người Việt đọc thơ, ngâm thơ ít nhất cũng thích vì lạ. Nhưng chẳng nhẽ nhà thơ sáng giá lại chỉ trông mong vào loại công chứng xổi này ư!
     
              * * *
              Sau cái lần nhà-thơ-quen-biết của tôi bị các nữ quái chọc-quê-hội-đồng, tôi cứ nghĩ anh ta "đụt gái" (chứ không phải dại gái). Song tôi nhầm to. Nhà thơ dày dạn của chúng ta đâu có dễ để cho bị vào xiếc. Về sau, trong các trường hợp tương tự, anh ta dễ dàng giành thế chủ động bằng các câu phủ đầu hoặc phản công sắc cạnh, hóm hỉnh. Tôi mơ hồ cảm thấy một "chất người" khác đằng sau cái vẻ xuê xoa gần như dân dã.
              Tôi về nước sau nhà thơ. Một hôm ghé vào một quán bia vỉa hè, tôi nghe mấy tay có vẻ là dân buôn nước bọt hoặc dân văn nghệ đang kháo nhau về nhà thơ ái mộ của tôi cùng cuốn tản văn "kì tài" đang làm chuếnh choáng sân chơi văn chương. Tôi hối hả tìm đọc. Có gì ghê gớm đâu! Khen chê cũng chuyện thường tình. Đọc thú ra phết, nhất là sau bữa cơm. Nhưng rồi một tay nhà văn chính hiệu bảo tôi: "Ông thật thà quá! Trong bài viết, hắn kể như không những mẩu hay hay, những câu lạ lạ, có khi dí dỏm, lúc với ông này, lúc về bà kia, toàn những người tiếng tăm, chen vào giữa những câu bình luận cũng vui vui, hóm hóm. Toàn là những chuyện rất thân tình có thật và những cảm nghĩ bạn bè thôi mà! Người đọc biết đâu những gai nhọn cài tinh vi. Các vị đàn anh từng o bế hắn bị hắn chích đau mà khó nói. Bây giờ hắn đã bằng vai hoặc hơn vai mà vẫn "bác bác, em em" rất chi là nhũn nhặn. Trong những mẩu chuyện tưởng chừng chỉ để điểm xuyết trang văn, có những ý, những từ ngữ, thậm chí một chữ, được thêm hoặc bớt một cách dễ thương, đương sự mà moi ra thì chẳng là nhỏ nhen lắm ư! Chỉ chừng nấy thôi, thằng cha đã đáng là sư tổ của những tay phất văn chương rồi! Trong mắt một số độc giả, trước hết là lớp trẻ, hắn là bậc anh hùng đã dám phạm húy, đã dám sờ râu mấy vị từ lâu đã an tọa ngôi cao trong đình văn. Thơ ông giờ mà nhờ được hắn ban cho mấy đường bình, tưng tửng theo lối của hắn càng tốt nhưng hắn phải có thiện ý, nếu không thì ông ăn cám đấy. Thơ bây giờ như nấm sau mưa. Người ta ngại đọc. Vậy nên mới cần những bài "lăng xê". Không dễ mà nhờ được hắn đâu". Tôi nghe không thủng. Chẳng có nhẽ! Tôi cám cảnh cho nhà thơ và canh cánh hận thay cho anh ta. Tôi chẳng có ý định nhờ nhà thơ có tiếng "thổi" thơ mình, song vẫn mong một lần được gặp lại.
              Tôi được gặp lại thật. Tôi thì vồ vập, còn anh ta thì… cái nhìn hơi "trống". Chẳng phải vì cô em họ tôi đã lấy chồng và có ý định làm Việt kiều. Dẫu vậy, tôi vẫn giữ những ấn tượng tốt. Mình không chú ý câu anh ta "giới thiệu" mình ngày nọ với mấy vị quan chức đang ngồi với anh ta khi mình vừa quay đi: "Người tôi gặp ở…". Người tôi gặp chứ chẳng phải quen, càng không phải là thân. Bẵng đi một thời gian. Một tối họp long trọng cỡ quốc gia, nhà thơ là khách mời. Tôi may mà có mặt theo suất dự thính. Nhà thơ được chào đón, gần như là tung hô. Tôi cố len đến gần, lòng hơn hớn một niềm vui "ăn theo". Trước mặt là một dáng quen. Người đó nghiêng nhìn: đúng là… ánh mắt mình mừng rỡ nhưng miệng mình chưa kịp hé thì nhà thơ mến mộ đã quay ngoắt đi, mình chỉ kịp nhận ra cái ánh mắt bạc ác lóe lên trong chừng một phần trăm giây. Mình ôm ngực gục xuống như bị một trùy vào mỏ ác, đúng điệu nhồi máu cơ tim…
              Tôi lang thang bất định hầu lạc phương hướng. Còn anh ta sao lại đến đây? Nhà thơ đi rung tiếng chuông thơ nơi bến bờ mới hay đi tìm công chúng cho thơ mình nơi thế giới khác? Hoặc giả vương quốc thơ quá chật rồi, vương quốc "bình" thì xác, hơn người là biết thích nghi mà hơn người cũng là biết ra đi!
     
              * * *
              Nhà thơ bất ưng đứng trong hiên một thứ nhà tựa điếm chờ xe. Cảnh huống này đáng có thơ lắm. Khốn một nỗi, tứ thơ chẳng chịu ló ra. Nàng Thơ của mình thành mệnh phụ mất rồi. Sang được bên kia hẳn sẽ đổi đời thơ. Cao cao một chút phía xa, phía đoán chừng là bờ bên đó, ưng ửng một màu sáng lúc rõ, lúc mờ, như thôi thúc, như ơ hờ. Một con thuyền đột ngột hiện ra không tiếng động trên mặt sông sương mù giăng lãng đãng, thấp thoáng vài bóng người lòa nhòa. Ánh sáng mù mờ vẫn cho phép nhận ra thuyền có dạng như loại kết bằng bẹ chuối người ta vẫn thả trôi sông dịp lễ "cầu yên" hàng năm. Một giọng nói dấp dính, chẳng ra nam, chẳng ra nữ, cất lên: "Còn trùng trình gì nữa hỡi thi gia! Cái chân thi bá chẳng dành riêng ai mà cũng chẳng dễ giành giật. Ở cõi kia, mọi ‘thông lệ’ xứ ngươi đều phá cách hết. Cái mong đợi nhiều nhất là cái ít rõ rành nhất". Chiếc thuyền vẫn lửng lơ xa bờ. Chàng nhà thơ lần chần cũng phải. Lội xuống sông bơi ra… "Ngươi chờ thuyền ghé ư? Nước sông này có thể tẩy chất trần lụy và thói tự huyễn hoặc đấy!" Nhà thơ do dự giây lát rồi ra đứng bên mép sông cúi xuống khum hai bàn tay múc nước đưa lên miệng. Cái người vốn im lìm dựa gốc cây như ngủ hoặc như đã chết rồi bỗng bật dậy chạy tới đánh mạnh vào cánh tay anh ta. Nước tung tóe vãi hết. Nhà thơ quay ngoắt lại nhảy xổ vào người kia. Anh ta vốn nổi tiếng không hay dùng vũ lực. Cơn hung dữ bộc phát, hay trong mỗi con người vẫn náu một con quỉ, vấn đề là có dịp cho nó sổ lồng hay không mà thôi? Bàn tay nhà thơ giương ra hai gọng kìm ngón tay mỗi bên khuýp lại thành một thứ thòng lọng chụp vào cổ người kia bóp cật lực. Bàn tay nhà thơ không hề chạm tới da cổ đối tượng bị tấn công vậy mà anh ta vẫn cảm nhận được tay mình đang xiết vào một vật có sức cưỡng lại, và người kia thì cảm thấy cổ y đang bị thít chặt. Y vùng vẫy, lưỡi thè ra, sắp ngạt đến nơi. Y bèn liều huých mạnh đầu gối vào hạ bộ đối phương. Anh ta buông cổ địch-thủ-bất-đắc-dĩ, gập người, chới với rồi rơi tòm xuống sông, chìm nghỉm. Người kia kinh hãi, đứng chết trân mấy giây. Y sực tỉnh, đang loay hoay chưa biết cứu cách nào thì nhà thơ đã nổi lên. Anh ta chân đạp, tay đập loạn xạ. Nước sông dường không chảy, anh ta cứ quẫy tại chỗ. Chỉ chốc lát nhà thơ đuối sức, buông xuôi cả tay lẫn chân, để mặc cả người chìm đứng trong nước thò cái đầu lên, nước mấp mé miệng, hệt một thứ phù kế mà người ta vẫn dùng để đo nồng độ một loại dung dịch nào đó. Người kia lúng túng. Quái! đầu hắn ta như cái phao. Cái gì rỗng mới bềnh lên chứ! Tiếng giữa sông ồn lên nhưng âm âm như tiếng vọng: "Vỡ bài bản rồi. Thôi! Cứ để sự vật xoay vần theo qui luật của sự ngẫu nhiên". Người kia vẫn lo cứu nạn. Y nghĩ phải tìm cái gậy dài để khều. Lội xuống vớt thì mạo hiểm. Nước sông này chưa biết thế nào. Y lại chẳng thạo bơi. Nhìn quanh, y thấy trong quán treo rất nhiều sách, lủng lẳng chỗ này chỗ nọ toàn sách văn chương. Một cuốn dày cộp đập vào mắt y. Một tuyển tập mang tên nhà thơ đang neo chơi vơi trong nước sông kia. Nom như cái phao gối. Y cầm lên xem, lôi theo sợi dây nhợ lằng nhằng. Y cảm thấy đang cầm một vật xốp, nhẹ bỗng. Hà! đúng là phao. Y thận trọng mang cả phao cả dây ra đứng sát bên sông. Tay trái y nắm chắc đầu dây. Này! Tóm lấy cái này! Tay phải y tung cái phao cho nhà thơ. Lập tức, bao nhiêu tờ giấy vụn ra lả tả như tàn tro hàng mã bay chấp chới trên không xoay tròn rồi rơi xuống. Trong chốc lát chẳng thể nom thấy đầu nhà thơ. Đám tàn giấy dần hạ xuống kết thành cái bè nhỏ, một đầu chạm bờ, đầu kia nhô lên tựa cái ngai. Nhà thơ ngọ nguậy song cứ lùng nhùng trong nước. Người kia bước lên bè. Chiếc bè chẳng hề lúng liếng. Y đưa tay tóm lấy cổ nhà thơ. Anh ta trợn to mắt, cố giãy giụa, nhưng tay chân hầu như bị tê liệt. Người kia dồn sức nhấc nhà thơ ra khỏi nước đặt nằm trên bè rồi ngồi thỉu đi. Khi y định thần lại thì nhà thơ đã bò đến ngồi lên ngai, ẻo lả dựa vào lưng ngai, nhưng đầu ngửng cao, miệng há. Người kia nhỏm dậy, đến gần nhà thơ định dìu anh ta rời bè. Nhà thơ ho khan một phát, người kia tự nhiên bị bắn bật lại ngã ngồi lên bờ. Cái bè-ngai như bị phản lực đẩy ra, xoay vòng và từ từ xa dần.
              Người kia giơ hai tay ra trước như thể muốn níu kéo, như thế muốn bươn theo. "Hãy đọc trên quán đợi kia!", một tiếng trầm đục phán truyền. Y quay đầu ngước nhìn. Một tấm biển ngang mà trước đó y chưa thấy đập vào mắt với dòng chữ viết phóng bút, y chỉ đọc được mỗi chữ "Phận". Y chớp mắt một cái, bỗng thấy trơ lại một mình, chung quanh chẳng có gì hết, trên sông không thuyền, trên bờ không quán.
     
    Hải Phòng, 1999 - 2003
     
     
     
     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 03.03.2009 10:47:13 bởi Khải Nguyên HT >
    #2
      Khải Nguyên HT 10.03.2009 16:49:03 (permalink)
      NHỮNG NGƯỜI LÀM CHỨNG              
                                              -Tặng những trí thức lương thiện-


      -truyện ngắn- 
            

             Họ ngồi trong phòng trực phân xưởng. Bốn người ngồi rải quanh một chiếc bàn lớn: trưởng ban thanh tra Dinh, giám đốc xí nghiệp Văn, quản đốc Kim, đội trưởng Mậu và nữ thư kí công đoàn phân xưởng Tiến. Gần như ngồi nép trong góc phòng trên một chiếc ghế đẩu là nữ kĩ sư Lan. Họ sắp họp xét vụ kĩ sư Đình chống đối và xúc phạm cán bộ cấp trên, theo yêu cầu của nguyên cáo Quang, trưởng phòng chuyên môn của cục.
              Chuyện vốn chẳng là cái gì cả, như người ta có thể nói, chỉ vì cái tay Đình không biết điều nên mới ra chuyện. Số là lần ấy Quang từ trên cục về thẩm tra và góp ý kiến chỉ đạo việc mở rộng một phân xưởng quan trọng. Việc này yêu cầu thì khẩn trương mà tiến độ thi công lề dề vì nhiều lí do khách quan theo như báo cáo chính thức đã nhấn mạnh. Bước vào giai đoạn kết thúc thì có chuyện khó xử: một tấm bê tông ở vị trí xung yếu bị sai qui cách và kém chất lượng. Chính kĩ sư Đình, người chịu trách nhiệm thi công, đã phát hiện ra và đề nghị huỷ để làm lại. Đây là một công trình nằm trong đồ án thực nghiệm của Bộ. Giám đốc Văn bèn báo cáo lên cục. Cục phái trưởng phòng Quang về xem xét. Quang đến tận nơi đi một vòng ngắm nghía rồi về phòng giám đốc nói với Văn: "Cứ cho làm tiếp đi. Làm lại vừa chậm kế hoạch, vừa tốn công, tốn của Nhà nước". Để lời nói mình thêm sức nặng, anh ta nói cho nghe bằng một giọng rất đỗi tự hào, một chuyện tương tự đã xảy ra trước đây hồi anh ta còn công tác ở thành phố này. Hồi đó, anh ta tham gia xây dựng một trại chăn nuôi qui mô công nghiệp do một nước bạn giúp vốn và kĩ thuật. Một lần, chuyên gia bạn nhận thấy một tấm bê-tông đúc hỏng, yêu cầu đúc lại. Thời kì này, việc làm ăn của chúng ta còn khá suôn sẻ, kế hoạch ít phải điều chỉnh và chưa lắm trường hợp "nghiệm thu ma". Cho nên sự cố nói trên khá là phiền phức. Chỉ huy trưởng công trình bèn xin ý kiến người phụ trách cao nhất của thành phố. Ông cấp trên này ngẫm nghĩ mấy giây rồi khoát tay: "Đưa các đồng chí chuyên gia bạn phiếu nghỉ mát hai tuần ở Tam Đảo, kể từ ngày mai. Chừng ấy ngày đủ cho các cậu chứ gì?". Quang trầm trồ kết thúc câu chuyện: "Thật là một người sắc sảo, kiên quyết mà lại nhạy bén, linh hoạt. Đấy! Mấy chục năm rồi mà công trình kia suy suyển chẳng bao nhiêu. Phải mạnh tay mới được". Với những chứng lí làm vậy ai mà chẳng phải bùi tai! Thế mà cái tay kĩ sư Đình lại không chịu nghe thủng cho. Anh ta dám trực tiếp gặp Quang khi trưởng phòng đang ngồi ngơi tại chính phòng trực phân xưởng này. Quang đã lạnh mặt không muốn tiếp. Đình không chịu rút lui. Vậy là một cuộc to tiếng nổ ra, dữ dội đến nỗi ngay hôm ấy câu chuyện đã lan ra toàn xí nghiệp, và hình như đã bay sang cả các xí nghiệp bạn và lên tận cục. Tất nhiên, câu chuyện càng đi xa thì càng có thêm mắm muối, nói theo ngôn ngữ nhà bếp, hay là được hư cấu thêm, nói theo kiểu sính văn nghệ.
             Bây giờ thì mấy người đang ngồi đó chờ Quang tới để bắt đầu. Thành phần dự họp khá hạn chế, có chọn lọc, chủ yếu là những người làm chứng. Đình không được mời. Để một cán bộ thường dàn mặt đối chất với một cán bộ lãnh đạo thì còn ra cái thể thống gì nữa. Ở đâu không biết, chứ ở ta thì tuyệt đối không có cái chuyện kỉ cương điên đảo như vậy. Cuộc họp do trưởng ban thanh tra Dinh chủ trì cốt để tìm hiểu, chuẩn bị cho những nhận định, chủ trương của các bậc lãnh đạo. Còn Đình thì hẳn là sẽ phải trải qua các bước: tự kiểm điểm, tập thể góp ý, vân vân..., rồi nhẹ ra, nhẹ ra thì cũng bị phê bình công khai trong toàn xí nghiệp. Đó là dự kiến khoan dung nhất của trưởng phòng Quang. Quang đãđề nghị trưởng ban thanh tra chủ trì với chủ đích riêng, sau khi đã cân nhắc mọi nhẽ.
             Gian phòng khá rộng được ngăn ra một khoảng nhỏ bằng một bức vách thấp để làm chỗ hậu cần. Nói hậu cần cho oai, chứ thực ra đó là nơi bà lao công Minh, với cái bếp điện của bà, lo nước nôi cho các cuộc họp. Bà Minh nguyên là công nhân quốc phòng, đã từng là phó thư kí công đoàn của một nhà máy lớn. Sau vì mắt kém dần, bà xin chuyển ngành. Người ta ngần ngại vì khó bố trí công tác cho xứng với công lao và cương vị cũ của bà. Nhưng bà tự nguyện xin làm lao công xí nghiệp này cho gần đứa con ruột.
             Trong khi chờ đợi, mọi người nói chuyện tào lao. Có hai người hầu như không tham gia: Mậu và Lan. Cô kĩ sư Lan mới ra trường, chưa lập gia đình, chật vật lắm mới xin được về đây. Tuy phải tạm làm một nhân viên "đa năng", nhưng được ở lại thành phố quê hương. Cô là người kín đáo, hơi rụt rè. Mậu trạc ngoài bốn mươi, trước đã là thợ, đi bộ đội sáu năm, được kết nạp đảng ngay trên chiến hào; sau khi xuất ngũ, lại trở về xí nghiệp cũ. Mậu ít sắc sảo, nhưng cần cù, chín chắn, chịu khó học hỏi. Hiện tại, khó mà nói trong con người Mậu chất thợ nhiều hơn hay chất lính nhiều hơn. Dẫu sao, hai chất đó đã không để anh yên, hiểu theo một nghĩa nào đó. Đến dự họp, Mậu vẫn chưa xác định được cho mình ý kiến dứt khoát về sự việc đã xảy ra. Anh thừa nhận Đình có lí. Nhưng "có lí" chưa hẳn đã là "phải". ấy, sự đời nói vậy! Một quyết định ảnh hưởng đến kế hoạch, đến thành tích thi đua, đụng chạm đến quyền lợi cán bộ, công nhân viên là khá gay go. Mà ít ai dám chắc công trình sẽ hỏng ngay? Xem ra ít người dám ủng hộ Đình. Trong cuộc họp này, liệu những ai có thể bênh vực anh ta? Giám đốc Văn là người cơ trí, cẩn thận, hơi cứng nhắc, biết giữ dây cương cho cỗ xe sự nghiệp của mình đi đúng con đường ít gồ ghề nhất. Trưởng ban thanh tra Dinh từ cán bộ kiểm tra được bầu lên do sự giới thiệu của cấp uỷ. Phương châm của Dinh là xí nghiệp càng ít tai tiếng càng tốt, sao cho ai cũng có phần thưởng là vui vẻ cả. Dinh vẫn tỏ ra thân ái với Đình. Còn quản đốc Kim thì... Mậu nhớ lại lần cách đây mấy năm chiếc cần cẩu do đội anh phụ trách bị cháy mô-tơ. Anh xem xét kĩ thấy vì điện áp tăng đột ngột. Nhưng Quang bấy giờ là phó giám đốc kĩ thuật của xí nghiệp thì cứ một mực cho là vận hành quá tải. Mậu không chịu, chỉ cho Quang thấy tải còn dưới mức tiêu chuẩn, và nêu ra những chứng lí kĩ thuật bảo vệ ý kiến mình. Quang nghiêm mặt, cằm bạch ra:
             - Anh hiểu kĩ thuật không đến nơi đến chốn, lại quan niệm máy móc, hỏng việc là phải. Bên nước bạn là xứ lạnh; bên ta khí hậu nóng ẩm, cần cẩu lại phơi suốt ngày ngoài nắng dễ đến bốn mươi độ thế kia, vậy mà cứ làm hùng hục, gì mà chả cháy!
             Vừa lúc Kim đi qua. Kim là một kĩ sư vào loại giỏi. Mậu vội kéo Kim đến bên máy chỉ cho xem và trình bày suy nghĩ của mình. Mậu xưa nay vẫn phục Kim về chuyên môn. Kim không biết Mậu và Quang vừa tranh luận với nhau, gật gật đầu:
             -Ừ, điện áp hôm nay...
             Chợt anh ta liếc thấy Quang sạm mặt lại, vội ngừng câu nói giữa chừng ngửng lên hỏi Quang:
             - Anh đã xem chưa?
             Quang lạnh lùng.
             - Vận hành quá tải, còn phải xem với xét gì nữa.
             Kim cũng lại gật gật đầu:
             - Có thể, có thể... ừ, mà có khi quá tải thật.
             Anh ta quay lại, thấy Đình đã đến từ lúc nào, bèn nói thêm:
             - Hôm nay điện áp có lúc cao thật, nhưng nếu biết vận hành thì có thể không cháy.
             Mậu vốn tự tin, nhưng lúc này đâm ra hoài nghi cả chính mình. Còn Quang thì vội nói nhanh, làm ra vẻ không chú ý đến sự có mặt của Đình:
             - Các anh liệu làm tờ trình chi tiết lên ban giám đốc để xử lí.
             Nói rồi, anh ta đi ngay. Đình chợt lên tiếng:
              - Anh Kim nói nước đôi thế không được, là bất chấp kĩ thuật. Rõ ràng là tại điện áp cao; anh vận hành sao để không cháy nào?
             Kim tuyên bố tỉnh bơ:
             - Việc này phải đưa ra hội đồng kĩ thuật.
             Đình cau mày nhìn theo Quang buông một câu:
             - Những ông lãnh đạo kém đức mà võ vẽ chuyên môn thì chỉ nhạo báng kĩ thuật, làm khổ cấp dưới. Thà các ông ấy mù tịt, cứ lãnh đạo chung chung lại hay.
             Mậu đang đứng trầm ngâm bên máy, bỗng quay lại trừng mắt với Đình:
             - Luận điệu phản động.
             Đình nhìn Mậu như lạ lẫm rồi lẳng lặng bỏ đi.
             Lúc này, Kim đang hào hứng nói về chiếc xe gắn máy mới toanh mà anh ta vừa sắm được. Hắn ta là người như thế nào? - Mậu tự hỏi. Bất giác anh muốn nhìn mặt Kim. Anh quay sang và bắt gặp cái nhìn dò hỏi của Tiến.  Anh cảm thấy yên tâm hơn: ít ra sẽ có một tiếng nói phải chăng. Tiến trước đây phụ trách tổ nữ trong đội của Mậu. Anh đã quan tâm dìu dắt Tiến. Đối với Mậu, Tiến tỏ ra chân tình và quí trọng một điều xưng em, hai điều xưng em. Với mọi người, Tiến cũng xử sự rất biết điều. Khi tổ chức gợi ý đề cử Tiến làm thư kí công đoàn phân xưởng do Kim làm quản đốc thì Mậu ủng hộ ngay. Sau khi trúng cử, Tiến hay chăm lo đến sự đoàn kết nội bộ. Hiện tại, Tiến ngồi đây, tươi tỉnh, nhũn nhặn, đón nghe mọi câu nói, biết hưởng ứng rất đúng lúc bằng cái gật đầu, nụ cười hoặc câu đỡ ngắn gọn. Hẳn là Tiến cũng đồng quan điểm với mình trong vụ này, Mậu nghĩ.
       
             *   *   *
             Trưởng phòng Quang có thói quen đến sớm trong các cuộc họp có mặt các nhân vật quan trọng; còn thì anh ta chỉ vừa khuýp giờ. Hôm nay, khi câu chuyện trong phòng bắt đầu rời rạc thì Quang  đĩnh đạc bước vào.
             Quang là một người khá chững, to con, mặt hồng hào phẳng phiu, cằm bạnh và trơn tru như chưa hề có râu. Quang chẳng phải là loại trưởng phòng xoàng, ít ra là anh ta tự đánh giá thế. Anh ta còn nhòm cái ghế cục phó sắp khuyết nữa kia. Song lẽ, quan niệm thế nào là khả năng thì thiên hạ, nhất là cái đám trí thức táp nham hay tự kiêu, cứ có ý kiến bát nháo. May mà Quang có đức tự tin rất ghê nên chẳng lấy làm điều. Cách đây hơn hai mươi năm, khi không may là người duy nhất bị rớt kì thi lên năm thứ hai đại học hàm thụ, anh ta đã tỉnh ra nhiều. Cái buổi chiều ủ dột một ngày đầu thu ấy, đứng trong hiên nhà ở tập thể vắng lặng của các sinh viên hàm thụ, - mọi người đều đang lên lớp - chờ ngớt mưa để ra tàu về nhà học lại năm đầu, nhìn những đám bong bóng nước phồng lên rồi vỡ ra liên tiếp, anh ta cảm thấy một cách sâu sắc cái bất trắc và bất ưng của con đường học vấn. "Ta cũng phải cố giật cho được mảnh bằng đại học, nhưng đó chỉ là cái cớ, không thể là cứu cánh. Dù các người có học giỏi đến đâu mà thiếu những cái khác thì cũng chỉ có thể làm người thừa hành, chứ khó có thể là người ra lệnh". Quả nhiên rồi anh ta giật được bằng đại học. Cũng quả nhiên, anh ta cởi được cái lối cán bộ thường khá nhanh, không phải bằng khả năng chuyên môn, nhưng đã có cái vỏ để dẹp mọi điều tiếng. Công bằng mà nói thì Quang là người biết xoay xở. Nhưng như kĩ sư Đình từng nói trong một cuộc họp có cán bộ cục dự, "giá không có phòng chuyên môn của cục thì các cơ sở cũng chẳng tồi hơn, mà có khi còn đỡ rắc rối". Nói vậy thì có khi oan, bởi lẽ tìm cho ra các nguyên nhân khiến phòng chuyên môn của Quang chẳng có mấy tác dụng rất không dễ, do không muốn hoặc không dám. Quang là người luôn luôn có ý thức về sự quan trọng của mình, của phòng chuyên môn mình phụ trách, do đó tất nhiên ý kiến của Đình không thể lọt lỗ tai. Càng có lí do để Quang nhận định về Đình: một tay "hấp", gai góc, tự cao tự đại, khó tính hay chống đối. Hừ! Đồ "chuyên môn thuần túy"! Những lời lẽ ấy, anh ta có thể phát biểu thoải mái vì chẳng bao giờ Đình được nghe trực tiếp. Khi còn là cán bộ kĩ thuật, Quang vẫn được Đình chỉ vẽ, nên bây giờ đối với Đình, anh ta cũng còn nể và gờm đôi chút. Thảng hoặc gặp Đình thì Quang bao giờ cũng chìa tay trước tỏ ra niềm nở, che hờ cái vẻ hạ cố và giấu kín cái tiềm thức nể gờm. Nhưng nếu có dính chuyện công tác thì Quang chỉ làm việc với l•nh đạo của Đình chứ chẳng bao giờ trao đổi thẳng với Đình. ấy thế mà "sự cố" vẫn cứ xảy ra. Rõ là tại cái tay Đình lắm chuyện. Càng nghĩ, Quang càng tức. Trưởng phòng vốn nóng tính, đành hay anh ta chẳng nóng với cấp trên trên bao giờ. Một tay kĩ sư quèn mà lại dám làm sượng mặt một trưởng phòng có tầm cỡ của cục thì thật tầm bậy hết chỗ nói!
       
             *    *    *
             Tuy nhiên, sự thực như thế nào thì cũng khó mà biết rõ ngay được. Những người có mặt lúc đó chẳng phải ai cũng quan tâm ngay từ đầu. Còn những người có theo dõi mọi diễn biến của cuộc xung đột thì mỗi người có một góc độ để nhìn, nghe và nghĩ, rồi nói ra hoặc để bụng theo cái góc độ nhìn, nghe và nghĩ ấy. Dư luận thì lắm vẻ. Số đông lấy đó làm một dịp để đàm tiếu quanh ấm chè, và ngay cả nơi làm việc, nặng nề chê bai, hết cái "gàn" của Đình đến cái hách của Quang. Cũng có người dẫn ra những chuyện lên mặt, lạm quyền, tư túi của Quang để họa thêm, nhưng khi người ta hỏi lại thì vội vàng chối phắt. Riêng những người trực tiếp xây dựng thì hầu hết không bằng lòng Đình, mặc dù họ cảm nhận được đó là chuyện nghiêm túc. Điều ấy cũng dễ hiểu: ai lại muốn thêm việc, nhất là muốn món tiền thưởng bị đụng chạm? Do vậy, chuyện bất hòa giữa Đình và Quang được họ phóng tác lại trên cái nền tâm trạng ấy. Lạ một điều là ít ai bàn tán đến những cái mà Đình đang cố bảo vệ. Có lẽ họ không thật rõ chuyện chăng?
             Thế thì những ai thực sự rõ chuyện? Cũng nhiêu khê lắm kia! Đến như kĩ sư Lan cả buổi hôm ấy ngồi đọc tài liệu tại nơi xảy ra sự việc mà có lúc tưởng đâu mình chẳng biết gì cả. Ngay buổi chiều hôm đó, Lan đi qua căng-tin phân xưởng thì bị một người gọi lại:
             - Này! Cô biết chuyện chưa? Ông Đình hôm nay nhổ vào mặt tay Quang đấy.
             - Thế ạ! Lan đã nhếch môi cười, nhưng rồi giữ được.
             - Chứ còn gì nữa! Lúc ấy, tôi ở ngay trước cửa phòng. Thằng cha Quang cứ muốn trương quyền uy ra, bị một vố nhá. Đáng đời? Nhỉ, anh Kim nhỉ?
      Bây giờ Lan mới để ý thấy Kim ngồi cùng bàn uống bia hơi với người vừa nói. Hẳn là người này đang chiêu đãi Kim. Kim mủm mỉm cười, gật gật đầu.  Vừa lúc, một người xồng xộc đi vào:
             - Ông bạn vừa nói tay Đình phỏng? Phải, thật tay ấy chẳng coi ai ra gì.
             - Có ra gì thì mới coi ra gì được chứ.
             - Ông Quang quát tay Đình dốt nát là đáng quá đi rồi. Chính tai tôi nghe thấy.
             - Bậy! Ông Đình quát thằng Quang thì có. "Anh vừa dốt, vừa nát mà cứ lên mặt cha bố người ta". Ha, ha! Vừa dốt lại vừa nát. Đúng quá đi mất! Xoáy vào tim đen nhá! Ha, ha!
             - Bởi thế mới xơi một quả tống của ông Quang vào cằm.
             Xế bên, một cậu thanh niên đang hoa tay minh họa cho lời nói:
             - Ông Đình và ông Quang "uýnh" nhau trên mười hiệp. Ông Đình nhỏ con hơn mà hai bên bất phân thắng phụ. Ông giám đốc cầm còi mà suýt rơi cả…
             Bỗng anh ta im bặt. Văn vừa đi đến. Văn đã nghe các câu nói trên, song anh chau mặt từ từ quay gót, Văn có chỗ để không ưa Quang. Văn xuất thân cán bộ đoàn và thuộc loại giám đốc hiếm hoi không có bằng đại học về chuyên môn còn trụ được đến bây giờ. Trên tín nhiệm Văn là người "đoàn kết nội bộ được". Quang hơi coi thường Văn, tuy không lộ liễu, nhưng hay đưa những vấn đề kĩ thuật ra trộ khéo. Hừ! Cái thằng ấy cứ cậy mảnh bằng đại học. Ai còn lạ gì "dốt chuyên tu, ngu tại chức" nữa kia chứ! Bực thì nghĩ vậy, chứ Văn cũng biết có người chỉ học hàm thụ thôi mà lắm kĩ sư học chính qui theo còn mệt. Nhưng Văn cũng chẳng khoái Đình. Đình là người không biết "Dạ, thưa anh" với bất cứ cấp trên nào. Chuyện ấy kể cũng chương chướng. Mà thôi! Lâu rồi cũng quen đi. Đình thuộc loại cán bộ đã nhận việc là làm nhiệt tình, có sáng kiến, nhất là có lương tâm. Song giao việc cho Đình cũng lắm khi bực mình, vì Đình hay hỏi đi hỏi lại, đề xuất này nọ hoặc thắc mắc kia khác. Hừm! Việc của anh là chấp hành thì cứ lo mà làm đi đã. Lắm ý kiến, đến là nhiễu sự! Đình lại thiếu "tế nhị". Xưa nay, tỏ ra thông hiểu hơn cấp trên là điều tối kị. Người "biết sống" bao giờ cũng lựa lúc và nơi mà phô hay không phô cái sắc sảo của mình ra. Anh chàng Đình quả là quan niệm cuộc đời đơn giản quá! Văn chẳng có lí do gì để ưu ái Đình, cũng khó có lí do gì để trù dập Đình. Để tỏ ra công bằng, cũng có khi Văn nói tốt về Đình, song nói vào những lúc vô thưởng, vô phạt; vô thưởng cho Đình và vô phạt cho mình. Về chuyện va chạm giữa Đình và Quang, Văn nghĩ ngay: một là, phải khoanh vùng lại, không để gây ra phiền phức thêm; hai là, đây không chỉ là chuyện cá nhân một tay Quang nào đó mà còn là chuyện bảo vệ kỉ cương; ba là, chính tính cách của Đình sẽ phản anh ta, ai cũng sẽ yên trí phần chắc là lỗi tại Đình rồi; bốn là, công việc là công việc. Những suy nghĩ ấy ít nhiều chi phối cách tìm hiểu và hướng giải quyết của Văn. Chúng giúp anh ta vững tâm giữa các luồng dư luận có khi rất trái nhau, nhưng đồng thời cũng ngăn anh đi vào cái lõi của vấn đề.
             Cái lõi của vấn đề! Với Đình, nó như cái lõi bút chì. Với Quang, nó như cái lõi củ sắn luộc.
             Sau cuộc "đụng độ", Đình mải lo tìm phương án thi công sao cho việc chờ quyết định về khối bê-tông hẩm hiu kia không làm đình trệ công việc.  Còn Quang thì, trái với ý nghĩ nhiều người, càng năng tạo cớ để về xí nghiệp hỏi han việc nọ, kiểm tra việc kia. Dường như sự hiện diện có tư thế, có cương vị càng nhiều thì da mặt càng bớt mỏng đi vậy.
       
             *    *     *
             Trưởng phòng Quang chưa kịp ngồi xuống thì trưởng ban Dinh đã đưa mời chén nước và nói nhỏ:
             - Trên cục lưu ý cho là thằng cháu tôi năm nay thi ra đấy.
             Quang vừa gật đầu với Dinh, vừa đưa mắt điểm một vòng trong phòng và hài lòng ngồi xuống. Chờ cho Quang uống nước xong, Dinh đứng lên:
             - Hôm nay, ta họp các đồng chí có chứng kiến vụ anh Đình va vấp với đồng chí Quang. Chúng ta sẽ tìm hiểu thật khách quan và sẽ thống nhất một số ý kiến để chỉ đạo dư luận cùng dự kiến những đề nghị cần thiết phòng những hậu quả xấu.
             Mậu có một thoáng ngạc nhiên, nhưng anh đã cúi xuống nhìn dưới gậm bàn tìm cái điếu cày. Một phút yên lặng. Kim ngồi nhổ râu mép. Quang xoa xoa cái cằm nhẵn thín. Lan chăm chú nhìn đôi que đan đang thoăn thoắt trong tay. Tiến thì hết nhìn Văn và Quang lại đến Kim và Mậu. Giám đốc Văn tự thấy phải lên tiếng trước. Anh ta rút từ cặp ra một tờ giấy đánh máy rồi hắng giọng nói: "Đây là bản lưu báo cáo của tôi gửi lãnh đạo cục. Xin đọc nguyên văn để các đồng chí nghe". Bản báo cáo kể rằng Đình đã gây tranh cãi với Quang khi đồng chí này về xí nghiệp công tác, mà Đình thì không có nhiệm vụ trực tiếp với trưởng phòng chuyên môn của cục khiến Quang phải nổi nóng. Báo cáo nhấn mạnh: "Sau việc xảy ra, tôi đã nhân danh giám đốc xí nghiệp gọi kĩ sư Đình lên phân tích sai sót và phê bình trực tiếp" (Sự thực thì chính Đình đã chủ động đến gặp giám đốc. Đình kể lại vụ va chạm, nhưng cái chính là nói về công việc và yêu cầu xí nghiệp không nên bị động với ý kiến chỉ đạo của Quang. Văn tỏ ra không bằng lòng Đình vì đã có chuyện to tiếng khiến lãnh đạo xí nghiệp khó xử. Đình nói: "Nếu anh muốn nói về thái độ cá nhân thì tôi xin nói thẳng là anh Quang rất hống hách, nếu không muốn nói là hung hăng", rồi đứng dậy đi ra).
             Nghe Văn đọc xong, Mậu thấy ngay là Văn có ý khéo léo xoa dịu Quang và giữ thế cho mình, mà không đến nỗi vùi dập Đình. Mậu nhớ lại câu Văn nói vừa đây ở chỗ riêng tư với một ẩn ý mà Mậu chưa đoán ra: "Nếu hôm ấy mà nổ ra to hơn, tôi sẽ trả ông Đình về cục và cấm ông Quang đến xí nghiệp". Có cái gì đó lấn cấn khiến Mậu bật ra một câu không định trước vào lúc chưa định lên tiếng:
             - Cái ông Đình thật thân làm tội đời.
             Câu nói có vẻ chẳng ăn nhập vào đâu cả. Mọi người còn hơi ngỡ ngàng thì Tiến với cái nhạy bén cố hữu đoán bắt được hàm ý của Mậu, và vì thấy không khí cuộc họp có vẻ dịu, bèn đưa một câu:
             - Tôi thấy ông Đình trực tính, nhiệt tình công tác. Rất tiếc là đã vô tình gây ra mất đoàn kết.
             Trước đây, Tiến thầm mến Đình, nay vẫn còn giữ cảm tình với Đình.
             Bà Minh tiếp nước sôi. Văn chế vào ấm chuyên, giơ ấm lên lắc lắc, rồi rót đều ra các chén, nâng một chén lên môi, chẹp chẹp miệng:
             - Chà! Chè này thế mà hương vị khá ra phết.
             Mậu cũng nhắc chén làm một hớp:
             - Ừm! Bằng thế nào được cái anh chè Thái ướp sen.
             Kim ngừng nhổ râu nhìn giám đốc cười hóm:
             - Chắc là thua xa chè ở chỗ thủ trưởng.
             Chè thì bắt đầu uống trước khi họp mà đến đây mới bàn hương vị. Tiến nhận thấy ngay điều đó và cũng đang định góp một câu thì Dinh đọc được vẻ thắc thỏm của Quang, sẽ sàng nhắc:
             - Đề nghị chúng ta tiếp tục phát biểu, kẻo lại muộn quá.
             Kim đút cái nhíp vào túi, ngồi thẳng lên:
             - Kể ra anh Đình đặt vấn đề thảo luận với anh Quang rất thẳng thắn, lí lẽ đâu vào đấy cả...
             Tiến nhẹ mặt nhìn mọi người nhưng thấy Quang nhăn trán bèn sửa tư thế ngồi nghiêm chỉnh. Văn gật gù nhưng nét mặt không biểu lộ gì. Mậu thì cảm thấy khó hiểu. Kim không thích Đình, cái đó rõ rồi. Không chỉ vì Đình có uy tín về chuyên môn hơn Kim, lương danh nghĩa cao hơn Kim. Điều gai mắt Kim hơn cả là tư thế sống đàng hoàng của Đình trong cảnh thanh bạch, điều mà Kim luôn luôn tìm dịp đưa ra dè bỉu sau lưng Đình. "Kể ra người ta cũng khéo cao đạo để tự an ủi và ngạo đời". Nhưng với các tham vọng của mình, Kim không coi Đình là đối thủ. Một trong những vật cản đối với Kim chính là Quang, một kẻ mà về khả năng mọi mặt Kim đều đặt dưới tầm của mình. "Một kẻ vận đỏ, nhờ thủ đoạn!" Kim quên rằng đó cũng là một loại "khả năng" mà chính mình có lúc cần thi thố. Vậy thì trong vụ này, Kim đứng về phía Đình là phải chứ nhỉ! Có gì khó hiểu đâu?
             Quang nói, giọng khàn khàn:
             - Tôi đã bảo anh ta rằng tôi không có gì để nói với anh ta cả. Mọi việc tôi đã thống nhất với đồng chí giám đốc rồi, không biết anh ta có đến gặp anh Văn không?
             "Hắn ta có ý trách mình dung túng Đình chăng?" - Văn nghĩ. Thật ra, đúng là Văn không muốn trực tiếp bác bỏ đề nghị của Đình mà chỉ nêu ý kiến chỉ đạo của cục - hay của Quang? - nên Đình mới tìm đến Quang. Văn cũng biết nếu như Quang đã không thuyết phục được Đình thì đó không phải là lỗi của Đình, nhưng Văn chỉ nói:
             - Như tôi đã viết trong báo cáo, thái độ của anh Đình là không thể chấp nhận được. Hơn nữa, anh ta đã nói những lời có tính chất mạt sát.
             Dinh nãy giờ chờ đợi và thăm dò, lái luôn:
             - Đề nghị chúng ta phân tích kĩ thái độ anh Đình.
             Quang:
             - Các đồng chí còn lạ gì anh ta nữa. ở đâu mà anh ta chẳng gây với lãnh đạo? Thế mà trên Bộ có người còn đưa ra câu hỏi là đã sử dụng đúng anh ta chưa. Có khi còn muốn đề bạt vượt cấp chưa biết chừng.
             Quang nói mấy câu cuối với một cái nhếch mép mỉa mai và phủ định, nhưng cũng làm cho Kim tai vểnh lên và một nháy sầm tối trong mắt. Mậu thì nghĩ thầm: "Họ định dẫn đến đâu nhỉ?" Anh nói dè dặt:
             - Hôm ấy, rõ ràng anh Đình nôn nóng vì công việc.
             Dinh hơi sẵng giọng:
             - Công việc thì ở ngay hiện trường ấy chứ đâu ở nơi phái viên của cục đang ngồi tập trung suy nghĩ để chỉ đạo?
             Trên mặt Mậu một nét bất bình lướt nhanh rất khó nhận thấy. Anh bình tĩnh nói tiếp:
             - Anh Đình có nhược điểm là hay nói bốp chát. Còn đồng chí Quang lúc ấy hơi nóng.
             Quang khăng khăng:
             - Tôi có muốn nói với anh ta đâu. Kiểu nói của anh ta chẳng ai chịu được; cũng khó chịu như quan điểm của anh ta vậy.
             Kim nhẹ nhàng:
             - Kể ra anh Đình như thế thì khó mà không nổi nóng thật.
             Mậu nhìn Kim:
             - Hình như vừa rồi anh nói khác.
             - Chẳng khác gì cả. Tôi có nói anh Đình đặt vấn đề thắng thắn, lí lẽ đanh thép, nhưng điều chủ yếu lại là anh ta nói để làm gì? Kế hoạch đang thúc, lãnh đạo đã chỉ thị, vấn đề là làm chứ không phải là nói. Chỉ đạo thi công như vậy là đẩy hay là cản?
             Ít khi Tiến dự đoán sai chiều hướng của các cuộc thảo luận, thậm chí cả của các câu chuyện phiếm, thế mà lần này... Chị ta rầu rầu nét mặt:
             - Thật đáng tiếc! Đúng lúc cần phải tăng cường đoàn kết để hoàn thành kế hoạch thì đồng chí Đình lại gây nên chuyện. Báo hại cho chính đồng chí ấy là năm nay anh ta được vào diện xét lên lương.
             Mậu nhìn Tiến hơi ngớ ra, lạ lùng. Mậu lạ cũng phải. Mậu chẳng mấy để ý những việc vặt vãnh đại loại như sự quan tâm đặc biệt Tiến dành cho Kim. Chỉ một lần anh thấy hơi lạ. Bữa đó, bộ phận phụ trách đời sống của phân xưởng chia cá "đối lưu" được. Tiến lo lấy phần cho Kim, rồi sốt sắng gói cẩn thận và buộc tử tế vào xe đạp cho Kim, vừa làm vừa ca cẩm: "Tội nghiệp! Đàn ông, đàn ang lớ quớ không khéo thì rơi vãi dọc đường hết". Tình cờ Mậu đi qua bèn hỏi dở đùa, dở thật: "Trong phân xưởng ta chỉ mỗi ông Kim là "đàn ang" tội nghiệp thôi hở cô Tiến?" Tiến nghiêng mặt nhìn lên cười rất tươi, đáp rất dẻo: "Nhưng anh ấy yếu, nhà lại xa, anh ạ". Mậu thoáng nghĩ: "Thiếu gì người yếu hơn, xa hơn". Nhưng anh không nghĩ tiếp nữa. Tính anh dễ tin người. Chính vì vậy, anh không biết người ta gọi Tiến là bà Tiến Thân (Nguyên họ gọi là "bà Tiến Thân bằng mọi giá". Về sau, không hiểu vì thấy dài quá hoặc vì thấy bất nhã, họ gọi tắt đi). Chẳng biết Tiến có để tai hay không, chỉ biết chị ta vẫn năng nổ, xăng xái. Câu nói cửa miệng của Tiến là: "Ấy! đừng làm thế ảnh hưởng đến đoàn kết". Có lần Tiến phân phối cam bồi dưỡng xong còn thừa ra hơn chục quả. Tiến đã cất kĩ trong tủ riêng của thư kí công đoàn. Một thợ trẻ đến gặp xin giấy tờ gì đó; Tiến vô tình mở tủ, cậu thanh niên nhanh mắt nhìn thấy "Ơ!" lên một tiếng. Tiến ung dung giải quyết công việc cho cậu ta xong rồi tỉ tê: "Em ạ, phân xưởng ta có truyền thống đoàn kết nhiều năm. Em mới về, đừng làm gì ảnh hưởng xấu đến đoàn kết. Có gì vướng mắc cứ bảo chị. Tương lai em còn dài lắm". Mậu tất nhiên mù tịt những chuyện đó.
             Kim nói như người ta chán ngán mọi sự:
             - Đề nghị kết luận đi thôi.
             Dinh đứng dậy, trịnh trọng:
             - Như vậy là anh Đình đã gây xung đột với đồng chí Quang, phái viên của cục, lúc đồng chí về xí nghiệp góp ý chỉ đạo thi công. Anh Đình có thái độ gây gổ, thiếu xây dựng, bảo thủ quan điểm phi thực tế của mình, coi thường mọi người. Đề nghị ban giám đốc xử lí thích đáng và xét xem có nên để anh Đình tiếp tục chỉ đạo thi công nữa hay thôi. Kết luận vậy được chưa các đồng chí?
             Quang nhìn đâu đó ngoài cửa sổ, mặt dãn ra. Kim xòe diêm đốt thuốc lá. Tiến tránh tia mắt của Mậu. Văn ngồi cúi đầu, xoay xoay chén nước trong tay. "Coi thường mọi người!" Trong kí ức Văn chợt diễn lại một cảnh chưa xa xôi lắm. Một ngôi chùa cổ kính ở một tỉnh phía nam mới được giải phóng vài năm. Một pho tượng người trong một tủ kính đặt cao chính giữa một căn phòng rộng. Tượng to gần bằng người thật, nửa nằm, nửa ngồi, phô cái bụng vĩ đại ra, miệng cười loe hết cỡ. Đoàn tham quan có tính chất du lịch của xí nghiệp đến vây quanh. Văn bình luôn một câu: "Chà! Thằng cha này đúng là quân ăn bám. Ăn gì mà béo ú lại còn phởn toét miệng ra cười nữa kia! Sao chùa lại thờ một anh to bụng nhỉ?". Đình đứng cạnh huých nhẹ Văn bảo khẽ: "Nói thế họ cười cho đấy. Đây là tượng Phật Di Lặc". Văn vội lét mắt nhìn quanh. Người nhà chùa không có ai đứng gần. Cái lo xẹp đi thì cái ức ập đến. Tay này bỉ mình thật! Đình sẽ sàng và vắn tắt nói ý nghĩa triết lí nơi dáng ngồi, cái bụng bự, cùng nụ cười của pho tượng, nhưng Văn chẳng buồn nghe, bứt lên trước xem chỗ khác. "Coi thường ư?" Văn lắc mạnh đầu như xua đi một cái ám ảnh, ngả người vào lưng ghế, đầu vẫn không ngửng lên.
             Dinh nói nhanh:
             - Nếu không ai có ý kiến nữa thì chúng ta nghỉ được rồi chứ anh Văn, anh Quang nhỉ.
             Chưa ngòi xuống hẳn, anh ta vội ghé gần Quang:
             - Trên cục lưu ý cho nhé!
             Nhưng Mậu đã xin nói:
             - Tôi muốn có ý kiến thêm một chút. Tôi thấy nên góp ý với anh Đình về thái độ, tác phong. Nhưng tôi e rằng nãy giờ ta chỉ xoáy vào những cái chưa phải là thực chất của vấn đề.
             Quang xịu mặt đưa mắt nhìn nhanh Mậu rồi liếc sang Văn và Dinh.  Dinh chau mày: "Mình đã tưởng nhẹ nợ, thế mà thằng cha này!" Đôi môi mỏng của Kim phác một nụ cười khó hiểu. Tiến chăm chăm nhìn Văn. Còn Văn thì lúng túng thực sự. Tuy là người luôn luôn muốn rằng mọi sự dưới quyền mình đều xuôi chèo mát mái, dẫu là bề ngoài, Văn chỉ "thí tốt" khi chằng thể đừng. Nghe Dinh kết luận, thâm tâm Văn có cái gì cộm lên, một cái gì đó chưa thật rõ ràng mà bản thân Văn không muốn soi kĩ, - Văn không có thói quen ấy trước những việc chẳng quan trọng đối với mình. - Câu nói của Mậu lay chút lương tri còn sót của Văn. Một tiếng nói mơ hồ bên trong Văn muốn hàm ơn Mậu, song Văn lại nói một cách nghiêm nghị:
             - Sao lại đặt vấn đề như vậy nhỉ? Có ai không nói đến thực chất đâu.
             Mậu:
             - Nãy giờ chúng ta chỉ xoay quanh những sơ hở của đồng chí Đình như kiến nghị và tranh luận không đúng chỗ và không đúng lúc, nói năng bộc trực, tác phong khó gần, vân vân... để qui kết về thái độ, quan điểm. Nếu chỉ có vậy thì chẳng cần cuộc họp này.
             Dinh bắt đầu để lộ sự bực bội:
              - Đồng chí Mậu ngủ gật hay sao? Tôi đã xác định nội dung cuộc họp rồi.
              - Ngủ gật hay không thì đồng chí tự thấy. Xin nói để đồng chí biết là tôi rất ngạc nhiên về lời mở đầu của đồng chí.
              - Nếu đồng chí biết cái này thì chắc đồng chí ít ngạc nhiên hơn. - Dinh rút ra một tờ giấy có chữ, - đây là đơn của một công nhân trong đội đồng chí tố cáo kĩ sư Đình cản trở việc hoàn thành kế hoạch, gửi ban thanh tra.
             Mậu thảng thốt:
             - Trong đội tôi? Lạ nhỉ! Thế mà tôi không biết đấy.
             - Đồng chí không biết cũng phải thôi. Giờ thì đồng chí đã thấy tôi đặt vấn đề như vậy là nhẹ, là có thiện chí rồi chứ?
             - À, ra thế! Thú thật tôi vẫn chưa thấy được thiện chí của đồng chí. Tiếc rằng hôm nay không có mặt đồng chí Đình. Còn đơn thì... một ngày nào đó có thể có đơn chống cả tôi.
             - Anh Đình sẽ được phát biểu tại một cuộc họp thích hợp. Tôi nhắc lại, hôm nay chỉ họp những người làm chứng, một hội nghị có tính chất tư vấn. Các đồng chí khác ai có ý kiến gì nữa không? Cô kĩ sư, thế nào? Cô có mặt từ đầu đến cuối cơ mà.
             Lan nhìn mọi người bằng đôi mắt thỏ rồi bấp búng:
             - Lúc ấy em còn mải đọc tài liệu.
             Kim bỗ bã:
             - Hay còn mải nghĩ đến ai? - Anh ta nháy mắt thân tình với Lan nhưng chẳng thèm biết cô có hưởng ứng hay không đã vội quay sang Dinh:
             - Có lẽ cứ vỡ vạc thế đã. Kết thúc được rồi đấy.
             Kim đồ chừng để "vỡ vạc" như vậy thì Mậu không yên tâm đã đành, mà Quang cũng không yên tâm; còn Đình thì chắc khó yên thân. Nói xong, anh ta rập rình đứng dậy. Dinh chưa kịp nói câu bế mạc thì bỗng một tiếng nói vang lên:
             - Tôi có ý kiến được không ạ.
             Bà Minh đứng cạnh vách ngăn theo dõi tự lúc nào, bây giờ lên tiếng,     Dinh cố nén bực dọc, nhìn Văn và Quang ra ý hỏi. Quang vồn vã:
             - Mời, mời bác Minh. Quên mất! Suýt nữa thì bỏ qua một nhân chứng quan trọng.
             Dinh xem đồng hồ tay, gượng tươi:
             - Ta ngồi thêm một lát nữa các đồng chí ạ, mới hơn mười giờ thôi. Mời bác Minh lại gần đây phát biểu.
             Bà Minh đến đứng tựa vào bàn:
             - Hôm ấy, tôi ra căng-tin lấy bia cho anh Quang và anh Kim, về thấy anh Đình đang đứng ở chỗ này này - Bà trỏ xế bàn gần cửa ra vào - vừa nói với anh Quang điều gì đó. Anh Quang thì đang ngồi ngả lưng trong chiếc ghế bành gần chỗ anh Dinh và anh Quang bây giờ đây. Anh Quang trả lời cũng từ tốn thôi: "Tôi đ bàn kĩ với đồng chí giám đốc rồi. Anh cứ gặp anh Văn ấy". Anh Đình nói: "Anh Văn bảo tôi có vướng mắc gì thì bàn thêm với anh. Các anh có tính rằng độ rung sẽ rất lớn và chỗ bê-tông ấy sẽ không chịu được không?" Anh Quang gạt đi, bảo anh Đình không phải lo chuyện đó. Cái đáng lo là phải làm xong vượt kế hoạch. Sau làm lại cũng được. (Chỗ này bà Minh không kể hết. Lúc ấy, Quang cao giọng bảo Đình: "Anh không phải lo. Cái đáng lo là công trình này không thể nghiệm thu trên đại thể sau đó tiếp tục hoàn thành nốt như vẫn quen làm thế, mà phải xong hoàn chỉnh đúng kế hoạch, vượt càng tốt. Sẽ có các quan khách dự lễ khánh thành, sẽ có quay phim, chụp ảnh. Mở rộng theo hướng qui mô và hiện đại một phân xưởng mà tự thiết kế và thi công lấy nào phải chuyện xoàng! Vì đại sự có khi phải hi sinh tiểu tiết. Rồi đây hỏng đâu chữa đấy. Nếu cần thì làm lại cũng có sao). Anh Đình không tán thành cách làm dối lấy thành tích. (Chỗ này bà Minh cũng kể lướt đi. Đúng ra thì Đình đã cười nhạt bảo Quang: "Thế nghĩa là đốt pháo ăn mừng, liên hoan, lĩnh thưởng xong, ta lại lên kế hoạch gia cố, đại tu, và sau đó lại báo cáo hoàn thành vượt mức kế hoạch tu sửa, để rồi lại lĩnh thưởng, lại được đề bạt nữa chứ gì?". ý cuối làm Quang chạm nọc tợn) Anh Quang khoát tay:"Thôi! Xin lỗi! Tôi đang bận. Tôi chẳng có gì phải tranh cãi với anh cả". Anh Đình có vẻ nóng mặt, gằn giọng: "Các anh có nghĩ rằng như thế là vạch đường cho hươu chạy, nêu gương làm ăn tùy tiện, dối trá cho công nhân không? Nước ta chẳng đang khốn khổ vì lối làm ăn thiếu tác phong công nghiệp đó sao?" Anh Quang trừng mắt: "Anh không phải dạy lãnh đạo! Không phải thứ anh lên lớp giai cấp công nhân". Rồi quay đi rót bia uống với anh Kim. Lúc bấy giờ có thêm mấy người nữa bước vào phòng. Anh Đình tiến đến tì tay vào bàn cúi nhìn thẳng vào mặt anh Quang nói: "Nào đã biết ai dạy được ai? Nhưng ít nhất thì các anh cũng phải thấy công trình này không đứng nổi vài năm chứ?". Anh Quang thủng thẳng nói: "Vài năm nữa thì biết đâu chẳng ra kế hoạch khác, với những người phụ trách khác. Còn anh thì đã chắc gì ở đây được đến sang năm".
             Dinh sốt ruột ngồi nhăn nhó, mấy lần định dùng quyền chủ tọa, nhưng bà Minh cứ nói thao thao. Đến lúc này, nhân bà Minh lấy hơi, Dinh vội khoa tay:
             - Đang xét thái độ, ý thức anh Đình kia mà!
             Bà Minh hơi khựng một tí:
             - Vâng, nói về thái độ thì anh Đình cũng nói khí qúa. Anh ấy bảo: "Chỉ những kẻ vừa dốt, vừa nát thì mới bĩnh bừa ra mặc ai hót".
             Dinh la lên:
             - Ấy đấy!
             Bà Minh điềm nhiên tiếp:
             - Nhưng tôi thấy anh Quang cũng không phải, nóng quá.
             Quang, một bên cằm bạnh ra, nói buông thõng:
             - Không nóng không được.
             - Giá anh đừng đập tay xuống bàn đánh "rầm" rồi đứng bật dậy chìa nắm đấm ra trước mặt anh Đình và quát: "Mẹ mày! Tao sẽ cho mày biết tay!" thì hay hơn. Nếu anh Đình không đứng khoanh tay trước ngực cười mũi mà cũng giơ nắm đấm ra thì cơ sự sẽ dẫn đến đâu? Thế mà anh còn nói vung lên áp đảo bôi xấu anh Đình. Anh Văn đến kéo anh đi, anh vẫn chưa chịu thôi.
             Quang quay mặt đi, nói trong kẽ răng:
             - Bà về hưu được rồi đấy!
             Bộ mặt hiền hòa của bà Minh bỗng đanh lại:
             - Nói cho anh biết tôi giờ này xin nghỉ hưu thì không thiếu việc kiếm ra tiền đâu. Xoàng ra thì chỉ cần cái quán nước hoặc một vại dưa, cà bán cò con cũng sống ung dung chán. Các anh thì cần bám cái ghế, còn tôi chỉ cần là một người lao động ngay thẳng.
             Quang lầu bầu:
             - Muốn là người ngay thẳng thì phải ăn nói sao cho ngay thẳng. Chẳng ai làm chứng như bà cả.
             - Tôi nói điêu cho anh à? Các người thực sự chứng kiến hôm đó hãy nói xem nào!
             Kim xuýt xoa:
              - Chà! Bà Minh tài thật! Những câu qua lại có tính chất chuyên môn giữa ông Quang và ông Đình đến như tôi đây là kĩ sư bậc ba cũng chẳng nhớ nổi. Phục bà thật!
              Mậu không hiểu ý ngầm của Kim:
             - Anh Kim quên rằng bác Minh từng là phó thư kí công đoàn một xí nghiệp lớn à?
             Bà Minh quay nhìn xoáy vào mắt Kim:
             - Có thật là anh không nhớ không? Còn tôi thì anh nghĩ chỉ việc lo nước nôi, quét dọn thôi chứ gì?
             Quang vẫn không nhìn bà Minh:
             - Bà nói những cái không đúng. Tỉ như tôi không nói "vài năm nữa ra kế hoạch khác, người phụ trách khác" Tôi không chửi bậy, cũng không xưng "mày tao". Còn tay Đình thì "văng" ra sao không thấy bà nhắc đến?
             Kim nhịp nhịp cái đầu, nói kéo dài giọng vẻ xuê xoa:
             - Lúc đó láo nháo, hình như hai bên đều "mày tao" cả.
             Mậu thực thà:
             - Đúng nguyên văn thì anh Quang nói: "Biết đâu kế hoạch và người phụ trách chẳng thay đổi", thì cũng thế. Tôi cũng có nghe anh Quang chửi và "mày, tao". Còn anh Đình quả có nói, xin lỗi các đồng chí "ỉa bậy ra kệ người khác dọn". Bà Minh đổi lại cho dễ nghe hơn chắc chẳng phải vì muốn bao che đâu.
             Quang liếc xéo Mậu rất nhanh:
             - Bà ấy không bao che thì chính anh bao che.
             Mậu cứ bị đẩy dần vào cái thế mà anh không muốn chút nào. Anh quắc mắt:
              - Anh nói cái gì? - Anh lại tự kìm được, dịu giọng: - Những điều đã buông ra, cố vớt vát lại thì chỉ càng bé người đi. Nhưng thôi! Những cái đáng nói không phải chỗ đó.
               Văn gõ gõ ngón tay xuống bàn, giọng dàn hòa:
              - Thôi! Thôi! Chứng kiến không có nghĩa là thấy hết. - Rồi như tìm đến một cái van xả hơi, Văn quay sang Lan - Nào! Cô kĩ sư thực sự chứng kiến, cô hãy nói xem có đồng ý với kết luận của chủ tọa không nào?
      Lan buông cái áo len đan dở lên lòng, ngửng đầu thoáng chút bối rối. Bà Minh nhìn cô, nét mặt đã dịu lại, không nói gì. Bà lẳng lặng vào cái góc của bà xách thùng nước đi ra. Lan nhìn theo bà, sửa tư thế ngồi, mặt hơi ửng đỏ, rồi nói như nín hơi:
             - Em... à tôi đồng ý với bác Minh.
             Phòng họp lao nhao. Kim nói đổng:
             - Thế mà khi nãy "em mải đọc tài liệu".
             Dinh làu nhàu:
             - Đoàn viên gì mà chẳng có chủ định gì cả.
             Lan trở nên cứng cỏi hẳn lên:
             - Không phải là tôi không có chủ định. Nhưng tôi lạ quá.
             Tiến Thân nhỏ nhẹ:
             - Lan này! Em lạ cái gì? Đừng nói lấp lửng mà thêm mất đoàn kết, em ạ.
             - Tôi không ngờ. Tôi những tưởng được nghe một cuộc tranh luận nghiêm chỉnh về kĩ thuật và công việc. Hôm ấy... - Lan ngừng lời e dè nhìn quanh. Chừng như cô chợt nhận ra sự bạo phổi của mình, nên đâm hoảng, đang nói rành rẽ, bỗng trở nên vấp váp. - À, hôm nay… Còn thái độ thì… 
             Dinh cắt ngang:
             - Thôi! Không bàn thái độ nữa. Chủ yếu là công việc. Để bảo đảm đoàn kết mà hoàn thành kế hoạch, cuộc họp này đã đề xuất là nên thay người chỉ huy thi công.
             Mậu cười khẩy:
             - Bây giờ lại "chủ yếu là công việc"! Nếu chủ yếu là công việc thì không thể bỏ qua thực chất những vấn đề kĩ sư Đình đã nêu ra.
             Kim nói như bâng quơ:
             - Có cái "thực chất vấn đề" dựa vào thực tế, thật sự vì công việc. Có cái "thực chất vấn đề" thiên về sách vở, lắm khi chỉ để thoả mãn ý đồ riêng. - Kim đã thấy rõ là những lời của bà Minh đã làm cho cán cân uy tín nghiêng thêm về phía Đình.
             Mậu đã không thể giữ kẽ nữa:
             - Cái ấy còn để xem. Chúng ta làm chứng cái gì? Và vì cái gì? Nhìn mà không muốn thấy, hoặc chỉ thấy những gì định thấy thì làm chứng cái gì?
             Văn nhướng mắt nhìn Mậu:
             - Đồng chí Mậu muốn ám chỉ cái gì vậy?
             - Báo cáo anh chẳng có gì phải ám chỉ cả. Tôi chỉ phát triển một ý của anh khi nãy thôi. Tôi nghĩ vấn đề không phải là cách nói của anh Đình như thế nào? Mà là anh ta nói cái gì? Không phải là thái độ của anh ta có vừa lòng ai đó không? Mà là anh ta có công tâm và có làm được việc không? Nếu chân lí cần một cái vỏ dễ thương, và nếu những nhược điểm về thái độ, tác phong, cá tính đủ sổ toẹt một nhân cách, thì bao giờ cũng sẵn chứng cớ.
             Kim:
             - Thì có làm được việc hay không đã sờ sờ ra đó. Thế là xí nghiệp ta năm nay không hoàn thành kế hoạch. Lại còn phải tốn thêm biết bao công của.
             - Anh nói cứ như chúng ta tiết kiệm lao động và tiền của lắm ấy, và năm nào chúng ta cũng hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch ấy. Thử hỏi được mấy năm chúng ta không phải è cổ ra làm đậy những chỗ đã hoàn thành trên giấy đến tận ngoài Tết âm lịch?
             Văn đưa tay sờ chỗ hói trên đỉnh đầu mình rồi thả tay:
             - Đồng chí Mậu đừng nóng. Thật việc chẳng có gì mà cứ sinh chuyện cho hoá to ra. Rức cả đầu! - Văn không nói rõ ai sinh chuyện.
             Mậu đang đà nói:
             - Ta cho cái gì là nhỏ thì nó là nhỏ; cho cái gì là to thì nó là to. - Anh lầm bầm nói thêm như tự nói với mình - Có những sự phán xét đơn giản lạ lùng mà cũng ngoắt ngoéo lạ lùng.
             Dinh trề môi:
             - Theo anh Mậu thì chúng ta nát bét cả. Chỉ anh ta và anh Đình là đáng kể thôi, - Dinh có ý kích mọi người, nhất là Văn.
             Mậu giọng buồn buồn:
             - Không! Tôi ngán phải như anh Đình, nhưng cũng lại mong được như anh ta. - Anh đứng dậy - Tôi xin phép ra công trường.
             Chưa dứt lời, Mậu không nhìn ai xoay người ra thẳng. Trong phòng yên lặng, chỉ nghe tiếng quạt vù vù. Tiến Thân chợt cười xoà:
             - Thêm một ông hâm. Chắc lại ăn phải đũa ông Đình.
             Văn đang ngồi chống tay vào má, bỗng cất đầu lên nghiêm khắc nhìn Tiến, rồi ngoảnh sang Kim:
             - Liệu anh Kim có trực tiếp chỉ đạo thi công được không?
             Kim múm môi, nhịp nhịp đầu, rồi với một động tác dứt khoát ngửng nhìn Văn:
             - Nếu lãnh đạo giao thì tôi chấp hành. Nhưng đề nghị có văn bản quyết định cứ tiếp tục thi công.
              Văn nhíu mày, vừa nói vừa đứng dậy:
              - Thì ra anh cũng thích nắm đằng chuôi đấy nhỉ.
              Không chờ cuộc họp tuyên bố kết thúc. Văn ra luôn. Anh ta bước chầm chậm, trong đầu cứ vướng các câu nói của Mậu: Chúng ta làm chứng cái gì?... Có những phán xử đơn giản lạ lùng mà cũng ngoắt ngoéo lạ lùng.  Không phải cách nói, thái độ anh Đình, mà là thực chất ý kiến cùng việc làm của anh ta. Văn bực mình phẩy mạnh tay một cái và đi nhanh về phòng giám đốc. Song mới đi được một đoạn, bước chân anh ta trở nên phân vân. Rồi đáng lẽ đi thẳng, anh rẽ trái.
              Mậu rời phòng họp, đôi chân tự dẫn theo lối quen. Anh cảm thấy cái vị đắng cay của một lần lui quân thất bại trước đây trong đời lính của anh. Nhưng hồi đó, anh và đồng đội đã lại tiến lên và chiến thắng. Còn bây giờ? Chẳng phải là đơn giản... Nhưng tránh né là có tội. Chà! Xem xét con người và đánh giá sự việc kiểu này thì trách chi đạo lí con phe? Trong cách nghĩ của một số người, Đình là người không bình thường, - không phải là khác thường - một người không thuần tính. Giữa Đình và những kẻ như Quang có một vách ngăn. Quang khó mà vượt qua vách ngăn để nhìn nhận Đình. Và Đình, nếu vượt qua vách ngăn thì không còn là anh ta nữa. ờ, mà nếu Quang vượt được vách ngăn thì anh ta cũng sẽ không còn là anh ta nữa! Mình cũng là người không bình thường chăng? Không! Hồi mình còn ở chiến trường chẳng ai coi mình như vậy cả. Bây giờ mình "thuần tính" hơn chứ! Thế còn cái vách ngăn? Chẳng có vách ngăn nào tự dựng lên. Nếu là thứ áp đặt thì nó chỉ như vách ngăn cái góc của bà Minh. Ai ngăn được bà Minh nhìn vượt qua cái vách đó? Tại sao mình lại vội bỏ phòng họp? Bây giờ mà trở lại thì không tiện, nhưng sẽ phải trở lại.
              Ra tới công trường, Mậu thấy Đình đang mải trình bày dự kiến khắc phục chỗ hỏng với đội phó và một số công nhân lành nghề. Mậu không lên tiếng, lẳng lặng bỏ đi. Đến một chỗ ngoặt, anh suýt đâm sầm vào Văn. Nhìn vẻ mặt đăm chiêu của giám đốc, anh im lặng đứng tránh sang một bên. Nhưng Văn đã ra hiệu bảo Mậu cùng đi đến nơi mà trước đó mấy phút anh đã rất ngại phải nhìn thẳng vào mắt Đình.
       
      III – IV / 1984
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 29.03.2009 12:19:05 bởi Khải Nguyên HT >
      #3
        Khải Nguyên HT 16.03.2009 16:49:38 (permalink)
        CỒN CỎ
        -truyện ngắn- 
         
               Thuở ấy, có hai thằng bé nhà quê vừa trông thấy mấy con bò ăn cỏ vừa tranh luận với nhau.
               - Ở đảo Cồn Cỏ, cỏ tốt um phải biết nha. - Đứa tên là Thí khẳng định - Bò của bọn ta mà thả đấy thì béo múp.
               - Nói dóc! - Đứa tên là Liu bĩu môi - Giữa biển khơi đào đâu ra cỏ tốt um.
               - Mi không biết thì thôi. Cồn thì nổi lên lù lù. Cồn Cỏ là cái cồn trùm lên toàn cỏ.
               - Chu cha! dốt cách chi hè! Mi không nghe câu hát "Cồn Cỏ có con cua đá". Cua đá! Mi hiểu ra chưa? Trên đảo toàn là đá.
               - Ê! Cua đá là cua có mai cứng như đá. Cua là đá thì lính ta ăn mần răng được mà "rúc ra rúc rích" với nhau.
               Hai đứa cãi nhau kiểu ni thì có trời phân xử nổi. Cả hai, chẳng đứa nào biết chi về đảo Cồn Cỏ, thậm chí chẳng biết đảo nằm chốn mô tê nào, chỉ biết lơ mơ là ở ngoài biển Đông. Thằng Liu có cha đang trấn trên đảo. Thằng Thí có anh là lính hải quân, chắc là thỉnh thoảng có ghé đảo. Lâu lâu họ có thư về, nhưng bực một nỗi là thư chẳng đả động gì đến cỏ hay đá trên đảo cả.
               Tranh luận chán, chúng chuyển qua nói trạng.
               Thằng Liu tuyên bố: - Tau sẽ làm một con diều cực to thả thật cao, tít tận mây. Tau ngồi trên đó, tau sẽ dòm thật rõ đảo Cồn Cỏ cho mi biết mặt.
               Thằng Thí cười ré lên: - Mi mà có ngồi được lên con diều thì nó chỉ chao một cái là mi rồi đời. Tau a, tau sẽ học bơi thật giỏi, như cá kình ấy (thật ra, nó chẳng biết cá kình là cá gì, hình thù ra sao), tau bơi một mạch ra tận Cồn Cỏ. Các anh bộ đội sẽ dẫn tau đi xem đảo. Tau sẽ nằm lăn trên cỏ mượt mà ngủ cho coi, cho mi trắng mắt ra.
               Cả hai cóc cần biết là từ chỗ chúng tới bờ biển Vĩnh Linh đã phải mất hàng mấy trăm cây số rồi. Nói trạng cũng có nòi cơ đấy. Nói trạng không chỉ là nói dóc mà thôi. Còn vận cả vào đối đáp, ứng xử. Có những nơi, những lúc phải có gan, có "tài". Cha thằng Liu, thời mồ ma thực dân Pháp cai trị nước ta, đi thi Tiểu học được vào kì thi vấn đáp (có qua kì thi viết mới lọt được vào kì thi hỏi miệng), khi giám khảo hỏi: "Trái đất hình dạng như thế nào?" đã trả lời: "Xưa Tàu bảo vuông, giờ Tây bảo tròn". Giám khảo đã toan cho qua, ngẫm lại thấy quá là xược: "Chúng ta cũng chẳng biết cái quái gì đâu; hết nghe Tàu lại nghe Tây thôi!". Còn anh thằng Thí thì một lần mải vùng vẫy trên sông, cái quần xà lỏn giấu trong bụi cây trên bờ chẳng biết sao biến mất. Cậu bé đã ở cái tuổi không còn có thể cứ tồng ngồng mà ung dung dạo bộ; "diện" cái quần đùi, mình trần thì chẳng sao. Tìm m•i chẳng thấy mà tiếng cười lao xao nghe đã gần, cậu ta bèn nhảy ùm xuống nước, và... chờ cho có người đi tới bèn giả vờ sắp chết đuối. Tất nhiên, khi được vớt lên nạn nhân có phơi "của quí" ra thì cũng chẳng bị ai cười. Và, cũng tất nhiên, người ta phải lo tìm quần áo ủ ấm cho nữa chớ.
               Mĩ leo thang quấy phá vùng trời và vùng biển miền Bắc nước ta. Thật lâu chẳng thấy thư về, cha thằng Liu thì gần mười một tháng, anh thằng Thí thì hơn mười tháng. Mẹ chúng thường thở dài trong bữa ăn, và khóc thầm.      Thằng Liu hỏi biết được đảo Cồn Cỏ ở gần giới tuyến, đâu như Cửa Tùng nhìn ra. Một hôm vào đầu dịp nghỉ hè, Liu bảo bạn:
               - Tau sẽ đi ra chỗ cha tau. (Nó nói ráo hoảnh như thể đến chỗ cha đang ăn cỗ).
               - Mần răng đi?
               - Cứ đến Vĩnh Linh rồi nhờ các chú hải quân.
               - Ai tin mi!
               - Tau mang theo thư và ảnh cha tau.
               Nghĩ đến chuyện gặp các anh hải quân, Thí cũng bốc lên:
               - Tau cùng đi với mi. Dưng mà, nhà chẳng cho đi mô.
               - Cứ xin phép về quê ngoại tau (quê ngoại thằng Liu ở một huyện khác tương đối yên, mọi năm nó vẫn được về chơi vài tuần, có khi đưa cả Thí theo).
               Mỗi đứa mang một ít tiền mẹ cho tiêu vặt và một túi khoai deo. Hồi trước ở vùng quê này người ta chọn những củ khoai nhỏ, không có hoặc có rất ít bột, luộc lên bóc vỏ và thái lát mỏng rồi phơi nắng cho đến khô cong, gọi là khoai deo. Khoai deo được cất trong chum, vò, dưới một lớp dày lá chuối khô và đậy kín. Đây là thứ lương khô có thể để qua năm. Cho vào miệng một lúc, miếng khoai deo mềm ra và dai; nhai nhẹ và chậm nó tiết ra từ từ một chất sền sệt ngọt và thơm. Nói thật, kẹo cao su phải gọi khoai deo bằng cụ, nhất là về mùa rét. Đáng tiếc, khoai deo chỉ được coi là một thứ lương thực dự trữ của nông thôn nghèo. Ngày nay, đời sống hơi khá lên, người ta thôi không chế biến nữa. Nếu còn và được tiếp thị, biết đâu khoai deo chẳng lên ngôi "đặc sản", với cả người nước ngoài, như một số món ăn vốn chỉ dành cho dân quê.
               Hai cậu bé như hai chàng ngốc trong chuyện cổ tích thích phiêu lưu, ra khỏi làng là nhắm phía nam mà đi. Gần hết ngày đầu, chúng gặp một đội Thanh niên xung phong, về sau mới biết là ở chính Ngã ba Đồng Lộc, nơi rồi sẽ rất nổi tiếng không chỉ trong nước. Chúng gặp một chị người làng. Chúng nói với chị là vào Vĩnh Linh xem giới tuyến là thế nào thôi. Chị hoảng kinh. Đồng đội của chị biết chuyện cũng hoảng kinh. Họ bảo chúng quay về. Bảo, khuyên, cả dọa nữa. Các chị cho chúng nghỉ lại trong lán, tính rằng sẽ gửi chúng theo một chuyến xe tải trở ra. Tối một lúc, chị người làng tìm đến thì chúng đã lỉnh mất. Chị đâu biết hai đứa cũng đã lên một chiếc xe tải, song không phải trở ra mà đi vào. Chúng thấy một đoàn mấy chiếc xe chở những bao tải căng đoán là gạo; nhân lúc xe phải đi chậm lượn qua những hố, những đụn đất bèn bám đít xe leo lên. May đêm ấy, cung đường này khá yên.
               Tờ mờ sáng hôm sau, khi cho xe vào chỗ núp, các anh bộ đội mới phát hiện ra hai nhóc:
               - Bay to gan thật! Dám lẻn lên xe ăn trộm.
               Chúng toát mồ hôi hột, run sợ thật sự. Tiếng bom đạn chúng không sợ, tiếng thú dữ chúng không sợ, dọa đánh mắng chúng không sợ. Nhưng bị coi là định ăn trộm hàng chở ra tiền tuyến thì đáng ngại quá. Cũng không dám nói thật. Nói thật thì bị bắt quay ra là cái chắc. Chúng lúng búng bảo từ khu giới tuyến đi tản cư bị lạc cha mẹ nên tìm cách quay về quê cũ (cái cớ này nảy ra như một "sáng kiến" của thằng Thí là nhờ nghe lỏm một chuyện ở đội thanh niên xung phong). Hôm ấy tưởng số đen té ra lại khoái. Tắm suối với lính. Ăn cơm lính. Cùng hát với lính nữa. Các anh bộ đội hứa sẽ tìm cách đưa chúng về Vĩnh Mốc gần Cửa Tùng. Thật hơn cả mong đợi, bởi chúng đinh ninh rằng đến được đấy hễ chúng xưng ra mọi chuyện là người ta đưa chúng ra ngay Cồn Cỏ, ngon ơ như húp cháo vậy. Chuyện đang có vẻ êm như thế thì cái vạ miệng, hay nói đúng hơn, cái tật hay nói trạng hại chúng.   Cơm nước xong, các anh lính lái xe nằm nghỉ. Hai đứa nằm m•i mà chẳng chợp mắt được. Liu lên tiếng:
               - Này! khi nãy tau tí chết nghe. Tau đi "làm quận công", tau hơi bị đầy bụng, tau thụt ra một phát "bũm", nghe "roạt" một tiếng, một con vật lốm đốm lao vào bụi rậm chạy biến. Thì ra một con beo đang rình tau bất ngờ bị phát súng hơi của tau làm cho khiếp vía. Tau mà túm được đuôi, tau lẳng một phát sang tận Lào.
               Thí nói tỉnh bơ:
               - Tau thì thấy rõ con beo chạy ra đảo Cồn Cỏ.
               Liu cảnh giác, buột miệng hỏi một câu ngớ ngẩn:
               - Chạy ra đó mần chi?
               - Để mách cha mi về tội mi nói bá láp. Đi tìm cha, còn có bụng nói trạng.
               Bất đồ có tiếng hỏi: "Ai có cha đang ở đảo Cồn Cỏ vậy?".
               Thì ra một anh bộ đội chợt tỉnh nghe được mấy câu của chúng. Thế là lòi đuôi. Nghe chúng kể sự tình, mấy anh nhìn hai đứa như nhìn hai vật lạ rồi phá lên cười: "Hoan hô hai chú Lượm hiện đại!". Cười chán rồi, các anh bàn nhau đưa hai đứa giao cho một đơn vị bộ đội gần đó. Ngay tối ấy, đơn vị gửi chúng cho một đoàn xe đi ra, còn cử người đi "áp tải" đến tận nhà. Thí được cha "tặng" mấy roi vào mông. Liu thì bị cắt "suất" về quê ngoại chơi.
         
               * * *
               Tôi đọc lại chẳng biết là lần thứ mấy lời nhắn của cô em họ:
               "Anh Liu hỏi anh còn nhớ lời hẹn xưa không? Giữa tháng tới anh ấy sẽ về đấy".
               Chúng tôi vừa kịp lớn lên thì chiến tranh kết thúc. Trong niềm vui Bắc Nam sum họp, chúng tôi có hai nỗi đau. Cha của Liu và anh của tôi đều mất tích trong một trận quân địch tấn công tổng lực vào đảo Cồn Cỏ. Ở chiến trường nào khác, bị mất tích còn có hi vọng sống sót. Còn ở đấy, trên đảo và trên biển, một thời gian sau trận đánh không tìm thấy có nghĩa là mất hẳn. Chúng tôi muốn tới đấy quá chừng. Để thắp một nén nhang. Để hót một nắm đất. Để múc một ít nước biển. Tại chỗ! Nếu còn chiến tranh, Liu đã có ý định sẽ xin nhập ngũ và xung phong ra trấn giữ đảo Cồn Cỏ; và tôi cũng sẽ xin vào hải quân. Còn lúc đã hoà bình rồi người ta có bao việc phải làm hơn là thoả mãn ước nguyện của chúng tôi. Chúng tôi đã bàn tính với nhau nát nước ra. Đâu có giản đơn như nói trạng!
               Thế rồi cuộc sống đẩy đưa. Gia cảnh hai chúng tôi đều khó khăn. Cuộc mưu sinh tiêu tốn nhiều sức lực và choán nhiều tâm trí. Nhiều ước nguyện, kể cả ước nguyện thiêng liêng nhất, lùi vào "góc chờ". (Ở biết bao cuộc đời, từ góc chờ lùi dần vào góc quên lãng!). Vào những cái năm gian nan nhất, Liu xin được một suất đi học nghề tại một nước bạn, tốn kém qua loa nhờ tiêu chuẩn "con liệt sĩ". Tôi ở lại vật lộn với hoàn cảnh của mình, nhưng cũng hứa với bạn: "Cậu cứ đi, mình ở nhà sẽ tìm dịp ra Cồn Cỏ".
               Liu đi, có vẻ không được thuận lợi như một số người khác. Học chưa xong, anh ra ngoài tìm việc làm. Rồi những biến động chính trị bên trời Tây, anh bị giạt đi. Sau đó, Liu bặt tin. Tôi bươn chải một thời gian, cuộc sống khá lên. Tôi xin nói ngay để các bạn có thể yên lòng mà đọc tiếp: Tiền tôi kiếm được không do tham nhũng, không do buôn lậu, nghĩa là chẳng phải đồng tiền bất chính. Tôi có gặp may. Hẳn các bạn sẽ nghĩ: Như vậy là tôi có dư điều kiện để thực hiện lời hứa với bạn rồi chứ? Nếu mọi thiện ý cứ có tiền là xong hết thì cuộc đời quá là đơn giản. Để kiếm được đồng tiền chính đáng, chẳng nhàn nhã đâu. Đầu óc ít khi thư thái để nghĩ đến những điều chưa thiết thân. Gia dĩ, có những ước ao cháy bỏng thuở hàn vi lại nhạt đi, nếu không là phôi pha đi, theo năm tháng và thân thế mới. Dù sao, ước nguyện xưa của tôi, và cũng là của Liu, đã lùi vào góc chờ trong tâm trí tôi. - Chưa phải là góc quên lãng! Lời nhắn kia quấy động góc chờ. Hẳn trong thời gian lưu lạc nơi quê người, Liu vẫn hằng tâm niệm ước nguyện xưa. Tôi không nghĩ anh giống như bao kẻ khác, trong số các quan, các đại gia, giàu sang lên rồi bèn nghĩ tới chuyện điểm tô mồ mả, nhà thờ ở quê thật nổi đình đám, - một kiểu "vinh qui bái tổ" tân thời, dẫu có bằng những của nả chẳng làm vinh cha ông, tiên tổ. Liu sắp về! Ngẫm kĩ, trong việc này tôi không tốt. Tôi đã lần lữa. Không! Tôi đã chẳng động tay, động não. Ít ra, tôi phải tìm hiểu về trận đánh năm nào trên đảo, trên biển. Chưa một lần tôi nảy ra ý định tìm tọa độ nơi con tàu có anh tôi trên đó chìm tại vùng biển quanh Cồn Cỏ. Chưa một lần tôi nghĩ sẽ cần đến sơ đồ cũ của trận địa nơi cha Liu hi sinh. Tôi biết tôi sẽ phải đi tới những đâu để hỏi cho ra những điều cần thiết trước khi Liu về tới.
               Hành trình đến với đảo Cồn Cỏ của hai chúng tôi, Liu và Thí, bây giờ mới thực sự bắt đầu.
         
        Hải Phòng, 5/2006
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.03.2009 16:52:13 bởi Khải Nguyên HT >
        #4
          Khải Nguyên HT 04.04.2009 23:33:23 (permalink)
           
          THIÊN TRUYỆN BỎ DỞ

          -truyện ngắn-
           
               Tôi được tin ông bạn tôi qua đời lúc tôi đang công cán nơi xa. Về tới nhà, chưa kịp thay quần áo tôi đã vội đến viếng bạn. Trên đường đi, tôi bỗng đâm ngại ngùng nghĩ tới lúc giáp mặt bà vợ góa bụa của bạn. Bà có chạnh lòng không? Tôi còn sống nhăn, bạn thì đã vắng mặt trên cõi đời này rồi. Trong cuộc sống trần tục, có vẻ như tôi gặp may hơn bạn tôi nhiều. Nhưng tôi đã quá lo xa. Bà tiếp tôi bình tĩnh cách lạ, cái điềm tĩnh của sự cam chịu. Bà tỏ ra cởi mở với người bạn thân nhất của chồng. Do vậy, tôi mạnh dạn hỏi về cuốn nhật kí của bạn tôi. Xưa kia, đã có lần ông bảo tôi: "Nếu mình đi trước cậu thì cậu sẽ được đọc nhật kí của mình". Nhưng khi bà vợ bạn cho tôi xem tất cả giấy tờ, sách vở chồng mình để lại thì không thấy cuốn nhật kí đâu cả. Dưới đáy chiếc rương gỗ từng đi theo bạn tôi gần như suốt các chặng đường công tác, tôi lượm được một tập mỏng giấy pơluya đã ố vàng. Mới liếc qua, tôi đã nhận ra ngay đấy là một bản thảo chép tay. Bạn tôi xưa từng nuôi mộng viết văn. Tờ giấy bọc lót tập bản thảo lấy từ một tờ họa báo. Dưới bức ảnh một đôi trai gái đang cầm tay nhau bịn rịn trước lúc chia xa trong mưa tuyết, trích từ một cuốn phim nào đó, có hai câu thơ:
                    Em hỏi anh rằng xuân ở đâu
                    Xuân trong ánh mắt buổi yêu đầu.
                 Hai câu thơ đã nảy ra trong phút xuất thần của bạn tôi như ông từng nói đùa, và ông đành dừng lại đấy; rặn thêm câu nào để nối vào đều gượng. Nhưng với hai câu ấy, một anh bạn của chúng tôi, như sau này anh "thú nhận", đã mạn phép sử dụng trong một cuộc "chinh phục trái tim" và đã thành công. Cái tôi chưa biết là lời ghi bên dưới bằng mực đỏ còn đậm màu: "Nếu chuyện gửi trao, -ít nhiều đều nhuốm sắc thái lãng mạn,- chỉ xảy ra trong tình yêu đôi lứa thì cuộc đời đỡ cực đi biết mấy mà cũng nghèo đi biết mấy". Trang đầu bản thảo, góc trái phía trên ghi: 15-3-1959. Vậy là thiên truyện này khởi thảo cách đây gần ba chục năm, và như thế là chẳng bao giờ hoàn thành nữa cả. Bà vợ bạn tôi vui lòng cho tôi giữ mấy tờ di bút ấy của người đã khuất để làm kỉ niệm.
               Tập bản thảo được viết bằng nhiều loại mực khác nhau. Nhiều chỗ, nhất là chỗ mực xanh lơ, bị nhòe không đọc được nữa. Xem lướt qua mấy đoạn, tôi lấy làm mừng rằng may mà bà vợ bạn tôi xưa nay chẳng mấy quan tâm đến giấc mơ văn nghiệp của chồng. Chẳng có gì ghê gớm lắm đâu, nhưng tâm lí các bà vợ son sắt với chồng thường không dễ tính cho lắm trong một số lĩnh vực nhất định, do đó không chịu đi sâu vào giữa các hàng chữ.
               Đọc những đoạn văn chắp nối, tôi tự thẹn trong lòng. Tôi chưa thật hiểu bạn mấy nỗi. Cái văn phong lạc lõng ngay đối với thời kì cách đây ba mươi năm sao mà vẫn gợi nhiều đến thế, dĩ nhiên là chỉ riêng tôi. Dưới đây là những gì còn lại của bản thảo.

                                     *    *    *
               Tiểu thuyết của cuộc đời. 
                 Trời đang mùa thu, nhưng buổi tối trên hồ này đã lạnh. Gió heo may lùa qua các tàu lá chuối phần phật như tiếng giặt lụa không bao giờ ngừng. Những ngọn đèn điện thưa thớt tỏa ánh sáng dè dặt trong bụi đêm. Đây là một cái gò nhỏ nổi lên giữa hồ, lối đi vào qua một chiếc cầu gỗ cũ kĩ. Giữa gò có một cái bể bơi cạn nước tự đời thuở nào. Nhưng vườn hoa xung quanh đã được tu sửa lại; và những hàng chuối bao ngoài, có lẽ do dân trồng từ hồi vườn hoa này bị bỏ hóa, tự nhiên được đóng thêm vai trò cây cảnh và cây che mát. Ở cái thị xã nhỏ này, người ta ít tìm đến đây, nhất là khi đã sang thu. Trên một chiếc ghế xi măng đặt dưới một ngọn đèn mà những tàu lá chuối trở thành một cái chao thiên nhiên có một người đang ngồi. Mái tóc không chải làm sấp bóng nửa mặt anh ta; tuy nhiên, mỗi khi điếu thuốc lá trên môi anh lóe lên, có thể nom rõ đôi mắt sáng song hiện đang trầm ngâm, và khuôn mặt bầu bĩnh hơi khắc khổ. Trước mặt anh, trên đầu gối, một cái cặp bìa để mở đỡ mấy tờ giấy xộc xệch mang mươi hàng chữ nhằng nhịt. Ghé mắt qua vai anh ta, có thể đọc được những dòng sau đây:
               “Không biết nhà văn nào trước cách mạng đã viết: "Chờ cho đời biến thành tiểu thuyết rồi viết tiểu thuyết của cuộc đời, cái ấy hay nhưng biển lận nghĩa là không nghệ sĩ…". Có lẽ ngày nay chẳng mấy ai còn nghĩ một cách lập dị thế. Chung quanh tôi đời đẹp lắm. Cả một cuộc sống mới đang lên, sôi nổi, hào hứng và duyên dáng nữa. Làm sao bắt được cái bóng dáng tiểu thuyết trong nhịp sống ấy? Tôi sẽ viết tiểu thuyết của cuộc đời”.
               Đấy! Hiện anh ta như thế đấy! Cái hoài bão ấy, nếu có thể gọi đó là hoài bão, đang dẫn anh ta tới đâu đây?
               Anh là một giáo viên trẻ. Tuổi trẻ bước vào đời thường mang theo nhiều ước mơ với đầy đủ mặt tốt và mặt xấu. Người giáo viên văn học như anh lại càng nhiều mơ ước. Nghề của anh buộc phải truyền lại cho học sinh ý và tình bằng tấm lòng, nhiều khi phải sáng tạo ra cả những điều mà chính tác giả chưa ngờ tới qua các câu, chữ. Cho nên cái ước mơ lớn nhất vẫn ray rứt anh là "viết". Điều kiện để viết, anh nghĩ hơi đơn giản. Khả năng ư? Anh tự cho là mình có. Lập trường, quan điểm ư? Dĩ nhiên rồi, với một người giáo viên thật sự. Còn vốn sống? Anh đã từng đi bộ đội, anh đã từng tham gia cải cách ruộng đất, anh đã từng…, tóm lại là đã có thể nói "có một số vốn liếng". Vậy thì còn chờ gì nữa cơ chứ? Bắt tay vào viết đi thôi! Thế mà cuốn "tiểu thuyết của cuộc đời" nung nấu trong anh bao lâu rồi vẫn chưa đi quá mấy dòng mở đầu cầu kì nọ. Nói của đáng tội, anh cũng đã thử…(nhòe gần nửa trang).
               … - Đúng là những trang vừa xúc động, vừa dí dỏm về những ngày Cách mạng tháng Tám trước con mắt trẻ thơ. Nhưng cậu là ông gì mà dám đòi người ta in hồi kí cho cậu?
               - Tôi có khoe đời mình đâu. Tôi chỉ làm một nhân chứng.
               - Nhân với chứng! Ai người ta thèm để ý. Cậu có vẽ ra được một bức tranh khá chân thật, nó toát lên một ý nghĩa nào đấy. Nhưng đáng tiếc, cậu chỉ là một người bình thường, một kẻ vô danh, tiếng nói chẳng có mấy sức nặng. Đẻ ra một cái hồi kí, ít nhất cậu phải là… (nhòe)
               … Mùa hè đến anh ta không chờ đợi nhất. Bên trường, hoa phượng đã hé màu đỏ hắt lên trong nắng. Gió và nắng làm gợi lên những sóng bụi ánh sáng lung linh. Tâm hồn anh cũng lung linh và lòng anh rộn rực. Sân trường rồi đây sẽ vắng bóng dáng những học sinh tươi trẻ. Những tiếng cười đùa và những giọng hát rồi đây sẽ chìm đi trong một thời gian, và anh sẽ chỉ còn có thể nghe dư âm trong tiếng ríu rít của chim trên cây bàng vừa xanh lại màu lá. Một mình anh trong gian nhà lợp lá kề sát một hàng tre nhỏ cây. Mọi năm, sau những ngày làm việc mệt nhọc, anh thích những giờ tĩnh lặng như thế để đọc sách, suy ngẫm. Cũng có lần, anh ngại những ngày dài… Năm nay, bận rộn với thi cử xong, anh đang chưa biết sẽ nghỉ hè ra sao thì được trên cử đi tham gia phát động quần chúng cải tiến quản lí xí nghiệp ở một công trường xây dựng. Anh tiếp nhận tin ấy với một sự cảm ơn thành thực. Anh coi đó là một dịp để rèn luyện mình và để thu thập tài liệu. Không… (nhòe). Cũng có lúc hơi rỗi, anh về phòng được dành riêng nằm dài mệt mỏi, ý nghĩ tản mạn. Anh muốn thả hồn đến một nơi nào đó mà người bạn thân chốn xa kia rủ anh cùng đi "hưởng chút thiên nhiên trong lành trước khi về chỉnh huấn". Một người bạn với những tập sách, với những chuyện tâm tình; một cảnh sống thoải mái vừa làm việc vừa giải trí; viễn cảnh ấy gợi cho anh những ân hận không đâu. Những lúc ấy, biết sự suy tưởng và mơ mộng sẽ dẫn mình đi xa hơn, anh vùng dậy tìm đến khu công nhân ở hay nơi họ đang làm việc. Anh nhớ hình như Victo Uygô có viết, đại ý: Sự suy tưởng thôi thúc người ta làm việc, sự mơ mộng dẫn đến viển vông, buông xuôi tay. Anh muốn thêm: sự suy tưởng nếu không kèm theo hành động thiết thực và lành mạnh thì tất nhiên sẽ dẫn đến mơ mộng. Và anh cố tránh. Trong sự giằng co với bản thân, nhiều lần anh đã làm chủ được mình. Đợt công tác đột xuất hai tháng của anh kết thúc. Anh trở lại trường với tấm bằng khen và tập ghi chép dày.
               Anh tranh thủ viết. Những con người và sự việc quen thân xưa nay của anh cứ hiện lên, chập vào, chen vào những con người và sự việc trong đợt xâm nhập thực tế vừa qua và nhòa vào thế giới tưởng tượng của anh…(nhòe)
               … Anh chờ đợi, và một biên tập viên đã hạ cố trả lời: "Văn đọc được. Có những chỗ kể sinh động, biết đi vào chiều sâu tâm lí. Nhân vật chính nhớ nhung người yêu ở lại trong Nam hơi ủy mị nên không thật. Đoạn tả giám đốc xí nghiệp đuối và có hơi hướng Nhân văn - Giai phẩm vì gợi cho người ta một người lãnh đạo quan liêu, hống hách và dốt nát. Vai trò tập thể mờ nhạt. Thiếu vai trò lãnh đạo của Đảng. Mong nhận được những truyện đạt hơn".
               Người bạn thân đòi xem bản thảo. Anh nhìn ra xa nói chậm rãi: "Mình muốn quay phim cuộc đời, nhưng lại chưa học cách dàn dựng. Có gì đáng xem đâu". Bạn anh bảo rất thực lòng: "Có lẽ ông thiếu một thứ thực tế mà cũng là một thứ xúc tác mạnh: tình yêu". Anh cười to, nhưng không dài.
               Bước vào năm học ấy, trường anh nhận thêm một số giáo viên mới, trong đó có một cô giáo vừa rời trường sư phạm. Một nữ sinh hơn là một cô giáo. Hoàn cảnh "tốt số" của cô giúp cho cô trong suốt thời gian ngồi trên ghế nhà trường chỉ có mỗi việc học và thêu mộng đẹp trong đầu. Cô có cái duyên cởi mở, quá cởi mở, theo ý người đời, đồng thời có cái kiêu căng của những người con gái được nhiều chàng trai để ý. Cô không từ chối mọi sự săn đón. Với mỗi người cô đều dành cho một hi vọng. Tuy nhiên, không ít người đã có dịp biết đến tính ngang bướng của cô, nhất là trong phạm vi chuyên môn. Hình như cô gái nào cũng thích được mơn trớn hơn là phải động não. Dĩ nhiên, ban đầu cô không chú ý đến anh. Dáng nghiêm nghị có vẻ thẳng thắn quá, lối nói có vẻ cứng cỏi quá chẳng thể làm cô hài lòng. Nhiều lúc cô phật ý vì tia mắt lành lạnh của anh mỗi khi bắt gặp mắt cô. Tia mắt ấy làm cô thấy khó gần, đồng thời lại có cái gì đó thu hút. Mỗi lần trong phòng đọc sách của trường chỉ có riêng cô và anh, cô đâm ra mất tự nhiên. Vào những lúc như vậy, ngoài ý định của cô, cô trở nên nhu mì và hồn hậu. Về phía anh, linh tính đàn ông mách anh rằng anh đang "bị theo dõi". Anh là một chàng trai vừa cao kì, vừa khờ khạo. Dẫu vậy, anh không thể không biết và không coi trọng cái điệu e lệ cô dành riêng cho anh tuy không rõ nét và thoáng qua. Dần dà, anh nghĩ về cô: "Sự cởi mở là đức tính phải có của một người con gái lịch thiệp; tính ngang tàng là bản lĩnh của một phụ nữ có cá tính; vậy thì cái dáng e dè kia là dấu hiệu của một tình yêu chân chính, điều cốt lõi của hạnh phúc". Thế là "điều ấy" đã bắt đầu. Nó đến chầm chậm mà bất chấp. Cô vẫn e ngại và nghi ngờ tình cảm của anh. Còn anh, đã bao lần anh tự nhủ: "Mình chưa đâu. Ai lại chóng thế được!". Anh vẫn trầm mặc một cách khó tính. Cô vẫn giữ vẻ bướng bỉnh thường lệ. Nhưng như ai đã nói: "Lửa âm ỉ là thứ lửa dễ thổi bùng". Một hôm, anh ra chỗ vườn hoa quen thuộc để đọc sách như vẫn thế mỗi tối thứ tư thì thấy cô đang ngồi tư lự đúng nơi chiếc ghế anh vẫn ngồi. Tay cô vân vê một đóa hoa mua nhỏ. Đêm ấy, mùi thơm thoang thoảng của một làn tóc và vị êm ngọt của một đóa môi theo anh vào giấc ngủ. Vậy đó, họ yêu nhau. Anh yêu tha thiết như bất cứ ai có trái tim nén lại lâu ngày. Cô cũng vậy, như đi vào một thế giới vừa quen, vừa lạ.
               Có lẽ hắn ta đã có được chất men xúc tác cho mạch văn của hắn đây. Bạn anh nghĩ vậy. Khốn nỗi anh còn thì giờ đâu. Ngoài công việc ra, anh chỉ biết có tình yêu. Cả đến đọc sách, xem hát, đá bóng, bơi lội là những thứ trước đây anh rất ham nay anh cũng sao nhãng. Nguy hơn là khả năng cảm thụ và ghi nhận thế giới xung quanh của anh hầu như tê liệt đi. Cả những "vốn cũ" cũng có cơ trở thành "kí ức" xa xăm sẽ chìm dần trong quên lãng. "Sống đã rồi mới viết được". - Một lời tự nhủ. "Sống và viết". - Một tiếng thầm nhắc nhở. "Sẽ đến lúc tình yêu nhập vào nhịp sống bình thường và thành tiềm lực sáng tạo". - Một câu tự an ủi. Song tình yêu chẳng trở nên êm ả như anh tưởng. Bốn tháng đã qua từ ngày họ chính thức yêu  nhau. Những gì…(nhòe)
               … Thường thì cô im lặng, không vui. Anh đã nói thiệt tình. Yêu mà tỉnh quá thì không hay. Nhưng xây hạnh phúc cũng như nhen niềm tin, không được mù quáng. Phải vậy không? Thật là khó. Nhạy cảm và nhẹ dạ, bồng bột và xốc nổi, say đắm và đam mê - ranh giới là đâu? Song le, tình yêu khó "nghe dòng đời thao thao lí sự". Những ngang trái nho nhỏ vẫn chưa làm giảm cái vị nồng ấm của cái hôn chia tay trong làn sương đêm dường như được ướp hương…(nhòe).
               … Bà mẹ, hội trưởng phụ nữ một tỉnh trung du, biết rõ con gái hơn chồng. Đồng ý là "không thể kết nạp vào gia đình này một chàng rể xoàng - không là đảng viên", nhưng bà đã thấy trước mệnh lệnh của ông bố - tham mưu trưởng sư đoàn sẽ thất bại. Con bé vốn ương ngạnh. Nhưng nó lại hơi lãng mạn. Còn thằng ấy thì sao nhỉ? Đôi lứa nào mà chẳng có ít nhiều khác biệt giữa hai người. Biết điều hòa, sự khác biệt sẽ tăng thêm ý vị cho tình yêu và hạnh phúc. Trái lại, biết lái hoặc không biết lái, sự khác biệt ấy sẽ trở thành đối kháng. Phép biện chứng đã dạy như thế mà. Bà vừa theo một lớp chính trị tập trung, bà còn nhớ lắm. Vấn đề là… (nhòe)    
               … Yêu anh, em khổ. Mất anh, em còn khổ hơn.
               Anh chưa kịp rùng mình, cô đã ghì chặt anh hôn tới tấp lên mắt, lên môi.
          Đêm, anh thao thức rất lâu. Bức tường đã nhú lên rồi đó, dù là trong suốt. Có lẽ họ chưa có can đảm nhìn ra sự thật đáng đau buồn. Nói đúng ra, có lúc dường như cô đã ngán anh. Khi e ấp mối tình đối với anh, cô có phần nào tiểu thuyết hóa nó. Những lời âu yếm, những cử chỉ trìu mến, những gì toát ra từ con người anh, toát ra từ cả những sự thận trọng dè giữ của anh, không như cô hằng tưởng tượng và chờ đợi. Có lần cô đã ghi vào nhật kí: "Chẳng hiểu sao trưa nay gặp anh, mình lại có cảm giác là lạ không muốn tiếp ấy". Tuy vậy, đêm đến, thế giới thuận tiện của tình yêu, cô vẫn nóng lòng chờ đến giờ hẹn và, nếu anh chậm đến, vẫn xao xuyến đón nghe từ xa bước chân anh. Cô thấy khó mà xa anh, ít ra là trong lúc này. Còn anh? Khi bị dằn vặt quá, anh muốn dứt khoát. Lí trí anh thôi thúc, nhưng anh biết mình sẽ rất đau lòng. Lần đầu tiên trong đời, anh yêu thực sự và sâu sắc. Có đêm, anh trầm ngâm lâu lâu và cô lo lắng nhìn anh. Bao lần anh định nói câu cuối cùng, nhưng nhìn đôi mắt lặng lẽ dò hỏi của cô anh lại nao nao. Đôi mắt ấy vốn hồn nhiên, hay cười và đôi khi nghịch ngợm. Đôi mắt ấy từng gửi gắm anh bao tin yêu. Anh chua xót và bất nhẫn ngay với chính mình. Thật đáng tiếc! Nếu anh biết được bởi đâu mà tấm vách ngăn vô hình đã được dựng lên, nếu anh là người từng trải…  Quẩn quanh trong cuộc tình khó xử ấy, công tác của anh sút đi trông thấy. Anh cố gắng để khỏi tỏ ra uể oải, nhưng bạn đồng nghiệp cũng như học sinh của anh đều nhận thấy sự bất ổn nơi anh. Từng đêm, ánh đèn vắng lặng tỏa xuống chiếc bàn làm việc của anh trống trải. Bạn cùng phòng ở trỏ chiếc ghế bỏ không bảo nhau qua tiếng cười nửa cảm thông, nửa châm chọc: “Đấy! Chỗ của một người vốn làm việc nghiêm túc đấy! Đã thấy tác dụng của men tình chưa?”. Họ tưởng anh mải mê yêu. Có biết đâu… (nhòe)
               … Thường là bộ mặt trầm tĩnh của anh cúi xuống trang giấy tới khuya. Anh tự thấy công việc ì ạch. Có cảm giác tù túng, bức bối của người lâu ngày không tắm, da thịt bứt rứt, ám ảnh không thôi.
               Tối hôm ấy, trên chiếc ghế đá quen thuộc, hai người lại gặp nhau. Trăng rất sáng. Ánh trăng rải trên mặt hồ những mảnh vụn giấy trang kim lăn tăn theo gió làm xao động những ánh đèn điện vàng mờ và thưa thớt. Từ ít lâu nay, họ đã thôi cái "lệ" hôn "phủ đầu" rồi. Sau mấy câu lơ vơ, cả hai cùng im lặng. Anh đứng ghếch chân vào thành ghế, thong thả châm một điếu thuốc lá. Cô rứt rứt mấy ngọn cỏ lòa xòa bên chỗ ngồi. Một lúc lâu, nghe rõ tiếng muỗi vo ve. Đột ngột, tiếng anh cất lên, hơi rè, sẽ nhưng rành rẽ: "Em ạ, có lẽ chúng ta nên dừng lại ở đây thôi. Con đường chúng ta đang dắt nhau đi không hứa hẹn gì nhiều. Anh không phụ em. Anh rất trân trọng những gì trao đi và nhận được, và rất không muốn tình cảm một lần phải thương tổn. Nhưng biết làm thế nào! Dù sao, anh cũng không quên những kỉ niệm của chúng ta". Cô ngước cặp mắt to đen nhìn anh, như ngạc nhiên, như thảng thốt. Trong một giây, anh thấy mình như không tồn tại. Cô đã cúi xuống gục mặt trong lòng bàn tay, đôi vai mảnh mai giật giật. Anh ném điếu thuốc cháy dở xuống hồ, nhưng tay đâm ra thừa. Cô đã ngửng lên, mắt ướt nhìn thẳng và giọng bình tĩnh không ngờ, tuy môi cô hơi run: "Em đã dự cảm rằng sẽ có lúc anh nói với em câu đó. Em sợ giờ phút ấy, nhưng lại mong nó đến ngay đi. Hôm nay thế là xong. Anh đã muốn thế, em còn nên nói gì thêm nữa". Cô đứng dậy và như một cái bóng khuất vào sau hàng chuối. Cô, một người con gái vốn nhiều kiêu hãnh là thế.
                  Khuya, anh mới về đến phòng ở. Các bạn đã ngủ lâu rồi. Nhìn chiếc bàn của mình sách vở bề bộn, anh bâng khuâng như đứng trước một việc làm không trọn mà chẳng còn cơ hội làm lại. Anh lật tập bài làm dày cộm học sinh nộp đã ba ngày nay. Anh ngồi chấm được hơn một bài rồi lại đặt bút xuống.  Anh ngồi bần thần một lúc. Anh ngả lưng xuống chiếc giường đơn của mình, nhắm mắt nằm bất động. Chợt anh choàng dậy ngồi vào bàn rút ra một tập giấy trắng và cắm cúi viết. Anh viết mê mải. Đến lúc sáng bạch thì một truyện ngắn cơ bản hoàn thành. Chuyện có vẻ là chuyện cô và anh. Nhưng chỉ mượn cái khung đó thôi. Hay đúng hơn, nó chỉ giống đoạn đầu, đoạn đẹp nhất. Lai lịch các nhân vật và sự phát triển của truyện thì khác hẳn. Chàng là công nhân, nàng là cán bộ kĩ thuật trong một nhà máy do bố nàng làm giám đốc. Mẹ nàng cũng làm cấp dưỡng tại đó. Câu chuyện tình làm nền cho sự nghiệp của bộ bốn này trong khung cảnh một nhà máy toàn vẹn. Ông bố giám đốc là bộ đội chuyển ngành, tài ba, sáng suốt, hơi gia trưởng, nhưng gần gũi công nhân và được công nhân yêu mến. Chàng có nhiều sáng kiến, đôi khi ương và nóng tính, nhưng thủ trưởng biết dùng người. Tình yêu phải vượt qua một trở ngại lớn là bà mẹ muốn gả cô con gái rượu cho một kĩ sư. Tay này "chuyên môn đơn thuần", suýt bị một tên phản động lợi dụng. Bà mẹ dẫu là chiến sĩ thi đua của nhà máy có hơi phong kiến một tí. Truyện viết khá lôi cuốn với những cảnh lao động hào hứng, những pha yêu đương, những cuộc tranh cãi về công việc bằng những lời lẽ hoặc gay gắt, hoặc dí dỏm, hoặc đằm thắm. Rồi một chút hiểu lầm, một chút giận hờn, một chút thử thách bên tình, bên nhiệm vụ. Cuối cùng vui vẻ cả. Đám cưới tổ chức cùng lúc tiếng pháo mừng công nổi lên ròn rã. Hồi đó, một cuộc thi thơ văn cấp trung ương sắp kết thúc. Bạn anh gần như ép anh gửi cái truyện ấy đi dự thi. Bất ngờ đối với chính ngay tác giả, cái truyện ấy đã được giải. Người bạn đùa anh, nhưng cũng để khích lệ anh:    "Ngẫm trong lịch sử văn học thế giới, nhà văn lớn nào mà chẳng phải kinh qua đau khổ mới thành danh". Anh chỉ mỉm nụ cười buồn trước câu nói nhạt và hơi trơ của bạn. Nhưng bạn anh biết…(nhòe)
                … Phải một lúc anh mới nhận ra người học trò cũ, cậu học trò ngỗ nghịch mà anh đã cảm hóa bằng những bài giảng và tâm sức người thầy. Trước lúc từ giã, anh trung úy quân đội nói như nói vui: "Khi hành quân ra trận, chúng em nhớ tới thầy với lòng biết ơn. Nhưng khi phải chạm trán với những cái phức tạp của cuộc sống, có lúc em đã oán thầy".
                Cái vui - buồn, cái vinh - nhục của nghề thầy, nói đã nhàm rồi. Còn cái nợ giảng dạy văn chương còn lâu mới rạch ròi được. Công hay tội của người giảng, - có phần công hay tội của người làm ra tác phẩm… (nhòe)
                … Sao anh đăm chiêu thế? Bạn anh đến bên mà anh không để ý. Qua vai anh, người bạn nhìn thấy tập bản thảo của anh vẫn chưa thêm được chữ nào kể từ ngày anh viết mấy dòng đầu tiên.
                Không biết vô tình hay hữu ý, bàn tay đặt trên trang giấy nãy giờ từ từ co lại và tờ bản thảo dở dang vo tròn trong tay anh. Anh ngồi như vậy một lúc trong tư thế một người đang đuổi theo những ước mơ đẹp đẽ. Trăng đã lên cao, bầu trời xanh thẳm, những vì sao như càng lâu càng đi xa quả đất đang nhấp nháy vẫy chào trở lại. Gió rì rào trong kẽ lá những lời tình tự riêng tư. Khung cảnh thật thuận tiện cho suy tưởng hoặc cấu tứ, mà cũng thật lí tưởng cho những buổi hẹn hò.
                Hai người bước lên cầu. Những thanh gỗ long mộng lập cập dưới những bước chân. Bóng anh đi trước đổ dài trên mặt nước rung rinh như đang nhún nhảy. Đi chếch phía sau, người bạn cứ bị ám ảnh hoài bởi cái đầu đề quá kêu: "Tiểu thuyết của cuộc đời". Anh chẳng kham nổi đâu anh ạ. Ờ, mà chuyện cậu cũng có màu tiểu thuyết đấy. Song le, văn nghệ bây giờ chẳng thể dung nạp những bi kịch cá nhân. May mà mình không ôm mộng viết văn như hắn.  Bạn anh bỗng nói to cho át tiếng gió lao xao: “Hôm nọ trưởng ti hỏi cậu "nếu được đi xa thì có vướng bận gì không" là hàm ý gì nhỉ?”. Anh vung tay như để ném vật gì xuống hồ…
                                        (Bản thảo để cách một dòng)
                Tiểu thuyết của cuộc đời! Đâu là tiểu thuyết của mỗi con người.
                                 

                  *   *   *
                Bản thảo dừng ở đây với câu cuối cùng bằng cỡ chữ to và nét mực mới hơn những dòng trên. Truyện hầu như được viết theo nguyên mẫu. Vì sao lại dành khá nhiều dòng cho mối tình hẩm hiu - không đủ nêu gương lầm lỡ cho người đến với người, cho người đi vào cuộc sống? Những chỗ nhòe có xóa mất những gì sâu kín? Vì sao bỏ dở? Tôi biết hồi ấy trưởng ti có hỏi Thí - tên bạn tôi - câu trên. Hình như nhân có đợt tuyển thực tập sinh hay nghiên cứu sinh đi Liên Xô hay sao đó. Anh bạn tôi chẳng có gì vướng bận. Vướng thì có. Bạn bè Thí thì nghĩ ngay đến cuộc đấu tranh của anh với một tay chi ủy viên phụ trách công đoàn rất oách, cuộc đấu tranh mà kết cục là Thí bị mất danh hiệu "lao động tiên tiến" do chuyện yêu đương mãi từ năm trước "thiếu nghiêm chỉnh", lại "mất đoàn kết với thư kí công đoàn". Theo dư luận chính qui thì dường như bạn tôi vướng lí lịch: Thí có ông chú làm bác sĩ ở Hải Phòng di cư vào Nam, năm 1955. Bạn tôi chưa một lần biết mặt ông chú nọ. Mãi sau này khi Thí đi công tác B (công tác trong miền Nam thời còn chiến tranh), theo lệnh tổ chức anh đã tìm cách liên lạc để kéo ông ta ra "Rờ" (căn cứ kháng chiến) nhưng ông ta thoái thác, chỉ thỉnh thoảng lén gửi ra một ít thuốc men.
                Chuyện Thí đi B cũng là một chuyện hơi kì. Đi B là nghĩa vụ, chưa phải là quyền lợi. Được chọn đi B là một vinh dự đắt giá, nhất là trước năm 1973, không phải ai cũng vui lòng đón nhận. Có kẻ đã nói thẳng: "Thà mất sinh mạng chính trị, không thà mất mạng". Tổ chức đã chấm Thí, nhưng khi thấy anh "sẵn sàng" lên đường, người ta lại khoanh một dấu hỏi to tướng nơi hồ sơ anh. Anh đến gặp trưởng ti: "Tôi là tôi, chú tôi là chú tôi. Các anh hãy cân nhắc con người tôi, đừng mất công đắn đo vì một ông chú không chắc biết có tôi ở trên đời này. Tôi không nài đi để kiếm chút vốn liếng chính trị đâu".
                Sau năm 1975, Thí được chọn cử đi học ở một nước Đông Âu. Các anh phải qua một lớp tập huấn. Một lần, đáng lẽ đi nghe giảng, Thí lại bỏ đi dự một buổi sinh hoạt thiếu nhi. Trưởng lớp phê bình anh, anh nói: "Chẳng lẽ anh không biết ai giảng cho chúng ta hôm nay? Anh ta, anh và tôi vào giải phóng Sài Gòn cùng một ngày. Anh và tôi ra đây với chiếc ba lô lép. Còn anh ta thì vét rỗng ruột cả một biệt thự của một đại tá ngụy, thứ thì chuyển ra Bắc bằng xe con "công tác khẩn", thứ thì gửi người bà con buôn to trong đó. Bây giờ, anh ta lại lên lớp về đạo đức cách mạng cho chúng ta. Anh ngồi nghe mà lọt tai ư?".
                Thí được gửi trả lại nơi anh đã vào tiếp quản và được cử làm hiệu phó một trường trung học giúp bà hiệu trưởng vốn là trưởng ban điều hành nhà trường dưới chế độ cũ. Trong trường, số học sinh từ ngoài Bắc vào theo bố mẹ dần tăng lên. Anh có nhận xét là khá nhiều trong số này không có nề nếp và không chăm ngoan bằng số đông học sinh tại chỗ. Cái phiền là anh đã nói lên điều đó trong nhận định hàng tuần trước toàn trường. Rủi cho anh, có mấy học sinh "con nhà", trong đó có đứa hễ mở mồm là văng tục bị bạn học tẩy chay đã kết bè gây sự đánh nhau và đã bị kỉ luật - nhẹ thôi. Chính anh đã bảo vệ bà hiệu trưởng chống lại sức ép đòi bỏ qua chuyện đó. Không có "sự cố" kia thì "vạ miệng" của Thí cũng đủ bất hạnh rồi. Huống chi nó lại đến tai ông bố của trò nọ. Ông bố ngồi gật gù theo nhịp xỉa răng sau bữa cơm tối, nghe ông con tường thuật một cách hài hước xong, chau mày nói với vợ cũng là một bà làm to: "Giáo viên gì mà chính trị non quá". Bà vợ khịt mũi: "Non chán đấy! Khéo lại mất cảnh giác". Hôm sau, trong buổi nghe thỉnh thị, báo cáo gì đó, ông ta chỉ cần "nhân tiện nói thêm" về một số vấn đề "đáng quan tâm" cũng đủ để các bộ phận khoa giáo, an ninh phải động. Thí được mời lên ăn ở tại một phòng "dành riêng" của tổ chức để bình tâm mà viết "tường trình" sự việc. Coi đây là một dịp để đề đạt những suy nghĩ hằng nung nấu về chiều hướng xấu của chất lượng giáo dục, anh sử dụng gần như toàn bộ luận chứng của một luận văn mà anh đã bỏ ra gần một năm thời giờ rảnh hiếm hoi để viết, định gửi cho tạp chí "Nghiên cứu giáo dục" (Giá anh biết được cái việc "nghiên" ấy chưa hề "cứu" được cái gì!). Nhưng người ta chẳng quan tâm điều anh đã nói ở trường đúng hay sai mà hỏi những chuyện khác hẳn, chủ yếu xoay quanh việc ông chú anh trốn  sang Mĩ sau ngày giải phóng và quan hệ giữa anh và bà hiệu trưởng độc thân. Bà này hơn anh năm tuổi, sống với một người cháu gái trong một biệt thự khá sang mà anh chưa một lần bước chân vào. Chuyện có cơ xé ra to. May thay! Các vị cha mẹ học sinh nọ được đề bạt lên trung ương. Người ta bèn nhãng chuyện Thí, bởi xét cho cùng, nhận định của anh chỉ khó nghe thôi chứ chẳng đụng mảy may đến cái ghế và cái thế làm ăn của một ai cả.
                Anh xin trở về Bắc. Người ta không khoái nhận lại anh lắm. Anh tự nguyện làm một giáo viên thường. Và anh được cử về trường do ai lãnh đạo các bạn có đoán ra không? Chính là nhân vật "cô" trong thiên truyện bỏ dở của anh. Thiên truyện của anh thì bỏ dở mà chuyện đời cứ vần xoay. Muốn viết tiếp "tiểu thuyết của cuộc đời" hẳn phải sửa sang lại nhiều thứ. Cô giáo non trẻ không đáng tin về chính trị vì "yêu đương lãng mạn" ngày nào giờ đây là bà hiệu trưởng già dặn một trường trung học trọng điểm được cấp trên ưa. Buổi anh trình diện nhậm chức diễn ra hoàn toàn hợp với "tinh thần đồng chí đồng nghiệp". Giữa hai người là mặt bàn nhẵn lì, chủ nhân đã gạt sang bên mọi sổ sách, giấy tờ và đặt lên đó một tách nước hình như không được nóng lắm. Anh nhắc đến kỉ niệm về một người bạn chung đã khuất của hai người, nhưng cô, à bà, nhíu mãi trán mà chẳng nhớ ra. Anh bèn chủ động thôi các câu giao đãi. Chẳng có gì oái oăm cả đâu. Trong bộ não con người đâu có góc nhớ của bộ óc điện tử. Mà nếu có thì nó mang "chất người" chứ không phải "chất máy". Máy không biết linh hoạt như người, không biết khi nào thì cần viện dẫn quá khứ, khi nào thì nên xóa toẹt đi.
                Dạo ấy, tôi ít gặp Thí. Tôi được "vinh thăng" nhiều nhiều. Nếu gặp anh luôn, tôi ngại sẽ hết chuyện để nói. Hôm anh cưới vợ, tôi có được mời. Anh lấy một cô kĩ sư, học trò cũ của anh. Ngày trước, cô đã rất mến anh, nhưng anh không bước qua ranh giới. Cô gặp lại anh khi về nước và nhận công tác gần chỗ anh. Thí được một bạn đời chân chất và đôn hậu. Song chẳng bao lâu, anh phải mang một nỗi khổ tâm: bà vợ nhìn nhận cuộc đời quá ư đơn giản. Một cách bất tự giác, bà muốn truyền cho chồng triết lí thỏa hiệp. Chẳng biết có lúc nào bà tự hỏi: Nếu chồng bà luôn luôn "ngoan ngoãn với cuộc đời" thì hồi xưa bà có "thương" được hay không?
                Tôi vẫn không quên cái mộng văn chương của Thí. Tôi nhớ tới nó với cái cười thầm khoái chí, song cũng thương hại bạn. Tội nghiệp hắn ta! Giá vào thời văn chương tư sản thì có khi hắn vớ to. Đời hắn toàn bị kịch. Tôi tưởng vậy. Hắn yêu cũng lẩm cẩm. Trong cuộc tình của Thí năm xưa, tôi cứ đinh ninh là anh bị "một cú chân guốc sút tung lưới". Con người ấy thuộc tạng người cạn nghĩ, ít hiểu đời, không biết cách sống, lạc lõng ngay đối với người vợ yêu thương. Cái nghiệp của hắn, nói mạn phép cụ Nguyễn Du, xem ra "ở không yên ổn, ngồi không vững vàng". Tôi tự hài lòng mình và tự hào về mình.
          Mấy năm sau, vận may không cười với tôi nữa. Những bạn cánh hẩu lần lượt quay lưng lại khi tôi vấp với một cấp trên quyền thế. Cái thang lợi và danh, nó cũng hẹp và khúc mắc. Leo mà không biết đội, chen và huých thì có ngày lộn cổ. Tôi chồn chân và cũng dẫn tỉnh ngộ ra: Tim mình chưa đủ lạnh, óc mình chưa đủ đen để bon chen. Tôi muốn yên phận và mới thấy rằng sống như Thí chẳng dễ chút nào. Tôi năng đến với anh. Và anh như không hề biết đến cái cao ngạo của tôi những lúc nào đó. Chẳng phải vì anh có ít bạn thân. Có quá nhiều bạn thân thì có khi chẳng thật sự thân với ai theo đúng nghĩa của từ đó cả. Dù rất quí anh, tôi vẫn nghĩ tiếc cho anh. Anh có khả năng, có chí, có lòng. Anh không thức thời chăng? Có lẽ anh ngây thơ. Hình như người trung thực nào cũng có chút ngây thơ. Và cả tin, có khi cả nể nữa. Thế giới này hẳn sẽ buồn đi biết mấy nếu không có những người ngây thơ và cả tin. Tôi mơ hồ cảm thấy anh vừa cả tin, vừa cố chấp, ngay trong tình yêu. Có phải vậy không? Nhưng mà thôi!
                Giờ đây, con người ấy chẳng cần gì những suy đoán, những đánh giá của tôi. Cũng như trước đây, những suy đoán, những đánh giá theo thói thường ít bận đến anh.
                Giữ cho "mình vẫn là mình", cái ấy đắt giá làm sao, mà lại vô nghĩa lí làm sao!
                Tôi ra chốn cũ. Sau chiến tranh phá hoại của giặc Mĩ, vườn hoa được sửa sang tạm bợ trong khi chờ qui hoạch hoàn chỉnh mở mang thị xã. Một thời, đó vẫn là nơi tình tự lứa đôi. Dăm năm trở lại đây, chốn ấy không còn an toàn vào ban đêm, ngay cả khi chiều vắng, nên trở thành hoang lạnh. Cái ghế thân thuộc của bạn tôi xưa kia vẫn còn đó, lưng bị sứt và chân bị lún sâu trong cỏ, phơi ra dưới ánh trăng. Không còn những bụi chuối. Không một ngọn đèn điện. Tôi ghé ngồi xuống ghế đá muốn mường tượng ra bóng dáng bạn ngồi trầm tư nơi đây ngày nào mà không sao hình dung nổi. Bởi kí ức về bạn cứ loang loáng như ánh trăng trên mặt hồ kia.
                Nếu ông còn có thể nghe được lời tôi, liệu tôi có nỡ và dám nói với ông: "Dù sao thì anh cũng hơi gàn. Làm gì mà cứ phải loay hoay với tiểu thuyết của cuộc đời. Các tấn kịch chưa đủ sao?". Nghĩ đến đây, tôi giật mình. Tôi có tham gia vào vở bi kịch đời nào không? Hài kịch nữa? Bỗng dưng tôi thấy thương mình vô hạn, rồi tại tự giận mình. Bạn có thấu hay chăng?

          VIII - 1987
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.04.2009 00:16:17 bởi Khải Nguyên HT >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9