Khải Nguyên HT
-
Số bài
:
270
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 28.01.2009
- Nơi: Hải Phòng - Việt Nam
|
RE: GHI DƯỚI BẦU TRỜI VIỄN XỨ.-bút kí (nhiều phần)
-
07.03.2009 10:56:24
8. Thị xã nằm ngang xích đạo Trên bản đồ địa lí, xích đạo tồn tại như một sự chia cắt nam bắc mặt địa cầu. Có thời người ta dành cho nó một vạch đỏ (có phải vì thế mà được dịch ra là “xích đạo”?). Nghe nói trên mặt đại dương, mỗi khi vượt qua xích đạo, tàu bè phải làm thủ tục “cụng li” với thần biển. Do vậy, khi bạn đồng nghiệp sở tại cho biết y đang đứng ngay trên xích đạo, y thất vọng cho cảm xúc của mình. Y vốn hay tưởng tượng. Y có thể tìm được điều gì đặc biệt ở đây? Cũng vẫn là mặt đất phẳng hoặc lối lõm như bất cứ nơi nào khác. Bên bờ sông có một cột mốc đánh dấu xích đạo, người Pháp dựng từ thời xa xưa. Cột hình trụ cao tầm nửa người được xây bằng xi măng hơi xiêu về phía bắc, nom thô kệch, chẳng ghi một chữ gì. Y làm một bước nhỏ: “Ta đã từ Nam bán cầu qua Bắc bán cầu”, làm một bước nhỏ trở lại: “Ta đã lại từ Bắc qua Nam”. Một trò trẻ để gợi, nhưng chẳng gợi được gì nhiều. Nhà y hiện đang tạm ngụ, cách cột mốc gần sáu kilômét về phía tây, cũng kề ngay xích đạo. Y nhiều lần dẫm lên xích đạo mà không biết đấy thôi. Một lần, chủ nhiệm khoa dẫn y đi xem chỗ đánh dấu xích đạo chạy qua khu vực trường. Một cái hình lòng máng đường kính độ 3cm in lõm vào mặt trên rìa móng một cái nhà vốn thuộc nhà thờ gia tô Lamã xây từ những năm 40, hồi còn mồ ma thực dân Pháp. Xích đạo cắt qua Macua ở mạn bắc. Thị xã này được qui hoạch sau ngày đất nước được trao trả độc lập đầu những năm 60 thế kỉ 20. Ý đồ ban đầu chắc cũng định xây dựng một đô thị nghiêm chỉnh, hiện đại. Trên các triền đồi khá phẳng chỉ nhấp nhô tí chút, các đường phố thẳng ngang dọc chia ô. Đường vẫn còn là đường đất, đất pha cát, mùa nào xe cũng chạy được. Trung tâm thị xã có một cái chợ. Quanh chợ có những cửa hàng tư nhân bán lương thực, thực phẩm, tạp hoá, hàng may mặc, thuốc men... của người nước ngoài: Mali, Môritani, Ả rập... Người Môritani nói: “Người Công-gô thích làm công chức; còn chúng tôi chỉ buôn bán. Nhưng chúng tôi gặp nhiều khó khăn, thỉnh thoảng lại nhận phiếu đòi nộp khi 5000FCFA, khi 7000FCFA (tương đương 18USD, 25USD)”. Đặc biệt có một siêu thị quốc doanh cao rộng với nhiều dãy quầy hàng. Giám đốc học vụ dẫn bọn y đi để làm quen với cung cách mua sắm, nói: “Nhân viên siêu thị chỉ ngồi ngáp thôi. Giá hàng ở đây luôn cao hơn ở ngoài. Hàng ế, giám đốc vẫn lương đều và có nhiều thì giờ để chạy kiếm chác”.(Có hồi y hâm mộ và ủng hộ “quốc doanh” cả trong ý nghĩ cả trong thực hành -mua hàng, nhưng rồi y rầu lòng nhận thấy quốc doanh làm ăn bết bát, kể cả ở nước tư bản như Pháp thời Mitterand,vị tổng thống từng quốc hữu hóa một số doanh nghiệp) . Thị xã đã có dấu hiệu đình trệ. Nhiều nhà xây dở dang rồi để đấy cho cây dại mọc gần như che lấp. Đường sá không được tu sửa và nâng cấp. Chưa có điện lưới, vẫn phải xài điện máy nổ. Một đoạn dài đường ống nước bị xe cán vỡ vẫn để đó... Cảnh sắc ngoại vi được y ghi nhận trong đoạn nhật kí sau đây: “Massamba đưa đi chơi ngoại thị. Qua nghĩa trang mình đi kiếm hoa ngày nọ nay có M. cùng đi không thấy rợn. Nhiều ngôi mộ xây lạ kiểu, sang trọng với các loại gạch men đẹp, trên phần đất rộng rãi không chen chúc, xung quanh trồng cây và hoa. Ở Việt Nam mình chưa thấy nghĩa trang nào “sang“ như thế. Hẳn chẳng phải là nơi yên nghỉ của người nghèo; có lẽ có liên quan với khu nhà thờ và nhà dòng giatô giáo ngày trước khá qui mô (một phần trường dòng đã bị quốc hữu hoá hồi “cao trào cách mạng” cách chưa tời 25 năm). Đứng ngoài nhìn vào, phần lớn nghĩa trang bị cây cối che lấp. Cây tự nhiên hơn là cây trồng. Có vẻ như ít được chăm nom. Con đường cũ từ trường ra sân bay lau lách mọc đầy, có cả những cây gỗ đã lớn. Mass chỉ cho thấy một cái bẫy các thú lớn nằm ngay ở nơi vốn là mặt đường. Qua một cái trang trại cỡ quốc gia, một thứ nông trường quốc doanh, rộng hàng trăm hec-ta, chuyên trồng sắn, bỏ hoá đã 5 năm. Nhà văn phòng xây đẹp, để không. Các xưởng sửa chữa và nhà chứa xe đầy các loại xe kéo, xe tải, máy cày... cái còn lành, cái đã hỏng. Phí phạm biết bao! Lại còn “tốn” người coi giữ. Đất cũng phí phạm: để cỏ và lau lách tung hoành, còn dân muốn trồng trọt lại phải đi xa dăm ki-lô-met nữa, không được đụng vào nông trại của nhà nước! Mass nói: “đang định phục hồi”. Nhưng bao giờ? Mass nhún vai, giang hai tay ra. Ngoại vi vẫn còn một màu hoang vắng. Không phải đồi cây, không phải đồi trọc, rậm cây con và cỏ tranh. Trời chiều (16g30), nắng nhẹ, gió thoảng mát. Đường cái từ Ma-cua đi Ê-tum-bi (étumbi), Ken-lê (Kellé) sang tận Ga-bông (Gabon) khá thẳng, phẳng và “dễ trông”, song rải đất đá ong (laterite). Chỉ gặp mỗi cái ôtô. Gặp nhiều người đi trồng sắn, nữ và nam, người lớn và trẻ con, vác cuốc, kẻ đi xe đạp, người đi bộ; họ phải vào tận ven rừng. Đường rẽ vào sân bay nom “thảm” hơn. Sân bay, đường băng chính rải la-tê-rit; chỗ máy bay đậu và đường dẫn vào đó là đường đất bình thường lúp xúp cỏ, cằn và xác. Khu “cơ quan” và nhà ở lèo tèo dăm ba nhà rải rác nằm phía ngoài sân bay. Không có dân cư. Mass cứ tiếc không gặp được hai tay coi khí tượng để nhờ họ hướng dẫn xem chỗ này chỗ nọ”. “Quãng đường từ sân bay đến thị xã chừng ba ki-lô-mét, hai bên không có dân cư, không có dấu hiệu canh tác. Chỉ thấy hai nơi nhà hoang. Một nơi , có hai nhà xây khá to, chững chạc, chủ nhân có lẽ sợ hẻo lánh nên đã bỏ đi. Nơi khác, cạnh ngay đường lớn, tuy là biệt lập song ở vào một vị trí mà bên ta nhiều người mơ ước, sau khi người chồng chết, vợ con cũng tếch”. “Đường về, trời bảng lảng, cảnh hoang vu trải rộng. Bốn chung quanh sương chiều dâng màu khói xám xanh lưng chừng rặng cây xa. Một chiếc xe máy từ phía Ê-tum-bi chạy về – một chàng Tây đen chở một nàng đầm đen, phóng như bay, vạch một nét thật nên thơ lên cảnh vật hoang sơ. Nét đẹp của văn minh cơ giới đâu dễ có được! Một chiếc ôtô từ phía sau chạy tới. Mass bảo mình dạt vào mé đường tránh: “Ở đây hoang vu, bọn lái xe có thể bạt mạng”. Ở nước ta sự bạt mạng có thể xảy ra cả trên đường phố! Phương tiện văn minh chưa đủ làm nên nền nếp văn minh.” Thị xã có một trường li-xê (tương đương trường phổ thông trung học của ta) dành cho cả “vùng”. Vốn là trường do nhà thờ quản lí. Trong khu vực trường còn di tích một tháp chuông bị phá trong đà cách mạng. Khuôn viên trường khá rộng. Các nhà học một tầng có từ hai đến bốn phòng được xây cách biệt nhau. Rất nhiều đất trống, cỏ lau mọc đầy, “công dụng” chính có lẽ là để các học sinh bị phạt đến phát chục mét vuông gì đó; cũng hoạ hoằn thôi. Ngay cả sân vận động thỉnh thoảng có chơi bóng mà một đầu sân cỏ mọc ngang nửa ống chân. Trường có khu nội trú cho số học sinh ở xa. Nhà ở, bếp ăn, một thời qui mô và hiện đại. Massamba dẫn y đi thăm thú, trỏ cho y thấy những bếp dùng hơi đốt, những buồng lạnh hỏng để trơ đó. Trước sân, một chiếc ôtô nằm xệ trong cỏ ngập lút bánh xe. Cách chưa tới mười lăm năm! (Theo như sự biết của y thì cho tới lúc đó ở Việt nam chưa có bếp ăn tập thể nào của học sinh, kể cả ở đại học, được trang bị bếp hơi đốt, buồng lạnh). Nhìn chúng, thấy một sự trễ tràng, một sự bỏ phí, bỏ mặc... Nước này, năm ngoái, mới kỷ niệm hai mươi năm cách mạng, sao sớm có dấu hiệu suy vi? Ở một trường khác, trường Côn-le (tương đương trường trung học cơ sở của ta), có khá hơn, khá hơn cả một số trường ở Việt Nam mà y từng đến. Đọc trong nhật kí của y: “Chiều, một mình thả bộ thăm thú. hai thanh niên đi một chiếc xe đạp tới chào và hỏi chuyện. Họ là hai học sinh trường li-xê. Họ hỏi mình có biết đi xe đạp không (hỏi một người Việt Nam thời này có biết đi xe đạp không thì cũng ngộ như hỏi một người Pháp, chẳng hạn, có biết lái ôtô không). Xe cao, bánh cỡ 700, lốp to tựa lốp xe đạp máy; đạp khá nặng. Mình cưỡi loạng choạng như kẻ mới tập đi. Xe đạp ở xứ này hiếm. Ngay ở thủ đô, người dân hoặc có xe hơi, xe máy riêng (không nhiều) hoặc đi xe buýt, không đi xe đạp, càng không đi bộ. Hai cậu học sinh dẫn mình đi xem trường Côn-le. Đang nghỉ học kì, trường chẳng có ma nào canh giữ. Quanh trường rào bằng cành cây sơ sài. Cổng ngõ không có cánh cửa. Vậy mà chẳng bị ai vào phá phách. Một dãy dài nhà học một tầng cách quãng đều đặn vừa phải, xây khá đẹp, thẳng hàng. Nhìn qua kính cửa sổ (chẳng có song sắt bảo vệ) thấy bàn ghế nghiêm chỉnh, các phòng học phong quang, sạch sẽ, không có ghi tên lưu niệm và vẽ bậy như ở trường li-xê. Tiếc rằng trước và sau trường, nhất là sau trường, đất rất rộng mà thiếu qui hoạch hoặc thiếu sự chăm sóc cần thiết để làm đẹp hoặc làm lợi (gần được như bên ta(!)). Chẳng có vườn hoa, cây cảnh; mà cũng chẳng có cây ăn quả, cây bóng mát. Vườn trường phía sau thì hoang vu quá đỗi.” Ở trường li-xê, khí thế cách mạng dấy lên từ 1963, chỉ còn lưu lại ở một số hình thức. Các bức tường đầu hồi các nhà học kẻ to các khẩu hiệu rất kêu, trong đó có đến ba câu là của chính hiệu trưởng mới được đổi về từ đầu năm học, và đây là một câu: “Như phượng hoàng phục sinh từ đống tro tàn, chúng ta vươn lên xây dựng ngày mai!”. Lễ chào cờ đầu tuần, bao giờ hiệu trưởng cũng đứng thuyết giảng hàng nửa giờ đồng hồ. Họp mặt đầu học kì, một bộ sậu “chủ tịch đoàn” kéo lên bệ cao y như lễ đài, gồm: hiệu trưởng ngồi chính giữa, hai bên là giám đốc học vụ, bí thư Công đảng, chủ tịch công đoàn, bí thư thanh niên, quản trị trưởng, tổng giám thị. Hiệu trưởng dành hơn một giờ đồng hồ để huấn thị cho các giáo sư mới vào nghề, nhấn mạnh và nhắc hoài đến cái từ “hi sinh”. Buồn thay! Ông ta vừa bỏ đi du ngoạn thủ đô, học kì hai bắt đầu một tuần rồi mới về. Trường vào học chẳng có ai điều khiển. Giám đốc học vụ cũng đi chơi ở thủ phủ vùng về muộn. Hiệu trưởng tuyên bố bế mạc cuộc họp. Một người ngồi gần cửa định chuồn trước, ông ta ngăn lại “phải để cho chủ tịch đoàn ra hết đã”. Trường có ba ban: Triết, Toán và Sinh vật. Học sinh lớn lộc ngộc, nhìn chung có vẻ chất phác, tuy vẫn ló ra đây đó vài mánh láu cá vặt trong “quay, cóp”. Trong học sinh, có số theo đạo Hồi, một số thì theo đạo Gia tô. Một nữ sinh học khá cho biết cả nhà cô ta theo đạo Hồi, song cô lại cải theo chúa Giê-su. Số học sinh nam nữ xấp xỉ nhau. Các học sinh đối xử với nhau tự nhiên, lịch sự; đến trường gặp nhau là bắt tay đàng hoàng, nam nữ đều vậy. Không thấy vụ ẩu đả nào. Cãi nhau to tiếng cũng không. Có một số học sinh khá, tiếp thu nhanh. Trốn học nhiều, có khi đến một phần ba lớp; không thấy bị phạt. Không có chuyện gò tỉ lệ lên lớp, tỉ lệ thi đỗ như ở Việt Nam. Không có chuyện “xin điểm”. Thi tú tài, con số đỗ rất thấp. Thị xã U-et-xô (Ouesso) ở địa cầu phía bắc, mấy năm liền, ban Toán chẳng có ai đỗ kể từ khi có trường trung học. Năm học 1987-1988, họ mời chuyên gia Việt Nam dạy, có bốn học sinh thi đỗ, một “sự kiện”! (Chắc họ cũng có bệnh “thành tích” song không “đàng hoàng”- ở mọi lĩnh vực- như ở ta!). Hôm ấy, trường Macua họp rút kinh nghiệm kì thi thử tú tài. Hơn trăm thí sinh, chỉ mười người có thể tạm coi là đỗ, trong đó chỉ có một người đạt thật sự,-trên mười điểm một chút (thang điểm 20), còn thì phải lấy từ 8 điểm trở lên. Hiệu trưởng nói gần như suốt cuộc họp, phê phán các giáo sư “quá khoan dung với học sinh” hoặc “chểnh mảng” công việc. Nhiều ý kiến phản đối, song không nói mạnh như khi họ ngồi riêng với nhau. Cũng có người nói tới “sự thiếu tin tưởng” ở “việc quản lí”. Giám đốc học vụ bị chỉ trích về chuyện cho thi vấn đáp bổ sung kiểm tra học kì ở một khối lớp, theo gợi ý của một chuyên gia Việt Nam, đã nghiêm nghị đáp lại: “Tôi đã mười năm trong ngành giáo dục, tôi lại có chân trong Công đảng, tôi không cần giải thích việc tôi làm. Các ông còn trẻ, ít nữa các ông sẽ hiểu”. Họp kéo dài mà tác dụng thì rút ngắn. Có lẽ “họp dai” là căn bệnh của các xứ chậm phát triển, tất nhiên chẳng trừ nước ta! Một số giáo sư bản xứ nói riêng với y: “Ở đây quá nhiều khẩu hiệu, quá nhiều chính trị, quá nhiều hoạt động phi học đường”. Có lẽ đúng vậy, mà không phải chỉ do vậy. Có lần, học sinh đang học thì hiệu trưởng vào xua đi xếp hàng rào danh dự đón thị trưởng và một số quan khách đến dự đại hội chi bộ của đảng cầm quyền. Một lần, y lên lớp thì thấy vắng tanh. Trường tổ chức trồng cây nơi đâu chẳng biết, trong khu vực trường thì toàn đất hoang. Những lần khác, học sinh nghỉ học để làm mít tinh mừng mười năm chấp chính của tổng thống đương nhiệm, để biểu tình chống đế quốc,v.v... Một giáo sư bản xứ dạy Anh văn châm biếm: “Vậy đó, chính trị trên hết. Và phải biết nghe lời; ông mặc áo trắng, người ta bảo áo xanh thì phải gật nếu không muốn là phản cách mạng”. Còn học sinh, có người nói thẳng với y: “Người ta chống đế quốc bằng các bài diễn văn và các biểu ngữ". Xem ra các nghi lễ, các thể thức đều trở nên lẩm cẩm và lố bịch cả ngay trong con mắt của chính học sinh! Dẫu tôn trọng bạn, bọn y không khỏi mỉm cười khi nhận bản đánh máy trang trọng lời kêu gọi của chủ tịch công đoàn trường gửi từng giáo sư nhân kiểm tra học kì. Có cái gì đó “giống ta” trong cái “khác ta”. Chương trình và nội dung giảng dạy trong trường cùng việc điều hành mô phỏng của Pháp; các tổ chức đoàn thể lại na ná ở các nước xã hội chủ nghĩa, về hình thức. Môn triết, được học mọi chủ nghĩa, mọi học thuyết chủ yếu từ thời cổ đại; năm cuối mới học đến chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong đời sống chính trị, chủ nghĩa Mac-Lênin được nói tới nhiều. Dường như chủ nghĩa này là một thứ bùa phép hay thần chú để hô hào quần chúng, tập hợp và tổ chức họ, điều khiển họ, hơn là thực sự áp dụng vào cuộc sống. Trong tầng lớp những người có học ít nhiều, nghĩa là ít ra cũng biết giao tiếp bằng tiếng Pháp, có những ý kiến bất mãn.Tuy nhiên, họ có ý thức tuân thủ luật lệ, đôi khi đến mức thụ động.Một ví dụ nhỏ: đường điện vào các nhà bị trục trặc một chút nơi một cột điện bên đường khiến mất điện, phải chờ người đến chữa hàng mấy tuần, chẳng một ai tự động treo lên chỉnh lại,-“phải được phép của sở điện!”. Nếu là ở ta thì... tự do mà tự lo! Tại thị xã Macua có cả giáo đường đạo Hồi, cả nhà thờ đạo Cơ đốc La mã. Đạo Cơ đốc có vẻ nổi trội hơn. Có cả một chủng viện qui mô vừa. Học sinh của viện được gửi qua trường trung học để học phần văn hoá (nơi vốn là của họ bị sung công). Một chiều y lang thang dạo chơi qua chủng viện. Một học sinh trường dòng bắt gặp bèn dẫn đi xem phòng học, phòng ăn, phòng ngủ; mọi thứ tương tự bên trường trung học song ngăn nắp, sạch sẽ hơn. Cậu học trò giới thiệu y với linh mục giáo vụ, một người còn rất trẻ. Y nói đùa: “Một linh mục mới tinh”, ông ta cười thoải mái. Linh mục mời y hôm sau, chủ nhật đến chơi. Thời ấy, giao thiệp với người nước ngoài không vì công vụ, lại là với giới tôn giáo nữa, rất dễ bị phiền (với cơ quan an ninh của ta,-tất nhiên). Tuy vậy, y được các đồng hương tán đồng việc nhận lời. Bọn y ăn trưa cẩn thận rồi mới đi. Tưởng chỉ tiếp xúc xã giao, nào ngờ là mời ăn tiệc thực sự. Ngoài một số linh mục, tu viện trưởng còn mời một số giáo sư trường Côn-le của tu viện cùng dự. Tất cả đều là người bản xứ. Chủ giới thiệu rằng đây toàn là các món ăn kiểu bản địa. Khá thịnh soạn. Bánh mì, bánh sắn, sắn khúc luộc, cơm nhuộm vàng chiên dầu, cá rán, cá om, thịt rán, đậu hầm thịt, một thứ nộm... Đặc biệt, có một thứ mà người Công gô rất thích ăn làm bằng lá sắn giã nát trộn gia vị, thịt, cá sao đó. Người Việt ta thấy họ ăn thường nhìn nghi ngại. Hôm đó, y nếm thử thấy khá ngon. Khai vị và tráng miệng thì có bia, nước cam, cà phê, cam, ổi. Ăn kiểu Âu: trong đĩa với dao, nĩa. Các khách Việt chỉ còn cách nhấm nháp qua loa cho phải phép. Dù sao, y cũng đã nếm qua hầu hết các món và thấy không lạc khẩu vị người mình mấy. Chủ tiễn khách ra tận cổng. Bất ngờ, một trận mưa nhẹ chộp đúng lúc bọn y không đề phòng. Người ta hay “khủng bố” nhau về những bất trắc của châu Phi; trong đó có thời tiết. Thực ra, thời tiết Công gô khá dễ chịu. Y đã ghi lại, những ngày ở vùng xích đạo. Hôm nắng ráo -“ Hôm nay nắng đẹp, tiếng chim ríu rít đâu đây. Trông lên, chẳng có mảng nào “xanh ngắt mấy tầng cao”, vắng cái màu xanh thăm thẳm của bầu trời quê nhà. “Nắng có vẻ vàng hơn mọi ngày. Ít gió nhưng không gắt nắng . Sẽ giống mùa thu quê ta nếu có những vầng mây trắng bồng bềnh trên nền trời xanh ngút mắt. Ở đây, mây trắng đục và bầu trời, ngay cả khi vắng mây, lờ lờ một màu “xám-xanh” nhạt ảm đạm. “Một giờ chiều, lên lớp về thấy gió hiu hiu thổi tạt ngọn sắn, bỗng chạnh nhớ một cái gì xa xôi cả về không gian lẫn thời gian- một cái gì của thời ấu thơ và ở nơi nào khó còn gặp lại. Sau chợt nghĩ là gió Tây, đúng ra là gió Tây-Tây- Bắc. Gợi nhớ tới gió Tây ở miền Bắc Việt Nam và gió Lào ở miền Trung. Gió Tây ở Công gô mang hơi thở Đại Tây dương, “dễ thương” như gió Tây ở Nam Bộ nước mình, không “dễ sợ” như gió Lào (Tuổi thơ mình tắm trong gió Lào mà mình đâu biết sợ!). “Trưa nay, gió “phải chăng”. Trờì bảng lảng mây trắng trên nền xanh lơ xỉn; tuy vắng cái màu xanh da trời quen thuộc nơi quê nhà mà bỗng lâng lâng chút vui vô cớ. Ngả sang chiều, trời hơi nồng, gíó chuyển Tây-Nam, chợt lại ”tê tê” buồn. “Chiều xế, gíó Đông-Nam lay nhẹ các ngọn cây. Mấy thanh niên đi qua nói ở Macua phổ biến là gió Đông, thế mà từ hôm đến đây, chỉ thấy gió Tây-Tây-Bắc là chính. Gió Đông hay Đông Nam, có phải từ Ấn Độ dương tới, hay chỉ là gió lục địa Phi đổi hướng? Theo sách địa lí Công gô, gió Đông Nam ,lúc này chỉ có thể là gió lục địa Nam hoặc gió biển Ấn độ dương trộn với hơi ẩm rừng Phi châu. Bầu trời hiện tại đầy mây mà gió lục địa Nam thì khô! “Lúc hoàng hôn xuống có mù nhẹ tỏa. Sáng sớm, sương đọng ướt lá cây ngọn cỏ, kết trắng như mạng nhện là là mặt đất (thứ nước này vương vào bàn chân gây sưng đỏ các ngón chân và ngứa); nhiều lúc, nước tí tách từ mái nhà nhỏ xuống, mình đã ngỡ có mưa nhẹ trong đêm. “Đêm nay, sao rất sáng và dường như lấp lánh hơn sao ở quê nhà, song rất thưa. Muốn tìm sao Bắc cực, sực nhớ đang đứng cận kề xích đạo, sao này có thể bị khuất nơi chân trời. Cố tìm mấy chòm sao quen nhìn, quên rằng vòm trời đây chênh sáu múi giờ và hàng chục vĩ độ. Tâm tưởng nhại câu thơ Nguyễn Bính: “Ai ở bên kia đường xích đạo / Nhìn sao thao thức mấy đêm rồi?”. “ Hôm nay lại ra nhìn trời. Phía tây và phía đông bắc mây che. Một khoảng trời khá rộng, sao đặc hợn mọi hôm. Lờ mờ giải Ngân hà. Do trên trời cao giờ ít sương mù hơn hay đến cữ này bầu trời mới dầy sao?”. Mưa chiều – “ Từ bốn giờ chiều mưa rơi lộp bộp trên mái nhà. Nhưng ngoài vườn và trên đường chẳng có biểu hiện gì của giọt mưa cả. Đất pha cát của vùng phù sa mới làm các hạt mưa biến rất nhanh, hoặc bị hút, hoặc lăn đi. Một lát, mưa sầm sập cùng với gió Tây nổi mạnh, bứt là xoài tung đi tơi bời như là có bão (xứ này hình như không có bão). Lần đâu tiên gặp gió mạnh như vậy ở nơi đây. Gió chuyển dần sang hướng Tây-Nam, trong khi vẫn mưa xối xả. Rồi sấm, rồi sét, có vẻ như ngay trên nóc nhà. Chếch phía Tây vẫn lộ vầng mặt trời vàng nhạt không chói chang như nấp sau một tấm voan mỏng. Mưa thật dai, có lúc nhẹ đi một chút, song nói chung là dữ dội cho tới lúc tắt hẳn mặt trời. Điển hình của mưa xích đạo đó chăng?”. Mưa đêm –“Tối qua, khoảng 9 giờ, trời đột ngột mưa to, tiếng rơi rổn rảng trên mái tôn và rào rào trong các chòm cây. Những lá sắn loáng nước dưới ánh đèn cao áp. Mưa liên miên; mà đang là “mùa khô nhỏ” đấy! (Ở xứ này có “mùa khô lớn” và “mùa khô nhỏ”). Tiếng mưa đêm không bị pha tạp những tiếng động phố phường, chẳng gọi về “những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi” mà làm thức dậy những đêm bão lụt nơi quê hương, như một thứ kỉ niệm phải có trong đời một con người ít nhiều dây dợ với thôn quê. Sáng dậy muộn, tiếng chim lách chách ngoài vườn đánh thức. Tám giờ, trời vẫn đầy mây xám , song đã hửng”. Hôm nắng nóng –“Đã cuối tháng Ba, khó định mùa nơi xích đạo: -Xuân, theo Bắc bán cầu, hay Thu, theo Nam bán cầu? Sáng nay, gió Tây-Bắc thổi nhiều, có vẻ khô. Gần trưa, chuyển qua gió Tây-Nam. Trời vẩn mây trắng, nắng nhạt. Nắng và gió làm héo cải và đỗ trong vườn rau của mình. Những cây nảy mầm trên đất này từ những hạt đã được chở bằng máy bay qua các bầu trời Á, Âu, Phi. Tiếng gió lạc xạc trong các tàu lá chuối. Tiếng lục ục trên mái tôn dãn nở vì nóng. Gợi gió Lào. Nhưng trừ vẻ khô hạn, ở đây không có cái oi nồng, cái ngột ngạt, cái khô rang. “Trưa nắng đẹp. Nóng. Buổi nắng đẹp nào cũng gợi bâng khuâng. Trời gần như im gió. Không khí rung rinh trong nắng, nhất là trên các mái nhà. Những là sắn non uể oải vẫy... “Lên lớp về nhìn thấy trời xanh thật là xanh lần đầu tiên, bốn thàng rồi, màu thiên thanh quen thuộc của xứ sở mình". .
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.03.2009 09:54:47 bởi Khải Nguyên HT >
|