LẦN VẾT GIAI THOẠI,...,NỢ TRẦN,...,nỢ DUYÊN
Khải Nguyên HT 22.02.2009 11:51:45 (permalink)
Lần vết giai thoại
 -truyện ngắn-

 
 
          Truyện này viết ra ắt có thể bị cho là chuyện bịa, chuyện hoang tưởng, cùng lắm cũng chỉ được coi là giai thoại. Biết làm sao được! Có nhà văn lão luyện bảo : "Biết viết thì bịa mà như thật; không biết viết thì chuyện thật trăm phần trăm cũng là không thật". Tôi chẳng khéo viết, mà không viết thì lại chẳng yên lòng. Thôi thì ghi được giai thoại cũng đã là may lắm. Nhưng giai thoại là gì nhỉ? Phải chăng là chuyện đời ẩn náu sau những lời kể thường được đánh giá là chẳng mấy nghiêm túc?
 
          *  *  *
          Chùa Hương. Ngày xuân. Mùa hội. Người lũ lượt đi và leo. Thanh niên, người già, và cả con nít. Đủ sắc màu trang phục: trẻ trung, rực rỡ ; quê mùa, cũ kĩ ; sang trọng, lố lăng ; nghiêm chỉnh, chững chạc. Vừa đi vừa cười đùa; vừa leo dốc vừa tụng niệm. "A di đà Phật!" và "A di đà mệt!". Trên một bãi cỏ mơn mởn hơi cách xa lối đi, một toán sáu người ngồi vây quanh một mâm cỗ "dã ngoại" thịnh soạn. Cứ nghe khẩu khí của họ thì đó hẳn là các vị thượng lưu đời nay. Thức ăn đã dàn ra sẵn sàng. Những lon bia hộp chưa khui. Trước mặt mỗi người, một chén nước cay màu hổ phách đợi được chạm môi. Nhưng ở đây lúc này một sự im lặng ngưng đọng đang ngự trị, tựa hồ một mảnh nhỏ thế giới tách biệt với con đường nườm nượp khách lại qua. Ở đây, người thì nghiêng nghiêng mặt tư lự, tay xoa cằm; người thì nghếch nhìn chỏm núi xa; người thì khoanh tay trước ngực cúi soi mặt vào chén rượu; … Tất cả những con người ấy, dẫu có vẻ đang dồn sức nghĩ, thỉnh thoảng vẫn đưa mắt liếc nhanh một người mặt đỏ, dáng phổng phao, đang bệ vệ ngồi dựa lưng vào gốc một cây mơ già. Người này thì rõ ràng đang "vò chín khúc", đang "chau đôi mày". Chợt người trẻ nhất, hoạt bát nhất trong bọn, chừng ngoài ba mươi tuổi, hất cái đầu đội mũ phớt quát lên:
          - Này, bác kia! Nghiêng ngó gì thế?
          Mọi người giật mình nhìn lên. Một người chưa già, không trẻ, chân đi giày vải bộ đội, quần áo không sang, không tồi, không mới, không tàng, đến cạnh tự bao giờ. Anh ta đứng, hai bàn tay chụp lên đầu chiếc gậy lụi chống chếch trước mặt, đưa mắt điểm tiệc rượu, thản nhiên nói:
          - Tôi là khách vãn cảnh, thấy cảnh lạ thì ngắm thôi.
          - Cái gì lạ?
          - Thú Hương Sơn thu lại vừa đầy một mâm rượu thịt. Song cỗ bày ra không phải để cúng, mà cũng chẳng phải để ăn. Chẳng là đáng lạ sao?
          Anh mũ phớt gân mặt lên, nhổm người, nhưng rồi chững lại, hướng tới người mặt đỏ:
          - Thưa anh, cái anh này…
          Ông mặt đỏ khẽ hất một ngón tay, anh mũ phớt ngồi xệp ngay xuống, chĩa cái nhìn khinh thị sang kẻ quấy rầy:
          - Anh nên biết chúng tôi đang bận làm thơ. Đã có sáng kiến là ai nghĩ ra thơ trước thì được nâng chén trước.
          - Làm thơ à? Sao mà chậm chạp quá vậy? Thức ăn thiu hết còn gì! - Người lạ lắc đầu ra vẻ phiền muộn.
          Bấy giờ ông đỏ mặt mới ngồi thẳng dậy nói không lên giọng mà nghe vang âm quyền thế:
          - Chú có vẻ là dân lãng tử hơn là khách hành hương.
          "Lãng tử" cười nụ:
          - Sinh thời Cụ Hồ gọi chú xưng bác nghe giản dị, thân mật mà đẹp. Chẳng phải ai cũng nên bắt chước cụ, e rằng lại như Đông Thi bắt chước Tây Thi mất.
          Không chắc ông mặt đỏ có am tường điển tích "Đông Thi bắt chước Tây Thi", nhưng nhìn mặt mấy người trong đám sầm lại, ông đoán chừng thằng cha kia lỡm mình; tuy vậy ông khoan dung nói:
          - Anh chê chúng tôi nghĩ thơ lâu, anh có giỏi thì thử một bài xem nào. Cứ đọc ngay bốn câu, hay dở gì cũng được, chúng tôi sẽ mời anh cùng dùng bữa. Coi như tiệc "Tao đàn quần hội" hả! - Ông cười kha kha tự thưởng thức câu nói cao nhã.
          "Lãng tử" giơ một bàn tay đập nhẹ vào gáy mình, nhăn nhó:
          - Chà, chà, chà! Thôi được! Xin hẹn nhau thế này: nếu tôi đọc ngay bốn  câu thơ thì tôi xin vô phép trước các vị, ăn và uống tùy thích. Các vị chịu khó xơi sau khi tôi xong. Có được vậy, tôi mới nhận thách.
          Thằng cha này muốn rút lui trong danh dự, ra điều kiện oái oăm. - Ông đỏ mặt nghĩ thầm, rồi nói to:
          - Được! Ta chấp nhận. Nếu anh thua, anh phải để giầy và gậy chống lại đây. Các đồng chí ta có nhất trí vậy không?
          Mâm tiệc nhộn hẳn lên vì sự hóm của người có vẻ là bề trên hơn hết. Một ông đeo kính nãy giờ chỉ ngồi gại ria mép, hắng giọng lên tiếng:
          - Xin nêu thêm điều kiện: làm thơ về chùa Hương, lấy vần "hương", có ý "hương", nhưng cấm dùng chữ "hương". Hạn trong một phút. - Vừa nói, ông ta vừa chìa cổ tay trái đeo chiếc đồng hồ Nhật Bản loại sang ra, dùng ngón trỏ tay phải gõ gõ lên mặt kính. Nói xong, ông ta nhìn ông mặt đỏ và những người ngồi quanh đắc ý ra mặt.
          Lãng tử lại đưa tay gãi gáy. Mọi con mắt chĩa vào anh ta đón trước cái vẻ tẽn tò của anh chàng không được mời mà tự dẫn xác đến. Nhưng anh ta đã "e hèm" một tiếng, cao giọng đọc:
             
              Chưa đến chùa đã biết thơm
              Tiếng đồn nức dạ khách thập phương
              Khua chèo suối Đục chồn đôi gối
              Xử gậy non Tiên lép bạnh sườn
 
          - Tôi đã có bốn câu như các vị yêu cầu. Cũng đã đủ để thành bài thơ rồi, nhưng còn có thể mở thành một bài bát cú. Tôi xin đọc hai câu kết nhường hai câu luận cho các vị:
 
              Vườn mơ ai vẽ cho ai trẩy
              Tụng niệm mà chi - Khỉ vọc vườn!
 
          Mọi cái miệng đối phương sắp tủm tỉm khép cả lại. Ông đeo kính cau mặt:
          - Thơ thẩn như anh thì đình chùa hết cả linh thiêng.
          - Thế là tôi được cuộc chứ ạ. - Lãng tử tỉnh bơ - Nào, mời các vị đứng lên cho!
          Có mấy người mặt muốn tím lại, nhưng ông mặt đỏ và ông đeo kính đã đứng lên. Họ tản ra luẩn quẩn gần đó. Khu vực quanh mâm cỗ được giải phóng. Lãng tử ung dung đặt gậy xuống, chẳng cởi giầy, ngồi xếp bằng vào chỗ ông bự vừa dời đi. Anh ta chỏm luôn một hộp bia. Anh mũ phớt xua tay rối rít:
          - Ấy chớ! Bia chúng tôi chỉ còn vừa đúng mỗi người một hộp. Anh uống rượu kia kìa, tha hồ.
          - Sao lại thế? - Lãng tử nói giọng bảo ban - Tôi lại thích bia.
          Anh ta thành thạo kéo khóa nắp hộp bia, ngửa cổ tu một hơi dài. Lúc đó, một bé trai gầy guộc dắt một bà cụ lọm khọm trên đường đi lên chùa trong chợt rẽ vào. Cháu bé tần ngần nhìn mọi người rồi ấp úng nói:
          - Các bác, các chú có nước cho bà cháu xin ngụm. Cháu có mang theo chai nước nhưng vừa trót đánh vỡ.
          Lãng tử ngắm hai bà cháu, một bóng âm u trườn qua vẻ mặt nhơn nhơn phớt đời mà anh ta vẫn giữ từ đầu câu chuyện tới giờ. Trước mặt anh là sự khốn khó hiện hình. Anh nhoài người nắm tay cháu bé kéo lại gần mình ôn tồn bảo:
          - Ở đây không có nước cháu ạ, chỉ có bia thôi. Uống bia giải khát được lâu.
          Có tiếng nói giật giọng phía sau:
          - Này, bà già! Đi một quãng nữa có giếng tiên, uống nước giếng ấy vào giải được mọi nỗi oan, khách đi lễ người ta tranh nhau uống đấy.
          Lãng tử không ngoảnh lại:
          - Nước ấy không vệ sinh lắm, ông bạn cũng biết chứ. Mà chẳng tiên nào, thánh nào giải được các nỗi oan nhân thế đâu. Cụ ơi! Cụ thử uống một ngụm bia, nhẹ lắm, không say đâu, cụ ạ.
          Bà già lóng ngóng đỡ lon bia đưa lên miệng nhấp một hớp rồi nhổ  ra ngay: 
                - Nước gì có vị rượu lại khai mùi nước chè thiu thế này?
        - Đồ giải khát nhưng thường lại dành cho những người chẳng khát đấy cụ ạ. - Lãng tử quay sang cháu bé - Cháu mang gì trong túi vậy? - Anh trỏ cái túi vải nâu thằng bé đeo quàng qua vai. Đứa bé thẻn mẻn:
         - Thẻ nhang và thức ăn trưa của bà cháu và cháu.
         - Cho chú nếm thử nhá.
         - Chỉ có cơm nắm thôi, chú ạ. - Thằng bé ôm chặt lấy cái túi bằng cả hai tay.
         - Không sao. Đã lâu chú quên mất vị cơm nắm rồi.
         Anh gỡ nhẹ bàn tay cháu bé, đỡ cái túi, moi ra một cái gói mo cau. Trong gói là một cục cơm gạo đỏ độn những khúc sắn trắng nén khá chặt, điểm xuyết một ít muối vừng.
         - Chú đoán đúng mà - Anh dùng dao xén một miếng cơm nắm nhai ngon lành. - Bùi thật! Nhưng mà thế này thì suất ăn trưa của hai bà cháu bị lạm rồi. Để chú đền cho những thứ kia.
         Thằng bé giẫy nẩy:
         - Không! Không! Cháu chẳng đồng ý đâu. Bà cháu và cháu không quen.
         Bà cụ rụt rè lên tiếng:
         - Ông ơi! Ông trêu chọc cháu già làm gì cho tội.
         - Tôi nói thật đấy cụ ạ. Cụ nên nếm qua cho thấm thía - vừa nói, anh vừa vươn tay ra mâm thức ăn. Anh mũ phớt đứng đằng sau vội chồm tới nắm chặt lấy cánh tay anh:
         - Anh tự tiện quá đấy. Của nhà anh đấy à?
         Lãng tử bình tĩnh gạt tay anh kia, ngoảnh nhìn ông mặt đỏ:
         - Thế nào bác nhỉ?
         Ông này bặm môi, rồi nói không mấy xởi lởi:
         - Hợp! Mặc anh ta. Mà anh bạn này! Việc của anh là ăn thôi đấy.
         - Bác yên tâm! Tôi chẳng vi phạm giao kèo đâu. - Anh nhanh nhẹn lấy trên mâm cỗ mỗi thứ một miếng xếp đầy mo cau và túi vải của cháu bé. Bỗng thằng bé kêu lên:
         - Chú đừng nhét khúc dồi ấy vào. Dồi luộc dối còn đỏ hon hỏn mà lại bốc mùi thum thủm.
         - Dồi luộc dối đâu nào? À, lạp xường đấy cháu ạ. Cũng là những thứ dồi, lối Tàu có lạp xường, lối Tây có xúc xích. Phải kẻ sang giàu mới biết chuộng. Chú cũng chỉ mới được ăn có vài lần. Cháu cố nếm thử, khó nuốt thì quẳng cho mèo. Xong rồi! Cháu đỡ bà lên đường đi tiếp đi. A di đà Phật! Chúc cụ dẻo chân leo dốc.
         Lãng tử thong thả nhai nốt miếng cơm độn sắn, nhìn theo hai bà cháu đang cập rập dắt nhau đi, chiêu thêm ngụm bia, đứng lên:
        - Xin mời các vị. - Anh nghiêng đầu, đưa hai tay ra một cách lịch sự, rồi cúi nhặt chiếc gậy bước khỏi mâm tiệc. Trước khi bỏ đi, anh bảo ông đeo kính:
        - Anh bạn ạ, mấy câu thơ dù có tuyệt bút chăng nữa thì cũng chẳng thể làm mấy pho tượng chễm chệ trên ngai mất thiêng được đâu, nếu người đời còn cả tin hoặc cả sợ.
         Anh thong dong bước, đầu gậy điểm nhịp cho đôi chân. Nghe rõ tiếng nói không kìm nén ở phía sau của ông mặt đỏ:
        - Hừ! Đáng tóm gáy thằng bắng nhắng kia mang quẳng xuống suối Giải oan. Đồ phản động! Toàn giọng xỏ lá. Mà ai là khỉ mới được chứ?
 
          *  *  *
          - Nghe như chuyện Ba Giai, Tú Xuất ấy nhỉ?
          - Không! Đúng điệu một nhân vật vùng tôi. Vùng tôi có một tay vốn nòi nhà nho hay khoa hoạn gì đó. Cũng đã lâu rồi. Hồi ấy, hắn ta mới lớn lên, học hành dở dang đâu như mới đỗ Sơ học yếu lược thời Pháp thuộc; vì cha chết phải ở nhà làm ruộng. Làm anh nông dân con, nhưng hắn khá sành thơ phú cổ. Lần bầu Quốc hội đầu tiên, dân ta đang xóa nạn mù chữ, lại chưa quen việc bầu bán dân chủ. Để hướng dẫn cử tri, bộ phận thông tin tuyên truyền địa phương mới làm những bài vè, đại loại có những câu như:
          Ông Mai thì nên chọn họ Lương
          Đồng bào ta hãy nhớ cho tường
          Xứng danh đại biểu không ngần ngại
          Hẳn là trong danh sách ứng cử viên có đến mấy ông Mai. Cái tay ấy - lúc đó, vừa đủ tuổi để được cầm phiếu bầu - bèn làm một bài thơ viết ngay vào lá phiếu:
           Bầu bầu cử cử khéo lôi thôi
           Ai được ai không đã biết rồi
           Bắt dân học thuộc tha hồ chép
           Quá chuyện khôi hài mấy chú ơi!
          Các vị thấy thằng cha có láo lếu không? Dám gọi các bậc bề trên là "mấy chú" một cách xách mé. Xược quá đi chứ! Người ta nhận ngay ra nét chữ của hắn. Xã mới đem hắn ra ngồi sám hối trước bàn thờ Tổ quốc. Hồi ấy, chưa có cái lệ "đấu tố". Hắn ngồi trên một manh chiếu cách biệt với vòng người phía ngoài. Lũ trẻ con cứ nghển cổ nhóng vào bấm chóe nhau vừa sợ vừa thích sự lạ. Hắn bỗng hát tướng lên bài Diệt phát xít: "Việt Nam bao năm ròng lên xiết lầm than…" với cái giọng vỡ của trai mới lớn, bất kể nhịp và điệu. Mọi người ngớ ra. Trẻ con ré lên cười. Ông trưởng ban quân sự quát:

          "Anh kia! Anh hát cho ai nghe đấy?"
          " Cho người nào muốn nghe".
          "Ai người ta thèm nghe".
          "Thì tôi hát cho bò nó nghe".
          "Được! Tự vệ đâu! giải nó đi, trói vào cột chuồng bò! Cho xuống đó mà hát”.
          Hắn được một đêm nếm mùi muỗi chung với bò, song hắn lại không có được cái đuôi bò, mà tay thì không rảnh.
          Hắn bị giải lên trên. Quanh quẩn thế nào mà rồi hắn được thăm nhà lao tỉnh. Đến đấy chưa được một ngày hắn đã có thơ ngâm ngợi công khai. Cảnh sát dọa cùm chân, hắn hỏi: "Có cùm mồm không?" Hậu quả của cái vạ miệng có thể khó lường, nếu chuyện không đến tai ông chủ tịch tỉnh. Về ông chủ tịch này có một giai thoại. Cách mạng tháng Tám, cướp chính quyền tỉnh xong, đoàn thể cử ông làm chủ tịch, ông lắc đầu quầy quậy: "Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, tôi có biết làm chủ tịch là làm cái quái gì đâu. Làm cách mạng thì tôi làm, làm chủ tịch thì tôi chịu". Trong giờ nghỉ giữa buổi họp, ông kéo một đồng chí ra một nơi. - Mày làm thay tao nhé. Cho tao về huyện, sức tao cố lắm cũng chỉ với tới cấp huyện thôi. - Đoàn thể cử mày chứ có cử tao đâu. - Đoàn thể thì cũng do mấy đứa mình đề xuất. Mày ưng thì tao trao đổi lại với các đồng chí. - Đi lâu rồi muốn về gần mẹ đĩ phỏng? - Chẳng phải vậy. Tao không quen việc giấy tờ. - Mày từng là giáo học; trong tù mày còn dạy tao cơ mà. - Tao ngại sa vào cảnh quan cách mạng lắm. Thôi thế này nhé: mày và tao bắt thăm. - Khôn thế! Vậy là ông bất đắc dĩ ngồi lên cái ghế chủ tịch tỉnh! Mấy đêm đầu, chiếc giường lò xo trong dinh tên công sứ Pháp cũ cứ nhún nhẩy dưới người ông, ông không sao chợp mắt nổi. Ông phải trải chiếu trên nền gạch hoa mà nằm. Tất nhiên giai thoại vẫn là giai thoại. Mấy ông quan chức ngày nay nghe chuyện chắc là cười mũi.
          Ông chủ tịch tỉnh cho gọi nhà thơ ngông lên.
          "Thấy bảo anh hay ngâm thơ, anh ngâm cho tôi nghe với nào".
          "Thưa ông, không tiện ạ".
          "Sao lại không tiện?".
          "Thưa, vì tôi chưa biết rõ về ông lắm".
          "Nên anh sợ không dám cho tôi nghe thơ anh chứ gì".
          "Thưa, sợ thì chẳng sợ. Nhưng bài thơ ấy không phải để tặng ông".
          "Thế thì tặng ai?"
          "Tặng những người mà tôi biết rõ là đáng tặng".
          "Được, anh cứ cho tôi nghe".
          "Ông đã bảo vậy thì xin vâng. Tôi xin phép đọc thôi, vì muốn ngâm thì phải hợp cảnh:
 
          … Cảnh sát cằn nhằn tuồng lại thuộc
          Ủy ban hò hét giọng đường quan
          Chính sách có hay người lại dở
          Khéo mà trăm họ lại lầm than!"
 
         "Hừm! Nói đến ủy ban mà bảo không tặng tôi. Thế ra tôi đứng ngoài ủy ban à? Hay là đứng trên? Nhưng thôi, chuyện đó cho qua. Bây giờ cách mạng rồi, làm gì còn đường quan với lại thuộc mà anh bêu riếu".
         "Thưa, tôi chỉ nói sự thật mà bị bắt, hết xã lại huyện, rồi đến tỉnh. Có ông ủy ban đập bàn quát nạt tôi, còn cảnh sát thì nhiếc móc, đe nẹt tôi".
          "Anh nói sự thật nào? Số đông dân chúng có được học hành như anh đâu. Mà anh thì đã học những gì? Anh tưởng dễ mà bắt dân học thuộc rồi đem chép được à?".
          "Vâng, nhưng không nên coi như con nít".
          "Con nít cũng chẳng phải bảo gì nghe nấy đâu. Anh cứ ngẫm anh thì thấy. Còn trong ủy ban, trong cảnh sát, cũng có người chưa tốt. Đoàn thể biết, nhưng phải từ từ. Mất hết cán bộ, ai làm việc cho? - Ông chủ tịch nhẹ giọng- Có chỗ cậu nói đúng: cán bộ dở thì làm hỏng chính sách, cũng tác hại như chính sách dở. Nhưng ngồi chửi đổng thì chẳng ích lợi gì cho ai. Cậu có muốn góp phần mình cho trăm họ khỏi lầm than không?".
          Hắn ta được thả. Hắn xin vào trường Lục quân đào tạo sĩ quan và được chấp nhận chẳng khó khăn gì. Thời ấy, người ta còn ít nệ lí lịch, cũng không mấy thành kiến. Song từ đấy hắn bặt tăm. Không khéo tay lãng tử kia chính là hắn đổi lốt cũng nên. Có hồi hắn hay kí Mộng Hoài, chẳng rõ có phải vì mơ cô Hoài hay không. Hắn thì có đến mấy cái tên ấy.
 
          *   *   *
          - Đúng! đúng! Ha, ha, đúng tủ rồi!
          - Cái gì đúng tủ?
          - Tạ Hoài chứ không phải Mộng Hoài. Anh ta đi bộ đội chứ gì? Tôi có biết một chuyện kiểu như thế của anh ta, nhưng lần này thì với một ông quan thật, "đường quan chánh hiệu", có điều là quan cựu. Hồi ấy, xã tôi có một đơn vị Vệ quốc đoàn về diễn kịch. Trong vở kịch có vai một ông quan to muốn theo cách mạng. Trang phục cho vở diễn hẳn là khó rồi. Ai đó bàn nên kiếm một bộ áo mão thật. Gần miền có một ông Nghè, tổng đốc về hưu thời thuộc Pháp, người ta quen gọi là cụ thượng Trần. Sau này, người ta lại gọi là cụ thượng "Đại Đồng". Nguyên do là thế này. Trong thời vàng son của cụ, cụ thượng có "mời" ông cộng sản nào vào tù không thì không rõ, chỉ biết hai tiếng "cách mạng" thì cụ kiêng hoặc kiềng. Cách mạng tháng Tám thành công, người ta mời cụ vào ban chấp hành hội Liên Việt huyện, cụ cáo bệnh; mời làm Liên Việt tỉnh, cụ nhận. Cụ siêng năng đi họp, sốt sắng lên diễn đàn khi được yêu cầu - mà cụ thì không thiếu gì dịp được yêu cầu -. Trong một lần mít-tinh long trọng kỉ niệm ngày 6-1 (sau này chỉnh lại là ngày 3-2) cụ hùng hồn phát biểu: "Tôi thiết tha mong Đảng cộng sản lại ra công khai để dẫn dắt nhân dân sớm đi đến thế giới đại đồng". Cụ có một ngôi nhà ngang rộng bỏ không, xã mượn tạm làm lớp học, cụ bảo cụ dành nơi đó để mình nghiên cứu chủ nghĩa Mác cho tĩnh. Một trong những thú vui của cụ là hàng tháng đem phơi bộ phẩm phục vua ban ngày cũ vào những hôm nắng to. Tự tay cụ làm cái việc phơi phóng đó. Cụ lần giở, cụ săm soi, cụ vuốt, cụ ngắm hàng giờ. Con cháu cụ, kể cả những đứa cụ cưng nhất, chớ có chạm tay vào! Rõ ràng chuyện mượn bộ áo m•o của cụ thượng Đại Đồng xem chừng quá viển vông, nếu không nói là phiêu lưu. Anh em trong đội kịch mới đố: Ai mà mượn được thì mọi người sẽ góp nhau đãi một chầu "mộc tồn" (thịt chó). Một cán bộ đại đội nhận thách. Có phải người mà các vị vừa kể vóc tầm thước, da đồng hun, cười nói to không? Anh ta đấy. Anh ta xin nghỉ hẳn một ngày để về làng cụ thượng làm gì chẳng biết. Xong rồi, anh ta yêu cầu một cái giấy giới thiệu nhân danh chính ủy trung đoàn, - hồi ấy, chính ủy trung đoàn đã là to lắm, - nhưng không đóng dấu được vì văn phòng đoàn bộ ở xa. Giấy giới thiệu được phong kín. Đến gặp vị cựu tổng đốc, anh bộ đội đĩnh đạc nhưng nhũn nhặn trình bày lời đề nghị của đội kịch, đưa giấy giới thiệu và tạ trước rằng con dấu cũ của đơn vị bị nứt vỡ, đang cho khắc con dấu mới. Quan thượng cựu ung dung bóc phong bì, ung dung lướt qua giấy giới thiệu, và ung dung… từ chối: "Những thứ ấy gói kín cất kĩ rồi, chẳng tiện lục ra", rồi ung dung đút lại tờ giấy vào phong bì và ung dung dán lại, - theo nếp quen của cụ trong những trường hợp tương tự. Anh bộ đội vội can: " Ấy! Xin lỗi. Dấu chưa đóng được tôi còn khắc; thư đã bóc rồi cụ chớ phong!" Cụ Nghè sững người, phong thư trong tay cụ rơi xuống đất. Cụ nhìn trân người khách vệ quốc đoàn. Các vị có biết vì sao không? Cụ thượng cựu vốn tên là Trần Khắc Phong. Câu nói mà anh bộ đội làm như vô tình thốt ra chính là một đôi câu đối rất chỉnh:
          Dấu chưa đóng được, tôi còn khắc.
          Thư đã bóc rồi, cụ chớ phong.
          Đối với các nhà nho xưa, chơi chữ kiểu này làm đau hơn cả một câu chửi. Song thật xứng danh cụ thượng, cụ mỉm cười ngay được, ung dung cúi nhặt cái phong bì, ung dung mời nước nôi, ung dung hỏi chuyện gần xa, rồi dẫn sang chuyện văn chương. Anh bộ đội như vừa sực nghĩ ra:
         "Tôi mới đến vùng này nhưng thấy làng ta quả là đẹp, trước hết là thế đất. Nghe nói một vị túc nho nào đó đã xướng lên hai câu khai đề một bài ngâm vịnh cho thiên hạ nối vào…"
         "Đồng chí bộ đội có biết hai câu đó không?"
         "Dạ, có phải thế này không ạ:
          "Trên thì cận thị, dưới kề giang
           Ở giữa trồi lên một cái làng"
(Hai câu này nguyên là của cụ Nghè. Nói đến thơ cụ thì ngay chàng trai khéo mồm nào đang ve con gái cụ cũng không dám khen trước mặt bất cứ ai, ngoài cụ).
          "Đồng chí bộ đội thử làm tiếp đi!"
          "Dạ, - anh vệ quốc làm bộ nghĩ một chốc, - xin vô phép cụ "nối điêu" hai câu cho thành bài tứ tuyệt:
          Có chợ, có sông, còn có cả…
          Đa mang là nợ cái văn chương!
          "Chính lắm! - Cụ thượng vỗ đùi - Âu cũng là cái duyên nợ văn chương, tôi cho đồng chí mượn bộ phẩm phục của tôi. Nói thật với đồng chí, nó là cái tình tri ngộ, chứ giấy giới thiệu thì dẫu có đóng đến mười cái dấu đi nữa cũng không mượn được đâu".
          "Đồng chí bộ đội" mang "chiến lợi phẩm" đi rồi, cụ Nghè còn ngồi gật gù ngâm lại bốn câu thơ. Bỗng cụ ngừng bặt, ngờ ngợ…
          Có được bộ áo mão thứ thiệt, buổi kịch khá xôm trò, nhưng ở cái khía cạnh khá bất ngờ đối với cụ Nghè lẫn đội kịch: Bộ áo mão ấy quá rộng mà người đóng vai quan lớn thì quá nhỏ thó.
         - Ông bạn có vẻ biết kĩ cái anh chàng Tạ Hoài lắm nhỉ.
         - Đâu có. Chủ yếu cũng là qua lời đồn. Nghe nói sau hiệp định Giơ-neo, anh ta đã chuyển ngành đi học sư phạm hay thủy sản gì gì đó. Chẳng rõ rồi anh ta biến đi đâu.
 
          *   *   *
          "Cái tên từa tựa thì tôi đã từng nghe. Chưa chắc đúng là người anh đang muốn biết. Vóc dáng, tính cách và hành tung thì có vẻ giống đấy. Nhưng cũng chẳng sao. Vào cái thời Trạng Quỳnh, những giai thoại Trạng Quỳnh chẳng thấm vào đâu; song một Trạng Quỳnh thực thụ lại chẳng thể nào kham nối ngần ấy giai thoại. Tôi cứ kể nhá. Anh ghi thế nào tùy anh".
          Một buổi chiều muộn đẹp trời, một người đàn ông tầm thước, dáng tự tin bước vào phòng thường trực ti văn hóa tỉnh T.
          - Tôi muốn gặp đồng chí trưởng ti.
          Người thường trực già lúng túng. Tuy mới hơn bốn giờ, nhưng lúc này trưởng ti hẳn đang ở phòng bóng bàn với mấy cô, cậu cán bộ, nhân viên. Người khách đến thật không đúng lúc, dẫu phong thái ông ta đàng hoàng thế kia,…
          - Đồng chí trưởng ti đang rất bận. Hôm nay đồng chí ấy không tiếp khách.
          - Tôi là bạn anh Ân.
          - Thế ạ. Thế thì mời đồng chí lên phòng khách chờ cho một chút. Này cô gì ơi! - Người thường trực vẫy tay gọi một cô gái đi qua phía ngoài - Cô dẫn khách hộ tôi, rồi sửa soạn các thứ đi nhé, để tôi đi mời anh Ân.
         Trưởng ti vừa bước vào phòng, khách đã đứng dậy vồn vã:
         - Chào anh Ân. Anh có khỏe không?
         - Cảm ơn anh. Vẫn chơi "ping-pong" liền dăm "xéc" được. - Trưởng ti Ân xiết chặt tay khách mà lòng thì hồ nghi. Ai nhỉ? Trí nhớ của mình… Có người bạn đáng giá nào mình quên đâu! Nhưng tay này có tư thế lắm, chẳng phải loại làng nhàng. - Mời anh ngồi. Lắm việc quá anh ạ. Kìa! Anh xơi nước đi!
          - Tôi ở xa nghe tiếng lăng mộ cụ Nguyễn, một lãnh tụ phong trào Cần Vương chống Pháp - Khách vào đề luôn. Trưởng ti Ân giật thót. - là loại lăng mộ cổ bằng đá, kiến trúc đẹp, có bia khắc thơ của các cụ Phan Bội Châu, Lương Văn Can, ca ngợi công đức cụ Nguyễn, một nơi đáng được xếp hạng di tích lịch sử và văn hóa…
          - Vâng, đúng thế. Bộ văn hóa cũng đã chuẩn bị văn bản. Tiếc rằng người ta đã san bằng để mở rộng sân phơi của hợp tác xã mất rồi. Anh tính dân mình còn lạc hậu thế, chỉ biết cái lợi trước mắt.
          - Thấy bảo đây là hậu quả sâu xa của việc tranh giành quyền bính và lợi lộc giữa hai dòng họ lớn nhất xã Trung và là hệ quả trực tiếp của những đơn từ tố giác những vụ bê bối của những kẻ đương quyền xã ấy.
          - Cũng có thể là như vậy. Nhưng quả thật muốn mở rộng sân cũng vướng lăng mộ, khó có cách nào khác. Chung qui cũng do dốt nát mà ra.
          - Sao các anh không can thiệp?
          Hừ! Thằng cha này có vẻ muốn hoạnh mình. - Trưởng ti văn hóa khó chịu, nghĩ.
          - Chúng tôi biết quá chậm. - Thái độ chủ nhà đã kém hồ hởi, và câu trả lời buông sõng như một lá bài quăng ra. Nhưng nghĩ thế nào anh ta lại dịu giọng. - Họ phá dở dang rồi, anh bí thư tỉnh ủy bảo cho qua luôn.
          - Người ta kể rằng lúc lăng đang bị đục đẽo để nhét thuốc mìn vào thì một chiếc xe con của tỉnh đang ở trụ sở xã. Có người chạy đến kêu cầu, người có thẩm quyền phán rằng: "Lăng mộ đã bị phá nham nhở có bảo tồn thì cũng chẳng ra làm sao nữa". Khi xe vừa ra khỏi cổng làng, mang theo một con lợn gần tạ và mấy bao gạo nếp thì nơi lăng mộ mìn nổ.
          - Ai bảo anh thế? Mà anh là ai?
          - Tôi là một công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
          - Tôi không hề quen biết gì anh. Ai cho phép anh đột nhập một cơ quan Nhà nước mà hoạnh họe? Mời anh đi ra cho!
          Cuộc to tiếng kéo người vào chật phòng. Trưởng ti đứng lên, tay chống nạnh:
          - Bảo vệ đâu?
          Khách vẫn ngồi điềm nhiên:
          - Anh hãy bình tĩnh. Nhân đông đủ, để tôi đọc tặng bài thơ tôi ứng tác trên đường.
          Trưởng ti Ân bị bất ngờ chưa kịp đối phó. Những người khác thì tò mò muốn chờ xem. Người khách đã cất tiếng đọc to, giọng nam trung vang và rõ.
           Lâu ngày trở lại làng Trung
      Tìm thăm di tích anh hùng thuở xưa.
           Ôi thôi! Nào có ai ngờ
       Mộ xưa, bia cũ bây giờ còn đâu!
          Giọng đọc cao dần. Mặt người đọc lúc tái đi, lúc lại bừng bừng:
      … Bao đời họ Nguyễn nơi đây
       Cha, con, ông, cháu đánh Tây lẫy lừng
           Tưởng rằng công tích rỡ ràng
       Bia xanh còn đó, biển vàng còn đây…
          Xung quanh không một tiếng ho, không một tiếng xì xào. Người đọc dường như chẳng còn để ý đến ai. Có lúc giọng anh rung lên:
           Bác ơi! Bác có thấu chăng?
       Cỏ cây xao xác, xóm làng xót xa
           Đang tay đào mả ông cha…
           Giọng đọc nghẹn ngào và mắt người khách như long lanh ướt. Câu đọc trở lại da diết và khẩn thiết:
      … Việc này chúng chẳng chùn tay
       Rồi ra thân phận người ngay thế nào?
           Ai dung cho lũ cường hào?
       Núp danh cách mạng, mượn mầu "vì dân"…
          Tiếng đọc dứt, trưởng ti Ân như sực tỉnh. Ông ta cười khẩy một tiếng nghe rợn người:
          - À, thì ra đây là tay chân họ Nguyễn làng Trung.
          Ông ta ghé miệng nói nhỏ gì đó với trưởng ban bảo vệ, rồi len lén đi ra.   Trưởng ban bảo vệ dõng dạc ra lệnh: "Ai ở yên đó! Nội bất xuất, ngoại bất nhập!" Phòng bên cạnh có tiếng vòng số quay lẹt rẹt. Một lát, một chiếc ôtô dã chiến dừng bánh ngay trước thềm phòng khách. Ba người công an lật đật bước vào, trong đó có một thiếu tá. Trưởng ti Ân len trở vào đến bên người chỉ huy công an trỏ tay vào người khách:
          - Anh này ở đâu xồng xộc vào đây mạo xưng là bạn tôi. Anh ta đọc thơ xuyên tạc, kích động chống Đảng, chống chế độ, xúc phạm  đồng chí bí thư tỉnh ủy, động đến cả Bác Hồ.
          Thiếu tá công an hỏi cộc lốc:
          - Bài thơ đâu rồi?
          - Các đồng chí muốn nghe, tôi đọc lại.
          - Không cần! Chưa cần! Sẽ có nơi, có lúc cho anh đọc. Đưa xem giấy tờ!
          - Tôi chỉ có cái này. - Người khách móc túi đưa ra cái giấy. Viên thiếu tá chăm chú nhìn, lật đi lật lại.
          - Đây chỉ là cái thẻ đọc sách thư viện. Giấy thông hành, giấy chứng minh của anh đâu?
          - Hiến pháp nước ta ghi rõ quyền tự do đi lại, không ai qui định phải có giấy thông hành. Còn giấy chứng minh ở địa phương đây thế nào không rõ, còn ở các nơi khác, theo tôi biết, còn lâu mới xong cho tất cả mọi người.
          - Mời anh đi sang ti công an.
          - Các đồng chí định bắt tôi chăng? - Người khách cười nhạt hỏi.
          - Tùy anh hiểu. Anh ở địa phương khác đến đây có hành vi khả nghi, liên can đến an ninh chính trị, giấy tờ không minh bạch, chúng tôi cần phải điều tra.
          - Nói cho các anh biết: bắt tôi thì dễ, nhưng thả thì khó đấy. Tôi không giấu là tôi định ngay sáng mai tôi sẽ đi Hà Nội cùng bài thơ của tôi.
          Viên thiếu tá cắn môi, mày hơi cau lại:
          - Anh mang gì trong túi kia? - Anh ta chỉ cái túi xách kiểu kí giả người khách vẫn đặt bên mình.
         - Tài liệu riêng của tôi.
         - Cho xem!
         - Các anh thích lục soát tư trang của công dân thì cứ việc. - Người khách ngả lưng vào ghế, tay khoanh trước ngực.
         - Chúng tôi không cưỡng bức. Nhưng anh nên giúp chúng tôi.
         - Giúp bắt tôi?
         - Giúp gỡ… à, giúp giải mối nghi vấn.
         - Nói thế thì được. - Sau một thoáng suy nghĩ, người khách đặt lên bàn một cuốn sổ bìa vải bọc mi-ca có mép khép lại như một cái nắp. - Đây! Nếu các anh nghĩ là cần.
          Người sĩ quan công an chộp cuốn sổ, lần giở ra. Có những trang ghi thơ. Có những tờ dính ảnh. Khá nhiều ảnh. Thấy vậy, mấy người xúm lại cặm cụi xem. Kinh nghiệm nghề nghiệp cho thấy lắm khi những tấm ảnh mách bảo nhiều điều. Nhưng sự hăm hở dần dần nhường chỗ cho sự phân vân. Những ánh mắt ý tứ liếc nhau. Quái! Kẻ mà họ đang sẵn sàng xích tay đây lại có mặt trong những tấm ảnh mà cả đời họ chẳng dám mơ tới. Đây, Bác Hồ đang chăm chú trước một mô hình. Kia, thủ tướng đang tươi cười giữa mấy người vây quanh. A! Hắn cũng có mặt đang nhe răng cười. A! Ông ta đang thuyết trình gì đó. Toàn là ảnh chụp cùng các vị lãnh đạo cao cấp. Lại có cả một cái tem khổ to in hình Bác Hồ mang chữ kí viết tay của Bác. Thật là khó nghĩ. Viên thiếu tá nhẹ tay gấp cuốn sổ lại, mân mê cái bìa một lát:
          - Làm sao anh có được các thứ này? - Người công an dè dặt hỏi:
          Kể ra thì chẳng có gì ghê gớm. Chẳng hạn, ai đã có dịp phụ trách một phòng trưng bày được Bác và các nhà lãnh đạo trung ương đến thăm thì vinh dự kia không khó. Nhưng họ không nghĩ ra hoặc chưa kịp nghĩ ra.
          - Chuyện đó các anh khỏi cần quan tâm.
          Trưởng ti Ân pha chè rót ra các chén, nhưng không lên tiếng mời ai; vẻ mặt ông ta âm thầm. Viên thiếu tá lẳng lặng đặt một chén nước trước mặt khách, một chén trước mặt trưởng ti văn hóa, và tự mình nhấc một chén đưa lên miệng. Mấy ngụm nước nhấp thong thả. Mấy giây im lặng. Chợt anh ta lên tiếng, ánh mắt thân thiện hướng vào người khách:
          - Đồng chí có thể cho nghe bài thơ được không?
          Trưởng ti nhăn mặt. Người khách không để nài. Lần này anh tự kiềm chế hơn, nhưng đọc vẫn rất diễn cảm. Nghe xong, thiếu tá từ tốn đặt chén nước lên bàn, cười lên một tiếng:
          - Bài thơ ngộ thật, nhưng hơi ác. Về cái làng Trung thì đã có mấy câu vè nặc danh tệ hơn ấy chứ. Báo cáo anh Ân, hôm nay ở đây có sự hiểu nhầm nhau thôi. Bây giờ khuya rồi, để đồng chí đây đi nghỉ, anh nhỉ. Anh ta quay sang người khách - Bên này chắc không sẵn chỗ ngủ, mời anh sang ti chúng tôi, bên ấy luôn luôn sẵn sàng đón tiếp.
          - Cảm ơn. Tôi không quen ngủ độ chỗ công an. - Người khách trước khi đi ra bắt tay chào khắp lượt.
          Hôm sau anh lên đường về thủ đô, đâu biết rằng có một bức điện từ tỉnh T, đánh đi đề nghị điều tra về một kẻ đáng ngờ, như thế, như thế,…
          Lúc tôi về tỉnh T. Thì chuyện phá lăng ở làng Trung hầu như đã bị lãng quên. Trưởng ti Ân đã về hưu, hình như quá sớm. Đám quyền hành xã Trung cũng ít nhiều thay bậc đổi ngôi. Sân phơi của hợp tác xã quả có mở rộng thênh thang, nhưng bây giờ là nơi chơi đùa, đá bóng của thanh thiếu niên. Duy, khoảnh sân nơi có lăng mộ cũ thì cỏ mọc tùm bum qua các kẽ gạch lát. Chừng bọn trẻ kiêng chốn này. - Chẳng có lẽ chúng sợ ma? - Tôi uổng công dò hỏi tung tích người khách nọ. Đâu như ông ta họ Tạ, hoặc tên là Tạ. Họ là Tạ ư? Hẳn là Tạ Hoài rồi! Còn tên là Tạ thì ai cấm biệt hiệu là Tạ Hoài, hay ghép với tên vợ hoặc tên người yêu là Hoài? Hay là Tạ nhớ ai chăng? Hay là Tạ từ cô Hoài? ấy! Tôi cứ lẩn thẩn nghĩ như thế, cứ lẩm cẩm tin như thế. Rõ khốn khổ!
 
          *   *   *
          Sự tình cờ đưa tôi đến huyện L. Đây là một huyện đồng bằng đông dân, nhưng ở xa tỉnh lị, lại cách một con sông rộng, đò phà nhiêu khê, nên gần như biệt lập. Dẫu vậy, huyện lị khá xinh xẻo, có vẻ trù mật. Phố xá rải ra. Nhiều nhà mới đẹp, hiềm vẫn mang dáng dấp kệch cỡm và diêm dúa của sự học làm sang. Tuy nhiên, cái chướng mắt hơn cả là một cái vườn hoa nhỏ. Nó chướng vì nó lệch, lệch hình thù - gần giống hình tam giác, lệch vị trí nom ngang phè. Nó chướng vì nó tựa kề một biệt thự hai tầng mọc lên phô phang và đài các rởm. Nó chướng còn vì vườn thì bé tí mà giữa vườn ngất nghểu một cột đèn cao áp to sụ lêu đêu. Trong vườn, cỏ dại tràn ra các lối đi, trùm lên các luống hoa, mà hoa thì gần biến thành hoa dại cố ngoi lên lấp ló đó đây.
         Thấy tôi đang tư lự trước vườn hoa nọ, một thanh niên đang đi đường ghé lại:
         - Chú khoái chốn này hay sao mà ngắm kĩ thế? Chú từ xa đến phải không ạ?
         Tôi vui vẻ bắt chuyện, và chẳng mấy lúc được anh bạn trẻ kể cho nghe về cái gọi là vườn hoa này.
         - Nó có lâu rồi, từ khi cháu còn bé tí kia. Người ta quen gọi là vườn hoa "Đỗ Thành". Tại sao gọi thế ấy ạ? Là vì do ông Đỗ Thành mà ra. Ông ấy là chủ tịch huyện. Ông chủ tịch huyện cho xây cái nhà lầu kia xong, - không! nhà riêng ông ta chứ ạ. Xây nhà xong, ông ấy bèn cho làm cái vườn hoa này, - làm cho huyện đấy ạ. Chỗ này trước là một ao nước đọng, nơi đổ rác và phóng uế của một góc phố huyện. Phải huy động hàng huyện đến làm đấy ạ. Nói làm cho huyện chứ ông nội cháu bảo: "Vườn hoa nằm chỗ này thì ma nào đến thưởng ngoạn. Công dụng to nhất, và cũng là duy nhất, là chặn mọi khả năng mọc lên công trình nào chắn gió đông - nam thổi vào nhà ông chủ tịch". Có bài thơ hay lắm về cái vườn này, em đọc anh nghe nhé. - Tôi được hạ cấp xuống thành "anh" nghe trẻ hẳn ra cũng khoái, nên gật đầu lia lịa.
        Chốn huyện lị có vườn hoa chéo
        Anh huyện Thành lấy méo làm vui
            Đêm đến ánh điện tỏ ngời
    Tầng trên anh ngự anh cười cợt hoa
        Chành lún phún cỏ hoa ba góc
        Chính giữa giương một cọc ngất nghênh
            Người người thắc thỏm đồn khen
    Công lao cả huyện mà nên công thành
          Nghe đồn là thơ của thầy giáo Hoài dạy trường huyện. (Tôi cố nén để không hỏi ngay về cái tên vừa nghe được). Ông giáo Hoài dạy học ở đây đã lâu. Có đến mấy bí thư, chủ tịch huyện này là học trò cũ của ông ấy. Em nghe kể: Hôm trước huyện làm lễ khánh thành vườn hoa thì hôm sau ông chủ tịch Thành làm lễ mừng nhà mới. Nghe nói quà mừng nhiều vô kể, có cả ti-vi màu; còn những hộp nhỏ, xinh xinh, lịch sự thì người ta tha hồ mà đoán mò. Buổi tối ông chủ tịch mời riêng mấy người quen thân dự tiệc. Thầy giáo Hoài cũng được mời. Ông nội em bảo: "Cái ông Thành này cũng còn có chỗ khả thủ. - Khả thủ là gì hở anh? - Ông ta đối với thầy giáo cũ còn biết giữ lễ. Khối kẻ leo đến chức ông nọ bà kia nếu không vênh mặt lên thì cũng phớt lờ. Tránh mặt hãy còn là biết điều". Nghe nói trong tiệc rượu hôm ấy, để xôm thêm những lời chúc tụng mọi người mới đề nghị ông Hoài đọc thơ. Cũng có lời kể rằng: Bài thơ đã được loan truyền từ trước chưa rõ của ai. Hôm đó, do đã ngà ngà say, cái hứng vui nhộn bốc lên, bí thư huyện ủy mới xướng ra và tán cho mọi người cười chơi. Ông Thành cũng cười thoải mái, rồi hỏi ông Hoài rằng có phải thơ của thầy không. Ông Hoài thủng thẳng nói: "Cứ cho là tôi làm đi. Anh nghĩ sao về bài ấy?" Ông Thành đáp: "Em nghĩ rằng cũng chỉ đùa hóm một chút thôi. Nhưng sợ rồi bị hiểu xuyên tạc đi sẽ không có lợi". Ông Hoài nói: "Cũng có đùa vui thật. Song, chỉ đùa vui thì e rồi chẳng vui được mãi. Có gì để ngẫm mới đáng nói. Nên hiểu đúng, hiểu xuyên tạc lại không đáng sợ". Có người lại nói bài thơ ấy vốn là của mấy ông giáo viên, kĩ sư quanh huyện ngồi xướng họa với nhau, rồi người ta gán cho thầy Hoài. Người ta còn bảo: Thật ra thì chủ tịch Thành căm lắm, chửi vụng thầy giáo cũ là "đồ lừa già học đòi Hồ Xuân Hương" và "rồi sẽ biết".  Chuyện đến tai thành ủy. Nghe nói một lần bí thư thành ủy về huyện có ghé trường bảo các giáo viên rằng: "Tôi nghe các thầy giỏi làm thơ lắm. Nhưng có gì thì góp ý thẳng với tỉnh ủy, đừng làm thơ tùm lum, dân người ta chẳng hiểu cho các thầy đâu".
          - Vườn hoa sao mà hoang phế thế này? - Tôi hỏi để lái câu chuyện.
          - Gần cuối đời ông chủ tịch Thành nó đã bắt đầu tàn rồi.
          - Ông ta làm sao?
          - Bị tù. Mười năm tù giam. Thấy bảo đã bị bắt một lần, nhưng ông bí thư thành ủy trước thả ra. Ông này có một tuyên ngôn rất chi là trứ danh: Ai tham nhũng, có chứng cứ hẳn hoi thì trị, còn như họ xây nhà chẳng hạn đem lại công ăn việc làm cho dân thì tốt quá đi chứ! Dân xanh mắt. Đến khi ông bí thư ấy được thăng chức lên trên rồi, ông Thành mới bị bắt lại. Tù chưa được ba năm thì ông ta đã về. Nói là kém sức khỏe. Nhưng nom cứ béo phây ra. Vẫn thong dong ra vào tòa lầu ấy.
          - Còn thầy giáo Hoài?
          - Không thấy ở đây nữa.
          - Ông Hoài họ gì?
          - Em không biết.
          Hoài? Cái tên này gợi một cái tên khác. Tạ Hoài?
          Tôi muốn tìm hiểu thêm, nhưng những người tôi hỏi chuyện không thể nói rõ gì hơn. Buổi chiều, trong một quán nước, tôi nghe một người trạc trung niên ngồi ôm cái điếu cày ngâm:
               Nửa thân dạy học, nửa chăn heo
               Cám bã, văn chương lộn với bèo…
          Tôi khen để gợi chuyện:
          - Ông bạn làm thơ hay quá nhỉ.
          Anh ta lắc đầu:
          - Thơ thẩn gì tôi. Truyền là "thơ giáo Hoài" đấy.
          Tôi lân la hỏi, được biết thêm vài mẩu chuyện đồn thú vị quanh ông giáo trường huyện này. Tỉ như có lần huyện ủy và ủy ban nhân dân huyện cấm mọi người đến chúc Tết tại trụ sở huyện, dù nhân danh tập thể, dù cá nhân. Trước ngày nghỉ Tết, ông Hoài vào huyện xin gặp bí thư và chủ tịch:
          "Lệnh huyện cấm, nhưng cũng mạn phép đến đây chúc Tết huyện ủy và ủy ban. Tôi đến nhà riêng lại không tiện".
          "…"
          "Vì như thế có nghĩa là tôi chúc Tết cá nhân các đồng chí, và làm thế là nghịch thường. Trò không chúc Tết thầy thì thôi, thầy cũ lại đi chúc Tết trò, người ta cười các anh. Tôi cũng chỉ chúc miệng thôi, chẳng dám mang thứ này, thứ nọ như người ta. Tôi chúc Tết rồi, bây giờ xin hỏi một chút có được không?".
          "Dạ, thầy cứ hỏi".
          "Các đồng chí cấm đến chúc Tết tại nơi làm việc, có cấm đến chúc tại nhà riêng các đồng chí không?".
          "Thầy ạ, cấm thế không tiện. Tục lệ cổ truyền… Trên tỉnh cũng vậy".
          "Không tiện? Không lợi? - Ông giáo gật gật đầu như tự hỏi - Hay thật! Càng xa rời mặt tích cực trong ý nghĩa cổ truyền thì lại càng hay viện đến cổ truyền? À, hôm trước hai anh có hỏi đùa tôi câu đối mừng xuân, ngay đây, tôi vừa nghĩ được một vế cũng cứ xin đọc hai anh nghe: "Tết, vào cửa cấp trên không lẽ tay không không là chúc Tết?" Tôi chưa nghĩ ra vế đối, các anh đối giùm cho thì hay".
          Tôi vẫn không biết được điều tôi muốn biết. Ông giáo Hoài không phải họ Tạ. Hay vợ ông là Thủy Tạ? Tôi cứ muốn nghĩ ông chính là "lãng tử" chùa Hương dám sờ râu mấy vị cao sang phởn phơ, chính là anh thanh niên ngồi đối diện ông chủ tịch tỉnh ngại ghế cao, chính là anh bộ đội chọi chữ với một ông Nghè, chính là ông khách không mời của một trưởng ti văn hóa. Nhưng mà… có nên cố gò không nhỉ? Và có cần phải vậy không? Tôi chẳng mấy tin ở chuyện trùng hợp tình cờ, song cũng không ưa thời nay lại có lắm người hùng ương ương, dở dở. Đành hay mỗi thời có thể có: hoặc một Trạng Quỳnh, hoặc một Xiển Bột, hoặc một Ba Giai,… một người trong vô vàn người, hay vô vàn người gạn lại một người. Nhưng thời nay thì nghe nó lạc lõng, nó trái khoáy, nó vô duyên, nó khó chấp nhận làm sao ấy. Chẳng phải một vị lãnh đạo cấp cao từng nói rằng: "Cái chuyện Trạng Quỳnh là chuyện một thằng xỏ xiên, xỏ lá không đáng đem dạy trong nhà trường" đó sao! Hơn nữa, những chuyện cóp nhặt trên đây sao sánh tày những chuyện của các nhân vật giai thoại vừa kể. Nhưng lại nghĩ: trong cái mớ chuyện vui truyền miệng hỗn tạp, có khi nhố nhăng, biết đâu chẳng có ít mẩu hiếm hoi mang tình và ý của cuộc đời. Cũng như bụi đường chẳng phải đều thuộc loại rác rưởi cả. Bụi đường nhân thế và lịch sử càng không như vậy. Bề dày thời gian, độ rộng không gian mới có thể đưa tới một số kết tinh dân gian ít nhiều ý nghĩa. Vả chăng có phải bất cứ chuyện đời thường nào cũng trở thành giai thoại được đâu.
          Đời không giai thoại là đời quá đẹp hoặc đời quá xấu. Đừng để đời biến thành giai thoại cả, mà cũng đừng để đời thiếu đi những giai thoại.
 
III-1988

 
 
 
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.05.2009 17:56:43 bởi Khải Nguyên HT >
#1
    Khải Nguyên HT 13.03.2009 21:26:34 (permalink)
    NẮNG MƯA SÀIGÒN
     -truyện ngắn-

          Ngày nọ, chạy vào trú mưa trong một quán giải khát tại thành phố Hồ Chí Minh tôi gặp lại một Việt kiều mà tôi có dịp quen khi qua thủ đô một nước Tây Âu. Người ta nói mưa Sài Gòn không dai, không dầm dề, song trận mưa hôm đó kéo dài hàng giờ. Trời xuống lạnh, bên tách cà phê, câu chuyện dễ thân tình hơn. Ông hỏi tôi: - Ông ở Hải Phòng có biết thi sĩ Văn Nghĩa không?
          Tôi nói: - Bạn tôi có người mang tên như vậy nhưng không thấy làm thơ.
          - Người này có thơ từ hồi 1954 kia.
          Ông mở một cuốn sách lấy từ túi xách ra chỉ một trang và trao cho tôi. Đó là cuốn hồi kí của một tác giả Việt hải ngoại. Tôi đọc đoạn tả Văn Nghĩa: "Nó lùn tì. Cặp mắt ti hí giống hai sợi chỉ đen, người ta chỉ thấy lông mày, thiếu hẳn lông mi. Trán nó thấp như trán tôi. Miệng nó nhỏ xíu". Tôi nói: - Không phải rồi. Ông bạn tôi vốn miệng rộng, trán cao, mắt sáng. Về già, mắt người ta thường hẹp bớt đi, song mắt ông bạn tôi vẫn đàng hoàng. Có đâu như người tả đây!
          Ông ta nói: - Cũng chưa thể nói chắc. Cái tài mà cũng là cái đểu, xin lỗi, cái thâm của tay nhà văn này là kể toàn tên thật, địa điểm thật, chuyện thật nhưng chi tiết thì làm ra như thật với nội dung đầy dụng ý. Có khi chỉ thêm bớt hoặc thay đổi dăm ba chữ. Có khi "sáng tác" ra cả những khúc bi hài. Không ít người Việt li hương bị nêu huỵch toẹt tên tuổi, nhân thân với những "sự cố" kiểu như vậy mà không kiện được. Ai xử? Mà xử làm sao!
          Tò mò, tôi lần giở đọc những trang có dính dáng đến Văn Nghĩa. Tên người con gái trong sách đúng là tên người yêu đầu của ông bạn tôi, đúng tên, đúng họ - một cái họ khá hiếm trên đất nước Việt Nam. Có một chuyện tình xẩy ra bắt đầu tại "chuồng cu Nhà Hát Tây Sài Gòn" nơi chứa chấp tạm một số người Bắc di cư vào, năm 1954. Tác giả cuốn hồi kí khi ấy là một chàng trai đi một mình được xếp ở vào góc bên phải chuồng cu chung với nhiều người trong đó có gia đình cô gái. Hàng ngày, anh ta được hai lần "nhìn em cuộn tròn trong tấm chiếu dựng đứng thay quần áo" (Chắc anh ta định viét: "nhìn em thay quần áo trong tấm chiếu cuộn tròn dựng đứng") chuẩn bị  xuống phố. Cô thò đầu ra nhìn anh ta cười bằng mắt. Anh ta "ngây ngất nhìn mắt em". Hai chị của cô gái tỏ ra ưu ái anh ta. Chàng trai hút tình cô gái bằng vẻ phớt-đời-văn-nghệ-sĩ, mập mờ để cô tưởng anh ta là văn nghệ sĩ thứ thiệt. Mãi sau này, anh ta mới có tên trong làng văn sĩ, nhạc sĩ, như chính anh ta cho biết. "Quen nhau mười ngày, yêu nhau tám ngày" cả nhà cô ta dọn về một xóm xa trung tâm thành phố. Tác giả kể lại chuyện yêu của mình bằng một giọng tưng tửng chêm lời văn cô hồn của dân chơi lẫn dân chợ búa. Khó mà bảo đó là tình yêu kiểu gì khi đọc những câu của chính người trong cuộc, đại loại như "Em gái nức nở chán chê thì bèn thỏ thẻ", hoặc "Em yêu dấu, em sái nhất của anh" (bởi anh ta là kẻ đến sau), hoặc nữa "Thơ văn cóc nhái được trả nhuận bút hôn thì cũng lời to rồi". Anh ta sánh nổi khổ của người tình với "nỗi khổ thấy ông cố nội", "nỗi khổ thấy con đĩ mẹ", v.v... Còn rất nhiều ngôn từ và câu văn "tuyệt cú" hơn thế nữa kia. Văn Nghĩa từ Hải Phòng vào Sài Gòn tìm người yêu, cô nàng bèn đến chỗ tân-tình-lang thú thật trước đấy mình dại mà đi yêu một người ngoài Bắc, nay anh ta vào đây thế nào cũng tìm gặp đối thủ. Cô nàng năn nỉ: "Gặp nó, anh hãy chứng tỏ anh hơn nó nhé, hoàng tử của lòng em!". Hoàng tử được mái xùy chuẩn bị nghênh tình địch bằng cách cho ba tay đệ tử, kẻ có dáng lực sĩ, kẻ làm mặt cô hồn, kẻ ra vẻ cớm, "lảng vảng bên ngoài để bảo đảm hội nghị tình yêu". Người viết hồi kí "cam đoan miêu tả nó chính xác" và đã tả "nó" như đã nói trên kia. Trong lời kể, anh ta luôn luôn gọi đối phương là "nó", nhưng cũng cho thấy "nó" rất lịch sự, niềm nở, ăn nói và xử sự có văn hoá; trong khi anh ta cứ nói cộc lốc, vừa trịnh thượng, vừa "anh chị". Đúng bốn mẩu cụt ngủn: "Phải, Long dao cầu", "Thế hả", "Dài không?", "Nói đi!", và một câu an ủi ban cho vì mủi lòng: "Anh sẽ trở thành thi sĩ bất hủ". Văn Nghĩa chân thành nhận mình kém thớ hơn, địch thủ của mình đẹp trai hơn, tài hoa hơn, chấp nhận bị bỏ rơi, và cảnh báo: nàng "đã phản bội, sẽ phản bội", sau đó nhờ chuyển cho người yêu cũ một phong bì lớn, rồi ra đi, biệt tăm tích luôn. Tác giả tự đánh giá mình "không xứng đáng là tình địch của thi sĩ Nghĩa. Chàng hơn tôi mọi mặt". Thật ra mọi kiểu tung Văn Nghĩa lên lúc này chẳng qua là những ngón phù phép có tay nghề, điều chẳng mấy khó để nhận ra. Anh ta lén mở phong thư nhờ chuyển lôi ra một tập thơ mỏng mà Văn Nghĩa đề tặng: "Cho em nốt những bài thơ anh chưa kịp cho em, vì còn tiếc nuối giữ lại. Hãy cất kĩ bản thảo này, ngoài em anh cũng chẳng còn. Khi em chết, nhớ mang theo...". Đọc trộm tập thơ ấy, tác giả thấy "xa xẩm mặt mày" vì "tuyệt diệu" quá. (Bốn câu trích in chẳng xứng với những lời tâng bốc kia, bởi đó chỉ là những câu mòn và sáo của các cậu trai mới vỡ giọng đang tập làm thơ yêu). Để chứng tỏ "anh Long trìu mến của em" hơn đứt "nó", tác giả quyết tâm không nhận vơ nữa, không làm nghệ sĩ giả vờ nữa. Anh ta quyết "lấy sợi dây thừng thi ca buộc chân" người tình vừa giành được. Với những "tuyên ngôn" có mùi "bụi", người hùng dễ lên ngôi trong mắt độc giả, trước hết là lớp trẻ, đại loại "tôi cầm dao thọc cổ văn học sử Việt Nam chảy máu ròng ròng...".
          Tôi hỏi người đối thoại:
          - Tác giả quyển này cũng có tên tuổi đấy nhỉ? - Tôi nói vậy khi nhìn những trang giới thiệu cuốn sách.
          - Có tên tuổi trên các trang quảng cáo cũng dễ thôi. Sách của nhà văn này cũng bán được. Nhất là vào thời kì mà người Việt hải ngoại không sẵn sách báo tiếng Việt để đọc. Hơn nữa, những văn nghệ phẩm gãi đúng tâm trạng li hương càng dễ được đón nhận.
          - Về nhạc, tôi thấy loan tin những đêm ca nhạc của ông ta có các nhạc công của Opéra Paris đệm.
          - Điều đó chẳng nói gì nhiều. Chung qui là chuyện tiền cát-sê như bên này hay nói. Các băng nhạc tuyển và các tập nhạc tuyển hầu như vắng bóng tác phẩm của người này. Có điều giọng điệu của ông ta trong văn thơ cũng như trong ca từ có màu "tụ điểm" hay "giang hồ" đọc hoặc nghe cũng thoải mái, giúp thư giãn được. Trong hoàn cảnh bon chen làm ăn, bon chen sống ở xứ người, ít ai đòi hỏi nhiều. Cho nên có phịa vào chuyện thật cũng mấy ai trách cứ. Người ta nổi tiếng bằng những con đường khác nhau, và cũng tùy công chúng khác nhau. Những văn nghệ sĩ tôi thích có khi lại chẳng nổi tiếng lắm, họ có tài thật sự.
          Tôi hồ nghi không biết nhân vật Văn Nghĩa trong cuốn hồi kí kia có đúng là ông bạn tôi không. Về Hải Phòng, tôi lập tức đến gặp ông.
          - Chào thi sĩ ẩn danh. Chà! Ông bạn kín tiếng quá.
          Văn Nghĩa ban đầu tưởng tôi đùa, sau cứ ngớ ra, bối rối hỏi:
          - Ông có nhầm không đấy?
          Tôi chìa ra những trang hồi kí hải ngoại có liên quan đến Văn Nghĩa mà tôi sao chụp mang về. Ông bạn chăm chú đọc, lúc đầu còn chau mày, về sau cứ cười nhạt và lắc đầu hoài. Ông ngồi trầm ngâm một lúc rồi mới sẽ sàng nói:
          - Đúng là có chuyện anh ta và tôi gặp nhau ở Sài Gòn gần nửa thế kỉ trước, nhưng trong này anh ta đã đánh tráo mọi tình tiết. Ma giáo quá! Tội nghiệp! - Đến hai tiếng này, ông như nói với riêng mình - Cô ta làm sao mà để nay hắn tự cho mình quyền nói đến với cái giọng kia! "Em lưu manh thật", "Tôi đá em văng xi lô trước". Nói người tình cũ như vậy... - Ông lắc đầu, ghê sợ.
          Tôi nài ông bạn kể lại sự thật. Chần chừ mãi Văn Nghĩa mới đồng ý.

          * * *
          Tháng Mười Một năm 1954, tôi từ Hải Phòng bay vào Sài Gòn. Tôi xin phép cha tôi "đi chơi" nhưng ông ngờ tôi theo gái vào Nam luôn nên buồn lắm, song cũng không cản. Đúng là một phần vì nàng mà tôi có chuyến đi ấy, phần chủ yếu. Nàng đã ra đi trước đó ba tháng. Nàng chẳng báo cho tôi. Bởi vậy, biết ngày giờ nàng xuống tàu mà tôi không ra tiễn. Khi tôi nghĩ lại vội ra bến thì chiếc tàu chở nàng đã không còn ở đấy nữa. Lòng hẫng hụt và trống trải, tôi đi lơ phơ trong thành phố cảng đang mang hai bộ mặt, hai không khí. Một, gấp gáp và tạm bợ của những người chờ ra đi. Một, âm ỉ và mong ngóng, có cả thắc thỏm nữa, của những người đợi ngày thành phố được giải phóng. Chỉ mấy giờ trước đó tôi còn trách nàng; lúc này tôi chỉ tự trách mình. Tôi là đàn ông cơ mà! Tôi hơn tuổi nàng, học trên nàng; tôi học đệ nhị cấp (tức ban tú tài), nàng đang học đệ nhất cấp. Tôi phải hiểu thời cuộc hơn nàng chứ! Tôi phải hiểu tâm trạng nàng, đúng ra là tâm trạng của nhà nàng, chứ! Cha nàng là công chức của chế độ dù sao cũng mang danh là "ngụy", mẹ nàng là dân buôn. Tuy nhiên, cha tôi là công chức của người Pháp, của chính kẻ chiếm đóng kia, vậy mà cha tôi đã quyết định ở lại với chính quyền mới. Tôi nhớ câu trong thư của Axia viết cho N. (tác giả viết tắt) trong một truyện của Tuốcghênhiép mà tôi đọc qua bản Pháp văn: "Giá anh nói với em một tiếng, chỉ một tiếng thôi, thì em đã ở lại rồi". Câu đó đã dằn vặt anh chàng N. suốt đời. Trường hợp của tôi thì sao đây? Nếu tôi nói với nàng một tiếng thì nàng có ở lại không? Nhưng mà tôi có thể nói gì nhỉ? Một tiếng mà nàng Axia của chàng N. cần nghe là "(anh) yêu (em)". Chẳng lẽ với nàng Axia của tôi tiếng đó chưa đủ mạnh? Hồi đó, hầu hết người Việt Nam trong vùng quân Pháp chiếm đóng đều, nhiều hoặc ít, có cảm tình với kháng chiến, không kể những người âm thầm tham gia chống Pháp. Và chiến thắng Điện Biên Phủ là niềm tự hào chung của người Việt. Song, theo quân viễn chinh Pháp chiến bại vào Nam không chỉ những người đã quá gắn bó với ngoại bang, không chỉ những tín đồ Gia-tô giáo bị mê hoặc, không chỉ những người vì ý hướng chính trị. Ngay như tôi và nhiều bạn bè học sinh, trong khi hân hoan hòa vào niềm vui giải phóng, thâm tâm đôi lúc gợn chút bẽ bàng nếu không kịp nghĩ rằng phải sống trong vùng bị chiếm không có nghĩa là cùng phe quân chiếm đóng. Tôi có thể góp phần giải tỏa những suy nghĩ tiêu cực đã đẩy gia đình nàng di cư chăng? Hay tôi có thể nối máu Roméo bảo nàng Juliet của tôi: "Em cứ ở lại. Chúng mình sẽ…" Nàng có chịu nghe không? Chúng tôi còn quá trẻ để cưới nhau, chưa nói chuyện nuôi nhau. Tôi hai mươi, hơn nàng hai tuổi. Trong cuộc sống, cũng như trong tình yêu, tôi khá ngu ngơ, có khi còn ngu ngơ hơn cả nàng.
          Tôi là con trai thành thị. Dẫu vậy, ngay khi đã qua tuổi mười tám rồi, phái đẹp đối với tôi vẫn là một thế giới bí ẩn. Tình yêu, tôi mang trong lòng, trong hồn như mang một hoài vọng có bóng dáng những cô thiếu nữ trong văn thơ lẫn những nàng tiên trong cổ tích, cả hai đều nhuốm màu lãng mạn. Thế rồi một "nàng tiên" đã xuống hạ giới với tôi. Một buổi chiều đang đáng trên bao lơn nhìn xuống con phố nhỏ đìu hiu, tôi thấy có ba cô gái đi qua, ba chị em. Cả ba đều xinh song, như trong các câu chuyện cổ, cô út là đẹp nhất. Tôi đang rõi mắt theo thì cô chợt nhìn lên. Mặt tôi nóng bừng, bị bắt gặp đang nhìn trộm gái, xâu ơi là xấu! Môi cô hơn chun lại, chẳng hiểu để giấu nụ cười hay để kìm cái bĩu môi. Tôi tìm biết được "động tiên". Nhà cô ở một phố gần phố tôi, và thật tình cờ may mắn trên gác là nhà thằng bạn học của tôi. Tôi với nó khá thân nhưng chỉ từ hôm đó tôi mới năng đến chơi nhà nó. Về khoản giao tiếp với con gái tôi là tay đụt. Dẫu đã có những lúc được nàng ban cho nụ cười nhẹ kèm cái nguẩy đuôi tóc, tôi vẫn chưa biết nên bắt đầu ra sao. Chính nàng đã "bật đèn xanh" cho tôi, nói đúng hơn là "ra đòn" trước. Bằng một lá thư mượn sách gửi qua cậu bạn tôi. Có vẻ như trong những chuyện tương tự, phái nữ thông minh hơn, lắm sáng kiến hơn giới chúng ta. Nàng đến với tôi chủ động, hồn nhiên. Những lần hẹn hò đều do nàng "vạch kế hoạch". Hơn một năm trời, gần như ngày nào chúng tôi cũng có giờ phút bên nhau. Nhưng chưa bao giờ nàng để cho tôi hôn, cả những khi hai đứa say hương tình trong vườn hoa vắng vẻ, ánh đèn đêm lung linh khích lệ. Vài ngày chúng tôi không thấy nhau là nàng chạy bổ đi tìm tôi; song, nàng "mê" một cách tỉnh táo, luôn luôn tỉnh táo. Nàng là con nhà gia giáo.
          Lần đầu tiên trong đời, tôi đi xa như vậy, lại đi máy bay. Ngày ấy, từ Bắc vào Nam và ngược lại chỉ có thể đi đường không hoặc đường biển. Đường bộ dằng dặc qua những vùng chính phủ kháng chiến kiểm soát và những vùng quân Pháp chiếm đóng xen kẽ nhau, lôi thôi phương tiện, thời gian,…, chẳng phải ai cũng có thể đi và dám đi. Dĩ nhiên là tôi rất thích được đặt chân đến Hòn-Ngọc-Viễn-Đông, cái tên vang bóng từ thời Pháp thuộc của Sài Gòn. Chị tôi lấy chồng trong đó. Phải hai năm nữa mới có cơ gặp mặt, theo hiệp định Giơ-ne-vơ, dù buổi ấy chưa ai biết trước rằng sau khi quân Pháp rút hết khỏi miền Bắc thì mọi liên hệ Bắc-Nam đều bị chính quyền họ Ngô chặt đứt chứ đừng nói việc qua lại. Tôi có lí do để vào thăm chị tôi. Sự thật là nếu không vì nàng thì hẳn là tôi không quyết tâm xin nghỉ học để đi. Tôi đang học ban tú tài ở Hà Nội, nơi duy nhất trong "vùng địch tạm chiếm", như những người kháng chiến vẫn gọi, ở miền Bắc có loại trường này, học sinh ban tú tài ngày đó còn "oai" hơn sinh viên đại học ngày nay. Bấy giờ Hà Nội đã được giải phóng khỏi quân Pháp và một trong những việc làm đầu tiên của chính quyền cách mạng là mở cửa lại các trường học. Trong không khí mới, việc một học sinh xin nghỉ học để trở về Hải Phòng đang nằm trong vùng tập kết ba trăm ngày của quân viễn chinh Pháp và bay vào Nam có thể gây nghi ngờ.
          Tôi chưa định, chưa nghĩ một cách rõ ràng là vào gặp nàng để làm gì, sẽ làm gì. Tôi nhớ nàng, tôi thương nàng. Từ ngày ra đi, hàng tuần nàng đều đặn gửi thư cho tôi, thư nào cũng đẫm nhung nhớ. Nàng hình dung bước đi của tôi, cuộc sống của tôi, cảnh học của tôi trong khung cảnh mới hẳn phải diễn ra, không có nàng! Tôi cảm nhận nàng muốn tôi là cầu nối, là bến chờ để tâm hồn nàng ghé về, hay ít ra, để hướng vọng. Hay đơn giản chỉ là điểm nhớ! Vậy ra tôi đã mất nàng thật rồi. Vậy mà biệt nhau lần chót cũng không!
           Sài Gòn đang chớm vào mùa khô, vàng nắng. Từ miền Bắc chớm lạnh đến, tôi không thấy nóng mấy bởi đang nôn nóng muốn gặp nàng. Đang đợi tin thì đứa cháu đưa cho một mảnh giấy. Một người tên là Long mời tôi đến gặp tại nhà hát thành phố, nơi anh ta trú ngụ tạm thời cùng một số dân Bắc di cư vào. Gia đình nàng cũng từng ở đấy trước khi dời đến nhà riêng. Tôi nghĩ chắc là người anh họ nào đó mà nàng có lần đã kể muốn đứng ra dàn xếp. Duy, cái câu: "Cứ đến, đừng sợ gì cả" khiến tôi nghi ngại đôi chút. Rồi tôi vẫn đến. Anh chàng Long mừng tôi "vừa vô từ bên kia bức màn sương". Anh ta bảo trước ngày đi Nam ít lâu anh ta có ra "vùng Việt Minh". Đấu tố ghê lắm. Học sinh, trí thức khó mà đương nổi. Anh ta không biết tôi cũng có ra "vùng tự do", ra dự lớp nghiên cứu chính sách của chính quyền sắp tiếp quản thành phố đối với học sinh các đô thị tạm bị chiếm. Anh ta chuyển qua nói chuyện văn chương, âm nhạc. Nhặt chỗ này một tí, chắp chỗ kia một tí, kiểu chuyện trò trong các tiệm cà phê ồn ào, chốn có thể tưởng ai cũng là uyên bác, là sành điệu. Thấy anh ta giở văn thơ ra, ban đầu tôi cũng ngại. Anh ta tán mấy câu, tôi bình tâm ngay. Thời học sinh, chúng ta ai mà chẳng kết xoàng ra là dăm câu thơ, vài đoạn văn và những lời bình; rồi khi sa vào trường tình cũng tập tọng thơ thẩn. Thỉnh thoảng tôi mới chêm đôi lời đủ cho anh ta nể và không lòi đuôi mình ra. Khi anh ta phán ca nhạc, tôi cười thầm. Tôi là cây ghi-ta của trường tôi đang học; tôi lại dạy nhạc tại các lớp tư gia. Anh ta cũng tinh, tấu mấy câu phiếm, tôi chỉ đệm qua loa, anh ta lập tức chuyển đề tài. Không rào trước, anh ta nói đến nàng. Anh ta khen nàng thông minh, học làm thơ cũng nhanh; chê nàng quá ngây thơ, thiếu kinh nghiệm sống, dễ tin những giá trị phù phiếm, bề ngoài. Chẳng biết anh ta muốn ám chỉ những gì. "Tuy vậy, en (elle) (1) và tôi rất hiểu nhau", anh ta nói lấp lửng. Rồi bỗng nhiên, anh ta hỏi tôi: "Cả gia đình anh chuyển vào đây chứ?". Tôi ậm ờ: "Có thể là không". Anh ta nói: "Ở lại làm hàng thần lơ láo ư?". Tôi nói: "Có đánh nhau với bên kháng chiến đâu mà hàng thần". Anh ta nói: "Dù sao thì cũng ở phía kẻ bại trận". Tôi nói: "Cả nhà tôi chưa bao giờ nghĩ mình cùng trận tuyến với quân chiếm đóng Pháp". Anh ta nói: "Pháp đã trao trả độc lập cho Việt Nam từ năm 1949 rồi". Tôi nói: “Chẳng phải năm trước thủ tướng đương nhiệm khoe, sau một hiệp định kí thêm với Pháp, rằng như vậy là tới nay ta đã được độc lập xanh căng puốc xăng (cinquante pour cent)(2) đấy thôi? Chắc gì đã được năm mươi phần trăm!” Chẳng biết làm sao mà tôi ứng khẩu đối đáp anh ta như vậy những chuyện mà bình thường ra tôi không quen nói. Có lẽ do lối nói của anh ta. Anh ta nhếch mép: "Chà! Chính trị cao quá nhỉ! Đáng được chung vui chiến thắng với bên kia. En thì không kham nổi đâu. Đã vậy, anh vào đây làm gì!" Tôi hơi giật mình, chẳng hiểu thằng cha này muốn gì.
          Đó là lần duy nhất tôi gặp Long, lần gặp gây cho tôi cảm giác không yên. Tôi hẹn gặp nàng tại vườn hoa Tao Đàn. Vườn hoa này nghe nói ngày trước đẹp lắm, nhưng buổi chiều đó nom rất tã, có lẽ do lính tráng và dân di cư. Khung cảnh này thật chẳng hợp với một cuộc hò hẹn. Nàng không đến một mình mà đi theo bà chị cả, người có ảnh hưởng lớn đến việc ra đi của nàng. Gặp tôi, bà chị vẫn tỏ ra xởi lởi song chẳng phải là cởi mở. Còn nàng thì dè lặng mang vẻ mặt kín bưng. Đâu rồi người con gái hồn nhiên "cởi mở lòng đón bóng yêu"?
          Buồn và chán, tôi lang thang trên hè phố thấm thía cái nắng ong ong của Sài Gòn, cái nắng chẳng tiện cho suy tư nội tâm chút nào. Tôi đã toan ra Bắc ngay, nhưng rồi đổi ý  đi Đà Lạt chơi ít hôm. Đà Lạt ngày ấy thật đúng với cái tên "thành phố mộng mơ", "thành phố tình yêu". Các thành phố khác thời Pháp chiếm đóng, dẫu người ta mải làm lụng, học hành, hoặc là ăn chơi nữa, thì trong thâm tâm vẫn không thoát khỏi nỗi ám ảnh của quân chiếm đóng, của thế lực ngoại bang đang trùm lên mọi hoạt động, đang giật dây các chính khách. Đà Lạt có khác. Thành phố như ở bên lề thời cuộc. Những "thung lũng tình yêu", "hồ than thở", ... dường như chỉ dành cho những kẻ đang yêu. Song le, đang thất tình hoặc đang "dở dang trăm mối" mà đến đó là dại. Cảnh đẹp trong sự trống vắng càng làm thấm thía nỗi cô đơn. Tuy vậy, cảnh trí và không khí Đà Lạt giúp tôi tĩnh tâm lại. Tôi ngồi trên bãi cỏ êm bên hồ Xuân Hương kề khách sạn Palace, - ngày ấy, bãi cỏ chưa bị khách sạn này thôn tính vào trong khuôn viên của nó -, ngẫm ngợi sự đổi khác nơi nàng, có gì đó không thật là nàng nữa. Chợt nhớ câu của ai đó: "Em làm mặt lạnh lùng / Trong em có sóng gió". Có thể vậy chăng? Rồi màn kịch của anh chàng Long chẳng biết từ đâu mọc ra kia. Cần phải... Tôi làm lời chủ nhà trọ đánh điện cho chị tôi ở Sài Gòn nói tôi bị tai nạn khá nguy kịch. Đánh điện đi rồi tôi phấp phỏng lo. Ngay chiều hôm đó chị tôi đến Đà Lạt. Có cả nàng! May quá! Nếu chỉ mình chị tôi lên thì thật là một bức điện vô duyên. Khỏi phải nói cả hai người chưng hửng như thế nào. Tôi xin lỗi chị tôi, và "chuyện của chúng em phải dứt điểm tại đây, hôm nay". Bà rất giận, bảo: "Cậu quá con nít. May mà tôi còn chờ xem tình hình cậu bị ra sao mới điện cho cha ngoài ấy". Tôi quay qua nàng "Người ta bảo Đà Lạt là thiên đường của tình yêu lứa đôi. Đáng tiếc, nơi đây không là cái nôi của mối tình chúng ta. Nếu em muốn nó tan vỡ, hãy để Đà Lạt làm chứng nhân". Tôi nghĩ ngọn lửa tình trong lòng nàng chẳng thể nguội nhanh như thế, song rõ ràng đang bị đe dọa dập tắt. Khung cảnh Đà Lạt có thể khơi men tình ái, tôi tin vậy. Nàng và tôi đi dạo trên bãi cỏ mượt mà, tĩnh lặng một cách hoang vắng. Vẻ mặt nàng âm thầm, phảng phất nét vô cảm như đột ngột bị nhiễm cái lạnh của Đà Lạt. Mặc tôi hỏi gì, nói gì, nàng chỉ im lặng… Bỗng nàng xoay người hôn vào môi tôi, - lần đầu tiên trong cuộc tình của chúng tôi, rồi đi nhanh xuống dốc tới con đường ven hồ, hình như lén đưa tay lau mắt nhưng không một lần ngoái cổ lại. Nàng về ngay Sài Gòn không chờ bà chị tôi.
           Rời thành phố mù sương, tôi gặp lại Sài Gòn đầy nắng, song trong lòng thì ảm đạm. Tôi đang sửa soạn hành lí để ra Bắc thì thằng cháu đem đến một phong bì nói là của một anh đi xe đạp qua nhờ đưa. Ngoài bì không đề tên người gửi, nét chữ lạ. Bên trong là một tờ giấy xé từ một cuốn sổ, nét chữ nàng: "Tous les hommes sont détestables, même mon cher" (Mọi đàn ông đều đáng ghét, kể cả người tôi mến thân), nhại một câu của một nhà văn Pháp.
          Một cơn mưa rào bất chợt trên đường tôi ra sân bay đưa tiễn tôi.
          Tôi trở lại Hải Phòng thả bước trên đường phố của tuổi thơ tôi, của mối tình đầu của tôi, và… cố không nghĩ tới nàng nữa.

          *  *  *
          Văn Nghĩa hồi tưởng chuyện xưa, tôi không đủ sâu sắc để đoán biết có mạch ngầm nào đằng sau vẻ mặt yên tĩnh của ông. Tôi hỏi:
          - Ông có biết do đâu có câu "tuyên ngôn" tiếng Pháp kia không?
          - Không. Câu tiếng Pháp kia không chắc là cô ta gửi cho tôi. Điều ấy không quan trọng nữa. Nó chỉ khích động nỗi niềm trong tôi mà thôi. Tôi đi đến với người tôi yêu mối tình đầu, tôi tìm đến người thương vẫn hiện ra sau những dòng thư đau đáu. Điều gì đã đến trong tâm hồn cô, trong cuộc sống của cô, cô dứt khoát đóng kín với tôi. Một cô gái từng yêu một cách hồn nhiên, cởi mở.
          - Ông có nghĩ…? Những trang hồi kí kia…
          - Chuyện tình thứ thiệt ư? Không người đàn ông nào, có tồi mấy đi nữa, lại nói về người con gái mà mình từng yêu và từng yêu mình, ngay cả chỉ đơn phương, bằng một giọng như vậy, nhất là khi anh ta đã ít nhiều thành đạt, và khi đã có tuổi. Thật tội cho cô ta! "Đánh" một người mà biết chắc người ta không thể "nói lại", yêng hùng đấy chứ!
          - Xin lỗi, cho hỏi thật: có đúng là nàng đã yêu ông chân thành hay chỉ là "hoa lá cành"?
          Văn Nghĩa đến lục một trong  một cái hòm đặt cẩn thận trong góc phòng lấy ra một cái hộp cất kĩ dưới đáy hòm. Ông mở hộp đưa cho tôi xem một tấm lụa vuông mỗi bề chừng bốn mươi phân màu trắng viền tua vàng thêu chữ màu đỏ. Toàn bộ đã xuống màu song còn nền nã lắm. Nét chữ bay bướm, đường thêu tinh tế. Trang trọng ở giữa là hai câu thơ: "Hai ta trời hẹn tình hoa bướm / Chẳng cứ xuân về mới kết đôi". Bên dưới là những hàng chữ nhỏ: "Thơ này của anh, đường thêu này của em, đôi ta chung sức, không sức mạnh nào chia lìa được". Ở góc trái phía trên, tên hai người được thêu cách điệu thành một con bướm quấn quít một bông hoa, chỉ thêu màu trắng ngà. Góc phải phía dưới ghi: 24 - 6 - 1954, ( trước ngày cô ta theo gia đình vào Nam chỉ hơn một tháng!) Tấm thêu chỉn chu, người thêu như gửi lòng mình, gửi hồn mình vào đường kim mũi chỉ. Bức thêu như là "tờ mây" thề nguyện. Vậy mà…  Biết đâu cô nàng cũng cảm thấy mất đi một cái gì khi Văn Nghĩa đột ngột xuất hiện ở Sài Gòn?- tôi nghĩ thầm. Phải chăng bản chất con người cũng là lãng mạn, theo cái nghĩa không xấu của từ này, cái nghĩa gợi nhớ một khuynh hướng văn học nghệ thuật mà tác phẩm của Vích-to Uy-gô là một đại diện? Song tôi phân vân. Lẽ nào có thể có cái không tầm thường trong một mối tình bình thường!
          Tay Văn Nghĩa cầm bao diêm tự lúc nào. Ông xòe diêm. Tấm lụa được cất kĩ gần nửa thế kỉ cháy vèo, mảnh tro lửng lờ rơi xuống nền gạch men.
          - Bọn nhà văn các ông hay nói "tro tàn kỉ niệm", - Văn Nghĩa mỉm nụ cười buồn - như thế này phải không? đúng nghĩa đen!
          Tôi nói vui: - Dù sao ông hãy tự hào là đã làm nên hai nhà thơ.
          Văn Nghĩa nhếch mép: - Những hai cơ à?
          - Trong hồi kí của mình, Long nói "nàng" thuổng thơ người yêu tặng mình đem đăng báo mà thành thi sĩ. Và ông thì "vì nàng (mà) làm hàng trăm bài thơ cho riêng nàng đọc" và "đã cho nàng rồi thì xé bản thảo đi" theo yêu cầu của cô ta.
          - Tôi chỉ tặng cô ta dăm bảy bài thơ, lăng nhăng thôi, làm sao đăng báo được. Tuy nhà văn này chúa phịa. Tôi đâu có gửi hắn tập thơ mỏng nào cho cô ta. Lại nữa, bốn câu mà hắn bảo đọc xong hắn xa xẩm mặt mày cũng đâu phải của tôi. Hắn tưởng tôi chết rồi chắc mà dám dựng đứng vậy!
          - Riêng anh ta thì nhờ cú hích khi gặp ông mà lao vào văn thơ, như chính anh ta "khai" trong tác phẩm của mình.
          - Có khi chỉ là một cách tự quảng cáo, tự đề cao, hoặc để cho văn mình dễ bán.
          Ông bạn chợt cười thật vui: - Ông anh rể tôi định cư ở bên kia trái đất, một lần, quãng năm 1999, tự nhiên gửi thư cho tôi bảo tôi "có thể vỗ ngực hét lên rằng không có Văn Nghĩa này thì sao có kẻ kia, một nhà văn tên tuổi ở hải ngoại!". Tôi cứ tưởng nói chơi. Hẳn cuốn hồi kí vừa ra, ông ấy đã đọc những trang kia và nghĩ rằng tôi cũng đã đọc. Ông này lão lắm rồi, trên tám mươi, mà còn rất nhộn. Trong thư, ông còn an ủi tôi chẳng nên buồn, chẳng nên hận, và phàn nàn rằng mình chẳng được "bị đá" để mà buồn và hận, để thành thi sĩ. Ông tiếc cho tôi không có đất để "nuôi nguồn hứng khởi mà tiếp tục gieo vần, cấy điệu", nếu không thì đã thành một "thi sĩ hữu hạng", rõ ràng là có hàm ý. Ông lão vẫn có cái ngây thơ của ông lão, và vẫn lãng mạn đấy nhỉ! Chẳng loại trừ tôi và ông.

    (1) nàng, cô ấy (tiếng Pháp)                                
    (2) năm mươi phần trăm (Tiếng Pháp)
     
    Hải Phòng, 7 - 2002
     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.03.2009 15:29:53 bởi Khải Nguyên HT >
    #2
      Khải Nguyên HT 19.03.2009 12:31:57 (permalink)
       
       
      NỢ TRẦN
      -truyện ngắn- 

       
             Nghe một ông bạn đi nhiều khen cảnh chùa X., vốn mộ cảnh chùa chiền, tuy không mộ dạo, tôi cất công tới vãn cảnh. Ngôi chùa cổ kính, thanh tĩnh, không xô bồ khách lễ bái. Trước sân chùa là một cái  ao hình bán nguyệt, một cây đại già soi bóng, sen đang ló bông. Quanh chùa là một khuôn viên khá rộng nhiều cây cổ thụ, "thấp thoáng" tiếng chim. Tại đây, tôi bất ngờ gặp Liên, con Vũ Ninh, bạn cũ của tôi. Buổi cầu kinh sáng đã xong từ lâu mà trước Phật đài vẫn còn một người quì gối chắp tay khấn nguyện. Người này mặc quần áo nhà chùa, chiếc khăn nâu đội đầu không che hết bộ tóc có thể nói là đẹp. Nhìn thoáng qua tôi thấy quen quen. Trong lúc đàm đạo, tôi gợi chuyện sư cụ. Sư già cho biết sự thể và nói thêm: "Cô ta muốn qui y nhưng xem ra duyên tục chưa dứt nên nhà chùa khuyên thong thả hãy xuống tóc".
            Tôi lặng đi, bởi tôi không nghĩ cháu lại tuyệt vọng như vậy. Dù sao thì Ninh đang là mẫu người được ngưỡng mộ của giới làm ăn, cả quan lẫn dân. Cả nhà ông ta, như người ta nói, đều có phúc, có phận.
            Ninh xưa là bạn học của tôi, cùng đi bộ đội một đợt, các lượt được nâng cấp sĩ quan không chênh nhau lắm, chuyển ngành gần như cùng dịp. Ninh vào tiếp quản Sài-gòn ngay sau ngày 30/4/1975.  Bước vào thời kì "đổi mới", anh chuyển qua làm kinh tế, khi sắp lên cấp tướng. Tôi chuyển ngành từ ngoài Bắc. Năm ấy, cơ quan Ninh chấn chỉnh theo hướng cơ chế mới. Tôi được điều vào chuẩn bị thay anh ta. Ninh lên nắm cấp cao hơn, cấp "tổng". Nhưng tôi bị một "trục trặc" nhỏ. Đảng bộ cơ quan họp đại hội, tôi bị một "cú" thư nặc danh tố cáo những việc đẩu đâu, bây giờ nghĩ lại thấy buồn cười. Dù vậy, vẫn phải "chờ điều tra". Việc "vào cấp ủy" của tôi phải gác lại. Và gác luôn chức vụ "sắp sửa" của tôi. Một cấp phó trước đây của Ninh lên thay. Tôi thành lỡ dở. Người ta khó xếp ghế cho tôi. Ghế cũ thì đã có người ngồi ngay khi tôi vừa rời đi. Tôi nói: tôi làm gì cũng được, thậm chí làm nhân viên. Nói mạnh vậy nhưng cũng thấy là khó chấp nhận, với tôi, với họ. Tình thế ấy, tôi xin về hưu non.    Mối liên hệ giữa tôi và Ninh lơi dần. Tất nhiên, anh bạn có những bận tâm riêng mà tôi khó chia sẻ cùng. Tôi vẫn rõi theo được về đại thể bước thăng tiến của anh ta. Đất nước tiến mạnh vào thời mở cửa. Ồn ào những "kinh tế thị trường", nhưng "liên doanh", "liên kết". Ninh vẫn được tín nhiệm đều đều, - khỏi phải hỏi ai tín nhiệm, - dẫu có những xầm xì này khác. Tình thân giữa chúng tôi lỏng, tôi vẫn giữ cho âm ỉ trong lớp tro kỉ niệm thiếu thời, được Ninh hâm nóng trong mấy lần đích thân đến nhà tôi.
            Lần thứ nhất, Ninh đột ngột đến nhà tôi vào lúc tôi "về vườn" gần chẵn năm. Tôi thành thực vui đón bạn. Người về hưu chẳng phải "vô công rồi nghề", tuy vậy cũng thích thăm thú bạn bè nhưng lại ngại ám công chuyện làm ăn của người ta, cho nên có khách là mừng rồi. Ninh thoạt đầu hơi kém tự nhiên. Tôi đã tưởng một sự ăn năn do tình bạn khơi nên. Nhưng không phải vậy. Tuy nhiên, phút lúng túng qua nhanh, - cũng phải thôi, với một người quen có công chuyện không chỉ với người trong nước. Sau vài lời "giao đãi" gọn nhẹ, ông bạn cũ của tôi nói thẳng vào việc: Nhờ tôi làm "đại diện đặc mệnh" cho một "tư vụ" khó khăn và tế nhị.
            Đứa con trai một của vợ chồng Ninh "đổ đốn ra" đâm mê một cô giáo cấp hai chưa hết tập sự. Nếu chỉ kể riêng "con bé" thì cũng đáng "được bước vào cửa" nhà ông ta. Sắc, tài, đức "tạm" được cả. Hiềm một nỗi "thằng bố nó" đã có lần đi tù hình sự. “Tôi có thể không chấp địa vị xã hội, gia cảnh hắn ta. Nhưng… chẳng nhẽ trong lí lịch con tôi không ghi gì về bố vợ. Nông nổi ấy rồi còn đeo đến đời các cháu tôi. Mà thôi, chuyện lí lịch ngày nay chẳng đáng sợ, ít ra là với những người như chúng ta, phải không anh? Chuyện "cùng ngồi với nhau" thì có thể tránh được. Chuyện này mới gay. Rồi đây trong tộc phả họ tôi sẽ ghi thế nào về tiểu sử một nàng dâu như thế? Chẳng lẽ ghi: Bà vốn là con nhà tội phạm!” (Xem ra ông bạn đang chuẩn bị những trang gia phả, tộc phả để đời!). Vợ chồng Ninh khuyên giải con không được, cấm đoan không xong, bà vợ bèn cho đánh xe đến tận nhà "kẻ kia" bảo thẳng: "Ông bà không đáng làm sui gia với chúng tôi". Ninh bảo ông ta không xui vợ, nhưng hẳn rằng ít nhất ông ta cũng đã không can ngăn. Họ chẳng làm thế nào lay chuyển được Tân, cậu con. Đến một hôm, Tân tuyên bố: "Cô ấy đã mang thai bốn tháng. Nếu không cưới thì con sẽ đi xa cùng cô ấy, không bao giờ trở về nhà này nữa". Đành xuống nước: "Thôi được! Cứ đưa nó về đây! Rồi sẽ tổ chức tiệc tùng sau". "Không cưới hỏi đàng hoàng thì cô ấy không bước chân vào nhà này đâu". Bà mẹ bĩu môi: "Đã ễnh bụng ra, người ta đón cho đã phúc, còn kênh kiệu!". "Chúng con đã đăng kí kết hôn rồi. Phải có chạm ngõ! Phải có rước dâu! Con nói hết!" Rõ là nòi cha, giọng quân sự: một là một, hai là hai. Việc chẳng thể đừng. Khốn nỗi nhà gái khăng khăng: "Ai đã nói chúng tôi không đáng làm thông gia thì phải có nhời nói lại mới rước được con gái chúng tôi về". Không muối mặt thì không xong. Đang lúc vô cùng khó xử, Ninh nảy ra được một "giải pháp tình thế" - Không đa mưu túc kế thì làm sao ông bạn trụ được mãi trong "trường làm ăn", mà lại trụ giỏi nữa? - Xin đối phương cho được cử người thay mặt, thay nhời. Mãi mới được người ta chịu, nhưng nhắn sang: Phải là người cùng vai vế với người được "thế mạng". Đã ướm cử mấy trường hợp mà bên kia cứ lắc. Chẳng hiểu do đâu mà Ninh lại nghĩ đến tôi, - tôi đâu dám sánh với ông ta, về mọi phương diện! - và được gật. Chắc là vì con tôi học cùng khóa Cao-đẳng Sư-phạm với cô giáo nọ. Vậy là tôi đã đóng vai "sứ giả", thú thật là chẳng mấy vui. Tình thân giữa Ninh và tôi được nhen lại. Và rồi như một cái "nghiệp", tôi còn phải dính vào chuyện nhà của ông ta. 
            Khi Ninh chuyển sang dân sự làm kinh tế, ông ta mang theo một cậu tên Thụ vốn là lính hầu của mình. Đích thân ông ta làm giấy xuất ngũ cho. Một cậu trẻ măng, thật dễ thương, mới nhập ngũ, sau khi học xong phổ thông trung học. Được đi lại thân thiết với gia đình "sếp", Thụ mau mắn chiếm được cảm tình của cả nhà, đặc biệt là Liên, cô con gái rượu. Sét nổ giữa nhà ông bạn cũ của tôi vào một tối khi Liên ngỏ ý với mẹ là muốn chung sống với Thụ. "Trời! Con gái tôi! Một thằng xuất thân binh nhì, nghề ngỗng chưa đâu vào đâu". "Con chẳng cần. Anh ấy hợp với con". "Nhưng rồi làm gì mà ăn?". "Nếu cha mẹ không giúp thì chúng con tự xoay xở lấy". "Nhưng mày còn trẻ quá, con ạ". "Con đã đến tuổi kết hôn được rồi, chỉ kém mẹ nửa tuổi khi lấy cha thôi". Ông anh vợ tương lai định rủ bạn "sửa" cho "thằng nhãi cù lần" một trận cẩn thận. May, Tân vừa hở ra với vợ, Thuỷ đã lạnh mặt bảo: "Nếu anh làm vậy thì đừng nhìn mặt em và con nữa". Ninh gặp riêng Thụ hứa chu cấp cho một số tiền lớn và lo cho đi học hoặc xin việc làm chu đáo ở ngoài Bắc, miễn là cậu "chịu buông tha con bé", nếu không ... Cái bỏ lửng đầy ý nghĩa. Biết chuyện, Liên dọa: hoặc trốn đi với ngời yêu, hoặc tự kết liễu đời mình. Vợ chồng Ninh thực sự hoảng khi bà mẹ tìm thấy trong tủ con đầu giường trong phòng riêng của con gái một xấp vỉ thuốc ngủ loại mạnh.
            Ninh đến nhà tôi nhờ khuyên giải Liên, ông ta biết cháu mến tôi. Tôi dè dặt bảo ông ta: nếu tác thành được cho hai trẻ thì sau này dìu dắt cháu Thụ không khó. Hẳn Ninh cũng thấy không còn cách nào khác hay hơn. Quả nhiên, sau đó Ninh đã bồi dưỡng cấp tốc cho con rể những gì và ra sao, họa có trời biết được, chẳng bao lâu Thụ trở thành trợ thủ thân cận của bố vợ. Cậu vốn nhanh nhẹn, tháo vát, chịu khó.
            Cơ ngơi ban đầu của gia đình Ninh là biệt thự của một tướng ngụy cũ trong một khuôn viên xinh xắn. Ông ta cho xây thêm một toà nhà ba tầng lầu. Cha mẹ, con cái gồm cả dâu, rể ăn ở đàng hoàng, thoải mái, lại còn thừa các phòng sang trọng cho người nước ngoài thuê, thu hơn hai nghìn đô-la Mĩ mỗi tháng. Thế rồi tôi nghe tin vợ chồng Tân-Thuỷ xin ra ở riêng. Người thì cho là một sự "li khai". Người thì cho là "sách lược" của bộ óc "chiến lược".
            Một buổi chiều, vợ chồng Thụ đến thăm tôi. Trước đây, thời "sóng gió" của đôi trẻ, Liên đã mấy lần đến cầu cứu tôi. Quan hệ giữa chúng tôi không xuống cấp hoặc thăng trầm như giữa cha cháu và tôi. Họ đến báo tin vui Thụ được cử đi tu nghiệp dài hạn ở nước ngoài. Vậy mà sao vẻ mặt của cả hai đều có dáng ưu tư. Với Liên thì có thể hiểu được. Xa chồng dài lâu chẳng phải là điều dễ chịu, dẫu chuyến đi của chồng là điều ước khó với tới của nhiều người. Vả lại, cô đang mang bầu. Còn Thụ? Tôi chẳng tiện hỏi. Tôi chỉ mỗi việc có thể làm lúc này là mừng cho họ, chúc ngườỉ ra đi lên đường may mắn và động viên người ở lại.
            Liên sinh được một đứa con trai rất kháu ngay khi mới lọt lòng. Thụ gửi về đủ thứ cho vợ con bổ dưỡng, những thức quí hiếm ở trong nước dẫu đã vào thời "mở cửa". Đứa bé hay ăn, chóng nhớn, bụ bẫm, khôi ngô. Nhưng chừng sau tuổi thôi nôi, nó bắt đầu gầy đi. Chuyện ấy cũng thường xẩy ra. Đáng lo là cái chứng khóc đêm. Khóc ngằn ngặt, từng chặp, từng cơn, liên miên hầu như thâu đêm, như là khóc thay cho mọi đứa trẻ trên thế gian này. Thuê hẳn ba bác sĩ nhi khoa giàu kinh nghiệm mà chẳng tài nào định bệnh được. Biết tin, chẳng hiểu sao Thụ viết cho vợ bàn chuyện mua nhà ra ở riêng. Ban đầu là bàn, sau là giục. Thật khó cho Liên, khó cho cả cha mẹ cô. Tình trạng cháu bé ngày càng tệ. Thụ tức tốc xin phép về thăm nhà. Cậu kiên quyết đòi Liên rời biệt thự cha mẹ đẻ. "Anh Tân, chị Thuỷ đã đi rồi. - Liên khổ sở, nói - Cha mẹ muốn em ở cùng cho vui, sẵn sàng dành hẳn cho chúng ta một tầng lầu. Em bỏ đi sao đành! Mà người ngoài trông vào chẳng tiện". " Nếu sợ không tiện thì ra bắc với mẹ anh. - Thụ không chuyển ý - Anh bảo đảm em và con sẽ sống đầy đủ, đầm ấm". Thụ ra đi với một lời gửi lại như một lời răn, hàm một lời đe: "Nếu không nghe thì rồi có chuyện gì hãy gắng mà chịu". Ít lâu sau, đứa bé chết trên nhung lụa và giữa vô vàn thứ thuốc thang cùng thức nuôi dưỡng.
            Lần thứ ba, Ninh đến tôi cũng đột ngột như các lần trước, vào buổi tối. Tôi chưa kịp mời, ông ta đã ngồi phịch xuống ghế buông ra một thôi vừa hậm hực, vừa cay đắng:
            - Hừ! Tôi vào Nam ra Bắc mấy chục năm tung hoành cả trên chiến trường, cả trên doanh trường chẳng chịu kém ai, mà nay bị một thằng nhãi cho một cú đá vào mông điếng người, lại không kêu được.
            - Có chuyện gì vậy anh? - Tôi lo ngại hỏi.
            Ninh ngồi thở gằn một chốc, uống một hơi chén nước tôi đưa. Giá lúc ấy tôi mời rượu thì có lẽ hợp hơn.
            - Nó quất ngựa truy phong rồi. - Ninh nói sõng.
            Tôi chẳng hiểu gì cả, giương mắt ngó sững ông bạn. Ông ta tự tay rót tiếp nước vào chén, uống nữa, rồi thở hắt ra:
            - Con Liên nhà tôi mất chồng rồi.
            Hẳn là lúc ấy tôi đã há hốc miệng ra. Ninh bắt đầu kể. Xưa nay, ông ta nổi tiếng ăn nói lưu loát, đăng đàn thì hùng hồn phán đâu ra đấy. Vậy mà hôm ấy tôi được thấy và nghe một văn phong rối rắm với giọng điệu nhiều cung bậc: khi chùng lại kể lể, khi nặng giọng lên án, khi trầm xuống than van, khi bung ra tức tối như đang mắng ai trước mặt, quên rằng trước mặt ông ta lúc đó chỉ có tôi. Khó khăn lắm tôi mới tóm bắt được nội dung câu chuyện cho mạch lạc.
             Con chết rồi, Liên không nhận được một mẩu thư nào của Thụ nữa, trừ một tin phát trôi, chẳng biết có phải do chính Thụ phát ra không: "Chưa biết lúc nào về. Ai cứ lo phận nấy". Vợ chồng Ninh đã cho con gái cả chục nghìn đô-la Mĩ bay đi tìm chồng. Hắn ta đã rời nơi tu nghiệp, chuyển đi những xứ nào làm ăn, có ma biết. Liên lần mò theo những lời mách mối, lòng vòng cho đến lúc cạn tiền đành quay về không, tinh thần tê bại. Ninh nhờ tôi "dùng ảnh hưởng của mình thức tỉnh" Thụ. "Nó chịu nghe anh. Trước kia, nếu không có anh nói vào thì chẳng đời nào chúng tôi nhận một đứa như thế làm rể". Một câu nói chẳng phải là buông ra đưa đà.
             - Nhưng chính cháu Liên cũng không biết hiện giờ Thụ ở đâu cơ mà. - Tôi nói, chẳng phải với ý từ nan.
             Ninh nhìn tôi lơ ngơ như vừa tỉnh ra một sự thật. Ông ta đứng dậy: "Tôi về đây", và bước thẳng ra cửa.
             Tôi khó nghĩ quá, và phân vân. Tôi có động lòng xót cho vợ chồng Ninh, nhưng cái chính là thương cho Liên. Tôi quyết định lần theo các mối quan hệ của Thụ ở nước ngoài qua thư từ hắn ta gửi cho tôi. Tôi chốt lại ở một địa chỉ là nhà của một Việt kiều. Tôi gửi hú họa một lá thư về đó nhờ chuyển cho hắn. Tôi chẳng mấy hi vọng, thế mà lại nhận được hồi âm của Thụ.
              Lá thư gây cho tôi không ít bàng hoàng. Tôi vẫn tự cho mình hiểu khá rõ ông bạn Ninh của mình. Vậy mà... "Bác chẳng thể nào biết được, tin được là cú thư nặc danh kéo hẫng cái ghế giám đốc dưới chỗ ngồi của bác dạo nọ chính là do ông bố vợ quí hoá của cháu đạo diễn. Một tay chân tin cẩn của ổng tiết lộ với cháu trong một bữa nhậu tay đôi. Ông ta cần người cùng kíp nối ngôi tiếp tục hành nghề và giữ kín mọi chuyện". Chi tiết này là nặng nề nhất đối với tôi, nhưng chỉ là phụ, rất chi là phụ, trong toàn bộ bức thư.
             Tôi nhớ lại vẻ mặt ưu tư của Thụ khi anh ta đến chào tôi để đi du học.  Trước đó chưa lâu, Thụ kể, anh được "sếp" - bố vợ giao cho việc lo mua một cặp ngà voi "mét hai trở lên" và một tấm da hổ "trưởng thành", tất nhiên là chẳng bằng tiền túi của ông ta, và lo sao cho ông ta mang đi trót lọt trong một chuyến đi công cán nước ngoài để làm quà tặng. Thụ biết rõ việc đó không những là hành vi tham nhũng, buôn lậu, mà còn phạm luật, luật trong nước và luật quốc tế, về bảo vệ động vật quí hiếm. Chẳng biết anh ta đã để lộ ra chưa, nhưng ông nhạc đánh hơi được ngay ý nghĩ và thái độ thực sự của ông con rể. Ông ta dẹp lệnh ấy với Thụ, giao cho một thủ túc khác (ông ta luôn luôn có sẵn các lá bài dự phòng).
             Đó chỉ là mồi lửa đốt thêm làm phì hơi nồi cám đã âm ỉ sôi. Đã có biết bao chuyện khiến anh con rể không ăn ý với ông bố vợ cứ bị thất sủng dần. Trong đó có những chuyện động trời, chẳng hạn, tiếp tay cho đối tác nước ngoài biến cơ sở liên doanh thành bãi thải những thiết bị, máy móc cũ rích của họ, hoặc nâng giá lên đến mức khó tin; chẳng hạn, các cán bộ chủ chốt và vợ con họ thường xuyên đi du lịch nước ngoài, mua hàng và ăn chơi, dưới chiêu bài "tham quan khảo sát thị trường", mỗi năm có khi vài ba lần; ...; khó mà kể xiết.
               "Trước khi bị đá đi tu nghiệp, cháu đã thấy cái nhà ấy sặc mùi thất đức. Cháu những muốn đưa vợ đi ở chốn khác nhưng chưa đủ điều kiện và chưa có dịp. Đến khi thấy những triệu chứng suy kiệt của đứa con khốn khổ, cháu linh cảm thấy những báo ứng nhãn tiền trút lên đầu nó. (Sao lại báo ứng vào đứa nhỏ được! - Tôi thầm nghĩ - Nó có tội tình gì đâu. Phải tìm nguyên do ở cách nuôi nấng và các điều kiện sinh hoạt, hoặc ở nội tạng cơ thể đứa bé chứ. Mà báo ứng đâu ở kiếp này?) Cháu đã giục Liên thoát ra cả hai mẹ con. Cô ta đã không nghe. Cô ta, gia đình cô ta như là cái nghiệp của cháu. Cháu còn biết làm gì hơn?..."
              Thực tội cháu Liên! Nếu quả là cái "nghiệp" thì Thụ càng không được bỏ rơi vợ. Tôi chưa nghĩ ra mình có thể giúp cháu được gì. Khi bất lực, người ta nếu không viện những lí do này nọ thì cũng tránh ra, lờ đi hoặc quên đi. Tôi đã muốn quên đi. Thụ cũng đã cắt thư với tôi.
             Lần ấy, gặp Liên trong tình cảnh không ngờ, tình cờ mà như có sự run rủi. Tôi không thể không đến gặp cháu, - mà gặp thì biết nói gì đây!
             Ngồi với cháu trong vườn chùa, tôi đã ngại cháu sẽ khóc nhiều, nhưng có lẽ giai đoạn ấy đã qua. Liên có dáng trầm tĩnh một cách nhẫn nhục, vẻ mặt lạnh, ánh mắt hoang.
             - Cháu vào đây để sám hối...
             Tôi lắc đầu. Tội nghiệp cô bé! Cháu có hiểu những lời cháu vừa thốt ra không? Tôi đã chứng kiến mấy nam nữ thanh niên ăn mặc đúng mốt, mặt phấn môi son, đèo nhau bằng xe máy đến trước một cái miếu con vừa hẹp, vừa thấp tè như cái chuồng gà bên một gốc đa (đáng tiếc, cây đa tuyệt đẹp!), đua nhau niệm to như hát đồng ca: "Con xin sám hối...", "Con xin sám hối...". Sau cái điệp khúc "Con xin sám hối" là những từ ngữ vang mà rỗng. Sau mới biết người "lĩnh xướng" là một "nhà chuyên nghiệp" được trả công.
             - Cháu sám hối chuyện gì?
             - Lẽ ra cháu phải sớm tỉnh ngộ mới phải. - Liên như không nghe câu hỏi của tôi. Đúng đêm cháu sinh con, cây ngọc lan cạnh nhà bị gió mạnh quật đổ; khám nhờ thần tài trong nhà tự nhiên tung toé bát hương...
             Giá như trong một cảnh huống khác thì tôi đã phì cười. Tôi biết giới "làm ăn" trong Nam có tục thờ thần tài, thường là tượng một ông Địa đặt trong một cái khám gỗ con để ở góc nhà ngay trên nền. Một lần đã lâu, tôi nghe chính từ miệng Ninh kể giữa một đám bạn bè như kể chơi nhưng chẳng phải để mua vui: "Thờ ông ấy, mỗi sáng phải cúng một điếu thuốc lá và một tách cà-phê. Tượng thì không nên mua mà nên thó của một nhà nào đang phất. Mua mới thì phải đưa vào chùa phù phép đã". Giọng ông ta hơi  đá tí cười cợt, tuỳ tai người nghe, nếu không dị đoan thì tự nhiên luận ra ý báng bổ, còn thì...  Tôi cho là chuyện tào lao. Về sau, được biết "dịch" này đã lan ra Bắc, ngay cả trong giới quan chức. Nhưng ... gia đình ông bạn cũ của tôi, có lẽ nào?
             - Những "điềm" ấy có thể giải thích được. Còn chuyện sám hối thì bác chưa hiểu.
             - Cháu phải sám hối cho gia đình cháu. Anh Thụ biết chưa hết đâu.
             - Thụ có thư cho cháu à?
             - Vâng. Anh ấy nói cùng viết cho bác. Bác khó biết được vì sao anh chị cháu đòi ra ở riêng. Cặp ngà voi và tấm da hổ đưa sang châu Âu làm quà, cha cháu được đáp lại bằng một chiếc ôtô "xịn" đời mới nhất. Anh Tân cháu cùng đi chuyến ấy xin mang về cho anh ấy dùng đi lo các "phi vụ". Cha cháu bảo chưa phải lúc. Ổng bán đi, gửi tiền vào ngân hàng nước ngoài. Anh Tân bất bình lắm. Cha cháu nói ổng đang tính thay xe mới cho tổng giám đốc - là ổng, để ganh với một ông tổng giám đốc bạn, lo gì không được xài xe "số dách", mà lại không hụt mất một món to ngoại tệ mạnh ngoài vòng nhòm ngó trong nước. Thế nhưng anh ấy cho rằng "mượn" xe công của cha sao bằng xe riêng của mình nên vẫn ức. Về nước, cãi lệnh cha mấy lần. Ngẫm ra toàn lệnh thất đức cả thôi, bác ạ. Cha cháu rất giận. Anh Tân xin đi ở riêng. Cha cháu càng giận, trút giận sang chị Thuỷ, cho là chị ấy xúi bẩy chồng chống lại cha mẹ. Thực tình thì chị Thuỷ có xui ra ngoài ở. Từ trước cơ. Chị ấy bảo riêng cháu là ở nhà cha mẹ cháu chị ấy hay mộng mị linh tinh, thường là ác mộng. Nhất là từ hôm cha cháu ra lệnh cho người làm vườn mới đập chết tươi con mèo. Cha cháu vốn không ưa mèo, sợ xúi quẩy. Hôm ấy cha cháu ra xe để đi làm, con mèo nhà nuôi chạy qua trước mặt; rồi ổng gặp bất trắc trong công chuyện sao đó.
             Hình như mỗi con người chúng ta khi được sinh ra đều mang sẵn trong máu mình cái mầm dị đoan truyền kiếp từ nhân loại cổ sơ như mang cái kén ấu trùng kí sinh. Chỉ cần điều kiện thích hợp là cái mầm trỗi dậy. Trên các nấc thang tâm linh, dị đoan thấp hơn mê tín. Mê tín, tức là đã có cái để tin, dẫu lắm khi còn tin một cách dị đoan. Tín ngưỡng là nấc cao đến với cõi siêu hình. Nhưng tín ngưỡng và mê tín cách nhau một ranh giới mỏng manh. Tâm không sạch hoặc trí không sáng dễ làm nhoà ranh giới; tín ngưỡng bị lộn sòng, bị hạ thấp, mang tiếng.
             - Người ta nói - Liên kể tiếp - ngôi nhà của viên tướng bỏ chạy ấy vốn đã có  oan hồn. Đất đó trước thuộc dân một xóm nghèo nhỏ. Họ bị người ta chủ tâm dồn vào bước đường cùng buộc phải bán, nhượng hoặc mất trắng để cho biệt thự mọc lên. Người làm vườn cũ mà cha cháu giữ lại hồi ổng mới nhận nhà nói trước đây rợn lắm; biệt thự đổi chủ, không khí nhẹ thở hẳn. Song chỉ được mấy năm. Rồi người ấy bị thải, cháu không rõ vì đâu, có khi vì biết quá nhiều. Ông ta từ trước vẫn sống một mình trong một cái túp ở góc vườn. Sau đó, không nhà cửa, không vợ con, ông ta sống chết ra sao chẳng ai hay. Thay thế ông ta là một vệ sĩ trá hình. Cha cháu rất ít khi cong khai "xuống tay", kể cả với đối thủ. Ổng vẫn được tiếng dễ gần, dễ mến, có nếp nhà. Dĩ nhiên, ổng không ưng cho cháu lên ở chùa.
             Sư già kể: "Khi cô Liên vào chùa, ông Ninh đã thân hành đến xin đừng nhận. Cửa từ bi có khép lại với ai bao giờ, nhà chùa nghe theo sao được. Chúng tôi chỉ khuyên giải thôi chứ không cấm cửa. Sau đó, nhà chùa còn bị khó dễ mãi. Cũng chẳng phải vì thế mà tín đồ Liên chậm được thế phát qui y".
             Liên bắt đầu năng đi lễ chùa sau khi mất con. Ra nước ngoài không gặp được chồng, trở về cô chọn chùa X. để nương mình. Tìm một ngoại cảnh thích hợp hỗ trợ cho kinh kệ để tâm hồn sớm lắng lại dọn mình theo lẽ đạo thì ít nơi sánh được với chùa này.
             Thời gian vẫn lặng lẽ cuốn nhanh. Cuộc sống đua chen vẫn sôi động ngoài khuôn viên chùa...

             *  *  *
             Tôi vừa về đến cổng đã gặp vợ tôi xách làn đi ra, nét mặt khó có thể nói là hớn hở.
             - Có khách chờ ông đấy. - Bà nói như mình là người có lỗi - Tôi đã bảo là ông đi về không chừng nhưng anh ta xin được chờ. Thành thử tôi không thể nào đi chợ được. May mà con nó vừa về.
             - Người như thế nào?
             - Ông vào thì biết. Còn trẻ. Nom hơi quen, tôi chẳng nhận ra ai.
             Tôi cũng không nhận ra ngay, cả khi khách đứng dậy xởi lởi chào và bước lại gần. Anh ta đúng là còn trẻ, mặc bộ quần áo còn "trẻ" hơn, tuy hơi nhàu; mặt mũi dễ coi, có vẻ lười cạo râu; đôi mắt hẹp và dài núp sau đôi mắt kính thoảng nâu, có lẽ là không số. "Bác không nhận ra cháu ạ?" Câu hỏi hơi ngậm ngùi pha chút trách móc. "Anh Thụ phải không?" Lập tức trong trí tôi kí ức hội về. Mấy năm rồi nhỉ?
             - Anh về chơi hay về hẳn? - Tôi hỏi sau khi Thụ đã ngồi xuống, tuy biết anh ta đã xin định cư ở nước ngoài.
             - Dạ, còn tuỳ... Cháu phải gặp được Liên đã.
             - Anh biết chuyện Liên rồi chứ?
             - Vâng. Cháu bỏ mặc cô ấy thật không phải...
             Có muộn quá không? Cách đây chừng hai năm, tôi nghe tin Liên đã được làm lễ thế phát. Nhiều năm ròng, đắm mình trong không khí u nghiêm chùa X, lánh mọi sự đời, cháu nguyện cầu cho chồng hồi tâm, cho cha mẹ thoát bến mê. Vậy mà Thụ, theo như lời đồn, đã lấy một cô "đầm". Cha mẹ cháu vẫn vững ghế, chắc là rồi ra sẽ "hạ cánh an toàn". Tôi chưa hiểu gì mấy về đạo Phật, song cứ nghĩ: Đức Phật tế độ chúng sinh là dẫn dắt mỗi người tự giải lấy cái nghiệp của mình, trước hết là sống sao cho Thiện. Còn làm bậy đấy rồi cầu khấn đấy thì Trời, Phật nào chứng? Huống lại là cầu khấn thay họ! Nay Liên đã chính thức qui y. Giá biết trước có lẽ tôi đã bảo cháu: "Cháu còn trẻ, cháu ạ. Duyên phận chưa tắt. Cuộc đời còn dài phía trước". Bây giờ cháu đã thực sự là người của cửa Thiền, hẳn cháu đã được rọi con đường đi cho tâm linh. Dẫu vậy, tôi là người vô thần chưa được tôn giáo nào giác ngộ, tôi không muốn tuổi trẻ của cháu tàn theo ngày tháng trong bộ quần áo tu hành, không muốn năng lực thanh xuân của cháu gửi vào tiếng mõ, lời kinh và khói nhang. Bây giờ Thụ đã hồi tâm (lòng thành của Liên đã thấu các Đấng cứu khổ chăng?), biết đâu chẳng đưa được Liên trở lại cõi tục. Nhưng phải là tình yêu đích thực, có màu vị tha. Tôi bảo Thụ:
             - Cháu ạ, Liên chẳng cần những sự quan tâm trần thế nữa đâu, nhất là lòng thương hại.
            - Nói đến thương hại, - Thụ rầu rĩ nói - thì cháu mới cần được thương hại.  Người đời có thể coi cháu là thành đạt, nhưng cháu đã ngu muội đánh mất mối tình Liên đã dành cho cháu. Cháu chẳng còn tìm đâu ra mối tình như thế. Bây giờ cháu mới thực sự biết yêu Liên. - Thụ chuyển giọng khẩn khoản - Trước đây, bác đã góp phần tác thành cho chúng cháu, nay xin bác giúp cho cháu nói chuyện được với Liên. Cháu rất khó gặp cô ấy. Cô ấy không chịu giáp mặt cháu, cháu nghĩ vậy. Một lần, thoáng thấy Liên đang làm gì trong vườn hoa, cháu vội lần đến thì cô ấy đã đi gõ mõ tụng kinh chẳng nhằm giờ giấc gì cả.
             Có đúng Liên từ khước gặp chồng cũ? +Vì còn hận? - Nếu vậy thì Thụ còn chút le lói hi vọng. +Vì duyên trần đã dứt? - Nếu vậy thì hết rồi. +Vì quyết tâm chuộc tội cho những người thân theo gương một nữ tu trong tích cũ? - Nếu vậy thì biết nói sao! Hiểu được Liên bây giờ đâu có dễ. Nghe nói cô rất chăm công việc từ thiện; gần đây tham gia cả giảng dạy ở "lớp học tình thương" và "nhóm tập nghề" gần chùa.
             Tôi biết giúp Thụ thế nào đây? Anh ta sẽ không chỉ dừng ở chỗ nhờ giúp cho nói chuyện được với Liên. Cửa Phật rộng mở, cõi đạo mênh mang. Ai còn luyến mùi tục lụy thì, "Phật tại tâm", vẫn có thể là một phật tử tại gia. Tác hợp cho họ hẳn cũng là góp tay vun quả phúc. Còn với người đã ngộ đạo bậc chân tu thì một kẻ không rành lẽ đạo, chưa thấu lẽ đời như tôi mà cứ đem cái lí trần tục thường tình ra thuyết liệu có nên chăng? Nhưng có lẽ nên để hai người gặp nhau, ít ra cũng nói với nhau lần chót. Nếu không tái hợp nữa, cũng có ích cho họ. Liên sẽ nhẹ gánh hơn trên đường tu. Và hi vọng Thụ sẽ tự gỡ mối được cho nỗi ân hận và sẽ sống tốt đẹp hơn.

                                                    Hải Phòng, 5 - 1997



       
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.03.2009 16:38:35 bởi Khải Nguyên HT >
      #3
        Khải Nguyên HT 22.03.2009 16:44:40 (permalink)
        Ai vào cõi "siêu"
         -truyện kí-

         
               Sáng mồng một Tết, xã làm lễ chào cờ tại sân trụ sở ủy ban. Dăm chục người dự: các chức sắc xã thôn, đại diện các đoàn thể, các cụ phụ lão,… những dân làng cố cựu. Lần ấy, có một người lạ. Một ông già nhỏ thó, gầy gò, tóc lơ thơ trắng, nổi bật là vừng trán cao và đôi mắt chưa nhuốm vẻ già nua lắm. Lễ xong, người ấy đứng ra chào hỏi chung mọi người, giọng thân tình và nói vui: "Tôi đi biệt lâu năm chẳng biết đến sướng khổ của quê hương, thật đáng bắt nằm ra đánh ba mươi roi". Ai nấy cười xòa. Tiếng cười xóa đi những gì là nghi ngại, là xa cách còn vướng lại giữa những người làng và người lưu lạc mới về thăm lại nơi chôn rau cắt rốn. Có dễ đến bốn chục năm dư. Giá như vài chục năm về trước thì thật khó mà có cái không khí này.
               Trước khi đến dự lễ chào cờ, ông già đã dạo quanh thôn xóm. Ban mai tinh khôi, ông như hít thở được cái khí vị thanh tân pha chút hương thiêng liêng của buổi sáng đầu tiên của năm mới mà tuổi nhỏ ông vẫn cảm nhận mỗi độ Tết đến. Ông phải nhắm mắt lại mới gọi về được cái hồi tưởng ấy. Tất cả đã khác xưa. Không còn những con đường đất hai bên lề trùm cỏ mát bàn chân. Không còn những khu vườn cây thấp thoáng mái nhà tranh vương khói lam sớm. Nhất là không còn cái khuôn viên có "dinh cơ cụ Thượng". Ông tự lấy làm lạ rằng mình có thể bình thản nghĩ đến bao biến cố đã qua. Cái nôi từ đó bao người con đã ra đi theo những chí hướng trái nẻo nhau, thậm chí xung khắc, đã tan tác theo đúng cả nghĩa đen. Cái chết âm thầm, tức tưởi của người cha… Các người con đều thành đạt, có thể nói chắc vậy, song liệu họ lúc nào cũng có được sự thanh thản trong tâm hồn? Riêng ông, có phải ông đã tìm thấy sự bằng an trong Chúa?
         
               *    *     *
               Hồi đó, tôi đang học trường cấp hai, gọi là trường trung học phổ thông. Đang thời kì kháng chiến chống Pháp trở lại cướp nước. Trường học còn ít lắm, dẫu đã hơn thời Pháp thuộc nhiều. Cả liên khu gồm nhiều tỉnh mới có một trường cấp 3, gọi là trường Trung học chuyên khoa. Cả tỉnh có một hoặc hai trường cấp 2. Chúng tôi mộ tiếng ông dạy văn giỏi. Chỉ nghe truyền tụng thôi. Một hôm, đầu giờ học, một người chẳng phải là thầy giáo trong trường bước vào lớp. Một người mảnh khảnh, gầy yếu, da mặt nhợt, trán cao hơi quá khổ. Có tiếng xì xào: "Ông Khắc đấy". Tôi nhìn kĩ, tò mò và chờ đợi. Người lạ nói: "Tôi qua đây thăm bạn, người ta nhờ tôi dạy thay giờ này". Buổi ấy, chuyện dạy thay "ngang xương" như vậy là chuyện thường, miễn là hiệu trưởng không phản đối. Vị thầy giáo lâm thời hỏi: "Các anh chị thích học gì nào?". Mấy tiếng cất lên: "Kiều ạ!". Học trò cấp hai ngày ấy lớn bằng hoặc hơn học trò cấp ba bây giờ. Không có sách giáo khoa cho thầy, cho trò, song chúng tôi ham đọc thêm. Vớ được sách hay, cả không hay mấy, là đọc ngấu nghiến. Chúng tôi hầu hết đều thích truyện Kiều, có người thuộc lòng từng đoạn dài. Cũng hiểu được ít nhiều. Vậy mà hôm ấy cả lớp tôi lặng phắc nghe giảng. Trong đời học sinh, tôi chưa bao giờ được dự một giờ giảng văn hay như thế.
               Hình ảnh về ông tôi giữ được là vậy, cộng với cái bóng ông cắp chiếc nón lá lững thững đi trên đê. Ông như người "xuất thế". Lũ học trò chúng tôi khoái khi có tin ông cũng vướng chuyện tình duyên. Nghe đâu nàng kém ông hơn chục tuổi, có nhan sắc, mạnh mẽ thể chất và tính cách, rất cảm tiếng tăm ông trên bục giảng. Cũng nghe đâu sắp có lễ cưới. Một thầy giáo trường tôi tuyên bố, lồng vào lời giảng trên lớp rằng: "Một trong những cơ sở hàng đầu của hôn nhân là tương quan sức khỏe; chồng yếu, vợ khỏe hoặc ngược lại là đại bất hạnh. Các anh, ai có chị em sắp lấy chồng hãy kịp thời nhắc nhở". Chúng tôi ngớ người nhưng rồi hiểu ra là ám chỉ ai. Cô gái nọ là chị  của một anh đang học trong trường. Hơi cám cảnh một chút, ông thầy chúng tôi góa vợ đã nhiều năm hiện đang "chăn đơn" và đang đi tìm chủ nhân cho chiếc gối thứ hai của mình. Ông này to khỏe như một võ sĩ. Đùng một cái có chuyện đồn đại rằng đám cưới vợ ông Khắc đến lúc sắp đi đón dâu thì chú rể biến mất. Ông đang trong nhà thờ đạo Gia tô cách nhà hơn chục cây số chịu lễ rửa tội để trở thành con chiên. Có vẻ như chẳng có đám cưới nào cả, hoặc chưa có. Chuyện ông Khắc vướng lưới tình hẳn là được thêu dệt ra. Hình như cũng có việc sắp đặt giữa nhà trai và nhà gái sao đó. Vậy thôi. Duy, chuyện ông Khắc "theo đạo" thì đúng là có thật. Chuyện có vẻ kì. Cha mẹ ông không chính thức là Phật tử nhưng tin Phật. Anh chị em ông có người là đảng viên cộng sản. Người cha đang là thân sĩ được trọng vọng trong Mặt trận Liên Việt tỉnh. Ngày ấy, chưa đấu tranh giai cấp. Càng có vẻ nghịch thường, quân xâm lăng đang muốn lợi dụng tôn giáo để phá kháng chiến. Theo đạo vào hồi này có thể khiến cho cả bên lương lẫn bên giáo nghi ngại. Có nhiều luồng bình phẩm khác nhau. Giới cán bộ có người cho là bị "nhà đạo" mua chuộc, dụ dỗ. Vài người khác cho là cách tiêu cực tìm lối thoát cho sự bế tắc do không đặt mình vào trong cuộc chiến đấu của dân tộc. Giới trí thức, người thì bảo lập dị; người thì bảo "muốn có chỗ dựa tinh thần". Cũng có người nghĩ rằng ông ta thực sự muốn đi tìm lẽ tâm linh. Hừm! Nếu vậy, đạo Phật cao siêu hơn chứ. Ấy! Nhưng ở các chùa ngày này, mấy ai nghiên cứu giáo lí? Người ta chỉ làm lễ một cách thông tục. Để thấm nhuần tư tưởng Phật giáo cần có giáo cảnh với phẩm cách khác. Về cơ sở vật chất, bao gồm cả tài liệu và phương tiện, về cơ cấu tổ chức, đạo Gia tô có thế mạnh, và nói chung năng động hơn. Cũng là đoán đồn vậy thôi. Ông không bày tỏ ý kiến, vẫn dạy học bình thường, và người ta thường bắt gặp ông lui tới xứ đạo, đầu đội nón lá, chân mang guốc gỗ cuốc bộ. Bề ngoài xoàng xĩnh của một con chiên mới được Ơn riêng mang lại đức tin, nhưng có lẽ là ít khi, nếu không nói chưa bao giờ, có một con chiên mới cải đạo, thay vì phải chăm sóc kĩ phần hồn, lại được các đấng bề trên nâng niu, o bế như vậy.
               Năm 1954, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, quân Pháp phải rút khỏi miền bắc Việt Nam. Giáo hội Gia tô bốc cả một tu viện đưa vào nam. Ông Khắc cũng ra đi dịp ấy. Ông trở thành cha cố song phải đi quân địch ba năm, chắc là làm cha tuyên úy trong quân đội Sài Gòn. Xuất ngũ, ông đi du học tại Pháp và đoạt luôn hai bằng cao học: tiến sĩ văn chương và tiến sĩ thần học. Về nước, ông làm giám đốc một trường đại học văn khoa. "Chương trình giảng dạy trường tôi hồi đó không nói chuyện chính trị" - ông kể lại. Sau ngày 30/4/1975, ông bị bắt giữ. Bị nhốt chung với đủ hạng người: lưu manh chính trị và lưu manh đời thường, bọn ác ôn và bọn cơ hội, kẻ cuồng tín và kẻ tùy thời, công chức và sĩ quan… Cái danh thầy tu đỡ cho ông không bị cái xã hội tạp nham thu nhỏ ấy xúc phạm. Nhưng chính sự trầm lắng trí tuệ mà ông luyện được mới giúp ông khỏi phát điên. Được bốn tháng, một người học trò cũ trở về tham gia quân quản thành phố biết tin đã đứng ra bảo lãnh cho ông được tự do. Ít lâu sau, ông được giáo hoàng mời đích danh sang Rô-ma. Ông không ngờ người gây khó dễ cho chuyến đi của ông lại chính là sứ quán I-ta-li-a. "Sao không qua chúng tôi?" Kì cục! Tòa thánh Va-ti-căng tuy lọt thỏm trong thành phố Rô-ma nhưng đâu có thuộc quyền quản lí của nước I-ta-li-a. Va-ti-căng vẫn có đại diện ngoại giao riêng tại nhiều nước trên thế giới kia mà. Hẳn người ta "tự ái chính trị" tí chút, hoặc vây vo chút đỉnh. Va-ti-căng tham khảo ý kiến ông về chiến lược Gia tô giáo ở Đông Nam Á. Ý của ông có thể tóm gọn trong mấy chữ "chung sống hòa bình". Không làm chính trị, song ông nắm được xu thế thời đại thực sự, chứ không phải câu đầu lưỡi của những thế lực thật ra đang muốn thao túng thế giới.
         
               *    *      *
               Ông Khắc nói với người chú họ: "Trong tâm hồn không ít người, cả những người hoạt động cách mạng, không chắc còn giữ được những hình ảnh thuần khiết nguyên sơ. Trong lòng cháu, ít ra là còn bảy chục phần trăm nhớ về đức độ, công lao cụ Hồ".
               Hai ông già đang ngồi đối diện nhau qua một chiếc bàn nhỏ đặt dưới tán lá một cây bưởi cổ thụ. Trên bàn là ấm nước chè xanh và đĩa kẹo Cu Đơ, những đặc sản quê hương. Một buổi sáng dịu của mùa thu xứ Nghệ. Họ đang ngồi trong vườn nhà ông chú vốn là một thầy giáo Trung học, cũng đậu tú tài như ông cháu từ hồi Pháp thuộc-mấy năm trước khi Nhật hất cẳng Pháp năm 1945. Ông chú cũng hiểu biết rộng, nho nhã, cởi mở, trò chuyện chân chất song có nét dí dỏm tinh tế. Ông thuộc lớp trí thức được nể trọng nhưng không được giới "có thẩm quyền" đánh giá cao về ý thức và trình độ chính trị. Ông không có tham vọng quan chức. Hơn ông cháu vài tuổi song ông có vẻ không già bằng. Đã lâu lắm rồi, họ mới ngồi với nhau như thế này, từ ngày họ còn trai trẻ. Chuyện trò của hai ông già nhàn tản, ngoài độ tuổi "cổ lai hi", dung dị, rất thoải mái, lúc sôi nổi, lúc trầm lắng.
               - Anh làm tôi nghĩ đến một người. - Ông chú cười nhẹ nói - Anh có biết ông X không?
               - Người Việt đầu tiên được quân đội viễn chinh Pháp cho làm chỉ huy trưởng một căn cứ không quân quan trọng, về sau đi học lên trở thành một chuyên gia có tầm cỡ ngành hàng không vũ trụ, chú muốn nói tới người này phải không?   
               Người này, ông Khắc có đọc một cuốn hồi kí, trong đó ông ta mơ một ngày lá cờ vàng ba sọc đỏ lại được cắm không chỉ trên nửa nước mà ra tận biên giới phía Bắc. Chắc chẳng bỗng dưng ông chú của mình nhắc tới người này.
               - Người cha ông ta là một công chức thời Pháp, sau cách mạng tháng Tám trở thành một cán bộ chuyên môn của chính quyền mới. Quãng năm 1949 bị lính Tây đi càn giết chết. Một thời gian sau, bà vợ đưa đứa con cả là ông ta vào vùng địch chiếm, hình như được chính quyền kháng chiến cho phép chứ không phải là "dinh tê". Ông ta đăng lính Pháp, có lẽ là bắt buộc, được cho đi học lái máy bay chiến đấu, rất được quân Pháp tín nhiệm, cất nhắc. Một người em của ông ta ở lại vùng tự do học trường kháng chiến, sau được cho đi du học tại Liên-Xô theo tiêu chuẩn con liệt sĩ; về nước cũng được trọng dụng. Chúng mình thì rất biết sự phân hóa trong một gia đình do hoàn cảnh ở nước ta chẳng là chuyện hiếm, chuyện lạ. Điều lạ là sau này, khi Việt kiều nườm nượp về nước thăm quê hương, người thân hỏi sao không về, ông ta đáp: "Khi nào nước độc lập đã mới về". Xuya  không! Thế nào là "nước độc lập" đây? Thời ông ta cầm súng, chính quyền Bảo Đại do Pháp lập lên được "trao trả độc lập" thực sự chăng?
               Ông Khắc không biết câu nói kia. Cuốn hồi kí ấy… Mà cũng thấy rõ tác giả không giấu niềm tự hào về sự thành đạt. Có một chỗ giọng văn đầy ngụ ý, kể việc một nhà khoa học Liên Xô trong một hội nghị quốc tế đã tìm đến làm thân. Ông nói, như đang nghĩ ngợi chuyện khác:
               - Thường người ta cho rằng đã dấn thân cho khoa học thì cũng "thoát tục lụy", thoát những eo sèo đời thường trong chính con người mình, như khi đã hiến thân cho đạo…
               - Với anh, cũng có lúc tôi lấy làm lạ. Tuy nhiên, có bất ngờ mà không quá khó hiểu. Còn ông này, chỉ số thông minh chắc là cực cao. Học làm phi công và thành đạt binh nghiệp chẳng phải dễ. Lúc đã hơi cứng tuổi lại còn xông vào một ngành khoa học - kĩ thuật còn mới mẻ đối với thế giới, cũng thành danh. Có lẽ trong một số khối óc lớn có những lôgíc ngoài lôgíc chăng? Hay là… câu "trái tim có những lí lẽ mà lí lẽ không biết được" vẫn dành để nói về tình yêu cũng hợp với cả những loại tình cảm khác nữa chăng?
               Ông chú định nói thêm, đùa ông cháu: "Có phải những người được ‘ơn cách riêng’ của Chúa thì có thể vượt ra ngoài qui luật của tư duy?". Nhưng ông cháu có bao giờ phát ra những lời "siêu tư duy" đâu.
               Hai bộ óc cùng "siêu" cùng hướng lên trời, song một thì đi vào cõi "tưởng", một thì đi vào cõi "thực", ai "siêu thực" hơn ai đây?
               Một người thân của ông Khắc nói vui về ông: "Xừ này sau khi chết e được giáo hội La mã phong thánh quá". Nếu quả thật ông được phong thánh thì hẳn tượng của ông phải được phỏng theo một ông La Hán còm nhom (như ở chùa Tây Phương) với đôi guốc gỗ dưới chân, chiếc nón đội đầu và cuốn sách cắp nách. Một ông thánh thời văn minh hiện đại thế kỉ XXI như vậy, nghĩ cũng vui.
         
        Hải Phòng, 4-2004
         
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.03.2009 16:51:54 bởi Khải Nguyên HT >
        #4
          Khải Nguyên HT 27.05.2009 12:40:12 (permalink)
          NỢ DUYÊN
          -truyện ngắn-

           
           
                 Khó mà biết tâm trạng thật của Hà Tề, cựu đại tá quân đội Sài Gòn trước đây, trong dịp về thăm nước cũ lần này. Con trai thứ của lão, Hà Tài, một nhà khoa học Mĩ, nảy ra ý định cưới một cô vợ Việt "thứ thiệt". Có lẽ sự việc đã manh nha từ hồi Tài thay cha về lo việc xây chùa.
                 Đầu làng Hữu - làng quê cũ của Tề tại một tỉnh thuộc liên khu Bốn cũ-, trên một ngọn đồi, vốn có một ngôi chùa nhỏ bé nhưng nổi tiếng linh thiêng. Đến nỗi vào những năm 50, thời cao trào bài trừ mê tín, dị đoan, chùa chỉ bị hoang phế chứ không bị phá bán đi sung quĩ hoặc chia nhau như các đền chùa khác trong vùng. Cha tôi kể rằng ông tôi từng bảo: "Lắm chỗ linh thiêng hóa ra lại là nơi bọn Tàu bày đặt ra để chôn của". Quãng năm 1968, một trẻ chăn trâu tình cờ phát hiện ra cái bệ thờ chính giữa đã bị kẻ nào moi ruột từ bao giờ. Năm 1972, một tên lửa lạc của Nich-xơn đã thổi bay ngôi chùa. Sau ngày tái thống nhất đất nước năm 1975 một thời gian, một ngôi trường nho nhỏ đã mọc lên trên nền ngôi chùa cũ. Qua con trai nhiều lần dự hội thảo tại Việt Nam, Hà Tề xin được bỏ tiền dựng lại ngôi chùa. Bà nội lão xưa từng qui y tại chùa này lúc về già. Hà Tề chẳng phải là người mộ bất cứ đạo nào, cũng khó nói lão là người nặng lòng với cố hương hơn những người khác.
                Chùa xây chưa xong hoàn toàn nhà chính thì vừa vặn hết tiền, người ta cũng cứ làm lễ khánh thành. Hà Tề được mời dự. Vậy là lão đàng hoàng có mặt tại quê cũ sau bao nhiêu năm biệt tích. Trong buổi lễ, có đại diện chính quyền, mặt trận, ban tôn giáo, cơ quan văn hóa các cấp từ tỉnh trở xuống, cả người của trung ương hội Phật giáo, lão là khách danh dự. Vẻ ngoài giản dị khiêm nhường, thâm tâm lão cười thầm. Lão còn nghĩ xa xôi. Rất có thể rồi đây thiên hạ sẽ thuận miệng gọi "chùa ông Tề". Cồn đất gần chùa xưa có một cây đa cổ thụ. Hồi nào, một người ăn mày tên là Ngọi nằm chết ở gốc. Đến nay cây đa không còn mà người làng chẳng vẫn gọi "cồn cây đa cố Ngọi" đó sao.
                Hà Tề sẽ hoàn toàn mãn nguyện, nếu như không thiếu vắng hai con người mà lão đinh ninh phải giáp mặt trong chuyến "vinh qui" lần ấy. (Ừ, vinh qui chứ sao!). Một là Hà Hùng, anh họ xa của lão. "Tay" này hồi thuộc Pháp làm "hội kín" bị tù, sau bị đưa về quản thúc ở địa phương nhưng vẫn tỏ ra "ngông nghênh". Một lần, anh ta cưỡi ngựa hiên ngang qua trước cổng huyện đường, điều mà quan huyện Trinh đang trị nhậm đã ra nghiêm lệnh cấm. Chính cha lão, người đang ngấp nghé chức bang tá, đã đưa lính lệ ra bắt Hùng vào cho quan nọc đánh. Sau cách mạng tháng Tám, huyện Trinh bị xử tử vì tội mọt dân và đàn áp cách mạng. Còn cha lão bị Hà Hùng đưa ra sám hối trước cờ vì tội làm tay sai cho thực dân và phong kiến, trong một cuộc mít tinh toàn xã.
                Em lão bảo: - Ông Hùng sau này làm to. Trước khi về hưu không bị điều tiếng tham nhũng, người ta chỉ kêu là hách. Duy anh con trai, vốn là giáo viên cấp hai, nhờ lí lịch của cha được đi học nước ngoài, nghe nói ghê gớm lắm, chẳng chừa cái gì. Cả nhà họ giờ chẳng ai còn ở lại làng.
                 Hà Tề cảm thấy giảm mất một nửa hứng khoái.
          Nửa còn lại, lão mong gỡ ở nhân vật thứ hai. Đó là Lê Tốn, đại tá quân đội nhân dân Việt Nam, về hưu ở ngay trong làng. Em lão bảo:
                - Mọi lần, không buổi họp long trọng nào của xã mà vắng mặt ông Tốn ở hàng đầu. Vậy mà lần này chẳng thấy ông ta.
                - Hắn sợ mất mặt với tôi chứ gì. - Tề cười khẩy, nhưng trong bụng lão biết lí do thật sự. Lí do ấy có thể khiến chính lão bị mất mặt: Ông ta chẳng coi cái "công đức" của lão ra cái quái gì.
                Xưa, Tốn và Tề cùng học một lớp tại trường làng, ngôi trường chỉ có một phòng học cho ba lớp Đồng ấu, Dự bị, Sơ đẳng do một thầy giáo kiêm dạy.     Một thầy dạy tốt, rất nhiều thế hệ học trò đã qua tay thầy. Tề và Tốn đều học giỏi, nhưng Tốn ít khi được điểm cao, vì hay làm bài chiếu lệ, còn Tề luôn luôn đứng đầu lớp. Cả hai nhà vào loại đủ ăn, chủ yếu nhờ tài đảm đang của các bà mẹ. Cha Tốn là một nhà nho lỡ vận.
                Cách mạng 1945 thành công, Tốn và Tề đều hăng hái tham gia tập tành, ca hát trong phong trào thanh thiếu niên xã. Nhưng Tề hay làm thơ châm biếm, đả kích. Có lần đã bị gọi lên huyện.
                 Năm 1951 hai người được xã tuyển giới thiệu vào trường lục quân đào tạo sĩ quan. Ra trường, Tốn được phong hàm chuẩn úy, mũ được gắn sao vành vàng, còn Tề, hàm thượng sĩ với sao vành trắng. Họ được phân về cùng một đơn vị. Tốn làm trung đội phó, Tề làm tiểu đội trưởng. Trận thử lửa đầu tiên là một trận công đồn. Trận đánh kết thúc thắng lợi. Cả Tề, cả Tốn đều vượt qua được con sợ trước giờ nổ súng. Nhưng khi làm lễ chôn cất sĩ tử, Tề bỗng cảm thấy ớn lạnh. Trận thứ hai là một trận phục kích không thành công. Tốn bị thương. Tề mất tích. Lành thương, Tốn ghé về thăm nhà. Ai hỏi về Tề, Tốn chỉ lắc đầu. Chỉ một lần, anh buột miệng nói với cha: "Hừ! Cái thằng ấy…" - Tốn đã khóc Tề nhiều ngày cho đến khi đọc được trên một tờ báo từ vùng tạm bị Pháp chiếm đóng lọt đến tay anh tin một sĩ quan Việt Minh về với quốc gia có kèm ảnh Hà Tề và lời tuyên ngôn (!) tỉnh rụi của anh ta: "Ở nơi chỉ có đèn dầu thì khó nhìn ra chân lí. Ở nơi mà xe đạp là một thứ xa xỉ phẩm thì chiến thắng máy bay và xe tăng của nền văn minh quá là hoang tưởng".
                Mẹ Tề, một bà lão đã gần chín mươi mà vẫn còn tinh tường, bảo:
                - Anh muốn gặp ông Tốn thì đến nhà. Bạn bè thuở nhỏ thăm nhau là tốt.
                - Vậy sao hắn tránh tôi? Ra cái điều! Nhà hắn ta gặp vận, hơn nhà ta chứ gì?
                - Nhà ông ta, ông cụ cũng đi tù hồi cải cách ruộng đất đấy. Khi sửa sai mới được ra tù.
                Tề không đến nhà Tốn. Mà không đối diện nhau được thì chuyến về này của lão chỉ đáng giá nửa tiền.
                Vừa hay, đúng dịp giỗ người thầy giáo ngày xưa. Vào ngày này, những học trò cũ còn sống quanh vùng thường đến dự.
                Năm nay, số môn sinh ấy chỉ còn thưa thớt, nhưng bữa kị lại xôm hơn mọi năm. Tề cho đội đến một mâm xôi đầy trên ngự cả một con gà luộc to bự, sang cúng thầy cũ. Lão còn ngầm chi một số tiền cho cháu đích tôn của thầy biện lễ, và gợi ý mời nhiều thanh niên, nhất là học sinh. "Cho các cháu thấy tận mắt cái lẽ tôn sư trọng đạo" - Lão chặc lưỡi một cách vô tâm.
                Tề đến sớm, yên trí "kẻ kia" không thể vắng mặt. Quả nhiên, lúc đã khá đông đảo, Tốn bước vào. Ông ta tươi tỉnh gật đầu chào chung mọi người, coi như không có người lạ nào cả. Vô tình hay có dụng ý, người ta xếp hai ông đại tá ngồi đối nhau ở gian giữa, ngay trước bàn thờ. Gia chủ tạ lỗi vì chậm trễ. Tề đỡ lời:
                - Không sao. Càng hay. Để chúng tôi hàn huyên. Dễ mấy khi được gặp nhau.
                Lão quay sang Tốn:
                - Ông còn nhớ tôi không?
                - Anh Tề ngày xưa thì tôi nhớ. - Tốn không đổi sắc mặt.
                Hừ! Cái thằng ngày học trường lục quân chuyên cáo ốm để trốn tập. Bị phạt lăn, lê, bò, toài, với ăn nhạt gần như cơm bữa ta chẳng quên đâu. - Tốn nghĩ thầm. Nhưng có một điều ông không thể không nhớ là Tề vẫn được đồng đội và cả các cấp chỉ huy ít nhiều vì nể. Một mình anh ta phụ trách báo đại đội, làm chủ bút kiêm luôn biên tập, trình bày, viết chữ. Lúc bí bài, anh ta "thầu" tất mọi mục. Những dịp ra báo, anh ta được miễn lao động nghĩa vụ hoặc làm vệ sinh doanh trại.
                - Thuở học trò của chúng mình cũng lắm kỉ niệm vui đấy chứ nhỉ. - Tề cười với Tốn rồi quay sang đám thanh niên - Các cháu không biết chứ, bác Tốn với bác đi học gian nan lắm. - Lão lại ngoảnh sang Tốn - Ngày trước chúng mình luôn luôn đi cùng nhau. Sau này tách ra, chẳng qua mỗi người phụng sự đất nước theo cách của mình.
                - Phải! Anh không chịu được khổ.
                Tốn buông một câu khiến mọi người chưng hửng. Có người chau mày. Đám thanh niên ngó Tề chờ một phản ứng.
                 Tốn muốn bảo thẳng: "Anh ngại khổ, lại nhát như cáy, nên mới bị địch bắt, rồi đầu hàng". Nếu ông biết rằng sự thật là Tề không hề bị địch bắt thì hẳn còn nghĩ chua chát hơn. Trong trận phục kích ấy, Tề náu rất kín trong một cái cống, mặc trận chiến xảy ra rất gần, chờ im ắng mới bò ra, thay bộ quần áo đã chuẩn bị sẵn, quẳng nhẹm mọi thứ, rồi đi về hướng có quầng sáng điện hắt lên bầu trời đêm.Anh chỉ mong thoát được cảnh sống khổ cực của vùng kháng chiến và tránh xa được chiến trận giữ lấy "cái gáo", về vùng tề kiếm một việc làm nhàn nhàn mà bở ăn. Từ lúc chui vào cống trốn, anh ta tự thấy mình hèn, mình hành động như một tên Việt gian. Nhưng càng gần vùng địch, mặc cảm ấy càng nhạt dần. Và rồi nỗi lo phải giáp mặt với những người mới đây còn là kẻ thù đã chi phối mọi suy nghĩ. Sau cùng, anh ta tự nhủ: mình bỏ đi, bỏ đi chứ không phải đào ngũ, chỉ vì lí do ý thức hệ.
                - Tùy cái khổ tôi chịu được. - Tề hầu như thản nhiên, đáp lời - Đói nghèo triền miên thì tôi hết chịu. Nhưng tôi rất phục anh, - Tề bỗng cười hề hề - nhất là cái gan cóc tía. Tôi nhớ mãi cái lần anh xung phong vào tổ ong vò vẽ giữa ban ngày, hồi ấy chúng mình sắp thi tiểu học, nhỉ?
                Tổ ong ấy xây thấp trong lùm cây. Tề bàn chờ tối đốt đuốc hun chết ong để lấy nhộng. (Nhộng ấy rang lên ăn rất chi là bùi). Nhưng Tốn trùm vải màn phần trên người, bôi kín bùn phần chân, xông vào dùng chổi xể quật túi bụi vào tổ ong và lũ ong đang nhào ra. Tề hoảng kinh, co giò chạy mất. Chú bé Tốn lấy được "chiến lợi phẩm", nhưng bị ong đốt mấy mũi phát sốt nằm suốt một tuần.
                Tốn cười nụ: - Anh mới gan chứ. Các cô ngày xưa bây giờ già rồi mà còn sợ anh đấy.
                Mùa hè, chiều chiều đàn ông trong xóm hay ra sông tắm. Họ cởi hết quần áo đặt trên bờ, hai tay che hạ bộ rồi truồi nhanh xuống nước. Tề ta thì cứ để tồng ngồng, thủng thẳng đi, hai tay bưng mặt. Cậu ta bảo Tốn: "Xấu mặt chứ đâu phải xấu cái của ấy mà che nó! Che mặt, chẳng ai biết ai là ai". Anh thanh niên Tề nổi danh trong đám gái làng vì những trò táo tợn.
                 Tuy xuất thân nông thôn, Tề có cái láu của thanh niên học sinh thành thị. Anh ta vẫn nuôi mộng sống nơi phố phường. "Dinh tê", anh ta thừa sức kiếm một việc làm bàn giấy và tìm cách học lên. Nhưng Phòng nhì Pháp tóm đúng huyệt tay hạ sĩ quan "Việt minh" đào tẩu. Tề được dùng làm sĩ quan hậu trường với cái tên mới. Thời Pháp rồi thời Mĩ. Không mấy ai biết lai lịch và chiến tích của lão. Ở các trung tâm chiêu hồi. Ở các câu lạc bộ sĩ quan. Các sĩ quan người Việt lâm trận về, trước khi đi nghỉ phép, được tập trung "tẩy trần", sửa sang con người, bồi dưỡng vật chất và tinh thần. Lúc đó, anh "lính phục vụ" Hà Tề đến cắt tóc, cạo mặt cho. Cái ngón tán chuyện, gợi chuyện sở trường của các tay thợ cạo "moi ruột" các cha sĩ quan, ngay cả những tay ít khoe khoang, khoác lác. Sau đợt "phục vụ", Tề có ngay một bản báo cáo mật súc tích gửi lên cấp trên và các cố vấn Mĩ.
                Trả lời một câu gợi chuyện không mấy tế nhị của một người đang hóng chuyện, Tề ung dung nói:
                - Năm 1980 tôi mới đi, công khai, hợp pháp.
                Lão đã nói thật. Lão được con bảo lĩnh. Sau ngày Sài Gòn thất thủ, lão ra trình diện với chức danh lính cần vụ. Lão chẳng phải tập trung cải tạo ngày nào, chỉ phải nghe "phổ biến chính sách" một buổi. Lão vẫn tiếp tục làm nghề hớt tóc, nhưng ngầm đứng ra tổ chức đường dây vượt biên. Làm việc này có hai điều lợi. Trước hết, cả ba con lão đều đi trót lọt. Ra đến vùng biển quốc tế, gặp tàu Mĩ đang đón lõng, con lão chỉ việc chìa giấy tờ của cha chúng ra. Các con lão nhập cư, đứa Mĩ, đứa Úc, đứa Canada, dễ ợt. Cái lợi thứ hai, lão hốt được khối vàng. Không may, lần sau cùng bị đổ bể. Lão bị kêu án mười tám tháng tù giam. Nhưng lão chẳng ăn bữa cơm tù nào. Lão chỉ tháng tháng mang một nắm nhẫn vàng đến thăm người này, người nọ, ưu tiên bộ phận quản giáo.
                 Bây giờ, sau ngày lão đã được đón tiếp rồi, người làng đều biết lão từng là đại tá, do lão gián tiếp tiết lộ. Cũng chẳng sao. Lão chỉ là đại tá bàn giấy ấy mà! Tốn bảo:
                - Bọn sĩ quan bàn giấy cao cấp là bọn  có thần thế lắm đấy.
                - Nếu lão có tội nặng thì đã phải đi cải tạo. - Có người thanh minh cho lão.
                Sự thực thì chẳng mấy ai quan tâm quá khứ chính trị của lão. Chỉ biết lão bây giờ là "Việt kiều yêu nước" được chính phủ cho về thăm quê.
                Ngồi trong ngôi nhà cũ của ông hương sư xưa, người ta thích nghe Hà Tề.  Chẳng có gì lạ. Mấy khi được nghe đích thân người sống ở Tây về kể chuyện. Không như ngày trước, nói Tây là người ta nghĩ đến châu Âu, đầu tiên là Pháp. Bây giờ ở vùng này, hễ là người nước ngoài thì đều là Tây. Nga đã là Tây, Đài Loan cũng là Tây nốt! Tây của Hà Tề lại là Tây - Hoa Kì, Tây - Úc kia! Lão Tề hào hứng nói chuyện. Nhưng lão không khoe cha con lão, cũng chẳng lộ liễu phô cái xã hội phương Tây. Lão chỉ kể các mẩu chuyện hoặc là lạ, hoặc hay hay, hoặc dí dỏm, có khi tức cười. Mọi người, nhất là lớp trẻ, cứ nín hơi mà nghe, thỉnh thoảng xuýt xoa thú vị hoặc cười ồ lên, đôi khi chen vào một câu hỏi.
                Lê Tốn nghe da mình râm ran. Ông tức Tề thì ít mà bực những người cứ "há hốc miệng ra" nhiều hơn. Hừ! thằng cha dắt mũi có nghề thật.
                Tề lắc đầu, hạ giọng rủ rỉ:
                - Đất nước họ không có chiến tranh, dân họ sướng thật. - Lần đầu tiên lão chính thức đưa ra một lời tán dương.
                - Chúng nó chỉ muốn chiến tranh ở ngoài nước chúng thôi. - Tốn không cao giọng, cũng không nhìn Tề.
                Một thanh niên nói trống không:
                - Nước mình đánh nhau với Pháp, với Mĩ, với Tàu rồi cũng phải bắt tay nhau. Thà chìa tay ra sớm thì đã đỡ tốn bao nhiêu xương máu, đỡ mất bao nhiêu thì giờ.
                 Tề cố giấu nụ cười hởi dạ. Tốn quay phắt lại nhìn người vừa nói, và liếc xéo qua Tề:
                - Chìa tay ra những lúc ấy thì chỉ có ăn xin. Mà ăn xin không đắt đâu. Chủ nghĩa đế quốc chưa rụng một sợi lông thì chúng chẳng hạ cố thí cho ai chút gì đâu, trừ bọn tay sai. Chìa tay lúc này, ta ở tư thế khác. Chú là người theo đạo Gia tô, chú có biết ai đại diện cho tòa thánh La Mã tại Đông Dương trước đây không? Một cha cố người Pháp, về sau khi Mĩ đã khống chế Pháp qua viện trợ quân sự thì một cha cố người Mĩ thay thế. Chú có biết thời Pháp thuộc không có giám mục nào là người Việt không? Ngay chỉ mong chức linh mục chánh xứ đạo cũng không được, nói chi cái ngôi khâm mạng tòa thánh Va-ti-căng! Cách mạng Việt Nam dần thắng thế thì có người Việt được phong tổng giám mục. Và sau khi chế độ Sài Gòn sụp đổ thì có cả hồng y giáo chủ người Việt. Vì sao vậy? Chú có biết không? Trật tự thế giới muốn đổi thay, phải có những cuộc cách mạng. Không nơi này thì phải nơi khác. Không Việt Nam thì phải có một "Việt Nam" nào đó. Đừng vì sai lầm, thiếu sót, kém cỏi, đã không tận dụng được những thời cơ do thắng lợi cách mạng đưa lại mà vỗ tuột tất cả, xóa nhòa tất cả. Đừng để đến cái nước rồi ra những kẻ tham nhũng, buôn lậu là thần tượng, những kẻ đào vong là anh hùng.
                 Có bao nhiêu phần trăm trong số những người ngồi đó đã nghe thủng những điều đại tá Lê Tốn nói? Khó mà xác định. Có lẽ không nhiều. Thời buổi này, những điều ấy khó vào tai, mà cũng ít người nói. Chẳng riêng lớp trẻ. Chẳng riêng dân thường. Thời buổi "kinh tế thị trường" mà.
                 Như có một luồng hơi lạnh thổi vào mặt Tề. Một câu đáp đã lo le đầu miệng lão. Nhưng lão lại cười khan. Lão không sợ tranh luận. Ngày trước, cãi nhau với Tốn thường lão giành phần hơn vì Tốn tốt nhịn hơn lão. Tranh luận lúc này không có lợi cho vị thế của lão. Tốt nhất là để cho cái bất kham trong đám người kia bị kích. Quả nhiên, lại một giọng trẻ cất lên:
                -Bác nói vậy chúng cháu biết vậy. Có điều...
                Nhưng cỗ cúng đã bày xong. Gia chủ xin được làm lễ. Mọi người đứng lên thành kính. Người trưởng lễ khấn xong, Hà Tề chắp tay trước ngực gục gặc đầu:
                - Xin vong linh thầy về chứng giám cho những học trò được thầy rèn cặp ngày xưa đều đã nên người.
                Lê Tốn đến rót thêm rượu vào chén trên bàn thờ, nói như tâm sự với người thầy cũ:
                - Ngày trước, sống trong sự o ép của thực dân, phong kiến, thầy vẫn tìm cách nhen lòng yêu nước và dạy lẽ làm người cho học trò. Chúng con đã cố gắng để không phụ công thầy. Nếu có ai làm điều gì không xứng đáng thì cũng xin thầy xá cho.
                Chủ lễ mời Tốn, Tề ngồi vào mâm giữa cùng bốn cụ cao niên. Tốn đứng lên nâng cao chén rượu:
                - Nào! Xin mời các cụ, các vị chúng ta cùng cạn chén tiễn hương hồn người đã khuất.
                Chờ cho mọi người đều đã nhắp môi xong, Tốn vòng tay nói:
                - Xin gia chủ, các cụ và các vị thông cảm, tôi có việc phải đi ngay không ngồi hầu tiếp được.
                Nói rồi, ông đi thẳng.
                 Bữa giỗ ấy qua đã mấy năm rồi mà Hà Tề vẫn canh cánh bên lòng một cái gì như là một nỗi hận người từng là bạn nối khố. Vậy mà thật là nghiệp chướng! Thằng con lão vốn chỉ chúi mũi vào nghiên cứu, không để mắt đến các cô đầm Mĩ, các cô gái Việt li hương. Thế nào mà trong những thời gian lưu lại Việt Nam, nó lại vướng phải một cô cử nhân sử học, hướng dẫn viên du lịch. Thoạt tiên chỉ là quen. Về Mĩ, nó lại đâm nhớ. Cái thằng! Nó tạo cớ sang Việt Nam luôn. Lão không để ý cho đến hôm nó ngỏ ý quyết cưới làm vợ. Mà cưới ai kia chứ? Chính là con gái Lê Tốn! Khó cho lão. Dàn mặt hắn cũng được đi. Nhưng câu chuyện lại không đơn giản. Có lúc ngẫm lại, lão thấy có khi hóa hay. Một cuộc đánh chiếm ngay giữa lòng đối phương! Cô con gái độc nhất chẳng phải cũng là thành quả đấu tranh của hắn đấy ư? Ngồi trên máy bay vượt trùng dương, tâm trạng lão chia xé lắm ngả.
                Nếu lão thấu hiểu tình cảnh "đối phương" thì chẳng biết lão có hả hê không.
                - Cha ạ, cha cưới mẹ con xong rồi đi biền biệt. Mẹ con phải vò võ những tháng năm dài. Nay con xin cha hãy rộng lượng đối với chút hạnh phúc mà con tìm thấy, dù là nhỏ nhoi, dù có nghịch cảnh.
                Lê Tốn ngồi trầm ngâm. Cái đêm mưa dầm rét mướt ấy, tranh thủ đợt nghỉ giữa chặng hành quân, vượt ba cây số chạy gằn, chỉ vừa kịp nhìn mặt đứa con gái mới sinh. Vợ hỏi đặt tên chi. Đáp như là thuận miệng: "Lê thị Đại Đồng".   Sau này, cô bé cứ bắt đền: "Tại cha đấy! Tên gì mà quái gở! Tụi chúng nó cứ gọi con: Ê, thằng Đồng!". Có lúc người cha đã phải quát lên: "Tên vậy mà xấu à? Chúng mày bây giờ chẳng hiểu nghĩa lí gì cả!". Cô gái sợ và nể cha không dám đòi đổi tên. Con bé ngoan vậy mà bây giờ… Hừm! Thằng Tề thâm thật! Dùng con tước đoạt thứ quí nhất đời ta! Ông không dám nói hết mọi ý nghĩ với vợ. Bà thường lặng lẽ ứa nước mắt. Tu nhân tích đức mãi mới được mụn con. Bà tưởng như con gái đã bay mất. Bà nghĩ khó mà ngăn được con. Vả lại…
                - Thế là coi như mất đứa con - Bà rên rỉ.
                - Chúng con sẽ bảo lãnh cho cha mẹ sang đó. - Cô gái sà đến ôm lấy mẹ.
                - Cô chớ có mà giở lời ấy ra với cha cô mà khốn. - Bà mẹ gạt đi - Nó về dự hội thảo được, sao không về ở hẳn trong nước?
                - Công trình của anh ấy bên đó lâu dài lắm. Với điều kiện nước ta hiện nay, anh ấy bó tay.
                Bà mẹ còn đau lòng vì những lời đàm tiếu mà bà cố không để lọt đến tai chồng.
                - Thời buổi kinh tế thị trường có khác, con tinh khôn hơn cha, trẻ nhạy bén hơn già.
                - "Me" Mĩ xuất khẩu thì hơn đứt "me" Tây nội địa thời trước, dù chỉ là Mĩ da vàng.
                - Đúng là đổi mới! Cha mẹ lại nhờ phúc con.
                - Ầy, hai ông đại tá thay vì đọ súng bây giờ đọ gì nhỉ?
                Cũng có những ý kiến tỉnh táo hoặc biết điều. Nhưng ác thay! Những lời ấy thường lại không được đồn thổi.
                Hà Tề đến ở nhà mẹ đẻ đã năm ngày rồi mà vẫn chưa hẹn gặp được Lê Tốn. Lão phải chịu nhún vì quyết tâm của người con mà lão lấy làm tự hào nhất, chứ với lão thì …
                Một hôm, Lê Tốn gọi con đến. Ông thắp ba nén hương trên bàn thờ ông bà nội của Đại Đồng, đứng im một lúc nhìn ba sợi khói mảnh vươn lên cao, loằn ngoằn rồi tan vào không khí. Ông ngồi xuống ghế, bảo con ngồi đối diện. Ông nói nhẹ nhàng nhưng nghiêm nghị:
                 - Cha mẹ không ngăn cản con. Nhưng phải có ba điều kiện. Con hãy nghe cho kĩ rồi nói lại với anh Tài. Một, sau khi cưới, con phải ở lại Việt Nam một năm. Trong thời gian ấy, Tài có thể kí hợp đồng làm việc tại Việt Nam, hoặc đi về giữa hai nước, tùy. Hai, đẻ con rồi, anh chị phải dạy tiếng Việt cho chúng ngay từ khi chúng biết nói, và bố mẹ con cái phải dùng tiếng mẹ đẻ để nói với nhau cả khi ra ngoài; phải làm cho con cái hiểu văn hóa Việt Nam, ít ra là những điều sơ đẳng. Người Tàu bỏ nước đi sau nhiều đời vẫn giữ được tiếng nói, phong tục, tập quán gốc, mà người Việt mình có nhiều trường hợp ngay đời thứ nhất đã phôi pha. Ba, khi con cái đã đủ cứng cáp, hàng năm phải cho chúng về thăm quê ngoại. Chỉ cần một trong ba điều ấy bị vi phạm thì cha mẹ coi như không có con, và cái tên Lê thị Đại Đồng sẽ bị xóa trong sổ gia tộc. Bảo Tài, cả con nữa, hãy suy nghĩ và cân nhắc cho kĩ. Nếu anh ta và con vẫn quyết tâm, và theo được ba điều ấy, thì cha sẽ hẹn ngày gặp cha con anh ta.
                Cả vùng, chẳng biết do đâu, biết những điều kiện thách cưới lạ kì. Người thì cho Lê Tốn có bản lĩnh nhưng hơi cứng. Kẻ thì chê không thức thời; bao người mong muốn vậy mà chẳng được. Số khác thì lắc đầu, chép môi: "Chẳng qua lão muốn đầu hàng trong danh dự". Không một ai thoáng nghĩ rằng việc xẩy đến quả là một "sự kiện" đối với ông ta, gia đình ông ta, dẫu đó là những người đã quen chịu đựng, những con người từng bị chiến tranh, bị thời cuộc đụng tới nhiều nhất. "Sự kiện" này, người ngoài thích nhìn dưới khía cạnh hài kịch, và sẵn sàng đón xem cái kết cục bi kịch. Trong thâm tâm, họ biết đây là mối lương duyên thực sự, không như nhiều mối “duyên” thời “mở cửa”. Mà lương duyên thì tất nhiên là hay hơn hận thù. Ngày nay, không cần bi kịch mới giải hiềm được như thời Giuliet và Rômêô, dẫu mối hiềm có thể không đóng khung trong hai gia đình, hai dòng họ. 
                Câu chuyện biết đến đấy, tôi phải đi tha phương kiếm sống. Từ bấy, tôi chưa có điều kiện để biết thêm. Có mấy khả năng kết cục. Tôi có thể tùy "tạng" hoặc tùy "khẩu vị" người thưởng thức mà lựa một rồi bịa ra mà kể nốt. Nhưng như vậy thì khác nào tự đặt mình vào vai chúa Trời ban phát các số phận. Thôi thì xin dành cho mỗi người đọc tự kể tiếp.

          V-1994
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.06.2009 09:54:57 bởi Khải Nguyên HT >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9