Tập truyện ngắn của VU THI.
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 28 bài trong đề mục
vuthi 26.02.2009 20:22:55 (permalink)

ĐÁ ĐỎ

Truyện ngắn của Vũ Thi

Mẹ kiếp! (câu chửi thề đay nghiến như một tiếng thở dài). Hắn nhìn đôi bàn tay xù xì rạn vỡ dưới cái quầng sáng nhờ nhờ cuối ngày, có lẽ những tia nắng cuối cùng còn lọt lại rơi rớt xuống đáy giếng sâu. Hôm nay thấy nắng, có lẽ trên mặt đất phải là nắng to lắm. Mùi khen khét của bùn, đất, sạn, sỏi bốc lên làm nghèn nghẹt trong phổi hắn. Hắn ủ rũ nhìn những tia nắng hiếm hoi trong ngày còn rơi rớt đáy sâu, nơi tận cùng thế giới. Không hiểu sáu mươi mét đã là sâu chưa? Một khoảng rộng chừng hơn mét vuông chênh chếch vào núi chừng như đang nuốt đời hắn vĩnh viễn vào trong lòng đất. Hắn chán nản đào những nhát cuốc cuối cùng trong ngày. Có lẽ trên mặt đất gần 6 giờ (hắn lẩm bẩm trong miệng). Phía trên giếng dây gầu dần dật như nhắc hắn làm việc. Những nhát xẻ hằn học gằn lên trong lớp bùn sỏi nghe xào xạo như ai đang đào vào óc hắn. Nỗi đau đớn, tù túng như nén hắn lại bật ra một câu nói như gầm:
- Kéo lên đi!
Khi chiếc dây gầu căng thẳng từ từ kéo lên xảo sỏi đá lướt qua mặt hắn, một tia sáng đỏ ánh lên màu máu. Như cái máy, hắn chồm lên với dây gầu kéo lại, thò tay chộp lấy cái tia sáng ánh màu, bên trên tiếng cằn nhằn.
Hắn nhướng cổ lên phía trên quát to:
- Vướng mẹ nó phải áo tao, đổ cha nó hết rồi! - Hắn hất cái sảo sang bên, nhanh tay xúc đầy sảo mới. Hắn run run cầm viên đá, có lẽ đời hắn lần đầu được sờ tới một viên hồng ngọc lớn và đẹp như vậy.
Bên trên vọng xuống tiếng gọi “Về thôi”, cứ như tiếng vọng xa xăm gọi hồn người chết. Không đắn đo, cả viên đá lẫn bùn cát hắn đưa lên miệng và nuốt ực. Bụng thì đói, trưa được cái bánh mỳ chắc đã tiêu từ lâu, nên viên hồng ngọc trôi đến đâu cứ như cứa vào ruột gan hắn đến đó nỗi đau xót.
- Lên mẹ mày đi, không bố mày cho ngủ luôn dưới ấy bây giờ.
- Tao đang đau bụng! Hắn với lấy cái móc quàng vào dây lưng. Bên trên mấy đứa cẩu hắn như bay lên mặt đất, tay chân quệt vào thành giếng rát bỏng. Cơ thể hắn như quả đạn bắn lên trời rơi phịch xuống đất trước những tiếng cười đùa của dân đào đá - Hắn đau đớn quằn quại trên mặt đất mồ hôi vã ra như tắm. Thằng bưởng trưởng vỗ vào đít hắn vừa cười vừa lần từng túi hắn xem có thất thoát chút nào dưới hố hay không. Hắn đờ đẫn nhìn cái bộ mặt phèn phẹt, mắt to, mắt bé của gã như muốn cắn cho nát cái đầu súc sinh đang run lên vì khoái trá. Hắn lồm cồm bò dậy. Một cái gì đau nhói như dao cứa vào dạ dày. Chắc cơ thể con người đang thử tiêu hóa viên đá đỏ - Loài đá cứng như kim cương, cạnh góc sắc như dao. Nghĩ đến đây cái đau càng thêm dữ dội. Một thoáng suy nghĩ lướt qua đầu: Phải tọng cái gì vài bụng cho dạ dầy căng ra thì đỡ khổ. Hắn cố ôm bụng lê nhanh về lán. Mọi người lộn xộn, mỗi kẻ mỗi góc đang vừa nhai bát mỳ lèo phèo mấy cuộng rau, dăm ba khoanh thịt thủ vừa tán chuyện bậy bạ trên trời dưới biển.
- Chán ăn thèm lên nóc tủ à? Để tao đỡ! Mấy gã cười hô hố. Hắn lặng lẽ cầm bát mỳ lê về góc cố nuốt chừng nuốt chạo cho đỡ đau. Mỳ đi đến đâu trong ruột hắn như thấy được và cuối cùng mọi sự đâu vào đó. Hắn lặng lẽ lê về chỗ ngủ. Tiếng lạo sạo trên sạp làm hắn ghê người. Nỗi mệt mỏi như dán hắn xuống nền lán mặc cho hồn vía bồng bềnh phiêu du. Hắn thấy cái miệng giếng, thấy bao đoàn người thất thểu trên đường, hắn thấy những mặt người méo mó, nhếch nhác khổ đau và bao tiếng gào thét man rợ vì sung sướng. Chừng như cả nhân loại đang bu lấy cái ngọn đồi tỷ. Những đoàn xe gắn máy chen nhau luồn lách tới từng lán mà trao mà đổi, mua, bán, đâm, chém. Tiếng rên rỉ của thằng bên cạnh vang lên như lay thức hắn dậy. Thằng cha này bị sốt rét ác tính đã mấy ngày nay.
Khi đến, hắn to khoẻ là vậy thế mà giờ như cái hồn ma bẹp dí. Gã rùng mình, một trận đau như xé tan cơ thể hắn.
- Ối mẹ ơi, đau quá! Hán ơi! Hắn la trong rên rỉ! Mày đỡ anh một tư, Hán ơi!
Tất cả vẫn yên lặng ngoài tiếng ngáy của mấy chục cái xác không hồn. Hắn chợt tỉnh, một thoáng suy nghĩ, lướt qua trong óc. Hắn lê đến bên ngọn nến, với bao diêm và cây nến lết ra ngoài đồi. Những ngọn gió đêm hè thổi nhẹ như nâng hắn dậy. Xa xa đầu non, mảnh trăng như ngoặc vào đêm tối. Hắn mò đến chỗ vắng mà làm cái công việc tháo dạ, viên hồng ngọc như cái nút bật ra khỏi hậu môn để “cho” hắn nỗi đau đớn cùng cực. Cứ thế đầu hắn gục xuống sườn đồi, song hắn lại cố gượng dậy, mò mẫm trong đám phân bầy nhầy. Đây rồi! Hắn chìa tay về phía ngọn nến, viên đá nổi lên giữa lòng bàn tay vấy máu. Cầm nến soi lại, hắn đi ngoài ra toàn máu, nhưng cơn đau có vẻ nhẹ đi. Làm thế nào bây giờ! Để viên hàng ở ngoài thì kiểu gì cũng mất, mà còn ốm đòn, hắn nhìn ngọn nến mà nghĩ ngợi. Đúng rồi để viên hồng ngọc lên cái lá cho nến chảy bọc trùm lấy viên đá. Hắn khẽ nặn cho những cạnh sắc êm ru phẳng lỳ và cả quyết đưa lên mồm gửi nó vào trong ruột, lần này có vẻ êm ả hơn lần trước. Hắn quệt bàn tay bê bết máu lên cỏ rồi lê về lán. Lúc này trời gần sáng, tiếng rên rỉ của gã sốt rét vẫn đều đều cất lên mê sảng. Lão nằm vật trên nền lán như một cái xác. Khi tiếng gọi đểu cáng của thằng bưởng trưởng vang lên hắn không sao dậy nổi.
- Dậy đi mày.
- Thưa bác, hôm nay tôi bị đi ngoài ra máu.
- Không nghỉ được đâu! hắn nói như ra lệnh. Toản đâu, lấy thuốc clorôxit cho hai thằng nó uống.
Gã sốt rét rên rỉ nói:
- Thưa bác, tôi cần kư ninh. Thằng lé nói như gầm lên: Đ. mẹ, đồ ngu. Thuốc clorôxit chữa bách bệnh. Gã sốt rét không đứng dậy được, còn hắn, sau khi uống 3 viên clorôxit, ăn cái bánh mì "chay" rồi bị lùa ra miệng giếng. Một dây chuyền sản xuất thời nguyên thủy. Cả dãy người được trải dài từ dưới suối lên đến sườn đồi. Ở đâu cũng có tai mắt của chủ bưởng chỉ thấy thoáng ánh đỏ là chính họ nhặt lấy đưa đi.
- Này Hảo! - Thắng lé nói với hắn trên miệng giếng - cả hội chẳng đứa nào thay được việc của mày cố lên mà làm, rồi tao thêm cho!
Gã lặng lẽ móc quai gầu vào ngang bụng và từ từ, đồng bọn đưa hắn xuống. Hắn phải xuống bằng mọi giá vì hắn còn có việc cần làm trong giếng ngày hôm nay. Hắn cứ xuống dần như đang rơi vào địa ngục âm u. Kể cũng lạ ở đời kẻ thả ước mơ trên trời, dưới đất, trong lòng biển khơi mà hắn thì vùi mình trong lòng đất. Hắn lắc đầu ngao ngán như muốn xua mọi suy nghĩ ra khỏi óc. Đáy giếng tối như mực, người làm phải có kinh nghiệm để lần ra lớp bùn sỏi bên dưới lớp cát vàng, nếu sai lầm thì tốn rất nhiều công vì lớp trên chèn lên lớp dưới thì có hót cả ngày chưa chắc đã được gì. Đời hắn đã qua bao đời chủ, cứ bưởng nọ bán hắn cho bưởng kia vì hắn có đôi tay biết nhìn trong đêm, nhận ra vỉa có đá, một nhát xẻng cắm vào vỉa đá hắn đã hiểu được có đúng chỗ cần khai thác hay không.
Hắn định thần thò tay vào túi áo lấy bao diêm và cây nến đã thủ sẵn, thao tác rất nhanh, châm nến rồi bới trong đống sỏi, cát ngày hôm qua. Hắn làm đi làm lại nhiều lần tìm cái chấm lửa bắt sáng của loại đá đỏ nhưng vô hiệu, đúng như các cụ xưa thường nói: “Phúc bất trùng lai"!
Hắn tắt nến, xúc sỏi đổ vào đầy xảo rồi giật dây. Mỗi nhát xẻng, trong bụng lại đau nhói như phải bỏng. Lạy trời, hãy cho hắn vượt qua nỗi đau đớn này, hắn chẳng còn biết nương tựa vào ai ngoài trời phật, hắn nghĩ: Mình phải biến thôi mà biến vào lúc này là hợp lư nhất, vì hắn đang đi ngoài ra máu. Điều cốt tử là phải cố vượt qua cái chặng ngày hôm nay sao cho êm ả. Hắn cứ lầm lũi vừa xúc vừa suy nghĩ, rồi cũng đến lúc người ta đưa xuống cho cái bánh mỳ và chai nước nhỏ. Hắn tựa vách giếng, ngồi nhá cái loại bánh mỳ mua trước mấy ngày vừa rắn vừa hôi. Hắn cứ vừa nhai, vừa uống. Khi đã hoàn tất bữa ăn giữa ngày thì dây gầu lại dật, nhắc hắn đã đến giờ làm. Lưng hắn cứng như gỗ, hắn cố gượng dậy cầm lấy xẻng. Những cơn đau lẩm nhẩm như cồn lên trong bụng. Hắn cố gắng xúc đầy xảo rồi gục xuống trong đau đớn. Một dòng nước âm ấm cứ trào ra ướt hết cả ống quần không sao kìm lại được. Đầu óc hắn cứ quay cuồng rồi tối sẫm. Cái ranh giới giữa sống và chết đang hiện lên. Bỗng một tia sáng đỏ ngời lên trước người hấp hối. Cố gượng dậy thò tay vào trong quần lấy hòn ngọc tròn tròn nhầy nhụa máu, hắn cố gượng đưa lên miệng, nhoài người về phía dây gầu, tháo móc quàng vào dây lưng và gục hẳn. Khi bọn ở trên kéo lên hắn chỉ còn là một cái xác không hồn. Thẳng bưởng chưởng sợ hãi quát đàn em:
- Cõng nó về lán! Những tiếng rì rầm bàn tán như một dây chuyền kéo dài tới bờ suối, như lời thở dài trăn trở. Người ta đặt hắn trên sạp nứa. Thân hình tiều tụy, bất động, hắn chìm nghỉm trong đại dương đau khổ. Giọng thằng lé phá vỡ cái tĩnh lặng đang bao trùm trong lán:
- Để nó nằm đấy, chúng mày đi làm!
Và mặc! mọi việc đâu lại vào đấy. Dây chuyền có thể mất đi vài mắt xích nhưng nó vẫn là một dây chuyền. Trong lán chỉ còn lại hai kiếp sống phù du trôi nổi. Khi chiều xuống, mọi người trở về thì gã sốt rét đã bỏ mặc cõi đời mà ra đi, chỉ còn lại hắn âm thầm trong đói khát. Sự chống chọi với tử thần làm cho hai quầng mắt hắn trũng xuống, lồi lên hai con ngươi sáng quắc như con ma ngồi canh nhà xác. Mọi người vấp phải hắn như vấp phải tử thần đứng đợi, họ đứng sững lại rồi lặng lẽ tản ra, mang nặng trong lòng nỗi buồn mặn chát. Chỉ còn lại hắn đối diện với thằng lé. Một khoảnh khắc yên lặng, họ nhìn thấu vào nhau, bỗng thằng lé phá tan sự yên lặng:
- Mày có dặn dò gì vợ con không? Tiền nong của mày tao sẽ gửi về tận nhà!
Chợt bàng hoàng như người tỉnh mộng, giọng hắn cất lên như từ cõi xa xăm:
- Tao phải về nhà, ngày mai cho tao về sớm, tao vào đây đã cả năm mà ở lại thì cũng chả làm gì được. - Hắn nói với thằng lé, giọng thều thào như cầu khẩn.
- Nhưng mày về làm sao được. Giọng thằng lé ra chiều thông cảm.
- Mày khỏi lo đi, tao đến được thì tao về được. - Hắn nói giọng mệt mỏi nhưng quả quyết.
- Thôi được, ngày mai tao cho mày về.
Bóng chiều loang lổ trên những sườn đồi, một bóng đêm khơi lên từ những miệng giếng như những lỗ mắt quái vật khát thèm cõi sống. Cả khu lán chiều nay như chìm xuống, quên đi. Người ta vừa đi chôn thằng sốt rét gần ven suối. Tiếng đào đá khô khốc như ai nấy khơi mộ cho chính mình. Hắn lặng lẽ như pho tượng, mọi người qua lại ngỡ ngàng nhìn hắn. Liệu hắn có qua được đêm nay để ngày mai mà về không?
Thế rồi hắn sống. Tia nắng mặt trời đầu tiên trong ngày ngời trong mắt hắn. Những tia nắng còn non ru bổng tiếng gà, cái vùng đồi loang lổ như ngửa mình đợi nắng. Xa xa, lán nào đập nứa khơi lửa nấu ăn, ngọn khói bồng bềnh trong gió. Hắn lọ mọ tới chào từng người trong bưởng, cái nắm tay nghe day dứt, đượm buồn. Người ta nấu cho hắn tô cháo nóng và mấy nắm cơm ăn đường. Thằng lé xuất hiện để làm nốt cái thủ tục cuối cùng. Nó nhâng nháo đặt trước mặt hắn 600 ngàn đồng và nói:
- Đây là tiền tạm ứng cho mày về. Mọi đứa khác chỉ có hai trăm, khỏi ốm vào làm lĩnh nốt.
Hắn tự hiểu cái giá của cả năm làm việc có thế! Cõi đời chỉ có thế! Người ta chỉ cho nhau lời nói, cho bao nhiêu cũng được! Nhưng nói đến tiền thì chỉ có thế! Hắn đã hiểu luật chơi! Không cò kè, cầm tiền loạng choạng bước ra khỏi lán.
Tiếng thằng lé còn đuổi theo hắn:
- Tao cho hai thằng dìu mày ra bến! - Kiểu hắn vỗ về cho những người còn ở lại.
Hắn lặng lẽ đi cùng hai người bạn, lòng nhẹ nhơm bâng khuâng. Mọi kẻ ra bến xe Quỳ Châu cùng chung một vẻ! Đó là những người thất bại trong may mắn. Cánh lái xe không mặn nồng với họ. Xe chở người vào bãi thì đâu vào đấy, đó là những người mới đến tìm vận may, họ vẫn có tiền để mua vé, còn lúc xe quay ra thì lái xe thật khổ. Xe qua Quỳ Châu, nếu những người mua vé không cầm tiền vẫy thì xe phóng thẳng. Hôm nay bến vắng, hai người bạn cầm tiền vẫy xe hộ hắn. Người ta nhồi hắn lên thùng xe khách đầy người hồi hương. Đoạn đường Quỳ Châu – Yên Lư khoảng hơn 80 cây số, đường rải đá hộc và đất đỏ. Bao trận mưa rừng cứ xối trôi đi lớp đất nên mặt đường chỉ còn lại những lớp đá lô nhô như bộ xương người đã rũa hết thịt. Dân đào đá cứ đùa: "Đi qua con đường này cứ như đi Tây Trúc lấy kinh”. Tài xế mà non tay thì chẳng dám chạy, cứ như thế, hành khách trên xe như con xúc xắc trên đĩa thả sức mà lăn lóc. Những kẻ thất bại ngồi cùng nhau trên một chuyến xe thì thật là yên ả, tĩnh lặng. Người ta cố chịu đựng để mà trở về, không nói chuyện, không bàn tán. Họ lặng lẽ đong đưa mà suy ngẫm sự đời. Hắn lịm đi trong giấc ngủ ngày hụt hẫng. Thỉnh thoảng sắp tới bến nào thì mọi người lại xì xào về cái tên bến. Có lẽ viên đá đỏ trong bụng như một liều thuốc bổ nâng hắn dậy. Lạy giời nó vẫn ngủ yên ở chỗ nào trong bụng, chỉ có chỗ ấy là còn tạm kín đáo! Mà nếu có ai biết thì họ sẽ xúm lại mổ phanh hắn ra như con lợn, mà đào mà bới cho kỳ thấy cái bảo vật chung của trời đất.
ở đây mọi thứ thuộc về kẻ mạnh, mà sự may mắn lại rơi vào chính hắn thế mới lạ! Bao hình ảnh tăm tối trong mỏ cứ đeo bám lấy hắn không rời, cứ như cả đời hắn thuộc về cái miệng giếng sâu tun hút đầy bóng tối khổ đau! Hắn đang nằm trên ô tô ôm giữ một kho tàng mấy tỷ trong bụng. Không được chết, vì chết thì phí quá, có ai mà tiền nhiều đến mấy tỷ lại chết không? Xe rùng mình dừng lại nghỉ ăn trưa. Mọi người lục tục xuống xe mà hít thở thì đúng hơn! Vì mấy ai có gì để ăn. Cái giống thợ mỏ quanh đời khác chi mấy xẻng đá trên đồi cứ là tha hồ mà lăn lóc. Có lẽ chất dân quê còn mãnh liệt lắm trong từng quả timhọ. Lấy nắm cơm, rắc muối lặng lẽ ngồi nhai. Mấy anh chàng thợ mỏ hau háu nhìn hắn.
- Các cậu cùng ăn với tớ, hắn gạt nắm cơm ra mời họ. Chỉ một loáng, hai nắm cơm đã biến vào chỗ cần đến, hắn chỉ được vài mảnh nhỏ. Càng ăn ít hắn đỡ làm phiền đến viên hồng ngọc. Xe lại chòng chành đi theo vũ điệu ghê hồn, cả sóng người nghiêng ngả như say, những bộ mặt hốc hác, lim dim như đang trong buổi cầu nguyện.
ánh hoàng hôn đang táp dần trên trên những đỉnh đồi xa. Những cơn gió dải nồng lùa qua cửa xe toang hoác. Một thứ không khí dễ chịu như món quà chia sẻ cho những kiếp người. Tiếng còi xe báo cho họ ga Yên Lư đang gần phía trước. Mọi người nháo nhác như đàn ong vỡ tổ, mọi ánh mắt đều ngóng về phía trước nơi con đường ngọt ngào trải nhựa cắt ngang. Xe đỗ lại, họ xô nhau mà chen xuống trước. Hắn cũng được sóng người xô đẩy mà bật xuống đường. Họ tán loạn chạy về phía ga cho kịp giờ tàu chạy. Hắn cũng vội vã theo sau bước họ, nhưng chợt sững người, tập tiền trong túi quần trong cài kim băng cẩn thận không cánh mà bay. Túi đựng nắm cơm khoác liền sườn cũng rỗng tuếch. Trong lúc ngủ gật trên xe, người ta đã giật đi cả năm trời công sức của hắn. Nỗi buồn như làn khói mỏng nhen nhóm khơi lên trong lòng hắn. Tiền đâu mà mua vé, cơm đâu mà ăn? Cứ lững thững tiến vào trong ga như kẻ mất hồn, hắn như kẻ mộng du qua trạm soát vé, lên tàu ngồi vào ghế góc toa. Thế đấy! Sự khốn khổ là tấm vé thông hành cho những kẻ hành khất trên đời, hắn như vật thể lạ rơi vào góc toa tàu đang chạy. Mọi con mắt đổ dồn vào hắn, họ ngồi xa hơn để được ngắm một hình hài đến vậy, một kẻ khốn khổ đã rơi xuống giữa hành trình của họ. Một hình hài xương thịt tách bạch rơ ràng, hai gò má nhô lên đỡ lấy hai hố mắt hơm sâu buồn thảm, hai bàn tay khô khan mệt mỏi rủ xuống nan ghế. Thế đấy! Sự sống chừng như chưa tắt trong hắn, cái ánh sáng nhỏ nhoi mờ ảo vẫn còn khơi dậy. Hắn hiện hữu trong cõi đời, chẳng ai nỡ vứt hắn đi nên hắn ngồi đó mà nhìn đời trào lộng. Sự đời người giàu sợ kẻ đói rách, họ tự khoác cho mình một vẻ đẹp cao ngạo, kẻ nghèo cần cơm, rầu rĩ trong vẻ cơ hàn. Có lẽ ở đây đức Phật cũng phải mỉm cười trước những thích nghi của một sinh vật sống. Đoàn tàu cứ chạy, mọi vật đung đưa, lòng hắn cũng đung đưa với sự đói khát của loài thú. Khi sự bình an trở lại, có lẽ cái đói lớn lên mà giày vò hắn. Tất cả mọi người đang nhâm nhi bữa ăn chiều không mấy gì thú vị thì hắn ngồi kia, đang cồn cào đói khát với ánh mắt khát thèm ảo não. Cái đói như làm cho cõi đời này bé lại! Cái đói nén sự sống chỉ còn là cái chấm! Chính hắn - một cái chấm sự đời lặng lẽ mà nghe mình thác loạn. Hắn rùng mình khi ai đó động vào người! Một đứa trẻ 3 - 4 tuổi chìa ra cái bánh sừng bò cho hắn!
- Ông ăn đi!
Một cặp mắt ngây thơ trong sáng như hiện lên nhìn hắn. ở cuối toa có tiếng ai gọi, thằng bé lon ton chạy đi! Hắn cúi đầu cảm ơn họ! Hắn nhớ vợ, nhớ con, thằng bé nhà hắn đã 18-19 tuổi có thời nó cũng như thế. Đói khát không làm cho trẻ nhỏ khác được, vẫn tin yêu và trân trọng cõi đời. Rơ khổ vợ con hắn đã chờ hắn mấy năm trời có lẻ!
Nhưng không sao, trời sẽ bù đắp lại cho họ, hắn sẽ xây lại nhà và cưới vợ cho thằng Hải. Hắn cứ chờ cái ngày ấy mãi. Nhà gái cứ giục đến mấy lần vì người ta có con thì phải lo!
Cứ nghĩ đến chúng là lòng hắn lâng lâng dễ chịu, nhưng lại dằn vặt vì cái nỗi khổ có con mà kẻ làm cha không lo nổi cho đời chúng trọn bề gia thất. Vợ hắn cứ âm thầm khổ sở mà nghĩ ngợi, cả nhà trông cậy vào hắn! Và mãi rồi cũng sẽ có ngày…
Tiếng còi tàu rú lên mấy hồi dài dài, từ từ dừng lại ga Hàng Cỏ! Mọi người tập nập xuống sân ga. Hắn đi theo đoàn người xuống tàu, mệt mỏi đứng trước cửa ga Hà Nội, thành phố sẽ định đoạt số phận của viên hồng ngọc. Những ngọn đèn đường nhờ nhờ toả sáng trong đêm hè tĩnh mặc. Trên phố chẳng còn ai qua lại, chắc là khuya lắm, bóng hắn siêu vẹo đổ dài… Hắn phải về nhà càng nhanh càng tốt, cứ loay hoay thì chết đói. Hắn lầm lũi đi ra phía bờ sông xuôi về bến Nứa. Hắn cứ đi thất thểu bồng bềnh trong cái đói. Ngọn gió trên cầu như muốn lật hắn xuống sông. Hắn cứ vịn lấy thành cầu mà lê về phía trước. Còn 50 cây thì đi sao nổi! Chân hắn cứ nhích dần về cái đích Hải Dương quê hắn. ở đời có những việc tưởng chừng làm không nổi mà người ta vẫn làm, xác suất một trên cả ngàn người ta vẫn đào. Con người là thế, chẳng có ai buồn lư giải về điều này mà họ cứ làm. Có thể cái đích là con số một trên một nghìn chăng! Còn chín trăm chín mươi chín người sẽ ra sao? Có lẽ chỉ có trời mà biết! Cả nghìn thằng cứ giằng co với số phận mà làm thành nỗi khổ. Thế đấy! Cuộc đời là vậy! Hãy lăn vào nó đi, anh sẽ biết anh là ai! Hắn cứchênh vênh qua cầu trong mê sảng, đói khát! Phố đêm Gia Lâm lạnh lẽo không người, những hàng cây ven đường xoè tán sù xì đen xẫm. Thỉnh thoảng hắn lại vịn vào đâu đó cho khỏi ngã rồi lại đi. Đầu hắn trống rỗng mê sảng, cố lê từng bước chân nặng nhọc, bởi hắn hiểu rằng nếu dừng lại thì hắn sẽ không thể bước tiếp được. Con đường Năm dưới chân cứ câm lặng trải dài chừng như vô tận. Từng cột mốc như đánh dấu một khoảng đời đã qua. ở đây chỉ có mình hắn trong đêm, trong bóng tối đơn độc hắn chẳng cần công lư hay công bằng chi cả. ở đây sự cân bằng động đang tiến tới chu kỳ bất động. Hắn cứ chênh vênh tiến trong đêm chẳng còn bóng đổ để nhìn mình sao nữa. Hắn đi đâu, về đâu? cái đích cứ mập mở ảo não! Quê hương hắn, vợ con hắn ở tận cuối đằng kia mà hắn phải lê về với họ. Hắn cứ đi giữa đường như một bóng ma ám ảnh trên cõi đời, mà có lẽ là bóng ma thực sự! Khi người ta chẳng còn gì mà sống thì họ sẽ là ma, là quái ám ảnh cõi đời.
Giờ đây, nếu cho lên đĩa cân, viên đá đỏ và miếng ăn thì đối với hắn cán cân đã nghiêng về bát cơm. Thật thú vị khi người ta cần viên đá phù phiếm đổi lấy hạt cơm mà nhá cho qua khỏi độ đường, nhưng ở đây hắn biết đổi cho ai trong cái bóng đêm dày đặc khốn khổ. Chẳng có sự minh triết nào dành cho bóng tối, hắn cứ phải len lỏi vào nó mà sống. Có một sự cân bằng mà chính hắn phải tìm lấy trong cái dạ dày lép kẹp. Niềm tin trong hắn đã cạn, ngọn lửa nhen nhóm ấy cứ sẫm dần trong đêm. Hắn gục xuống giữa đường khi từ xa đang có ánh đèn ô tô rọi lại.
Xe ô tô dừng lại, người tài xế chạy đến, hắn chỉ còn thều thào được câu “Cứu tôi với”. Anh ta bế xốc hắn đặt lên cabin. Môi hắn nứt nẻ vì đói khát. Anh tài xế cho hắn uống chai nước đường pha sẵn. Hắn có vẻ tỉnh dần lại. Một lần nữa vận may lại mỉm cười cùng hắn! Trong bóng tối vẫn lẩn khuất đâu đó những tấm lòng từ thiện. Người ta cho hắn ăn và chở hắn về tận đầu làng quê hắn. Trong thôn, tiếng gà gáy chập chờn gọi sáng. Dưới chân, con đường gạch gồ ghề nham nhở đưa hắn vào làng. Mọi người vẫn còn đương giấc ngủ, hắn lặng lẽ đi vào trong thôn. Nhà hắn vẫn thế, trước cửa là cái ao, mấy con nhái hoảng hốt lao mình xuống nước, con chó già vẫn nhận ra chủ, nó dụi mơm vào tay hắn mà chia sẻ tình cảm. Nếp nhà mái rạ bê bết thời gian, ủ rũ trong sương. Vẫn cái vại nước mưa đặt bên cửa bếp, cây hồng xiêm xếp tán góc sân. Hắn ngồi đầu hè mà bâng khuâng cho cả năm xa cách. Tất cả dường như vẫn thế, có lẽ chỉ vợ chồng hắn mòn mỏi hơn xưa. Đồng ruộng không trả được niềm mơ ước cho những người từng đổ mồ hôi vì nó. Người ta ra đi, người ta trở lại. Người ta cấy cày, người ta đào đá chung quy chỉ vì cái ước mơ yên hàm mà suốt đời chẳng bao giờ có, mà mơ ước thì tốt chứ sao! Mơ ước giúp cho hắn tồn tại mà sống, hắn cứ ngồi trên đầu hè mà suy ngẫm đời hắn. Niềm vui như gió thổi, nỗi buồn như nắng hè, cái nóng cứ như là thiêu đốt hắn, ấy thế mà hắn sống!
Vợ hắn đứng cạnh lúc nào hắn cũng chẳng biết nữa.
- Ông về lâu chưa! - Bốn con mắt họ nhìn nhau như thấu hiểu tất cả, mọi thứ người vợ đã hiểu hết.
- Ông đi nằm nghỉ đi. - Hắn không đứng dậy nổi.
- Tôi đỡ ông.
Chị vực hắn tới giường, thế là giấc ngủ. Sự bình yên khép đôi mắt hắn lại. Chị lặng lẽ sang gian bên gọi thằng Hải, hai mẹ con nhìn hắn ôm nhau khóc. Họ khóc cho đời hắn, khóc cho chính họ, nỗi cay đắng cứ che phủ mãi đời họ.
- Con đi mời bác y tá xem bố mày làm sao?
Hắn hốc hác như bộ xương còn thở. Chẳng cần biết mình là ai, đang ở đâu, hắn như con ma trở về nhà, vợ hắn thương hắn vì cả đời lam lũ, thương vợ, thương con. Nhưng tất tật chỉ có thế, không khác được, mà lẽ đời người ta phải sống, con cái phải đi lên. Đi lên thì chẳng thấy, mà chỉ thấy hắn tàn tạ quay về. Sự bất lực hiện hình trên cơ thể sống, nó như một quả chuông sẽ ngân lên ai oán khi có người đụng đến. ở đây, trong căn nhà hắn, những đường nét ấy được hòa đồng, như nếp nhà tranh xơ xác đặt bên bờ ao lở lói, đầy váng bẩn, như cái vại nước sứt miệng đặt bên cửa bếp toang hoác, như con chó nằm đầu hè ghếch đầu lên mảnh bát vỡ. Vạn vật tất cả dường như có chỗ của nó, mọi chuyện từ xưa vẫn thế! Tất tật vẫn chỉ là hơn thiệt, buồn vui, thật giả, nhưng ở đây tại nhà hắn chỉ được nửa vế câu trên. Hắn vẫn nằm kia mà ôm lấy niềm vui chưa hề có, cả gia đình đã nhận lại hắn như một phần xương thịt. Sự hoang vắng được bù trả, thế đấy! Cõi đời thật bình dị, người ta vượt qua hoang mạc trở về nhà để nằm ngủ an bình. Tất cả dường như chưa qua, chưa thấy, chưa đến, chưa đi, hay chăng đó là sự quên lãng để tồn tại. Nỗi khổ truyền từ vật sống sang vật sống, nó lưu chuyển như con nước trên sông, từ hắn sang vợ, từ vợ sang con như một bản hòa tấu uyển chuyển mà nâng lên cái nỗi đau cõi đời.
Mỗi gia đình là một cõi sống, cả làng quê là một trời rộng, quê hương không còn gói gém nổi những kiếp người, hãy nhìn vào mắt vợ hắn sẽ hiểu về bố con hắn.
Tiếng thằng Hải vội vã ngoài sân, vợ hắn ra mở cửa để tìm sự bấu víu. Bộ mặt chị hoảng loạn như người chết đuối vớ được cọc.
- Ôi, bác Hạnh giúp nhà tôi với, ông ấy đi làm xa về chẳng hiểu sao mà cứ ngất lịm, không dậy được. - Sự hoang mang tràn trong mắt chị.
- Cứ bình tĩnh bác Hải! Để đấy tôi xem, bà y tá khám bệnh cho hắn.
- Ông ấy thế này bà Hải ạ! Ông nhà bị mất nước trầm trọng nên rối loạn điện giải, kèm với không chịu ăn nên cơ thể suy nhược. Phải truyền cho ông ấy chai nước cái đã, để tôi về nhà mang sang.
- Thế bác Hạnh ơi! Em hỏi có không phải bác đừng trách! Thế thưa bác chai nước có đắt không?
- Thôi đừng lo, cứ lấy của tôi mà dùng còn tính sau.
Bà y tá xã tốt bụng đi ra cửa.
Thế rồi 5 hôm sau hắn mới ngồi dậy được mà húp cháo. Lúc vợ, lúc con, họ cứ quấn lấy hắn mà chăm sóc như chưa từng được chăm sóc hắn bao giờ. Có lẽ thằng Hải khổ hơn cả vì cái việc hệ trọng mà nó ấp ủ coi như là hỏng. Song nó thương bố nhường nào, cứ trông nét mặt rầu rĩ mà thêm buồn cho nó. Có những nỗi buồn người ta phải giấuđi mà gánh chịu, ánh mắt nó luôn lảng tránh mọi người. Nỗi thất vọng như muốn đè bẹp trái tim nó.
- Thày ơi! Con đỡ thày dậy xơi bát cháo!
Nó quàng tay xuống gáy nâng cha dậy. Hắn ngồi như pho tượng mà ngắm mọi người tất tưởi lo toan cho mình. Mà hắn cứ phải che dấu nỗi lo viên hàng đang mắc kẹt đâu đó trong cơ thể? Mà không lẽ rơi đâu trên xe, trên tàu, mà hắn không biết cũng nên! Nếu như thế thì chỉ còn nước chết quách cho xong. Hắn nhìn vợ, nhìn con, cái "vương quốc” thủy chung trông chờ vào hắn. Thằng Hải gợt thìa cháo đưa lên miệng hắn.
- Thày ăn thêm chút nữa, nó nài nỉ.
- Ông cố lên, chút nữa thì mới khỏe lên được. - Nụ cười khích lệ héo hon trong mắt chị.
Có nhiều khi người ta phải đón nhận hạnh phúc ánh lên toàn vụn vỡ trong khổ đau như vậy! Cái thế giới tinh thần lóe lên như sao hôm để rồi chết chìm trong cõi thực. Một thứ hy vọng chết ngấm mà không thể thiếu nó được. Nó vừa như đổ vỡ, vừa như hoàn thiện giữa hai cái ranh giới ấy có lẽ là hy vọng. Người ta tồn tại trong đó, giữa âu lo, chờ đợi. Nó như động lực làm cho quả tim đập trong lồng ngực, nó vực dậy cho cõi sống nỗi đam mê. Và có lẽ vì thế họ vẫn còn sống! ở đây người vợ hy vọng chồng mình tai qua nạn khỏi và đừng bỏ làng đi đâu nữa, còn đứa con thì hy vọng có một gia đình riêng khá giả mà đùm bọc thày mẹ mình. Còn hắn hy vọng viên hồng ngọc đừng có rơi trên đường. Cả ba niềm hy vọng ấy tựu chung đều mong manh mà làm thành cuộc đời họ - cõi thực. Ở đời người ta nghĩ ra quay số để mà hy vọng, chơi bạc để mà hy vọng, buôn lậu để mà hy vọng! Cứ ngẫm hy vọng nó hiện sinh đến là bao!
Và rồi đến ngày thứ 6, “niềm hy vọng” mới ra khỏi bụng, rơi xuống mảnh thạp vỡ, hắn nhược người đi vì lo lắng!
- Này, mẹ con thằng Hải đâu? - Giọng hắn run run vì chờ đợi.
Vợ hắn và thằng con lo âu, chạy lại.
- Mẹ thằng Hải gợt cho tôi cái hòn nến, rửa sạch mang vào đây! Bà cẩn thận đấy, đừng rửa dưới ao!
Vợ hắn bê mảnh thạp đi ra cửa, hắn quay lại phía thằng con.
- Hải ra bàn thờ lấy cho thày cái đèn bút soi đá.
Vợ hắn quay trở lại với cục nến trắng nhờ nhờ bẩn thỉu.
- Hải lấy cho thày cái đĩa.
Hắn nướng viên hồng ngọc trên ngọn lửa. Cục nến xù xì méo mó tan dần, dưới ngọn đèn để lại trên cặp một viên hồng ngọc trong veo ánh lên màu đỏ tươi của máu. Hắn lẩm nhẩm:
- Viên ngọc đẹp quá, đến hôm nay tôi mới được nhìn kỹ. Hắn đặt viên hàng lên đĩa, dùng đèn bút soi thẳng vào viên đá ở mọi góc cạnh, nét mặt hắn căng thẳng và rạng rỡ niềm vui.
- Mẹ nó ơi! Nhà ta thế là giàu! Thế là hết khổ! Hải ơi!
Viên đá đẹp quá! Có tới 200kr, màu hoa mười giờ mới càng qúy, chẳng rạn nứt tẹo nào. Hắn nói trong niềm hạnh phúc không tả.
Nếu trời phật cho gia đình hắn gặp may mắn thì ở đâu đó ngài đang mỉm cười trước hạnh phúc của gia đình họ. Hai mẹ con tựa vào nhau mà sung sướng, họ chẳng hiểu tẹo nào về đá đỏ, nhưng họ thấy hắn vui, mà niềm vui thực sự! Gia đình họ đỡ khổ thì mới lạ, cái hòn đá nham nhở cạnh sắc như thế mà lại đắt, quý đến vậy.
- Thày ơi, hòn đá này làm sao mà lại quý thế?
Thằng Hải hào hứng hỏi. Hắn với cái chai trên bàn khoanh một đường trên cổ, gõ nhẹ cổ chai vào cạnh bàn, một tiếng rắc, cổ chai tiện lìa rơi trên đất.
- Con thấy không? Loại này rắn gần như kim cương chuyên để làm đồ trang sức mà nó đắt chẳng thua gì kim cương. Trên thế giới nghe đâu chỉ có vài nước có loại đá này.
- Liệu bán có dễ không hả thày? - Nó nôn nóng hỏi.
- Mấy ai có hàng đẹp mà bán. - Hắn trầm ngâm tính toán.
- Mấy hôm nữa khỏe, thày lên Hà Nội.
Hắn tư lự đứng trước cửa hàng buôn bán gia công đá quý ở phố Hàng Bông. Hai dẫy tủ quầy đầy ắp những đồ trang sức, những vòng vàng, xuyến ngọc xếp đặt trên những giá đỡ trong quầy như chào mời quý khách ngắm vuốt. Hắn cứ lặng lẽ trước cái vẻ bề thế như muốn xua đuổi hắn hãy biến đi đâu cho nhanh, cái hình dáng quê mùa cứ lởn vởn trước cửa hiệu thì quả là bất tiện cho cửa hàng. Hắn tiến đến trước quầy nhận gia công hỏi người tiếp khách:
- Chào bác, tôi muốn gia công viên đá đỏ.
Mặt gã nhận hàng sáng lên:
- Bác có thể cho tôi xem qua.
- Được thôi.
Hắn đặt viên hồng ngọc trên mặt quầy. Sau một chút lật đi, lật lại trước ống kính ngọn đèn soi đá, gã chủ nhà niềm nở rạng rỡ hẳn lên.
- Nếu bác có nhu cầu bán, thì cửa hàng đặt vấn đề mua! Bác đỡ phải gia công, về phía bác có lợi hơn không.
- Tôi cần gia công, phần cắt via viên đá thuộc về anh. Hắn bình tĩnh nhắc lại lời mình.
- Xin lỗi bác có phải là thợ làm đá?
- Tôi làm từ những ngày đầu có mỏ Quỳ Châu.
Lão chủ nhà dường như đã hiểu đối tượng là dân đào đá bất trị nên không hỏi thêm, mà phần công chế tác viên hàng đã là quá tươm rồi.
Một viên ngọc rubi được chế tác theo một tác phẩm của ư đã được hoàn thiện, gã bỏ kính đặt viên hàng lên chiếc khay thủy tinh bật đèn soi, một ánh sáng diệu kỳ từ bao giác cạnh tán xạ phát sáng long lanh, cả chiếc khay như được nhuốm thành một màu phơn phớt đỏ, long lanh chuyển động theo những góc sáng ánh đèn.
- Suốt cả đời gia công, đây là viên hàng đẹp nhất mà tôi gặp. Nếu có nhu cầu, ông cứ báo tôi xin đáp ứng.
- Hắn cho gã địa chỉ, đút hàng vào túi lững thững trở về trước sự nuối tiếc của cửa hàng.
Năm ngày sau người ta trả hắn viên hàng giá hai tỷ.
Còn lâu mới tới giá bán, gã quả quyết nói với gã buôn đá.
Thời gian cứ ánh lên trong gia đình họ niềm hy vọng. Mọi dự định dường như đã được lấp đầy, người ta tự tin mà nhìn thẳng vào cõi sống. Thằng Hải và người yêu cứ chạy đi chạy lại làm cho không khí gia đình dường như khác lạ.
Vào một buổi sáng theo thường lệ, hắn xách túi lững thững ra bến xe lên thành phố. Chiều hôm trước, chủ cửa hàng buôn đá cho người về gặp hắn hẹn nhau ngày mai bàn tính về một ông khách xộp nước ngoài. Trong lòng hắn lâng lâng nhẹ nhơm, những con số cứ hiện lên rồi mất đi chập chờn trong suy nghĩ, để đến một con số mà hắn cho đó là vừa phải không bị bọn buôn bán bóp nặn và hắn cảm thấy hài lòng về niềm tin ấy. Một niềm vui nhẹ nhơm như dắt hắn vào thành phố, hắn lững thững thả bộ về phía hàng Bông.
Gã chủ cửa hàng vồn vã vồ lấy hắn như bắt được của - Bác cả đây rồi - Tôi cứ chờ từ sáng, thôi chúng ta vào việc ngay! Thế bác có mang viên hàng lên không?
- Tôi chẳng mang theo! Viên hàng thì tự tay bác làm chắc bác thật rơ về nó! Anh em mình cứ ngã giá cho phải rồi ta bàn đến chuyện hàng có sao!
- Thôi cũng được, anh em mình làm việc. - Hắn với cốc nước đon đả mời lão Hải - chỗ anh em buôn bán thật lòng. - Hắn ngừng xin lỗi với lấy điện thoại gọi cho ai đó:
- Hùng à lên rồi! - Chỗ anh em buôn bán thật lòng (gã nói tiếp) xin hỏi viên hàng bác định bao nhiêu?
- Tôi lấy về ba tỉ không bớt. - Hắn lạnh lùng trả lời.
- Thế còn nhà hàng? - Gã chủ hàng nhắc khéo.
- Cửa hàng ăn theo bên mua. - Gã trả lời dứt khoát.
- Coi như đã xong, tôi sẽ bàn kỹ với bọn Tây, sau đó điện cho bác cả! – Còn bây giờ anh em mình cụng ly cái đã, ăn mừng cho buổi kỳ ngộ này, hắn gọi với xuống nhà và một mâm cơm thịnh soạn được bưng lên bày trước bọn họ.
Khi hắn về tới nhà thì mặt trời đã lặn, những tia nắng nhạt nhoà nổi váng trên mặt ao. Con chó già chậm chạp chạy ra mừng chủ ngoài ngõ. Trên hiên, vợ con đang đợi hắn về.
- Ông nó ơi! Nhà hôm nay có ông khách Tây về xem hàng.
- Bà bảo sao? - Hắn ngạc nhiên hỏi vợ.
- Có cái anh gì buôn đá trên Hà Nội đưa một ông Tây về xem hàng, tôi chẳng biết giá cả ra làm sao, thằng Hải cho xem, họ ưng ý lắm! Ông đi vắng họ hẹn ngày mai quay lại. Một suy nghĩ chẳng lành thoáng qua trong mắt hắn:
- Hải! Tại sao không có ý tao mà mày lại làm như thế?
- Bố cứ yên tâm con cho họ xem qua rồi cất ngay, nó chạy về phía bàn thờ lấy trong bát hương cái lọ nhỏ đưa cho bố.
- Họ xem xong con cất liền, họ dùng đèn soi kỹ lắm, ông người Tây thích lắm thày ạ.
Hắn mở nút lọ đổ viên hàng lên tay, và không còn là linh cảm nữa, nỗi thất vọng như đè nặng lên tim hắn - Hắn từ từ ngồi bệt trên hè chết chìm trong đau khổ – Chị vợ hốt hoảng lay vai hắn.
- Ông làm sao thế?
- Mất rồi! Mất hết rồi mẹ nó ạ!
- Ông bảo sao?
- Nó tráo mất viên đá của nhà mình rồi.
- Mặt thằng Hải cắt không còn hột máu.
- Sao lại thế được! Thày ơi thày xem lại đi! - Nó cầm bàn tay cha lay lay như sợ cha mình mê ngủ.
- Hải ơi mày hiểu sao được con! (Hắn xoè bàn tay về phía nó giọng run run đau khổ) - Hai viên giống hệt nhau, viên thật thì nó lấy còn hàng giả nó để lại cho mày (lão gầm lên trong phẫn uất vùng dậy ném mạnh viên hàng xuống mặt ao).
Chỉ còn sự yên lặng đến ghê sợ trong gia đình hắn và nỗi yên ắng trong chiều. Cảnh vật dường như nổi bềnh lên trong cô liêu, tất cả lại vẫn thế, niềm hi vọng trả lại cho họ buổi ban đầu, vẫn nếp nhà tranh xơ xác được đặt bên bờ ao lở lói đầy váng bẩn. Cái vại nước sứt miệng đặt bên cửa bếp toang hoang. Con chó đói nằm đầu hè ghếch đầu lên mảnh bát vỡ. Vạn vật tất cả dường như có chỗ của nó, một bóng tối mon men đang xoá dần đi tất cả những đau đớn trong gia đình họ. Lặng lẹ ngoảnh lại! Mẹ thằng Hải đang nhìn hắn đầy chua xót, bốn mắt họ nhìn nhau trong cái quầng sáng nhờ nhờ chạng vạng cuối chiều. Tất cả đều không đến như tất cả đã ra đi bỏ mặc họ như buổi ban đầu trong âm thầm sự sống. Ánh mắt họ như nương tựa vào nhau trong bóng chiều khơi dậy. Một sự lặng lẽ như bóng đêm trải dài toả rộng, nếp nhà tranh nghèo đói như tan biến đâu đây, chỉ còn lại tiếng con chó già cằn nhằn sủa bóng, nghe âm vang gờn gợn trong chiều. 

  Ngày 7-1-2003
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.02.2009 10:16:19 bởi vuthi >
#1
    vuthi 27.02.2009 00:13:11 (permalink)
    NGƯỜI CHĂN CHIM


    Lão bàng hoàng đứng trước cái chậu cảnh tàn tạ nằm ở góc khuất cuối sân, cái chậu hoa rêu bám mốc meo, xin xỉn cái thứ màu xanh cổ đại. Trong chậu một thứ cây cảnh sù sì khẳng khiu có lẽ chả ai đoán định được đó là loài gì đang cố lay lắt mà sống, nó chỉ còn vài cái lá già lắm, nửa muốn rụng, nửa như cố gắng bám mà sống leo lắt trong cái thứ không gian thời gian lặng ngắt như vầy. Dù có cố đoán nó là loài thực vật gì... có lẽ cũng xin chịu. Vì nó già quá, cũ quá như chính cái góc sân gác hai nhơ nhớp, hoang tàn. Có lẽ chỉ có lão là biết đó là loài thực vật gì có tên tuổi đàng hoàng chứ không như chúng ta đang nghĩ. Nó vẫn sống... cứ nhìn mấy cái lá là đủ thấy... nó còn đang thở... Mà có lẽ nó đang cố thi gan cùng lão già xem ai sẽ là người tắt trước. Trên khoảng sân gác hai rách nát này đã từ lâu lắm chỉ còn tồn tại ba vật thể sống. Cứ kể hắn là một vật thể sống thứ nhất, ở góc sân sát cửa buồng là một cây đa lớn xoè tán xanh um, đó là vật sống thứ hai. Cây đa cũng già cỗi như lão như nó sù sì khoẻ khoắn siết bao, nó như một gã khổng lồ tham lam phè phỡn vươn lên, bỏ lại vạn vật muốn ra sao cũng mặc. Đã từ lâu lắm rồi, cảnh nhà lão như thế. Sự cô quạnh dường như được cô lại sền sệt như vật thể hữu hình và đời lão chìm nghỉm trong đó... người nhà cứ thưa dần đi rồi chỉ còn mình lão. Chuột bọ cũng chẳng thèm đếm xỉa đến nơi đây vì cái lẽ không còn gì mà kiếm chác, tất cả bỏ rơi lại lão như con ma tươi vất vưởng sống trong khung cảnh rã rời. Cứ hàng năm mùa cây đa có trái, chim chóc mò về kiếm mồi, trong lòng lão lại mừng như ngày hội, chúng nhảy nhót kén chọn từng trái đa chín xơi cho thoả thích rồi ríu rít bay đi, để lại cho lão trên nền sân lổn nhổn những trái đa chén dở... Nhưng lòng lão như ấm lại... đã có thời căn nhà này cũng như thế... trong căn buồng khách, chậu cây cảnh kia mềm mại xanh biếc lộc chồi hoà trong tiếng nói cười đầm ấm... rồi tất cả tan đi như cục vôi rã rời trong nước, mặc cho lòng lão sôi lên buồn thảm, sự chống rỗng, nỗi cô đơn... Trong phòng chỉ còn lão và cái chậu cảnh cuối mùa, từng chiếc lá cứ lặng tờ rơi trên nền nhà, đến một hôm trên cành chỉ còn sót lại một cánh lá... một cánh lá cuối cùng trong mùa thu năm ấy. Lão lặng lẽ khệ nệ bê cái chậu cây để khuất tận góc sân, cũng có thể lão không muốn nhìn thấy gì nữa... Không muốn nhìn thấy tất cả... Cả cõi đời, cả căn nhà, cây đa và cái chậu cảnh... lão như thấy tiếng cười nói đầm ấm còn phảng phất giữa vòm cây đa, còn thấm trong lòng chậu cảnh. Dĩ vãng là vạn vật của ngày hôm qua đang hiện diện trước mắt ta ngày hôm nay và cả bao chuyện đã biến đi chẳng còn hình hài nhưng vẫn để lại dáng dấp nỗi niềm trong lòng người ở lại.
    Đã từ lâu lắm, hôm nay lão đi về góc sân ngó nhìn chậu cảnh, gốc cây xương cá sù sì vẫn âm thầm sống, nó chỉ còn vài chiếc lá xanh thẫm như nén lại cả cái màu xanh của không gian thời gian. Chợt lão lặng người... một ổ chim nhỏ bé nằm lọt thỏm giữa hai chạc cành. Hai cái đầu non nớt há mỏ vươn lên khỏi ổ... hai cái mỏ bé nhỏ cứ vươn lên như hớp vào không gian, như đòi gọi chim mẹ mau trở về mớm mồi cho chúng. Ông lão cứ đứng lặng như thế không biết bao lâu nữa, cái ổ chim, những cái mỏ như thôi miên ông đứng lặng không hồn... Chợt ông lão như người tỉnh mộng: Mình cứ đứng đây, chim mẹ có mà dám về... - Ông lẩm nhẩm tự nói với mình. Rón rén ông đi giật lùi, mắt không rời khỏi chậu cây. Ông ngồi phệt xuống hè và cứ thế âm thầm theo dõi. Có những lúc tận đáy sâu của nỗi cô đơn lại bừng lên ánh lửa. Sự hồi hộp đợi chờ, niềm hy vọng lại ánh lên với bao niềm xao xuyến. Trong nhà ông hôm nay có khách. Những vị khách nhỏ nhoi không mời, nhưng lòng ông ấm lại. Ông chia sẻ sự mong mỏi cùng hai chú chim non.
    Không gian buổi chiều tĩnh lặng. Cái nắng vơi vớt run rẩy trên vòm lá đa một bóng tối mờ ảo như tràn ra từ ô cửa sổ. Ông lão như sực tỉnh: Loài chim nuôi con thoắt đi thoắt về... mà nay đã ba bốn tiếng - Ông tặc lưỡi: Phải cho hai vị khách chén gì cái đã - Nhẩm nghĩ: Trong nhà chỉ còn nửa bìa đậu ăn tối... Thôi cứ thử cho chúng ăn xem sao.
    Ông với sang góc hè, hai cái nồi đen đủi méo mó đặt trên kiềng bếp, có lẽ đây là bộ đồ bếp duy nhất vừa là chạn vừa là bát vừa là nơi ủ ấp đói no cho một đời người. Ông với nồi cơm nguội dành ăn chiều, mở nắp, tay run run cầm đĩa đậu ăn dở. Tay véo một mảnh... Ông chợt nghĩ: “Cứ như thế này thì chúng chết nghẹn”. Một thoáng suy nghĩ: “Cứ thử bón ăn như lũ nhỏ nhà mình lúc xưa xem sao”. Ông đưa miếng đậu vào miệng dần cho nhỏ dập rồi nhả vào lòng bàn tay, đến bên tổ chim... Hai cái mỏ buồn bã, vô vọng cứ hớp vào không trung như lời hú gọi. Hai ngón tay run run, ông véo tí bột đậu... Không được rồi. To quá! Chút bột trên đầu ngón tay ông dù cố đến đâu vẫn là quá to so với hai cái mỏ chim nhỏ xíu. Ông đờ đẫn vì thất vọng và suy nghĩ... Chợt ông tặc lưỡi: Có lẽ là được. - Chạy đến bàn nước, với ống tăm, ông rút que tăm sều từng tí bột đậu, tay run run nhỏ từng giọt bột sền sệt vào hai cái mỏ non nớt đầy đói khát. Chúng như hớp lấy sự sống từ cái đầu tăm nhỏ bé. Cổ chúng cứ nghển lên như bấu víu lấy ông trong bóng chiều đổ sập. Những mảnh ánh sáng vụn vỡ cuối cùng như tan biến vào đêm, không gian cuối chiều lặng lặng trải dài như vô tận, có những lúc hạnh phúc ánh lên nhỏ bé chỉ bằng cái đầu tăm, nhưng nó đã thổi lên trong lòng ta biết bao là hy vọng. Nó dắt cõi đời đi qua từng thời khắc quạnh hiu. Xoa dịu trong ta nỗi đói khát tột cùng vô vọng. Bài ca ấy lại cất lên chiều nay, tại cái góc sân tăm tối kia, có lẽ chỉ có cây xương cá và gốc đa nhận thấy. Nó như nói với ông: Chúng tôi chưa già đâu, vẫn làm nên khối chuyện hỡi ông chủ! - Một niềm vui kỳ lạ đang sống dậy trong ông như mầm đa đang cựa mình thức dậy. Lợt gió hồ đang mày mò trong vòm lá, tiếng xào xạc, nhè nhẹ khúc ru ca.
    Ông lặng lẽ vào nhà thắp cây nến, nhìn cái bóng đeo đẳng như nhà vắng thêm người. Ông luôn có cảm giác như thế... nỗi cô đơn nhiều lúc qua đi. Hôm nay, ông thấy vui hơn, trong căn nhà ông, sự sống lại trở về đâu đó... Dù rất mong manh nhưng nó lại trở về. Phải lo xong việc cái đã, mọi sự tính sau - Ông nhẩm nghĩ như thế. Lẳng lặng ra đầu hè với cái nón. Ông nhè nhẹ đậy lên cây xương cá. Có lẽ không ổn. Lấy chiếc áo lao động, ông khoác quanh chậu cây. Hai chú chim ngủ ngoẹo đầu quấn lấy nhau chập chờn trong ánh nến.
    Ông lặng lẽ trở về với bữa cơm chiều đạm bạc.
    Cả đêm ông mất ngủ, tuổi già nhiều khi như thế cứ lọ mọ với bao điều suy nghĩ vẩn vơ. Lúc lúc, ông lại mò ra quan sát ổ chim xem may ra mẹ nó lại về... Tiếp thêm cây nến phòng lũ chuột vãng lai hại chúng, rồi ông lại nằm... Ngày mai cho chúng ăn gì? Chẳng lẽ lại đậu! Phải làm sao cho tiện được cả mình lẫn hai chú chim. Người già sống qua thời bao cấp là vậy. Có lẽ ai ai cũng thế, lúc nào cũng có cảm giác đói khát và thèm muốn mọi thứ, nên vạn sự cứ phải lo toan. Mà giống đời càng lo toan thì lại càng nhỏ bé. Cứ luẩn quẩn với bát cơm manh áo rồi hết đời lúc nào chẳng hay. Đó là một cái thời kỳ lạ, tất cả cùng đói, cùng giành giật, vật lộn với nhau mà kiếm sống. Người nọ nghi hoặc người kia, nhà nọ nhòm ngó nhà kia mà tranh đấu. Ăn cũng phải giấu, mặc cũng phải lén, tranh nhau từng chỗ đứng trong đời. Mà kỳ lạ, tất cả đều như nhau, cùng nghèo, cùng đói thì mới chết! Tư sản và địa chủ đã chết ngỏm, của cải đã được chia bội... Cả cõi đời là của chúng ta sao vẫn phải giằng co, tranh đấu? Nỗi đói khát và lo sợ như một lớp bồ hóng bám trong hồn con người... Không thể khác được, cứ phải lo, lo cho ngày mai và chỉ ngày mai thôi cái đã và cứ thế từng chặng ngày mai ngăn ngắn đã nối thành đời lão ngày hôm nay. Lão gục ngã trong tuổi già cơ khổ. Cái nghèo đã đánh dạt lão ra bên lề cõi sống. Thời bao cấp rồi cũng qua nhưng nỗi khổ dường như tinh xảo hơn! Không gian, thời gian không còn là của lão nữa, lão là sự vướng víu cho hôm nay và ngày mai sự đời... Lão hiểu thế và lặng lẽ cô đơn ngắm nghía cõi sống. Cứ đứng bên ngoài mà thấm thía mọi sự trôi qua mà nghĩ ngợi, sự tàn khốc cứ lớn lên qua tháng qua năm, nỗi khổ nọ đè lên nỗi khổ kia mà vật lộn.
    Lão lại về không như đêm nay, cô đơn trong căn phòng lạnh lẽo. Ngọn nến bập bùng leo lét hắt lên tường cái bóng nghiêng ngả xiêu vẹo đời người, nó nhún nhảy bồng bềnh như hồn ma từ cõi âm về báng nhạo trước đời người đang sống. Kể cũng hay, nó như thân xác tách ra để cho linh hồn ngắm nghía và có lẽ chợt lúc nào đó trong đời người ta thấy mình – thấy kiếp người tạm bợ đến làm sao... ngọn nến cứ lụi dần rồi tan biến vào đêm.
    *
    *     *
    Khi những tiếng trái đa rơi trên sân, ông lão đã biết một ngày mới lại tới, loài chim chóc bao giờ sự sống cũng mãnh liệt hơn loài người. Trên vòm đa lại nhẹ nhàng rung lên những thanh âm buổi sáng. Ông lão lật đật trở dậy với công việc hàng ngày. Trong chậu cây, hai chú chim non đang há miệng chờ ăn và cái công việc mớm mồi cho chúng chẳng còn là khó khăn nữa. Cứ lúc lúc ông lão lại ngước lên vòm đa tìm chim mẹ có trở về đâu đó.
    Ngày hôm nay nhiều việc lắm đây - Ông nhẩm nghĩ trong đầu – Phải đi vay tiền mua hàng. Cứ nghĩ đến mà ái ngại. Vay thằng con giai thì ông còn dám... chứ vay người khác thì cũng xin chừa. Kẻ khó là sự bận bịu cho cõi sống, họ như những bóng ma vất vưởng trên đời, chẳng còn sức lực và thời gian để mà bứt phá, mà bật lên nữa. Cứ vừa đi trên phố ông lão vừa nghĩ về cái khó ở đời. Hàng tháng năm trăm nghìn thằng con trợ cấp chỉ đủ đóng tiền điện nước nên lão cứ phải còng lưng ra mà bào mà đục, bụi hít có lẽ đầy đến lưng lá phổi... nhưng vẫn phải làm thôi, làm để mà sống, mà chờ ngày tiến lên chủ nghĩa xã hội và dứt khoát ông sẽ được vào viện dưỡng lão, thoát khỏi mọi lo toan ở đời. Cứ ngẫm mà khổ... tuổi trẻ lo ăn cho cả nhà, nào cơm áo gạo tiền nhà cửa, khi về già con cái thoát ly thì lại lo cho chính cái thân mình. Ông lão thở dài... về cái món nợ thân xác, cỗ xe đời ông mòn mỏi lắm rồi. Lao phổi đến mấy lần mà vẫn qua khỏi. Ngẫm cũng lạ... đời cơ khổ sao lại sống dai dẳng thế, cứ vài lọ kháng sinh, dăm ba ngày thuốc uống là con bệnh cứ nhẹ dần rồi qua đi, cũng có thể giời để mắt mà thương cho kẻ khó... có lẽ là thế nên cõi sống vẫn còn đầy dẫy những kiếp người như họ vất vưởng trên đời và có thể họ sống để mà chờ cái ngày nước nhà mọc lên cái nhà dưỡng lão mà tế bần cho đồng loại.
    Ông lão như người tỉnh ngủ, dừng chân trước cửa hàng bia hơi đầu phố. Cũng có thể thói quen là thế. Tuổi già một thân một mình buồn lắm. Cái không khí huyên náo ở đây như khuấy lên trong óc ông cái sự sống hỗn độn một thời, nhưng hôm nay thì không phải, ông lão ngó vào quán tìm cô bé bán kẹo cao su. Ông quen nó đến cả tháng nay. Con bé trông đến ngộ, nó gầy quá, mảnh khảnh đến nỗi nhiều khi ông nghĩ: “Liệu con bé có sống nổi qua mùa đông này không”. Con bé độ lên năm lên sáu, mà cũng thật khó đoán, nỗi nghèo khó nhiều khi làm cho đời người biến dạng, nhưng trong đôi mắt nó vẫn ánh lên cái vẻ đẹp ngây thơ ngồ ngộ thật khó quên. Nó lớn hơn cháu gái lão một tí và có thể nỗi nhớ nhung cháu đã khơi dậy trong ông lão tình cảm ấy.
    Nó lặng lẽ đứng trước bàn, tay run run cầm hộp kẹo. Cửa hàng của nó bé tí tẹo, chỉ là một cái hộp giấy, to như cái hộp đựng phấn, vài phong kẹo cao su màu xanh màu đỏ đủ loại. “Ông ơi mua cho cháu phong kẹo...” – Ở tận đáy mắt nó như đốt lên ngọn lửa yếu ớt của lời cầu khấn nài xin, người ta chưa thấy được thì nó cứ tần ngần đứng đó. Nó đứng như một sự bỡn cợt cõi đời này, như muốn nói với ông lão: “Ông ơi đừng uống nữa, hãy nhìn đi...”, và ông lão thấy nó, một vại bia giá sáu nghìn, một phong kẹo giá năm nghìn, một bên uống cho say để mà quên đi tất cả và một bên bán kẹo để sống mà đi qua cõi đời này. Trong đầu ông lão chợt loé lên cái dáng dấp hình hài của một thời mê muội, một sự bắt đầu đang quằn quại mọc lên bên một sự lụi tàn đang tìm về cát bụi, có những lúc sự sống bắt linh hồn ta nhìn lại tất cả... Đứa cháu ông no đủ chẳng cần biết đến ai ngoài sở thích chính mình và ở đây con bé kia đang cầu xin tất cả... bao bộ mặt đỏ gay nâng vại lên, đặt vại xuống cứ như thế hai lần một cốc, không khí quán xá hừng hực cựa mình, nó cứ sôi lên trong buổi chiều lặng gió. Người đi kẻ đến cứ nườm nượp sóng cồn và đời con bé như lọt thỏm trong đại dương của cõi đời cuồng nhiệt. Nó cứ đứng đó âm thầm nài nỉ... “Lại gần đây cô bé, ông cho cháu năm nghìn ăn quà”. Nó lặng lẽ lắc đầu. “Cứ lấy đi cháu... ông tặng cháu cơ mà”. “Con bé này buồn cười lắm bác ạ! Mọi người cho, nó chẳng lấy của ai” – Cô nhân viên nhí nhảnh giới thiệu đôi lời về tính nết kỳ lạ của con bé. “Vậy thì ông có lời đề nghị thế này, ông muốn mua một trăm nghìn tiền kẹo của cháu...”. Mắt con bé sáng lên đầy hy vọng. “Nhà ông đông người lắm... mà mua ngay thì không đủ tiền, nếu ông cứ đặt trước cháu mỗi ngày năm nghìn, đến khi đủ một trăm nghìn thì ông lấy kẹo... và bắt đầu từ ngày mai, ngày nào cháu cũng qua cho ông trả tiền kẹo”. Ông đặt vào tay nó tờ năm nghìn như trao cho nó cả tấm lòng cơ khổ... Và từ hôm đó ông lão và cô bé như đôi bạn.
    Rõ lẩn thẩn! Ông lão quay đầu. Có nhiều khi người ta đi về trong không tưởng. Con đường phải đến rất ngắn thôi, nhưng nhiều khi trải dài là thế, người ta phải đi trọn một kiếp người để đến một mảnh đất hai mét vuông và nằm xuống... hai mét vuông luôn luôn nằm ở trước cuộc đời mà ta vẫn phải đi vòng vo để mà về đến đó, sự kỳ quái xưa nay là thế và vạn sự vẫn vậy, nó như kim đồng hồ nhúc nhắc quay, như bước chân người lặng tờ vô định, ta đi đâu trên đoạn đường kia. Có lẽ mọi toan tính của người già là như thế. Thời gian của họ như ngắn lại, mạch lạc hơn và đầy suy ngẫm, nhưng suy ngẫm cũng chỉ thế thôi, nó như bộ xương cá gỡ hết thịt chỉ còn trơ bộ gọng... Ngẩn ngơ như một đài tưởng niệm trên đời, và người già đối diện nhìn thẳng xuống đất, nơi dưới bàn chân mình, cái nơi kết thúc của vạn sự đời người.
    Kẻ đi vay xưa nay là người mắc nợ, người mắc nợ là kẻ đi vay. Dù ngược hay xuôi vẫn chi chi là thế. Có một thứ vô hình luôn luôn bồng bềnh trôi nổi trước cõi sống, nó như một tảng băng hà luôn luôn hù doạ mà nhấn chìm tất cả, có lẽ đó là sự đói khát, đói khát tất cả mọi thứ từ linh hồn đến thể xác, nỗi đói khát không chừa một ai, từ người lớn đến trẻ nhỏ cũng vậy, tất tật đều như nhau, cùng thèm khát mọi thứ trên đời, người ta vật vã tranh giành mà kiếm sống. Sự thèm muốn no đủ như tranh vẽ treo tường, nó giống như câu khẩu hiệu cứ treo lên lại bạc màu rồi năm sau người ta lại dựng lên cái mới: “Tất cả vì tương lai con em chúng ta”. Nó chẳng khác chi câu nam mô a di đà phật. Cả loài người cứ tưởng niệm mà có thấm gì đâu, cả nước Nam này sống bằng khẩu hiệu và bao thứ băng-giôn lảm nhảm không làm mà cứ nói. Già hơn nói phét là lừa đảo và cứ thế chúng ta là người An Nam. Thân xác là cái bình chứa đựng vật chất và tinh thần, vật chất là hữu hình nuôi thân xác, tinh thần là vô hình nuôi linh hồn. Tất cả dường như đang chứa đựng trong đôi mắt kia - đôi mắt to tròn, mơ hồ khát thèm sự sống, nó cứ hiện lên lung linh trong đầu ông lão. “Tí nữa quay về phải ngồi làm một cốc” - Ông lão nghĩ thế rồi lặng lẽ quay đi.
    “Có việc gì thế bố?”. “Ông đã đỡ chưa? Con Cún nó cứ nhắc là ông đang ốm”. “Ổn cả rồi con ạ” - Một thoáng nghĩ trong đầu: “Ta phải làm như thế thì lũ trẻ mới tin ta còn làm được”. “Anh thấy tôi đi bộ một mạch từ nhà ra đây... Cửa hàng dạo này thế nào?” - Ông lão ngước nhìn bảy tầng lầu cao như cố tìm cho mình câu trả lời nào đó. “Bố tính, khách vắng như ma, toàn công an với phòng thuế, rồi lại nhân viên đánh nhau, chuyện gì cũng là tiền bố ạ... Lại sắp mùa đông, bố tính... liệu có trả đủ tiền thuê nhà không con cũng chưa rõ...”. Ông lão lặng lẽ ngồi xuống chiếc ghế mây đặt trước cửa hàng, hai dòng người nườm nượp trôi qua... những tiếng chào mời níu kéo khách vào hàng uống nước. Tiếng lõng bõng của những giọt trà đang trôi vào lòng chén, hai điếu thuốc trơ trọi trên đĩa, cái hộp diêm nửa khép nửa hở quẳng góc bàn. Ông lão thở dài ngao ngán. Ừ, đã cất công ra đến nơi thì cứ nói: “Bố có chút việc cần bàn với con... Câu chuyện là thế này, bố mới tìm mua được một cặp loa cũ nhưng còn tốt lắm, giá sáu triệu, khách hàng đồng ý mua lại gấp rưỡi mà bố kẹt mới chỉ lo được hai triệu, con cho bố vay một hai ngày, giao hàng cho khách xong bố hoàn trả”. Gương mặt con ông sa sầm và đanh lại: “Con phải nói luôn với bố, nếu bố ốm thì mấy triệu con cũng lo, còn về việc làm ăn thì bố phải tự lo, muốn sống mà làm việc thì bố phải có đầu tư”.
    Có những lúc con người ta cô đơn đến thế, múi chanh đã vắt hết nước rồi không còn đáng kể. Ông lão lặng lẽ nhìn đứa con mình - đứa con mà cả kiếp người ông đã sống để dựng xây nên nó ngày hôm nay rồi quá vãng... Sự sống cứ chồi lên mà xoa dấu đi tất cả biết bao điều cơ khổ. Họ không còn thấy ở dưới bùn kia, ở mãi sâu tận đáy vẫn có người đang sống. Đó là hai khung trời sống trong cùng một cõi, cái nọ không thừa nhận cái kia và họ cứ xa dần nhau trên cùng một con đường. Có lẽ ở đây thuyết tiến hoá đang mỉm cười nhìn họ. Loài người – thứ sản phẩm tột đỉnh mà tạo hoá sinh ra có những lúc phải âm thầm nhỏ lệ.
    Cho bác một cốc - Ông lão như tự nói với mình vì lúc này gần trưa khách hàng đông lắm. “Của bố đây” – Cô gái niềm nở đặt trước bàn một cốc bia tràn đầy, sủi bọt. Có lẽ vì ông là khách quen nên mọi người phục vụ ai cũng nhớ. “Cảm ơn cháu”... Rồi ông lại đắm trong suy nghĩ, ông như kẻ lạc lõng trong cả một đại dương tiếng người, vạn vật đang xô đẩy, lay chuyển về muôn hướng, nỗi cô đơn bỗng nhỏ bé đến làm sao! Không nơi nương tựa, chẳng người bấu víu... và có lẽ khi tuổi già ta mới nhìn thấy được. Lòng chợt nghĩ: “Ta là ai? Ta đang trôi về đâu?”. Ông ơi! – Cô bé bán kẹo tần ngần đứng trước bàn, tay khư khư ôm hộp kẹo. Nó chỉ gọi thế thôi rồi tần ngần lặng lẽ. Đôi mắt nó hiền khô nhìn ông, gương mặt nó lặng tờ như thấm được những nỗi đau trong lòng của một người xa lạ mà nó thường cảm mến. “Lại gần đây, ông đang nghèo nên mấy ngày chưa có tiền giả cháu". "Ông ốm hả?”. “Ừ, ông đang ốm”. “Ông có cần tiền không?” – Gương mặt nó quả quyết nhìn lên. Nó đang muốn làm việc gì đó mà nó cảm thấy phải thế... "Ông có cần chứ, ai mà chẳng thế, phải có tiền để sống". Nó sát lại gần ông hơn: “Cháu cho ông vay”... Mấy cô nhân viên nhìn nó cười ngặt nghẽo... nhưng nó chẳng cần biết. Ông già và nó như đang chìm vào tận đáy hồn nhau và họ lặng lẽ tìm đến nhau trong thấm đậm cô đơn cuộc đời. Nó lần tất cả mọi túi... những đồng tiền nhàu nát đặt lên bàn và nó bắt đầu đếm. Bàn tay nhỏ cáu bẩn lần giở từng đồng tiền nhàu nát cho phẳng lại: “Ông ơi, cháu có năm mươi nghìn, cháu cho ông vay”... Nó giúi vào tay ông chẳng đắn đo, với ánh nhìn tin cậy. Gương mặt nó xanh xao, những mạch máu non nớt thoáng gằn trên gò má. Ông lão cầm chặt tay nó như cố dồn xuống bao điều đang thổn thức... Một thoáng nghĩ trong lòng: “Cõi đời này còn chưa vắng... chưa vắng những kiếp người có tấm lòng hướng thiện”. Mọi người nhìn họ nhưng họ chẳng thấy ai. Thời gian như chậm lại, trùng xuống cho không gian ngừng trôi... Cái khoảnh khắc kỳ ảo trong cõi đời bỗng hiện lên bồng bềnh ánh hào quang tràn qua cõi sống. Ông lão ôm ghì nó vào lòng và những giọt nước mắt nóng bỏng trào trên gò má héo khô... Có những lúc kiếp người bỗng ngập đầy hạnh phúc, dù rất nhỏ bé thôi nhưng đó là hy vọng – hy vọng để cho người ta sống đến những ngày mai... những ngày mai nổi trôi có thể là vô định. Bài ca ấy không thể nào thiếu trong cõi đời này... cho từng thời khắc sống... nó như ngọn gió, hơi thở lan từ cuộc đời này sang bao cuộc đời khác, đốt nóng lên những bếp lửa đời người mà thời gian vùi dập dường như đang tắt nguội, tất cả chừng như lắng xuống, chìm đi trong suy nghĩ...
    “Ông đùa cháu đấy” – Lời ông lão như nghẹn lại: “Người lớn bao giờ cũng phải có tiền để sống. Hôm nay ông hoàn toàn khỏi ốm và lại đi uống bia bình thường... mà ông phải ra trả cháu tiền kẹo cơ mà... đã ba ngày cộng với ngày hôm nay là bốn, còn hai ngày nữa là đủ một trăm, hôm ấy ông sẽ lấy kẹo”. Mắt con bé tươi hẳn lên vì ngày mai vẫn đẹp như mọi ngày hằng sống.
    Định ra phố một lúc mà về đến nhà đã quá trưa. Ông lão như ân hận đến với lũ chim. “Tao đã về đây. Chắc đói mèm rồi còn gì” – Tay với con dao, ông dần mẩu thịt nạc cho giừ nhỏ xều cho chúng ăn. Hai cái mỏ non nớt cố vươn lên như lần tìm sự sống và niềm vui đâu đó đang len lỏi trong trái tim ông. Trưa hè vắng lặng, thỉnh thoảng chỉ còn những bước chân chim lần giở trên vòm đa còn thức. Trưa nay, trong căn nhà vắng lặng lòng ông thấy vui. Cây đa dường như xanh hơn và căn nhà dường như ấm lại. Ông lão có thứ để mà lo mà nhớ, một niềm vui le lói nhẹ nhàng khơi dậy... Ông lấy chiếc giỏ nhỏ, xưa là cái lẵng hoa của cháu, nhẹ nhàng đặt ổ chim vào đó. Ổ chim mới trông rõ xinh xắn. “Thôi nhé, ta cho các con về nhà mới” - Ông treo giỏ chim lên cành đa sà trước cửa buồng: “Có lẽ thế này... chẳng chuột bọ nào làm gì nổi”. Ông lặng lẽ ngồi đầu hè mà toan tính cho tương lai ngày mai của đôi chim nhỏ. Sự sống trong ông lại thức dậy với những lo toan hằng ngày, không còn đơn giản nữa... những bận bịu nho nhỏ như bao đường tơ nhện giăng lên mỏng manh trong đầu... nỗi cô đơn còn phảng phất đâu đây, trong căn nhà này, những đứa con ông đang trôi về đâu... khi hạnh phúc hiện lên, người ta hay tìm về quá khứ. Có lẽ cái miền gốc rễ ấy là hiện sinh ngày hôm nay cuộc đời. Cái giỏ chim nhỏ nhoi kia là một niềm hy vọng đưa ông về quá khứ. Sự nhạt nhẽo của ngày hôm nay như đè ông xuống nơi đây – trong căn nhà này ngập đầy vắng lặng. Chân lý ngày hôm qua đã chết. Xin mọi người hãy sống với hôm nay – Cũng có lẽ là vậy - Ông nghĩ thế – Tất cả đều vội vã sống và tích góp, cõi sống dường như muộn lắm rồi. Mọi người cứ phải chen lấn xô đẩy mà lên toa tầu ngày hôm nay kẻo lỡ. Họ bỏ mặc tất cả mà sấn tới một cái gì chẳng ai biết đó là thứ quỷ quái gì ở đời. Cũng có thể chân lý là vậy – Chân lý của hôm nay khác ngày hôm qua và quá vãng... Ông như kẻ lỡ tầu ngồi lại trên sân ga lạnh lẽo hay chăng chính đó là bài ca giành cho tuổi già - hãy ngồi đấy để mà làm cội rễ. Ông nhìn lên vòm đa xanh um... Không hiểu sao hôm nay vòm cây xanh thế. Cái màu xanh không muộn phiền trong cõi đời ảm đạm, những mặt người cứ hiện lên trong trái tim ông rồi lặng tắt trong bóng chiều lằng lặng.
    Ông ốm bê bết hai hôm... cái bệnh lao phổi luôn xung khắc với sự thay đổi thời tiết. Trong đêm, tiếng ho khan trầm mặc như tiếng gõ cửa nhà xác, cái tiếng ho rút ruột rút gan như tiếng gọi chính mình, cây nến trên bàn hờ hững toả sáng như nói với ông: “Không sao đâu... lão còn chưa chết”. Cũng có thể cây nến sinh ra là vậy... nó như hiện sinh một sự sống mà ta đang tồn tại và có lẽ đó là tất cả - ta còn chút nóng của trời và ta còn hy vọng. Để rồi một ngày mới lại sáng lên, những tia nắng nồng nàn ánh xanh lung linh trên vòm lá. Những người mắc bệnh phổi chỉ hồi lại khi tiết trời ấm áp, cơ thể họ như dựa hẳn vào trời. Mà cũng phải, các cụ xưa có câu: “Ba mươi biết đời và năm mươi biết trời” – nghĩ mà rõ phải. Trên bàn chỏng chơ mấy cái bát chứa trong lòng đểnh đoảng mấy thìa cháo nguội. Cây nến đêm qua đã tan biết chỉ còn một vũng nhoè nhoẹt góc bàn, mọi thứ chỉ còn thế cho một ngày đang lên. Ông lão lặng lẽ đến với lũ chim, những cái mỏ há hoác như lời chào buổi sáng. Ông vui lắm vì dường như lũ chim lớn lên từng ngày. Tay ông run run, khó khắn lắm mấy hạt cháo nguội mới lọt vào mỏ chúng. “Khổ thân chúng mày, từ hôm qua tinh những là cháo, người ăn cháo, chim ăn cháo” - Ông chép miệng xót xa cho thân phận chúng...
    Khoác áo ấm, ông lặng lẽ ra phố. Người già cứ phải cố mà vận động may chăng mới khoẻ... Đi lúc thấm mệt lại đứng nghỉ, rồi lại cố mà đi. Nó như cuộc thách đấu giữa linh hồn và thể xác. Cái nọ là động cơ cho cái kia bật dậy, chỉ có họ với họ trong đời. Họ thấm hiểu thời gian đã qua và hiện tại, tất cả dường như đang đối chọi nhau trong từng thời khắc, vẻ đẹp ngày hôm qua là nỗi xấu xí của ngày hôm nay và ngược lại. Có một thứ lôgíc quái đản cứ ngạo nghễ trên đời mà tạo thành chân lý. Nó chẳng phải quy luật của tạo hoá... Nó là một thứ quy luật của ngày hôm nay cõi sống... Nó quay tít như cỗ xe máy đang phóng trơn tuột trên đường, trâng tráo chẳng buồn nhìn ngó lại và có thể nó chỉ dừng khi đâm phải ai đó và chấm dứt... Có lẽ cõi đời là thế, quá khứ đã cũ - Ông đã cũ quá trong cõi đời này. Tất cả mọi thứ kinh điển đều đã cũ trong dòng thời gian thực tại. Chỉ có thực tại là đáng giá cho cõi đời lăn xả. Ông sống chẳng ai buồn thấy, ông nói chẳng ai buồn nghe và thế đấy hãy tự hiểu mà thu xếp...
    Ngày thu cứ chầm chậm trôi đi, lợt nắng non trải êm trên hàng phố. Ông lão cứ bồng bềnh trôi trên con phố thưa người, thỉnh thoảng tiếng động cơ xe máy xẹt qua như lay ông tỉnh lại. Ngẫm cũng lạ, nhiều khi tâm không định nhưng bàn chân lại dẫn họ đến và có lẽ đó là bài ca mù loà của thân xác dẫn dắt linh hồn họ đi... Ông lặng lẽ bước vào quán. Vẫn cái góc ấy, cái bàn này, ông mệt mỏi ngồi xuống và lặng lẽ... quán bia vắng tanh, có thể vì cái lạnh đầu mùa đã làm nêm như vậy. Mấy dãy bàn ghế ngay ngắn im phăng phắc như đài tưởng niệm... “Con chào bố” – Cô chủ nhỏ tươi cười như hiện lên trước bàn ông lão: “Cái Hải nó gửi kẹo trả bố đây”. Ngơ ngác ông còn chưa hiểu, cô gái trịnh trọng đặt trước bàn ông cái hôm bìa cát-tông quen thuộc mà hàng ngày ông thường thấy ở đây, trên bàn tay con bé. “Nó không đi bán kẹo nữa bố ạ. Trông con bé ốm lắm. Chiều qua nó rẽ lại đây nhờ con trả bố hộ nó một trăm nghìn tiền kẹo”. “Mình đã trả đủ tiền đâu” – Một thoáng nghĩ trong đầu, ông lão như bị thôi miên. Cái hộp cát-tông cáu bẩn mòn nhẵn vì mô hôi và thời gian bên trong còn đầy ắp những vỉ kẹo xanh đỏ các màu. Con bé đang ở đâu? Hộp kẹo còn nguyên vẹn thế này. Trời thì đang rét lắm. Hình ảnh nhỏ bé còm cõi vì đói rét chợt hiện lên trong đầu ông lão. Nó như thấm vào hồn ông cái bóng dáng nhỏ nhoi ấy, và vĩnh viễn ở lại đấy – trong linh hồn ông với mênh mông một nỗi buồn không tưởng. Ông như nhìn thấy nó co ro lạnh và đói khát ở một nơi nào đó trong trời, hay trên một toa tàu đằng đẵng trải dài về vô tận. Cách đây hai ngày nó có năm mươi nghìn và sẽ ra sao cho những ngày còn lại. Sự trống rỗng cứ khơi lên mà chùm lấp đi tất cả. Linh hồn ông như chìm trong nó, chẳng biết là bao lâu nữa... Cái trạng thái vô định cho đời người, vô định cho cõi đời, tất cả bỗng trở thành không tưởng. Sự vật lộn sinh ra để giành cho tất cả mọi sinh linh. Khi đã đến và sống trong cõi đời này đều phải thế... phải tranh đấu giành giật để mà sống. Có lẽ đó là chân lý ở đời trong một thời đang nguội. Đứa trẻ ý thức được sự tồn tại của mình và ông già cũng vậy. Chẳng cần ai bảo, họ tự tìm cho mình một chỗ đứng, dù nhỏ bé lắm chỉ bằng cái đầu kim chẳng hạn... nhưng đó là chỗ đứng. Ông cứ miên man trong suy nghĩ như thế, chẳng biết đã bao lâu, khi sực tỉnh vại bia trên bàn đã trở nên đắng ngắt. Bên ông vẫn cô chủ nhỏ lặng lẽ ngồi, có lẽ cô đang thấm nỗi buồn trong linh hồn ông. “Cháu tên gì?” - Ông hỏi cô gái. “Cháu là Tạ Thu Hằng, quê ở Thái Nguyên. Bố để con đổi vại mới” – Và cô lặng lẽ vút đi.
    Ông bâng khuâng rời khỏi quán như người mộng du. Cứ bồng bềnh như thế trên con đường ven hồ, cái rét đầu mùa sẽ lạnh, dãy phố mới trầm tư khép cửa như những pháo đài nín lặng hững hờ, chừng như tất cả đang chìm vào quên lãng và dứt khoát là thế... Trong cõi đời nay mấy ai để ý đến ai, họ đang chầy chật sống cho mình còn chưa đủ. Cái cảm giác thiếu mọi thứ luôn đeo đẳng gia đình họ. Căn nhà có thể rất đẹp và nhiều tầng đang cầm tù những kiếp người lúc nào cũng thấy mình là thiếu – thiếu, thiếu quá chẳng bao giờ là đủ, đó là một cõi sống chẳng còn sự cân bằng cán cân, cái hữu hình luôn đè nặng lên cõi sống và nhấn chìm tất cả.
    Rồi ông cũng về đến nơi – căn nhà của mình. Những bậc cầu thang lát sỏi, cây đa sừng sững như người bạn đứng đợi ông trở về. Mọi thứ dường như đang đổi khác đi – dứt khoát là thế. Trong giỏ, hai chú chim non nghển cổ, mỏ há hoác đang đợi ông về. Để hộp kẹo đầu giường, ông vội vã lo cho chúng ăn... Lũ chim như bén hơi người cứ nháo nhác tìm ông đòi che chở. Có những lúc con người và loài vật hoà đồng với nhau chẳng còn khoảng cách, loài nọ dựa vào loài kia mà sống. Thế giới đại đồng của nhà Phật đang thu nhỏ ở nơi đây – dưới vòm đa và mảnh sân lở lói này...
    Ông chìm trong giấc ngủ – một giấc ngủ mà tiềm thức còn đang sống, tất cả như đang sống dậy từ ngôi mồ năm tháng. Những gương mặt thân thương, bao trầy trật đời người, nỗi mất mát, sự mỏi mòn mong đợi. Cả dĩ vãng như đè ông xuống, lôi ông đi – lôi ông ra khỏi cõi đời này muôn thuở. Ông bàng hoàng tỉnh dậy, tiếng cháu gọi ông “Mình ơi!” – Hai ông cháu xưa nay vẫn thế, đôi tay nhỏ bé vuốt trên chán ông bê bết mồ hôi. “Mình ơi! Người ông ướt sũng. Ông khỏi chưa?”. “Dứt khoát là ông khỏi rồi con ạ!” - Ông ôm chặt nó vào lòng và thế là hạnh phúc. “Có người gửi tặng con thứ này đây” - Ông chậm rãi giở hộp kẹo. Mắt con bé to tròn sáng lên vì vui thích. “Ông cho con chọn một vỉ”. “Của con tất” – Con bé sung sướng phụng phịu đòi. “Phải để giành, người ta dặn ông thế” - Ông lão lặng lẽ quay đi che giấu một nỗi buồn khơi dậy: “Con phải ngoan, còn một món quà nữa, nhưng phải hứa là không được đòi vì con nghịch thì nó không chơi với con nữa”. Mắt con bé ngơ ngác vì sung sướng. “Ông hỏi con, ai đưa con về với ông?”. “Bố đón con về”. “Thế bố đâu?”. “Bố ra cửa hàng rồi ông ạ! Ông mình ơi! Còn quà nữa cho con đâu?”. Vòng tay nhỏ ôm lấy cổ ông trìu mến: “À này ông mình hỏi cún, con quân ai?”. “Con quân ông mình”. “Thế thì được” - Ông dắt nó ra đầu hè nhẹ nhàng đặt chiếc giỏ xuống bên hè. Trong giỏ hai chú chim cổ nghển cao như chào mời, đón đợi. Mắt con bé sáng lên vì thích thú. Nó cứ ngồi như thế chẳng biết bao lâu nữa. Hai chú chim trong giỏ như thôi miên nó, từng động thái nhỏ yếu ớt như gửi gắm trong tấm lòng thơ ngây. Cứ lúc lúc nó lại gọi ông cho chim ăn và cứ thế cả ngày hai ông cháu quây quần bên tổ hai chú chim. Có những lúc người già như thấm đượm vẻ đẹp thuần khiết trẻ thơ mà họ không còn nữa, nó như vực ta lên trong bao tháng ngày còn lại. Những đôi mắt, tấm lòng tràn ngập yêu thương và nhân ái, nó óng như tia sáng trong trời sưởi nóng lên những nỗi niềm đau khổ.
    Mùa đông bình minh như dậy muộn, những lạt sương còn đóng váng trên vòm cây kẽ lá, thiên nhiên như chìm xuống tĩnh lặng vô cùng nhưng sự sống vẫn khẽ khàng thức dậy. Dường như cõi sống đang nửa tỉnh nửa mơ. Xa xa, Hồ Tây nhạt nhoà trong sương sáng, chỉ có tiếng sóng nhẹ lắm mơ hồ vọng lại. Sự sống xưa nay có lẽ là thế, thật mơ hồ mà tồn tại, nhiều khi ta chợt thấy như mất như còn. Song buổi sáng vẫn là buổi sáng. Ông lão vẫn dậy khi bình mình còn chưa thức, người già đón đợi một ngày mới như vậy – với những âm ba khởi nguồn còn chưa thấy. Họ ý thức se sắt cho từng ngày, cũng có thể họ nhìn thấy nó... thời gian như cái thước căng ra cho một thời và dài ngắn cho đời người được sống. Ông lão đến bên ổ chim, hai chú chim đậu trên vành giỏ, nó nhận biết được chủ của mình, hai cái đầu nhú mào nghiêng ngó như đòi hỏi vòi vĩnh. Nó lớn rõ nhanh, đôi cánh non nớt đã nâng được nó loanh quanh trên mảnh sân. Suốt ngày nó luẩn quẩn bên ông chẳng dời một khắc. Cứ lúc lúc lại ăn nên ông lão luôn bận bịu với niềm hạnh phúc nhỏ nhoi mà thiên nhiên ban tặng. Cứ từng mẩu thịt nhỏ trên đầu tăm là chúng sà lên tay ông mà đánh chén. Thời gian cứ nhẹ nhõm trôi đi mang theo từng ngày sống. Đêm đêm ông mong về ngày mới – một ngày mới ở đó ông tìm được niềm vui mà thiên nhiên trao tặng. Mọi nỗi cô đơn như tìm đến với nhau mà chia sẻ gánh chịu.
    Rồi một sáng tinh mơ khi những tiếng vỗ cánh nô đùa trên vòm đa lay ông tỉnh giấc. Không phải mùa có trái nhưng lũ chim xưa nay vẫn thế, chúng trở lại với vòm cây xanh um nơi đã giành cho chúng những mùa sai trĩu quả, ông bật dậy khỏi giường, đứng trên hè lặng lẽ ngắm nhìn đàn chim đang giỡn đùa trên vòm cây xanh biếc. Những chú chào mào đuôi sè như chẻ quạt ánh sắc đen đỏ mượt mà, có những con sa xuống bàn nước ngơ ngác nhìn ông rồi lại vút bay đi. Hai chú chim non như hoà tan trong vẻ đẹp lộng lẫy ấy, lúc ẩn lúc hiện, khi sà xuống vành ổ rồi vội vã bay đi. Chúng nô giỡn đến quên cả ăn, chúng vui cho thoả thích. Trên vòm đa những thanh âm cất lên như bản hoà tấu kỳ lạ có lẽ không mấy ai ở đời thấy mà nghe được. Ông lão cứ đứng đó ngây ngất mà hoà đồng trong thiên nhiên buổi sáng, tới gần trưa đàn chim như cơn lốc vỗ cánh bay đi, trên sân không có những trái đa rụng, chỉ có ông nhìn theo với vô vàn nỗi nhớ. Hai chú chim nhỏ cuốn hút theo đàn. Qua trưa rồi chiều, ông lão cứ lặng lẽ chờ đợi, những mảnh thịt trong tách nhỏ treo ở rìa ổ, kiến leo đến tha đi, ông lão lặng lẽ thay mồi mới. “Chúng còn nhỏ quá, liệu có kiếm được mà ăn” – Ông lão cứ day dứt như vậy. Đêm đến ông nằm mơ về nó, sáng sáng ông nhìn ngó đợi chờ, cái giỏ chim bâng khuâng như niềm hy vọng, vòm đa xanh ngắt như nỗi đợi chờ, tháng năm thì vẫn vậy nhưng ở trong nó chứa chất biết bao nhiêu hy vọng và khổ đau nhưng vĩnh viễn người ta vẫn đợi chờ và hy vọng. Vòm đa chừng như xanh hơn, hứa hẹn một mùa ra trái, chiếc ổ chim vẫn treo ở đầu hè. Cây xương cá thức dậy những lộc non. Ông khệ nệ bê chậu cây đặt ở giữa phòng nơi ngày xưa cả nhà cùng ngắm. Một ngày mới lại bắt đầu với những tia nắng non vời vợi.

    Sinh nhật 23-12-2008
     
    [font=.vntime] 
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.02.2009 00:16:02 bởi vuthi >
    #2
      vuthi 01.03.2009 16:34:56 (permalink)
      VẾT RĂNG CẮN
       
      Tặng em Nguyễn Chiến Thắng


      Xe tôi lướt trên đường phố như bị ma đuổi, đằng sau là người bạn gái ôm đứa con nhỏ độ bốn, năm tuổi đang vùng vẫy thét gào. Chị phải ôm ghì nó vào ngực tỳ chặt nó vào lưng tôi, hai tay chị nắm lấy hai cổ tay nó cho đứa trẻ khỏi vùng vẫy cấu cào. Phố hàng Bột đông nghẹt người qua lại, tôi cứ phải luồn lách phi đến thục mạng. Cái tiếng khóc nhỏ nhoi, khàn khàn vì la hét vùng vẫy cứ ngoằn ngoèo trải dài trên đường phố.
      Không đi đằng này – nó cứ vùng vẫy và gào lên như thế.
      Được rồi không đi đằng này, anh rẽ đi – chị bảo tôi.
      Mẹ nó cố dụ dỗ bằng cách rẽ đi lối khác mà nó không biết, nhưng nó vẫn hiểu là mọi con đường đều đưa nó đến bà ngoại, mà ở đấy thì nó thấy buồn chán biết nhường nào. Ở nhà ngoại không có mẹ, chỉ có mình bà và bao thứ đồ đạc nhếch nhác, hôi hám đến buồn tẻ. Nó cứ phải ngồi trên chiếc giường duy nhất trong căn buồng tối sẫm vì thiếu ánh sáng. Nó cứ phải ngồi như thế đã từ lâu lắm rồi, trên chiếc giường ấy. Mọi thứ trong trái tim nó dường như đã bị héo đi khi còn thơ dại, ở với bà, là ăn đúng bữa và ngồi một chỗ, chỉ được phép nghịch ngợm trong khuôn khổ manh chiếu mà thôi, bọn trẻ cùng lứa, chẳng có đứa nào, nên con bé cứ gầy còm đi trông thấy. Nỗi nhớ đang thiêu đốt trái tim nó từng giờ, từng khắc trong đời, tính tình con bé cứ dần dần trở lên bẳn gắt và hung hãn làm sao, nó sẵn sàng hỗn láo và hằn học với tất cả mọi người khi mới gặp, có thể vì sợ họ sẽ lại lôi mẹ đi xa nó. Cuộc đời nó chỉ có mẹ và nó yêu mẹ biết nhường nào. Bố chết từ khi nó còn chưa mở mắt, cả cuộc đời nó chỉ có mẹ và mẹ là tất cả những gì nó có trên đời. Nó có một anh, một chị, nhưng cả hai đều không mặn nồng với em, có lẽ vì nó chiếm nhiều tình cảm trong lòng mẹ quá, choán cả chỗ của người khác nên sự lơ là của lũ trẻ cũng có lẽ, mà trẻ con xưa nay thì vẫn vậy, chúng muốn chia mẹ mình thành từng phần đều nhau dù rằng không thể nhưng chúng vẫn ao ước như thế. Một người phụ nữ chồng chết, phải loay hoay với ba đứa con nhỏ mà xoay sở vật lộn trong cõi đời này kiếm miếng ăn cho cả gia đình thì cơ khổ xiết bao. Việc gì chị ta cũng làm, từ hầu bàn, đến gội đầu, xoa bóp, bấm huyệt việc gì cũng được, miễn là ra tiền, nên thường cả tuần chị mới về ngoại thăm con được. Vừa là tiếp tế lương thực, vừa là trang trải nỗi nhớ mẹ con. Và cứ mỗi tuần như thế, mẹ nó cứ như bà tiên hiện về trong tâm tưởng, nó ôm ghì lấy mẹ và biết bao là thương nhớ và trách móc như nước chảy cứ tràn vào lòng mẹ, có lẽ đến cả ngày vẫn chưa hết được bao chuyện mà nó tấm tức trong lòng. Nó chẳng rời mẹ lấy nửa bước, trong bữa nó ăn nhiều hẳn lên, nó kêu thèm bánh nọ, kẹo kia và chẳng quên nỗi ao ước là hộp bút chì màu và cái váy mới như lũ trẻ thường mặc mà nó nhìn thấy.
      Mẹ ạ! cái váy phải xoè ra như thế này - Tay nó dang ra làm cữ - Phải có cái nơ và nhiều chấm hoa xanh đỏ – Những búp tay nhỏ xíu như muốn tô vẽ lên một chiếc váy mà nó thường ấp ủ trong lòng.
      Được rồi, mẹ sẽ để dành tiền mua váy cho con, nhưng con ở với bà phải thật ngoan – Một nỗi trống rỗng trong mắt nó - Bên mâm cơm nó nép vào lòng mẹ, thời khắc của sự xa cách như rũ bỏ trong nó bao nỗi ao ước trong lòng.
      Thời gian hiện sinh từ buổi đầu của mọi kiếp sống, nó hiện diện từ lúc đứa trẻ chào đời cho đến ngày thấm khổ, và khi đã thấm khổ nó sẽ bắt đầu suy nghĩ về thời gian. Thời gian của đứa trẻ thơ sắp xa mẹ dường như đang hiện dần lên trong nó, nỗi trống vắng mơ hồ tràn ngập nỗi lòng trẻ nhỏ, trào dâng trong đôi mắt ngây thơ. Thời khắc này, hình ảnh ấy, sẽ chứa đựng trong lòng người mẹ khi vật lộn với đời, và cái lẽ bao người mẹ phải sống mãi để trả lại niềm vui và tình yêu cho những đôi mắt ấy.
      Tôi nhớ mãi về ngày tết vừa qua, trời rất lạnh, con bé phong phanh trong bộ váy mới – Tôi chợt rùng mình vì thấy lạnh, nhưng tôi hiểu dù lạnh nhưng nó sẽ dứt khoát không mặc thêm chút đồ cũ nào – Nó muốn khoe trước mọi người về món quà năm mới mà mẹ nó tặng. Nỗi buốt giá của cái nghèo còn thao thức trên từng thân xác, nó chẳng còn là sự hãi sợ nhưng nó là điều thách thức trong trái tim người mẹ.
      Tiếng khóc trẻ thơ làm trái tim ta cảm nhận một nỗi bầm dập đâu đó trong tâm hồn, có thể nhỏ bé thôi nhưng tấm lòng người mẹ đớn đau đến thế… họ phải giằn lòng xuống - giằn cho tới đáy của mọi nỗi khổ đau mà vực lên sự sống. Có lẽ đó là sứ mệnh của tấm lòng người mẹ.
      Cái tiếng khóc khản tiếng hôm nay - trên đường phố này, len lỏi giữa muôn dòng xe cộ, cái tiếng khóc như đeo bám lấy đời mà hờn, mà oán. Mẹ cố ôm ghì lấy nó như muốn nhận về mình mọi nỗi khổ đau, nhưng trái tim nó đã sẵn sàng gánh chịu, nó đòi lại tuổi thơ dại đã mất và tình yêu của mẹ trong đời. Tôi hoảng loạn như kẻ bắt cóc trẻ con, tay vít ga rồ máy như cố phóng ra khỏi cõi đời khốn khổ, sau lưng tôi con bé dữ dội thét gào…
      - Phải dừng lại thôi em?
      - Không dừng được đâu, dừng lại thì không ai dỗ nổi nó nữa.
      Càng đến gần nhà ngoại, con bé càng trở lên hung dữ, những ngón tay nhỏ xíu cào cấu vào lưng tôi, miệng gào lên đến khản đặc:
      - Không đi đường này. - Trong điên cuồng nó cắn vào lưng tôi, hai hàm răng thù hận như xiết chặt lấy da thịt, như nỗi đau đớn của loài thú cùng đường.
      Xe đến gần nhà ngoại, tôi dừng lại bên hàng nước đứng chờ, ôm ghì lấy nó trong tiếng thét gào hoảng loạn:
       - Mẹ còn phải đi làm, cuối tuần mẹ về – Mẹ nó gào lên trong cơ khổ, và lời dỗ dành ấy cứ xa dần khuất sâu trong ngõ nhỏ.
      Tôi mệt lả ngồi lặng trong quán nước, tay chân run run rã rời, cả thế giới dường như tan đi trong đau đớn, nhìn đồng hồ điện thoại – chắc giờ đây cháu nội tôi đang hờn khóc tìm người bồng bế và kia rồi cô bạn tôi đang hớt hải chạy ngược ra đầu ngõ, trong mắt chị còn ngập đầy nước mắt, gương mặt nhạt nhoà lặng lẽ quay đi cố chôn dấu biết bao điều đau khổ:
      - Đi đi anh không con cún ở nhà nó khóc.
      Nhìn chị tôi chợt nhớ đến câu cửa miệng mà cõi đời hay dùng “Phụ nữ ba đảm đang”. Một câu nói vô nghĩa và đau đớn đến thế, bao bà mẹ phải phó mặc con mình cho tiếng khóc ru quên mà đằm mình trong nỗi đau trần thế. Tại sao họ không cận kề bên lũ trẻ mà vỗ dậy cõi đời vì bổn phận của họ xưa nay là thế, người phụ nữ phải lo toan việc cửa nhà, sinh nở và nuôi con, trong xã hội loài người đó là một công việc lớn lao không hề nhỏ, nó dường như là một nửa gánh nặng gia đình và tại sao họ lại phải “Lo việc nước, đảm việc nhà”, câu nói trên đã cướp đi biết bao nhiêu hạnh phúc trong đời con trẻ. Người phụ nữ phải làm lụng như đàn ông, sinh nở và nuôi con, và tiếng khóc trẻ thơ cất lên từ đấy. Người đàn ông không đùm bọc, nuôi dưỡng nổi gia đình mình! Đó là điều ô nhục cho cánh đàn ông trong xã hội văn minh. Cả xã hội hô hào giải phóng cho phụ nữ và tôi ngẫm: Giải phóng phụ nữ đi đâu khi họ có một gia đình và những đứa con thơ? Hãy giải phóng họ về với chính họ tồn tại bên những đứa con, người đàn ông sẽ cố gắng cho bớt nhục vì không bao bọc nổi gia đình. Chiến tranh đã kết thúc từ lâu, câu nói trên nay trở thành sáo rỗng và tàn ác làm sao! Mọi trật tự chẳng lẽ không trở về đúng chỗ cho yên bình trở lại hay sao? Bao tiếng khóc trẻ thơ từ mọi góc đời tăm tối đang cố nhoài tìm về lòng mẹ, cái nôi của nó, tình yêu của nó, tiếng khóc xé lòng vô vọng ngân lên như dấu hỏi một thời.
      Xe tôi trở về trong nỗi buồn tơi tả, sự im lặng như đè lên tất cả, tôi sẽ nói gì và bạn tôi sẽ nói gì. Một nỗi buồn mê sảng cứ phảng phất trên con đường trở lại. Cháu tôi sẽ vui và con chị sẽ buồn, một bàn cân luôn luôn thiên về nỗi khổ, ở đó có tiếng khóc con chị và lòng tôi thầm nhủ: Thắng ơi! nỗi đau của bạn là nỗi đau của tôi.
      Khi tiếng khóc trẻ thơ cất lên dằn dỗi thì tôi đèo cô bạn về đến nhà.

      2005
      [font=.vntime] 
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 01.03.2009 16:37:35 bởi vuthi >
      #3
        vuthi 01.03.2009 16:42:32 (permalink)
        BÀ LÃO ĂN MÀY VÀ EM BÉ
               Tặng con Vũ Quốc Bảo
        Bà lão chống gậy, một tay cầm mảnh gáo dừa đứng trước cửa mọi nhà xin của bố thí. Tiếng con chó nhà chủ rít lên nghe khác thường, quyết liệt hơn mọi khi. Một chú bé chừng năm tuổi đứng gần bà lão, trên tay cầm chiếc kẹo đứng xem bà chăm chú. Có lẽ vì nó không có bà hay cụ, nên bà lão đã khiến nó nhìn bà chăm chú đến thế. Cái tiếng chó sủa như té tát cũng chẳng làm bà lão sợ. Vẫn mảnh gáo dừa chìa ra phía trước. Cái mảnh gáo dừa vỡ tướp, như bóng lên dưới thời gian của đủ các loại ngọc thực - Chắc cầm nó khi đói cũng nặng.
        Ở trong sân một tiếng người trung tuổi vọng ra:
        - Khổ lắm! Nhà này chẳng có gì đâu!
        Lời nói ấy như một thông điệp quen thuộc. Tiếng chó thôi sủa, sự yên tĩnh trở lại nơi ngõ nhỏ. Bà lão lặng lẽ cầm mảnh gáo ra đi. Cái lưng còng như gánh trên thân bà bao mảnh áo quần rách tướp sói lở theo thời gian. Đôi tay gầy gò nhăn nheo, rạn nứt như chứa đựng bao buồn đau cuộc đời.
        Thằng bé cũng lặng lẽ ngơ ngác theo bà lão ra đầu ngõ. Chợt rất nhanh nó tiến tới gần bà. Như có lực hút. Nó đưa biếu bà lão chiếc kẹo đang cầm trên tay.
        Bà lão cũng ngơ ngác như như chính khi nó ào tới:
        - Ôi! Tôi xin cảm ơn cậu. Và trong mảnh gáo dừa run run kia có một cái kẹo. Thằng bé chạy ào đi như trốn sự nuối tiếc.
        Ngày hôm sau, vẫn trên lối ngõ nhỏ ấy, tiếng chó lại cồn lên huyên náo. Và bà lão lại ra đi với mảnh gáo dừa trống rỗng. Tới đầu ngõ, vẫn thằng bé hôm qua ngơ ngác theo bà. Nhưng lần này, nó mạnh dạn hơn, tiến tới bên bà lão, trên tay nhỏ còn lại nửa chiếc quẩy đang ăn dở.
        - Cháu cho bà - Nó nhẹ nhàng đặt vào lòng gáo.
        Tấm lưng còng như rung lên:
        - Ôi! Xin cảm ơn cậu. Nó nhẹ nhàng bay đi, trong mắt còn ánh lên một niềm vui nhỏ. Và cứ thế, ngày nọ qua ngày kia, hai cực của hai kiếp người nhỏ nhoi ấy như tiến gần lại nhau hơn.
        Tiếng chó vẫn sủa! Song một hôm, trước cái ngõ nhỏ ấy. Thằng bé tần ngần nhìn bà lão, họ đang tiến đến gần nhau, song trong ánh mắt thằng bé, một nỗi ân hận, thiếu vắng như chìm xuống. Trên tay nó trống không, bất lực, đôi mắt buồn bã hướng xuống con đường nhỏ.
        - Cảm ơn cậu! - Tiếng bà lão nói rất khẽ, như chỉ để cho họ nghe thấy. - Bà muốn biếu cháu một thứ! - Trên tay già nua hướng về phía thằng bé, một mảnh nhựa đỏ có in hình đức Phật.
        - Bà biếu cháu chút quà.
        Trong tay thằng bé vẫn cầm chặt mảnh nhựa, tần ngần nhìn theo bóng bà già khuất dần trên lối xóm. Và mãi những ngày về sau, trong xóm nhỏ, không còn ai nghe tiếng sủa của con chó thường cắn, có lẽ nó đã già và chết.
        Nhưng trước ngõ, thằng bé vẫn nô đùa cùng các bạn. Trên cổ nó, cái mảnh nhựa đỏ có in hình đức Phật, như bay theo những nô đùa của lũ trẻ trong không gian.
        Hà Nội ngày 30-11-2000
         
        [font=.vntime] 
        #4
          vuthi 01.03.2009 16:47:20 (permalink)
          ƯỚC MƠ KHÔNG THÀNH
           
          Trong cuộc sống chúng ta,
          Có những mơ ước nhỏ nhoi
          Tưởng chừng như dễ dàng thực hiện
          Như những món quà gửi đi không bao giờ đến
          Song vẫn còn vĩnh viễn trong ta!
           
          Tiếng cưa xọc cằn nhằn trong nắng hè oi ả. Cái nắng thiêu phồng lớp giấy dầu trên mái, những cơn gió hiếm hoi chỉ làm tăng thêm cảm giác oi nồng ngột ngạt. Trong lán gỗ lạt ngổn ngang bụi bậm.
          Nó lặng lẽ nhìn cha làm việc. Sự nôn nóng làm chân tay nó ngọ nguậy luôn, lúc sờ cái nọ, lúc hốt cái kia. Những giọt mồ hôi lẫn bụi bết trên vầng trán, bên trên thái dương làm bệt những sợi tóc tơ nguệch ngoạc. Cha nó ngồi nghiêng dọc theo cầu bào đè lên thanh gỗ, lưng hơi cong về phía sau, đôi tay cầm cưa kéo lên giằn xuống đều đều. Những nhịp cưa soàn soạt nghe thật vui tai, mùn cưa phía dưới thanh gỗ phun ra trông thật sướng mắt. Một ý nghĩ loé lên trong mắt - Nó cũng có thể làm được như bố. Ở trẻ thơ trí tưởng tượng bao giờ cũng vượt xa tầm vóc.
          Cha nó chắc mệt lắm!
          Mồ hôi trên trán tràn vào mắt, nhỏ xuống áo, chiếc áo dính bệt vào lưng. Chắc chắn mình làm được đứt đuôi.
          Nó tự khẳng định một lần nữa dễ dàng như hai lần hai là bốn và sán lại gần chỗ cha vòi vĩnh:
          - Bố cho con làm với, con làm được mà!
          - Khổ lắm! - Bố nó dừng tay quệt mồ hôi trên trán, quay về phía nó:
          - Thôi đừng quấy bố nữa, lên nhà rửa mặt đi con. Bố đã bảo khi nào con cao bằng hai cái cưa thì làm được cơ mà.
          Anh ngồi xổm, ôm nó vào lòng dỗ dành. Nó tần ngần, phụng phịu, vừa đi vừa ấm ức vì bố ngăn cản công việc mà chắc chắn nó làm được. Nó đứng nhìn mãi mà chả được giúp bố tẹo nào. Nó vẫn chưa lớn, bố bảo năm nay nó lên năm. Không hiểu lên mấy thì làm được? Câu hỏi ấy đã mấy lần khiến nó phải suy nghĩ. Bố nó thì vẫn phải làm, còn nó thì chưa lớn, nó phải lớn thật nhanh mới được, nó tự quyết định như vậy.
          Chậu nước giúp nó quên đi những ấm ức. Cảm giác mát mẻ qua đôi bàn tay tràn ra khắp cơ thể. Nó thích thú khoả đôi bàn tay tí xíu làm bắn tung những giọt nước lên người! Óc nó bỗng loé lên một ý nghĩ mới mẻ. Bỏ chậu nước nó chạy vụt lên nhà vội vàng mở ngăn kéo. Ở trẻ thơ, bất kì việc gì cũng có thể gợi cho nó một ý tưởng nào đó, một trò chơi hay một cái gì đó và chúng lao vào với tất cả sự say mê cuồng nhiệt.
          Nó đang còng lưng mở ngăn kéo đồ chơi và cái thế giới mộng mơ hằng ngày đã hiện ra dưới bàn tay nó. Chú vịt mỏ vàng mình trắng nằm bên chị gà hoa mơ mào đỏ. Ông hùm lông vằn bên cạnh bác báo hoa. Một đoàn tàu nhựa màu vàng và mấy chiếc máy bay nhỏ xíu. Tất cả những thứ đó hôm nay không làm nó hứng thú. Điều gì đang thu hút sự chú ý trong nó. Nó lôi cái hộp bìa cáp tông phía trong cùng ngăn kéo - Hộp đựng tiền mừng tuổi. Những đồng tiền mà bố mẹ và mọi người tặng nó vào ngày tết và ngày sinh nhật. Nó dành dụm để bố mua những đồ chơi mà nó thường ao ước. Nó trịnh trọng nhấc lấy một đồng kềch kệch, đậy hộp cẩn thận đặt vào chỗ cũ, rồi chạy vù ra cửa. Ý nghĩ gì đang thôi thúc nó ba chân bốn cẳng chạy về phía ngã tư đầu phố? Má đỏ hây vì nắng, tim trong ngực đập thình thịch vì chạy quá sức, song điều đó không quan trọng bằng dự định của nó đang thực hiện. Nó hớn hở khi thấy bà bán hàng quen thuộc. Nó sẽ mua tặng bố một que kem. Một que kem mát lạnh, ngọt lừ. Dứt khoát bố sẽ thích thú trong khi làm việc mệt nhọc. Nó vừa thở hổn hển vừa nói:
          - Bà bán cho cháu một chiếc.
          - Làm gì mà chạy ghê thế hở cháu? Bà cụ mở phích rút cho nó một chiếc. Làn khói lạnh toả ra từ que kem “thần diệu” dưới nắng hè oi ả. Nó đang cầm một chiếc “đũa thần” trên tay.
          Cảm giác lành lạnh ở cán que làm nó thích thú. Bố mình vui thích biết bao khi được ăn chiếc kem này. Song những giọt nước nhỏ dần trên tay báo hiệu một sự đe doạ. Nó chợt hiểu và thế là lại ba chân bốn cẳng.
          Cuộc chạy đua với những giọt nước kem tan đang nhỏ dần trên đất. Que kem đã biến dạng trở nên méo mó, gầy còm, làm nó phát hoảng. Niềm hi vọng và nỗi lo âuthôi thúc đôi chân cuống cuồng chạy. Sự mất mát và mệt mỏi làm nó ức phát khóc lên được. Nó chạy ùa vào lán mồm la lớn như bị ma đuổi:
          - Bố ơi! Kem.
          Lúc bố nó hiểu ra thì mảnh kem cuối cùng buột khỏi que rơi bệt trên nền lán. Trên bộ mặt bé nhỏ tủi hờn kia, những giọt mồ hôi mệt mỏi hoà cùng những giọt nước mắt thất vọng. Nó không khóc nổi thành tiếng như khi bị đòn.
          Bố ôm ghì nó vào ngực dỗ dành:
          - Nín đi con. Bố cứ trông thấy kem của con cũng đủ mát rồi, không cần ăn nữa - Mắt anh cũng rưng rưng mấy giọt nước mắt vui sướng.
          Nỗi luyến tiếc làm nó còn tấm tức: Chắc tại mình chưa lớn! Không hiểu đến bao giờ mình lớn.
          21/3/1984
          Tặng con trai Vũ Tùng Anh. Mẩu chuyện ngắn bố viết như món quà đầu tiên trong đời. Ông nội là người chỉ bảo và sửa tác phẩm. Mỗi khi đọc con hãy nhớ đến ông với tất cả tấm lòng kính yêu.

           
          [font=.vntime] 
          #5
            vuthi 07.03.2009 19:25:37 (permalink)
            CON NUÔI
             
            Xóm Đặng làng Hồ hôm nay có chuyện! Mọi người đi qua trước cửa nhà cô Lý đều nghiêng ngó nhìn, tò mò ái ngại và mừng cho chị, họ thì thầm chia sẻ cho nhau về cái tin chị ta cho con bé út làm con nuôi.
            - Thôi thế cũng được! Mẹ con họ đỡ khổ! Nhà năm, sáu miệng ăn mà thằng chồng thì nghiện ngập! Mà khổ! Đẻ gì nhiều thế? - Mà ai xin đấy hả cô.
            - Lão Hoạch thôn trên bà ạ.
            - Lão ta đi làm trên Hà Nội có mấy năm mà có vẻ khá ra phết! Nghe đâu cũng có vợ nhưng chẳng đẻ được bà ạ.
            - Rõ chán! Đã què thì còn nuôi nấng gì ai được.
            - Chắc lão muốn nuôi để lấy chỗ nương tựa khi về già - cụ cứ nghĩ nó ở nhà còn khổ hơn đi làm con nuôi - mà lão mang lên Hà Nội, ở đấy họ văn minh chứ đâu như ở ta.
            Trong sân lão Hoạch đang khua hai tay trong không gian mà phân bua với hai mẹ con đứa trẻ.
            - Mới đủ ăn đủ tiêu thì con vợ tôi nó nghĩ ngay đến chuyện con với cái, mà tôi thì chẳng sao làm cho nó đẻ được, mà phụ nữ không có trẻ con thì khác nào như ma ngoài bãi. - Cái mắt còn lại trên bộ mặt nhăn nhúm như chìm xuống trong nuối tiếc.
            - Thôi chị sinh nhiều cháu, nhường cho tôi một đứa lấy chỗ nương tựa tuổi già. - Thân hình hắn vặn vẹo tronglần áo ba đờ xuy phủ kín, như cố che giấu đi cái khuyết tật chân thọt bẩm sinh mà hắn phải đeo mang suốt đời. Chợt tiếng đứa trẻ khóc ré lên như nhắc hắn còn một đoạn trong màn kịch chưa thực hiện, vội thò tay vào túi xách bên sườn hắn rút ra một bầu sữa, chắc không còn nóng, nhanh nhẹn chìa về phía mẹ con đứa trẻ.
            - Đấy cô thấy… con vợ tôi nó háo hức trẻ con làm sao, từ sáng đã chuẩn bị cho tôi đủ thứ nào tã lót, đường, sữa đủ cả! Hắn nhe hàm răng vàng khè cười hề hề sảng khoái. Cái tiếng khóc trẻ thơ cằn nhằn như bị ru đi theo bầu sữa. Sự yên tĩnh được trả lại cho cuộc trao đổi, song ở đây có lẽ trao nhiều hơn đổi, vì lẽ lão ta chẳng có gì để đổi.
            - Cô cứ yên tâm vợ chồng tôi sẽ yêu nó như con! Người cùng làng ta cả chứ đi đâu mà mất, thỉnh thoảng tôi bế nó về thăm nhà có đi mất đâu mà lo. Tiếng mấy người hàng xóm như củng cố thêm niềm tin cho người mẹ đứa trẻ:
            - Đấy cô xem! Con bé bú sữa xong ngủ thin thít! Cha này thật có duyên hợp con bé. Cuộc trao đổi ấy qua đi trong một buổi chiều thu ảm đạm. Lão Hoạch thọt tập tễnh địu đứa trẻ ra đi xa dần cái làng Hồ buồn thảm để lại đằng sau nó những giọt nước mắt chứa chan về thân phận nghèo của một người làm mẹ.
            Ở tận góc cùng của một vườn hoa thành phố vào một buổi sáng, trong một thùng công te nơ bỏ hoang. Giọng lão Hoạch như gầm lên trong cảnh hoang sơ bàng bạc.

            - Thế nào! Mụ đã xong chưa! Chỉ có ăn với nằm mà cũng phải chờ đợi! Đã cho nó bú bầu chưa?
            - Cáu cái đếch gì… Bú rồi… Biến đi cho rảnh. - Mụ khệ nệ cắp đứa trẻ qua bãi cỏ rộng đến ven đường. Lão Hoạch bò lê trên cỏ kéo theo mảnh ván được đóng gờ qua loa bốn cạnh, ở mỗi góc có ổ bi, chiếc xe nhỏ ngoằn ngoèo lê theo hắn đến ven đường, mụ ta đặt đứa trẻ kềnh càng trên mảnh ván, mớ tã lót bù xù bẩn thỉu. Đứa bé ngủ thin thít như cục thịt trên phản. Lão quay lại hỏi:
            - Sữa đâu?
            - Trong túi xách ông quàng đấy thôi.
            - Thuốc ngủ pha chưa?
            - Khỏi phải nói! - Mắt mụ đanh ác nguýt gã thật dài và chiếc xe lăn bánh ngoằn ngoèo theo những nhịp bò lê của hắn trên con đường công viên, dáng hắn bò trông thật thiểu não khốn cùng, nửa người lết trên mặt đường nhựa, cái chân què lắt lẻo lê theo như món nợ bần hàn. Tay hắn tì xuống đường nhoài lên, đầu hơi ngửa, mồm lải nhải cầu xin.
            - Ông bá ơi! Ông bà ơi!… Cái điệp âm ấy đều thiểu não như một bài kinh dài bất tận, sợi dây quàng nơi cổ tay cũng dần dật theo nhịp lê của gã và mỗi lần như vậy đứa trẻ lại giật thót mình rên lên nhè nhẹ. Có lẽ nó chẳng còn khóc được nữa vì thuốc ngủ đã ngấm sâu vào từng đường gân thớ thịt nhỏ nhoi của một kiếp sinh linh khốn khổ. Đứa trẻ mê đi trong cõi đời quên lãng. Chiếc mũ phớt rách để cạnh nó dần đầy lên vì những của bố thí của mọi người. Cái xe cứ lúc lắc ngoằn ngoèo như giễu cợt, như van vỉ cầu xin những người qua lại. Có những lúc họ xúm lại xem đứa trẻ và thằng què như xem những con thú kì lạ trong vườn thú, một loại thú gây đau lòng tất cả. Họ chua xót cho một kiếp người đã được sinh ra.
            - Khổ đứa bé chưa! - Họ ngỡ ngàng thốt lên với tất cả tấm lòng thương xót.
            - Đã què mà lại còn đẻ đái.
            - Có lẽ mẹ nó đã chết! - mà đúng vậy, mẹ nó như đã chết khi trao nó vào tay người khác, rồi nó sẽ chết sau những tháng ngày vật lộn vất vả.
            Cái cỗ xe độc mã chở một kiếp người nhỏ bé ấy cứ lưu lạc mãi trên những nẻo đường cuộc đời rồi sẽ về đâu? Thật kì lạ! Trên cõi đời chúng ta, cái nghề ăn mày đã có từ mấy nghìn năm trước, như một lời thách đố những tấm lòng từ thiện và có lẽ sẽ còn mãi mãi cái nghề nghiệp đau lòng này, song lão què làng Hồ đã nâng cấp cái nghề đau lòng này lên đỉnh cao của nỗi đau lòng nhơ bẩn. Nó như thách thức với tất cả mọi tấm lòng trắc ẩn trong đời. Nó là đỉnh cao của mọi đỉnh cao tội ác. Hắn vẫn tồn tại trên đời và kéo theo một kiếp người bé nhỏ. Trên miệng hắn vẫn còn cái lời kinh đều đều bất tận.
            - Ông bà ơi! Ông bà ơi!...
            Như một sự đùa cợt cõi đời.
            Thật kì lạ trong xã hội loài người lại có một cái nghề kinh khủng đến thế.
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.03.2009 16:38:52 bởi vuthi >
            #6
              vuthi 09.03.2009 16:38:02 (permalink)
              CẶP KÍNH

               
              Cuộc đời khi mắt kém thì thực là buồn, nên hắn cũng đành dành dụm mà mua cho mình cặp kính. Mà khi nói đến kính thôi thì đủ loại: của Mỹ, Nhật đắt lắm thì ai mà dám mua, cứ làm cái kính Tàu 15 nghìn vừa rẻ mà nhìn gì cũng thấy. Rẻ mà nhìn rõ thì mới quý, nhìn đâu được đấy, rõ cứ như ban ngày. Có đọc cuốn sách chữ nhỏ li ti mắt sáng lên như hồi còn trẻ, mà cái giống sáng mắt thì hay thích nhìn, mà đã thích nhìn thì lại thích đi. Thật rõ tác dụng của cặp kính lợi hại biết bao và chính cái kính lôi hắn ra đường phố đi đây đi đó thăm thú bạn bè. Khi ở nhà thì việc gì cũng tỏ! Khi đi toa lét, nhìn một cái đích ngay cái chốt cửa chẳng phải sờ lần trong tối như xưa. Ngẫm cái kính Tàu có 15 nghìn mà thật là đắc lợi. Có hai mảnh lăng kính đeo lên mắt mà nó nối cõi đời dài ra đến mọi nơi, mọi chốn. Khi đã có tuổi mà còn được nhìn ngắm cõi đời óng ả thì thú vị biết bao. Mà các bà vợ cũng thú vị chẳng kém khi các ông chồng mù tịt đi đâu đó cho khuất mắt. Cũng có thể vì lẽ đó hắn được đôi tròng kính chắp cánh cho đôi cẳng lên đường. Ngẫm cho cùng cõi đời thật kì quái! Chỉ có 15 nghìn mà đã thành bước ngoặt. Thôi thì chỗ này chỗ nọ đôi cẳng cứ là lắm việc để làm! Mà lại thú vị cơ chứ! Ngẫm thật cũng đáng! Cái kính muôn năm, cái kính cao quý! Hắn cứ thả bộ trên vỉa hè công viên, bên những hàng cây mà suy, mà nghĩ, mà sờ, mà ngắm cái cõi đời là lạ đã có thờichừng như bỏ rơi hắn. Xa xa dưới gốc cây ven hồ, một cặp tình nhân đang quện vào nhau mà tình tứ! Hắn sững lại! Cặp kính chừng như làm mắt hắn sáng lên! Vợ hắn! Chính vợ hắn đang ôm một thằng cha bỏ mẹ nào đó! Bàn chân hắn không tiến lên nữa. Cái cỗ máy cơ thể ọp ẹp dường như lún xuống, chùn lại. Cặp kính như mờ đi! Trời ơi cái cặp kính 15 nghìn đang làm hại hắn. Cái thứ ánh sáng khổ đau, ảm đạm làm sao! Chính hắn đã nhìn thấy vợ hắn qua cái lăng kính 15 nghìn khốn khổ!
               Hắn lặng lẽ ném chiếc kính xuống mặt hồ! Một tiếng “bõm” khô khan vọng lại. Cuộc đời lại như cũ! Mờ ảo và đợi chờ! Hắn thẫn thờ trên con đường tản bộ, trước mắt hắn tất cả đều mờ ảo, khổ đau.
              Hà Nội, 8/2001
               
              [font=.vntime] 
              #7
                vuthi 14.03.2009 10:31:53 (permalink)
                CHIẾC Ổ KHÓA
                 
                Họ đứng giữa căn phòng rộng ánh sáng dịu, trên trần một quầng chấm sáng xanh lốm đốm phản chiếu của bao hạt pha lê đèn chùm. Những giọt ánh sáng được thắp lên trong căn buồng huyền diệu. Hôm nay là ngày cưới, họ quàng vai nhau như hai đứa trẻ trong chuyện cổ Grim. Trước mắt họ là chiếc bàn gỗ lớn bóng loáng, đầy ắp những hộp quà thắt nơ xanh đỏ màu sắc sặc sỡ trông thật vui mắt, tất cả cứ như một mâm cỗ lớn gồm đủ các loại món ăn sơn hào hải vị đặt trước mặt hai đứa trẻ, họ ôm nhau thật nồng ấm hạnh phúc làm sao, hai bộ lễ phục đẹp nhất, hai linh hồn trẻ mới nhất ôm ghì lấy nhau trước bao nhiêu hạnh phúc và lễ vật. Căn phòng vắng vẻ chỉ còn lại họ nhưng tràn đầy vẻ no đủ tình yêu. Người chồng đặt lên môi vợ nụ hôn thật dài, nàng cố lắc mình chừng như nô nghịch, họ cứ quện vào nhau như hai đứa trẻ chẳng bao giờ no chán. Chàng nhẹ nhàng êm ái nâng nàng trên tay tiến về phía giường ngủ, đầu cô dâu ngả trên vai chàng trìu mến:
                - Anh ơi em chưa muốn! Đôi tay nàng mơn chớn trên cổ chàng cưng nựng.
                - Này cô bé – Anh muốn xem trong bộ váy xinh đẹp này mình có những gì! - Nàng nhẹ nhàng rụi môi vào má chồng thì thầm:
                - Tất cả là của anh! Nhưng em muốn biết trong những hộp quà xinh đẹp kia là những thứ gì!
                Chàng đặt cô dâu trước bàn, đứng sau ôm lưng vợ trìu mến.
                - Em ạ! tất cả là của em!
                - Cả là của anh nữa chứ – Nàng ngửa đầu nhìn chồng trong niềm hạnh phúc đằm thắm, trước mắt là bao điều thích thú đang chờ đợi, họ là hai đứa trẻ được đặt trước cả một đại dương niềm vui.
                - Anh ơi! Chúng ta bắt đầu từ hộp nào – Nàng bâng khuâng trong lựa trọn – Ngả đầu vào vai chồng.
                - Cứ lần lượt chúng ta mở tất cả - Chàng với một chiếc hộp lớn màu xanh thắt nơ đỏ đặt trước vợ.
                - Em mở đi! À khoan đã, anh đố em trong hộp này là thứ gì?
                - Cả hai cùng đoán mới công bằng anh ạ!
                Nàng ngoái đầu nhìn chàng thách thức và cuối cùng cả mâm quà lớn lần lượt từng thứ đã được mở. Có thứ nàng đoán đúng, chàng đoán sai hay ngược lại! Nó như nối dài chuỗi cười đùa chừng như bất tận. Bao âm thanh hạnh phúc tràn ngập cả phòng, như thể chả ai trong cõi đời này hạnh phúc bằng họ, cả căn nhà trở nên bề bộn nào đồ, nào hộp, nào nơ. Họ như hai đứa trẻ vung vãi ra quanh mình tất cả những gì họ có mà đùa nghịch mà giằng co cho thoả thuê với biết bao là hạnh phúc như ngập tràn quanh họ.
                - Anh ơi thử tìm xem còn hộp nào nữa không! Họ cố bới trong bao thứ lẫn lộn như hai đứa trẻ đang lần tìm đồ chơi trên bãi cỏ ngoài vườn.
                - Em tìm thấy rồi! Nàng la lên vui sướng! Trên tay nàng chiếc gói nhỏ thắt nơ vàng, trông thật xinh xắn.
                - Bây giờ anh thử đoán xem! - Không hiểu vật gì mà nằng nặng anh ạ. Tay nàng nâng nâng thử định lượng rồi ngả vào chồng – Nhỏ mà nặng thì sẽ là vật gì anh nhỉ?
                - Rứt khoát là một lọ nước hoa hảo hạng giành cho em! Chàng hồ hởi khẳng định như vậy.
                - Em cho là một cái gạt tàn thuỷ tinh giành cho anh. Nàng băn khoăn, tay cầm đầu dây nơ nhìn chồng.
                - Rứt khoát em đoán sai, đưa anh mở!
                - Không anh đoán sai! Em mở. Nàng hồi hộp rút dây thắt nơ.
                - Ôi chiếc khóa (cả hai vợ chồng cùng đồng thanh thốt lên vui sướng) trước mắt họ một ổ khoá cửa bằng đồng mạ vàng sáng loáng, về hai phía có hai ổ tra chìa trông thất ngộ nghĩnh.
                - Chiếc khoá hạnh phúc anh ạ! Trông thật tuyệt làm sao!
                Chàng ôm lấy nàng mãn nguyện.
                - Ngày mai đi làm khỏi lo về chuyện khoá cửa, mà cũng lạ anh chưa nghĩ đến chuyện cái khoá cho gia đình mình.
                - Em ơi anh mệt lắm rồi! - Chàng quàng vai vợ tiến về phía giường cưới trong buồng của họ.
                Đêm tân hôn của đôi vợ chồng trẻ hạnh phúc biết bao. Nếu có ông trời ở đâu đó trên cao chắc các ngài cũng cười vui khi thấy hạnh phúc của họ.
                Hai vợ chồng đứng trước căn hộ, cánh cửa còn thơm mùi sơn mới. Nàng vui vẻ quàng chiếc khoá mạ vàng sáng bóng vào chốt và khoá lại.
                - Anh khoá nốt chìa của anh đi, chàng vui vẻ lắp chìa khoá rồi ôm hôn vợ nồng thắm. Ánh nắng bình minh tran hoà trên những vòm cây bên đường phố. Hôm nay là ngày đầu tiên sau khi cưới họ lên đường vào công sở.
                - Anh nhỉ! Sao lại có những người thông minh đến thế – Ý tưởng thật tuyệt vời! Có lẽ họ phải yêu nhau lắm. Chàng ôm nàng đồng tình với vợ, nhẹ nhàng hôn lên môi nụ hôn tạm biệt.
                Rồi ngày nào cũng thế, buổi sáng hay buổi chiều, giận hờn hay vui vẻ cứ đúng vào hai thời khắc sáng và chiều họ lại chờ nhau trên ngưỡng cửa nhà mình. Hai linh hồn dường như là một.
                Năm tháng cứ nhẹ nhõm trôi qua cuộc đời họ. Chiếc ổ khoá thật là tốt vẫn sáng bóng như xưa chẳng hỏng hóc tẹo nào, cứ hai chìa tra vào ổ thì tức khắc nó mở như câu thần trú “Vừng ơi mở cửa”.






                [font=.vntime]80
                Thời gian cứ thấm thoắt trôi qua cuộc đời họ dường như không có - Cuộc sống hạnh phúc như xoá đi mọi ý nghĩa thời gian. Cuộc đời họ êm ru như dòng mật ngọt, để rồi một hôm chàng đứng trước cửa nhà mình sau một buổi tan làm. Chiếc ổ khoá vẫn sáng ngời như buổi ban đầu, lặng lẽ nhưng trịnh trọng làm sao. Chàng nhẹ nhàng tra chìa vào ổ, sự chuyển động của những nấc bi nhẹ nhõm rung lên cho bàn tay chàng cái cảm giác khoan khoái sau một ngày làm việc, cứ để cả chùm chìa khoá rung rinh như quả lắc đồng hồ cho thú vị. Chàng lặng lẽ tựa cửa chờ vợ, có lẽ thời gian là hiện sinh của đời người. Nó như độ dài của cái thước giành cho hạnh phúc hay khổ đau. Cõi sống – Khi ta hạnh phúc chừng như nó ngắn, khi khổ đau nó dài như vô kể! Và chờ đợi thời gian của cái thước chừng như dài ra mà đùa cùng thân phận. Người ta bảo chờ đợi là thước đo của tình yêu và tình yêu là con xúc xắc dành cho thân phận. Con người cứ phải chờ đợi, mà chờ đợi là thời gian và lần đầu từ khi lấy vợ chàng hiểu thế nào là chờ đợi. Một bên là cái ổ khoá, một bên là vợ về, chàng đang bị mắc kẹt giữa cái ổ khoá và vợ mình và sự lo lắng như lợt khói cứ lặng lẽ khơi lên! Giờ này nàng đang ở đâu? Liệu có chuyện gì chẳng lành xảy ra không? Bao câu hỏi rồi lại câu hỏi cứ len nhau mà lấn tới trong đầu chàng, có lẽ từ khi họ lấy nhau đây là lần đầu tiên chàng thực sự thấm thía với thời gian, khoảng cách, cái ổ khoá cứ sáng bóng lên như nụ cười chế nhạo. Chàng chỉ có một nửa câu thần chú “vừng ơi” và thế là cứ đợi! Rồi cái giá của chờ đợi cũng được hoàn trả! Từ đầu phố bóng nàng đang vội vã trở về, mái tóc bay bồng bềnh trong gió, nàng sà vào vòng tay chàng, mái tóc còn thơm mùi dầu gội.
                - Em đi làm đầu phải chờ lâu quá anh ạ! Anh lo lắm phải không? Chàng lặng lẽ ôm gì lấy vợ, và nàng làm nốt nửa kia của câu thần chú “Vừng ơi mở cửa ra”, họ quàng vai nhau tiến vào nhà sau một ngày làm việc và chờ đợi mệt mỏi.
                - Chờ em anh có buồn không? - Nàng trìu mến hỏi chàng.
                - Này cô bé! Anh xin đánh đổi sự chờ đợi lấy một mái tóc đẹp thế này.






                [font=.vntime]82
                Chàng hơi ngả người ngắm khuôn mặt vợ mình như đứa trẻ đắm mình trong ham muốn. Nhưng trong mắt họ như gờn gợn một nỗi ưu tư thoảng buồn, dường như một cái bóng vô hình đang len đứng giữa linh hồn họ. Cả hai người đang cố né tránh cái bóng vô hình ấy đang lẩn khuất đâu đây! Chiếc ổ khoá như vị quan toà hào nhoáng với nụ cười bỡn cợt họ. Người nọ về muộn để lại trong người kia bao suy nghĩ và cứ thế cả hai người cứ nghĩ hoài về nhau, mà họ thật sự là yêu nhau cơ chứ! Nhưng mỗi lần chờ đợi, đối diện với cái ổ khoá mạ vàng sáng bóng, như diễu cợt họ thì lòng kiên định mờ đi để lại một thoáng lo âu. Lợt sương ấy cứ tích tụ lớn dần lên để làm thành mây mù giông bão. Cứ nhìn thấy cái ổ khoá thì họ lại nhớ tới bao thời khắc chờ đợi mà chờ đợi quả là nặng nề cho sự sống hữu hình – Nhưng họ vẫn phải chờ vì họ thực là yêu nhau. Ở đây chiếc ổ khoá bỗng trở thành đa tác dụng - Ngăn giữ kẻ gian và giữ luôn cả kẻ ngay, nó chẳng tin bất cứ ai ở đời, cứ đúng khấc thì nó mở và căn nhà hạnh phúc của họ như biến thành cái lò đúc gang luyện thép trong mỏ không bằng! Thế mới thật khổ! Họ yêu nhau nhưng mà chẳng tin nhau nữa! Cái ổ khoá cứ hiện hữu như một cán cân cho lòng chung thuỷ, loài người thường huyễn hoặc! Họ làm đẹp cho mình bằng vòng vàng xuyến ngọc, dây thừng dây chão, xiềng xích, khoá ổ, chừng như thiếu nó chúng ta không chịu nổi, nó trở thành một công thức cho cõi đời! Như ta đeo lên cổ một sợi dây vàng thì lòng ta mãn nguyện, họ
                quàng lên cổ ta cái ách thì bỗng thấy khổ đau! Ta chấp nhận bao thứ vô tri là khuôn vàng thước ngọc cho sự sống hữu hình – Ở đây vợ chồng họ đứng trước cái ổ khoá - Vị quan toà làm chứng cho nghĩa tình chồng vợ. Ngẫm cũng khổ, khi cứ phải sống cạnh cái ổ khoá chẳng biết nói, khỏi phải nhìn nó cứ lặng lẽ mà thít đời họ lại trong chờ đợi và ngờ vực. Chẳng hiểu cha nào nghĩ ra cái loại ổ khoá quái đản đến vậy? Có thể đời hắn bị vợ ngoại tình nhiều bận nên hắn đúc kết thành cái ổ khoá ghê gớm đến vậy. Mà hắn nguỵ trang cho sự đê tiện quả là đẹp đẽ! Trông cứ sáng ngời như của quý. Nào khoá hạnh phúc, nào chó giữ nhà mới khổ. Mà loài người cũng dễ bị nó lừa, hễ trông thấy là mê, là thích, khi ngộ ra thì nó đã cắp đi của họ khối thứ chẳng bỡn! Mà ở đây sự ngờ vực thường câm lặng, nó cứ từ từ mà nghiền nát đi tất cả những gì mà tâm hồn ta có! Thế mới bỏ mẹ! Khi người ta nhận biết ra nó thì lại trở thành chuyện khó nói, chẳng ai dám vứt đi cái niềm tin mà họ làm nên! Chừng như nỗi khổ cứ dài ra lê theo cuộc đời họ. Cái ổ khóa hạnh phúc chặn giữ cửa nhà họ như một thông điệp buồn. Họ yêu nhau nhưng vấp phải nó, cái của nợ tê buốt như đồng, cái niềm tin hão huyền tệ hại và thời gian cứ lạnh giá trôi đi.

                Một hôm khi trở về nhà chàng lặng lẽ đứng bên ổ khoá! Tất cả mọi thứ chừng như vẫn thế – Lại là chờ đợi – Cứ đợi đi! Cái ổ khoá như nói với chàng vậy và thời gian bỗng trở thành vô nghĩa cho những kẻ đợi chờ. Nỗi mệt mỏi cứ khơi lên nhấn chìm đi thần xác, chàng ngẩn ngơ nhìn chùm chìa khoá rung rinh trong ổ như nhạo báng, như
                đùa cợt với chàng! Nó! Nó chính nó cái của quý đang đè nặng lên thời gian, nhấn chìm đi cõi sống, dường như nó lấy đi tất cả những gì quý giá mà đời chàng có được. Lặng lẽ quay đi, chàng không còn muốn nhìn thấy nó, nỗi lo âu chờ đợi như hằn lên trên dáng vẻ, những bước chân ngược xuôi đan hoài trên khoảng lan can bé nhỏ, có lẽ chẳng bao giờ chàng phải chờ lâu đến thế! Sẽ lại là lý do gì đây? Chàng dừng chân bên ô cửa sổ, một suy nghĩ lướt qua trong óc, với tay nhặt chiếc que trên nền, chàng thò que qua khe cửa gạt cái chốt và quyết định vào nhà bằng con đường này vậy. Vừng ơi hãy đợi đấy – Chàng nói trong nỗi tức bực chẳng cùng. Chàng gọi điện về nhà ngoại cũng chẳng thấy. Chẳng hiểu tan làm vợ mình đi đâu? Kim đồng hồ trên tường đã chỉ nàng về muộn cả mấy giờ, không hiểu có ai phải chờ đợi lâu đến thế này không? Chàng mệt mỏi nhao người xuống đệm và thế là giấc ngủ.
                Nàng bàng hoàng đứng trước cửa nhà mình, chùm chìa khoá của chàng lặng tờ trong ổ! Chàng không chờ mình nữa! Nỗi ân hận như chìm trong mắt. Nàng nhìn mọi phía trong chờ đợi, trên phố tấp nập những người, họ đang vội vã trở về nhà sau một ngày làm việc! Mọi người đều giống nhau nhưng sao trong nhà nàng lại buồn đến vậy. Cả dòng người đăm chiêu đang trôi về đâu bất tận, họ trở về nhà yên nghỉ. Nàng cố tìm chàng đâu đó trong cả dòng người kia. Trên phố hoàng hôn lịm dần trả lại cho đêm những ngọn đèn đường thức dậy. Có thể chàng bực mình đi đâu đó - Đành phải thế thôi, mọi việc cứ tưởng nhanh lại thành chậm – Chờ đợi là khúc hát lẻ loi cho mọi gia đình, nó cứ từng nấc làm mờ đi mọi thứ, ngoảnh lại cái ổ khoá như một nỗi muộn phiền. Nhìn đồng hồ đã 7 giờ, thời gian cứ trôi hoài như một tì vết. Chiếc ổ khoá như gã cai ngục lạnh lùng đang giam giữ hai trái tim đồng cảm, họ yêu nhau nên sợ mất nhau, tình yêu như lấy đi niềm tin trong họ, sự mù loà đang dắt họ tới đâu trong cõi đời? Mà họ thực sự yêu nhau cơ chứ! Họ cứ phải mò mẫm trong chờ đợi mà tìm nhau như hai kẻ cơ hàn. Đã qua giờ nấu ăn cả tiếng mà chàng vẫn đâu? Nàng lo âu sờ tay lên ổ khoá, trong bóng tối nó còn ánh lên như một niềm tin kì dị, tất cả đã chờ sẵn! Hai chiếc chìa ủ rũ bên nhau! Có nên vào nhà lúc này không? Nỗi day dứt là tiếng thở dài của niềm tin ngay cả khi chính ta hiểu đằng sau bao lời nói bóng bẩy và những cuộc đời hào nhoáng có thể ẩn chứa biết bao điều xảo trá tồi tệ! Con người ta không dám bước qua chính mình – Như bộ quần áo ông Thiện khoác lên hình hài ông Thiện nhưng có thể chứa chất biết bao điều không thiện. Mọi người ao ước mình có một cái ổ khoá dành cho tình yêu hạnh phúc. Chúng ta cần khoá để cất giữ một điều gì đó dù nhỏ nhất dành cho riêng mình. Ổ khoá và cuộc đời đã trở thành niềm tin cõi sống. Loài người tồn tại không thể thiếu được cái ổ khoá nên niềm tin trở thành một nỗi thật buồn. Nàng không dám bước qua cánh cửa kia vì vấp phải nó, cái niềm tin của chung nên chẳng ai dám tự mình bước qua và cuối cùng chỉ còn lại họ, hai kẻ yêu nhau đắm mình trong chờ đợi, chẳng còn niềm tin.
                Nàng mở khoá vội vã bước vào nhà mình, bật đèn nhao đến bên điện thoại – Chợt sững lại! Chàng đang nằmkia, nàng bâng khuâng bước lại bên chàng, giấc ngủ yên lành làm sao…! Chẳng muộn phiền, không chờ đợi, vạn vật như lắng xuống chìm sâu trong sự bình yên giấc ngủ. Nàng khẽ khàng quay về với việc nội trợ hàng ngày.
                Cơm nước đã xong nàng đến bên nhưng không dám mà lay chàng dậy. Giấc ngủ êm đềm hạnh phúc làm sao! Nàng cứ lặng lẽ ngắm chàng trong tĩnh lặng, chỉ còn lại hơi thở đều đều. Nàng nhẹ nhàng nằm sát bên chồng và chìm vào giấc ngủ. Khi họ thức dậy thì đã muộn giờ làm, tiếng chuông báo thức không lay nổi họ, nỗi thấm mệt còn phảng phất trong từng dáng vẻ. Lặng lẽ nằm bên nhau, người nọ muốn nhường người kia lời chào trách móc.
                - Sao anh chẳng nói gì? Anh vẫn giận em sao!
                - Anh thật buồn về cái ổ khoá! Nếu người ta sinh ra nó để bắt nhau chờ đợi thì gia đình chẳng còn gì để nói.
                - Anh không muốn chờ em nữa sao? - Nàng nhẹ nhàng hỏi chàng.
                - Những lúc ấy anh thấy thời gian là vô vị – Mọi thứ chỉ còn là câu hỏi không bao giờ có đáp số – Em có muốn phải chờ đợi anh không? Nếu cứ kéo dài chuyện này chúng ta sẽ đến đâu? Chàng lạnh lùng quay đi. Trên bàn mâm cơm còn nguyên vẹn, họ đã sống một ngày với bao ấn tượng buồn, giữa hai vợ chồng là một khoảng cách đến ghê sợ! Họ phải đối diện với những thời khắc buồn thảm vô cùng – Mọi thứ chỉ còn là suy nghĩ mà câu hỏi và câu trả lời chẳng còn là điều thuyết phục, niềm tin như trôi tuột đi đâu.
                - Tối qua sao em không ăn cơm?
                - Em chờ anh rồi ngủ mất.
                - Em thấy không! người ta sinh ra cái ổ khoá để mà chính xác.
                - Làm gì có tuyệt đối chính xác anh ạ!
                - Nếu nghĩ thế thì mãi mãi chúng ta cứ chờ. – Chàng hậm hực bước xuống khỏi giường.
                - Chiều qua em đi khám… Em bảo sao – Chàng quay lại bên vợ.
                - Nhà mình có tin vui – Chúng ta sắp có con, chàng buâng khuâng quỳ xuống ôm vợ vào lòng.
                - Sao tối qua em không nói với anh ngay?
                - Thấy anh ngủ ngon quá nên em không dám…! Chàng ân hận nhìn vợ trìu mến – Phải thế chứ – Em thật là giỏi mà anh thì ngốc nghếch làm sao! Chờ có một tí mà đã nghĩ – Em à, anh có cảm tưởng cái ổ khoá nhà mình đang biến nốt chúng ta thành kẻ gian – Hôm qua về sớm anh mua một cái ổ khoá mới.
                - Anh mua rồi sao? - nàng hồ hởi hỏi chồng – Em cũng nghĩ vậy, còn dùng nó thì có ngày vợ chồng mình sẽ mất đi nhiều thứ…
                Họ đứng trước căn hộ trong một ngày mới, gia đình họ có tin vui! Chàng nhẹ nhàng gỡ chiếc khoá “của nợ” thả trên thềm, treo vào chốt một ổ khoá mới – Chìa khoá mới của em đây! Chàng gỡ chiếc chìa khoá cũ đưa cho vợ – Em vứt nó vào sọt rác giùm anh. Anh đưa nốt cho em cả cái ổ!
                – Nàng hồ hởi ném mạnh 2 cái chìa khóa xuống đường, còn ổ khoá họ vứt vào thùng rác.
                - Thế là xong anh nhỉ? – Phải làm thế ngộ nhỡ ai nhặt được dùng lại thì khổ thân họ. Hai vợ chồng hôn nhau tạm biệt, một ngày mới thật nhiều niềm vui, thời gian đang dắt họ đi trong bao điều đáng kể.
                25-3-2003
                #8
                  Ct.Ly 15.03.2009 07:07:30 (permalink)
                  #9
                    vuthi 18.03.2009 15:59:50 (permalink)
                    CÁI ĐẦU
                    Kính tặng bác sĩ Nguyễn Trung Linh

                     
                    Thật giỏi! Ông trời sinh ra loài người - Một loài động vật hoàn thiện nhất trong muôn loài! Mà niềm kiêu hãnh này cũng thật là xứng đáng. Song tổ tiên ta xưa, cũng tự cho mình thông minh chẳng kém tạo hoá, các cụ đã phân ra chức năng cho mọi bộ phận cơ thể thật là hoàn hảo và các cụ coi đó là niềm tự hào cho nòi giống.
                    Cái cỗ máy con người thật là hoàn thiện đến tinh xảo! Phàm một cơ thể sống cứ phải tuân theo một quy củ chính xác như bảng cửu chương của ta thời nay! Mọi trật tự cứ phải là hai lần hai là bốn không thể nào khác được. Cái thủ ở nơi cao nhất, các cụ trân trọng đặt lên hàng đầu, và cứ thế mắt mũi, mồm miệng, chân tay, và mọi thứ của nợ sẽ được đặt lần lượt theo thứ tự trên dưới rõ ràng! Quả là tinh xảo, cứ như khoa học thời ta cũng phải là nghiêng mình kính nể! Mà các cụ lại nghĩ ra từ cái thời “đút nút” nào cơ chứ! Có trời mà biết - ấy thế mà cái trật tự ấy tồn tại cho đến tận thời ta. Trong một cơ thể sống, cứ là theo tuần tự cái gì ở trên thì cao quý hơn cái ở dưới, thật rành mạch rõ ràng. Quả thật cái đầu cao quý – Cái đầu to lớn! Nó cứ ngạo nghễ ở trên cùng của một cơ thể sống! Từ cái đỉnh mọc tóc ấy, mọi thông tin được truyền đi, tỏa rộng mà điều hành mọi hành vi bộ phân cơ thể. Con người có thể từ tâm hay độc ác, cướp giật hay nhường cơm sẻ áo cũng từ nó mà ra. Chả hiểu cái cục thịt đặc biệt ấy, cấu thành từ những phân tử, hay lượng tử gì, mà tinh xảo đến thế! Cứ mỗi khi xơi cỗ óc lợn, tôi lại nghĩ đến óc mình chắc phải văn minh đến mấy lần! Có lẽ óc chúng ta là thượng đẳng! Mà thượng đẳng đến ghê người cơ chứ, nó đẻ ra cả ngàn phát minh khoa học, hiền có, dữ có! Mà kiểu gì nó chơi cũng được! Nào bom nào đạn để mà giết nhau, rồi lại thuốc men để mà chữa lành cho họ! Ngẫm ra cứ như là ảo thuật! Suy cho cùng, vui buồn, sướng khổ tất tật từ nó mà ra. Chung quy cái thể xác từ cổ đổ xuống, suy cho cùng chẳng khác chi tên đầy tớ cho cái chòm trên đỉnh, mà cũng có thể nó ở nơi cao nhất gần thượng đế, nên lộng hành như vậy. Quả cái đầu thật lợi hại! Đầu ngu, đầu dại, đầu khôn, đầu bác học chung quy cũng đều là cái đầu mọc lên trên đỉnh từng thân xác! Quả thật nó thực là cao quý. Song có lẽ các cụ ta tính nhầm! Vì tất cả mọi cái đầu ấy chẳng cái nào muốn hòa đồng với nhau cả, nên nỗi khổ cứ lênh láng cả cõi đời! Theo tôi nghĩ, thế mới thật là khổ! Chẳng thà cứ ủn ỉn, đều tăm tắp như óc lợn thì có lẽ đỡ khổ hơn. Không lẽ chúng ta đặt cái đầu xuống đâu đó trên cơ thể cho phải! Mà làm như vậy chắc các cụ giận lắm! Nên chúng ta cũng đành là cứ khổ mãi với nhau. Mà theo tôi nghĩ chỉ còn có thượng đế hay đức phật may ra mới có thể gắn hàn mọi cái đầu hòa đồng với nhau được.
                    Ngẫm đời người thật là cùng khổ!
                     
                    Rằm tháng 8 – 2001
                     
                    [font=.vntime] 
                    #10
                      vuthi 19.03.2009 09:54:20 (permalink)
                      ÔNG TƯỚNG VỀ HƯU
                       
                      Lặng lẽ ngồi trên đi văng, nỗi cô đơn như thu nhỏ cuộc đời ông lại, sự lẻ loi bao giờ cũng thế, ta cứ bé dần, bé dần chỉ còn là chấm nhỏ như cát bụi, nó là một cái chấm hãi hùng chẳng chừa một ai khi đã từng được sống ở đời - Để đến một hôm ta chợt nhìn thấy nó, đau đớn và nhỏ bé làm sao! Nó nhọn như mũi kim hay đầu ngọn giáo, cứ lặng lẽ xuyên vào đâu đó đời ông.
                      Căn phòng bỗng trở nên rộng thế – lần đầu tiên ông cảm thấy như vậy, có lẽ khi đời mình bỗng trở thành bé nhỏ thì cõi sống bỗng thênh thang làm sao. Bốn mươi mét vuông chứa đựng một hạt cát… đó là một cảm nhận khi ta chợt hiểu thấu mình – bỗng dưng một hôm, sự sống chợt co lại trong một không gian định hình, cô đơn quá khi đời ông cảm nhận đầy đủ về nó. Mọi thứ trong ông dường như thu nhỏ dần, cứ bé mãi bé mãi cho đến khi chỉ còn là cát bụi. Bao li chén ngày hôm nay, trong bàn tiệc, là ngần ấy gương mặt cuộc đời. Niềm hoan hỉ như còn phảng phất đâu đây. Những tiếng li cụng li, lời nối lời, niềm hoan hỉ sâu chuỗi trong tiếng cười lộng gió. Ông chợt thấy yên tĩnh quá! Mọi thứ quanh ông trong căn phòng này dường như đang cũ đi, thiêm thiếp ngủ, nó giống như một thời mới kề bên cái cũ như cái li đựng rượu. Cái cũ chứa đựng cái mới và ông chợt thấy mình mỏng quá. Có thể sự già nua là vậy, nó mỏng manh như bộ quần áo che thân. Trên giường ngủ phủ tấm vải ga màu sáng, bộ quân phục trải ngay ngắn, trên ngực áo gắn đầy huân, huy chương như bao chứng tích cuộc đời của một ông tướng còn hằn lên bao nỗi nhớ. Ông như kẻ mộng du nhìn vào nó – Quầng ánh sáng một thời, cái thời ông đã sống, có thể rộng lớn như một mặt trận và hôm nay là một căn phòng nhỏ bé chứa đựng đời ông. Có lẽ thời gian là cỗ đại bác bắn vào quá khứ và bao mảnh vụn đời ông còn bám trên những tấm huy chương kia. Đó là xương thịt hiện hình thành tưởng niệm khi đời người còn sống – khi ông còn sống để được nhìn thấy nó – những tấm huân, huy chương gài trên ngực áo trải trên giường nệm trắng. Bộ quần áo kia như một hình hài rũ mỏi mà ông là người nhìn ngắm. Thật thú vị khi ta nhìn ngắm chính mình, như linh hồn đang nhìn thể xác, bảy mươi năm thời gian đã trôi qua… - Buổi ban đầu và ngày hôm nay mọi người ăn mừng ông đã về nghỉ hưu - ngày hôm nay phải chăng là cái đích cho từng đời người nếm trải. Nó như một con tàu mệt mỏi về ga trong đêm tịch lặng. Sự yên ắng sẽ trả lại cho đời người bao điều suy nghĩ… Bao ly chén và những lời chúc tụng như găm chặt đời ông vào cõi sống. Con cháu, bè bạn, những gương mặt thân quen còn ánh lên biết bao là nỗi nhớ. Chẳng mấy ai đang sống, vui sướng hay khổ đau mà lại nghĩ đến cái ngày về hưu của đời mình. Mọi việc làm và suy nghĩ ta đều hướng đến vĩnh cửu. Vật chất có thể sẽ còn mãi, như đống huân, huy chương kia… nhưng đời ông đã về hưu, nó hiện hữu như ánh hào quang trùm lên giấc ngủ. Từng tia sáng bừng thức trong đêm như những vì sao. Mọi khổ đau vật lộn đã được trả giá bằng nó – những tấm huân, huy chương lạnh lùng gài trên bộ quân phục cấp tướng.
                      Tướng rồi cũng phải về - ông lẩm nhẩm trong miệng tự nói với mình về nguyên lý ấy. Ngày mai đối với ông công sở sẽ chẳng còn ý nghĩa, chỉ là số không – một lỗ hổng lớn trong đời người, nó là cuối con đường, đầu con sóng. Loài người luôn sống và quên đi ngày hôm qua, sự tồn tại trên đỉnh sóng luôn bắt ta phải thế. Có một nguyên lý thật giản dị trên đời là sống và tồn tại như cái cây và ngọn cỏ. Vấn đề là chỗ đứng cho từng sự sống – Ngọn cây kia ngoài cửa sổ buồng ông, nó có nghỉ hưu không? Vẫn chỉ một màu xanh quanh năm toả bóng. Cái bóng ở đời, một cái bóng đau đớn làm sao! Trong đầu ông ý tưởng về cái bóng chợt buồn ảo não… những cái bóng loài người chập chờn điên đảo. Những cái bóng! những cái bóng…! Đó là những vùng đen sẫm phủ khuất đời người.
                      Một vũng không gian bốn mươi mét vuông chỉ có ông với cái bóng đổ nghiêng trên nền nhà lạnh lẽo. Có thể lần đầu tiên ông suy nghĩ về nó – cái bóng của chính mình – Cái bóng chẳng là linh hồn, nó là sự phản chiếu hình hài thân xác, nó giống như bộ quân phục trên giường kia ngợp nhoà hào quang và thân phận. Bên kia bờ thân xác là linh hồn… Ông đang nhìn về quá khứ. Có lẽ tuổi già bao giờ cũng thế, dòng sông ý nghĩ trôi ngược về đâu đó cội nguồn - Cũng có thể đó là một lô-gíc tâm linh không nằm trong quy luật hiện sinh cõi sống, như con nước không còn trôi nữa và lặng lẽ trở về. Ông như lạc ra khỏi bao điều đang sống – như đứa trẻ chăn trâu ven sông, chiều chiều về qua phố chợ, như những cô hàng sén nhạt mờ quẩy gánh, tiếng sáo diều như mắc vào đêm, bữa đói bữa no đi vào giấc ngủ, ánh ban mai như lửa đốt bên thềm.
                      Tuổi già bao giờ cũng thấp xuống kề sát cõi đời, họ bắt đầu nhìn lại, dĩ vãng là cái bóng của năm tháng hiện hình trong tâm tưởng, thật gần gũi nhưng xa lạ xiết bao ta đã đi qua và dường như chưa bao giờ nhìn thấy… những cái bóng đời người ngủ yên không bao giờ thức dậy bên những cái bóng hiện lên. Bóng đêm và lãng quên!… Ông thấy lửa nung trong li rượu đắng! Đời người khi dừng lại, họ chợt nhìn trước sau – Cái ngưỡng của thời gian quàng lên thân xác, đời người được đóng khung trong nó – trong thời gian hữu sinh đời người. Kẻ cùng quẫn nhìn thấy cái bóng - cái bóng của mình cơ khổ làm sao? Nó như nỗi ám ảnh hình hài lạc lõng - như ta chợt thấy mình rồi chợt biến trong hư không. Bài ca thời gian hiện lên như con đò chở người qua bến. Ông chợt hiểu thời gian của mình và của người, cõi sống gối lên nhau trải dài mà làm nên sự sống, cái mất cái còn, cái hiện lên là cõi đời ông đang đứng và thời gian sẽ trôi đi mang theo cả đời ông - Đời người là bất định trôi trong thời gian vô định. Sự hào nhoáng của đời loé lên rồi lịm tắt trong thời gian - một khoảng khắc dậy mùi máu - ngót trăm năm dậy mùi máu rồi quên lãng. Cái đã mất được bù lại bằng thịt xương hôm nay. Những bộ mặt đỏ gay vì rượu - bao li chén ngổn ngang và trong lòng ông nỗi buồn lại thức. Chỉ có người già nghe thấy tiếng vỡ - tiếng vỡ của thời gian. Ông nghe thấy nó như tiếng đổ vỡ trong hồn, sự dồn nén của thời gian trong cõi hiện sinhthiêu đốt thành ngọn lửa. Mùi khen khét thịt người như còn nồng mãi nơi đây. Mùi lửa bom, mùi năm tháng như bệt trong óc ông một lớp bồ hóng mà nhiều khi nghĩ lại ngọn lửa lại nung nóng lên bao nỗi buồn cháy dở. Bao khuôn mặt, những dáng hình, chưa một lần được yêu đã chết chìm trong tiếng gọi - tiếng gọi mẹ… tiếng gọi quê hương… như kéo dài trong nỗi nhớ - như mùi máu lặng câm, như họng súng âm thầm. Bao chiến sa chìm trong đêm lạnh! Mọi thứ chừng như đang ngủ - giấc ngủ mê đắm trong đêm với nỗi buồn tự tại. Những đôi mắt người mẹ cằn khô trong thương nhớ, ủ ấp bao đứa trẻ mồ côi, bao nén nhang còn đang thức trên đời, dòng lệ nguôi ngoai cùng năm tháng. Một nỗi buồn bi tráng trong lòng người chiến binh thắp lên thành ngọn lửa… đêm mãi là đêm cho ngọn lửa được thắp lên.
                       
                      2005

                      [font=.vntime] 
                      #11
                        vuthi 26.03.2009 10:18:48 (permalink)
                        DÒNG SÔNG GIUN

                         
                        Trong đêm hắn lặng lẽ mò tìm bật lửa, cơn buồn ngủ còn trĩu trên đôi mắt, bóng tối trong đầu và bên ngoài như bện vào nhau muốn đè hắn xuống, tay sờ soạng, đầu lắc lắc trong đêm, cơn buồn ngủ qua đi khi ánh sáng loé lên từ đầu máy lửa, một tia sáng nhỏ nhoi như bừng thức trong đầu hắn một ngày mới phải sống. Đời hắn bắt đầu từ đấy… khi ngọn lửa thắp lên trong óc nửa tỉnh nửa mê là hắn phải vùng dậy lần tìm bật lửa mà đốt cháy lên một ngày - một ngày mới không làm sao thoát nổi. Chân đá mớ chăn màn vào góc, hắn mò mẫm lật đật xuống thang, tia sáng run rẩy như bóng hắn chập chờn muốn tắt, tiếng cọt kẹt của những bậc cầu thang khô cằn như mọt gặm, đêm tịch lặng chợt gằn lên những âm ba sự sống, một bức hoạ nền đen và ánh lửa, có lẽ vạn vật đều bắt đầu như thế… một ngày chưa đến, nhưng nó sắp đến kia, rất gần, chỉ vài tiếng nữa thôi, trời lại sáng. Ở đây trong bóng đêm là dĩ vãng… khi ngọn lửa thắp lên là tương lai, một ngày mới hiện sinh đời hắn, ngọn lửa non đầu máy lửa, ánh mặt trời nửa tỉnh nửa mê lay đời người thức dậy. Bật đèn bếp, chiếc xe máy hon đa màu đỏ cũ kĩ hiện lên như chú ngựa già đứng đợi. Hắn mau lẹ buộc chiếc thùng nhựa vào sau yên xe, cẩn thận cài chiếc vợt may bằng vải màn tuyn Mỹ trên mặt thùng, cán vợt thòi về phía sau như cái đuôi cá mực, hắn hài lòng vì mọi việc chuẩn bị đã hoàn tất, lặng lẽ quay lên gác, hắn bật đèn buồng chính gọi thằng con dậy đi làm.
                        Thằng bé nằm còng queo ở cuối phòng, bên chiếc bể cá cảnh rõ lớn, dài như cỗ quan tài bằng kính. Lũ cá thần tiên bắt ánh sáng đèn căng vây lượn lờ khoe vẩy, những bộ cánh sọc vằn óng ánh lộng lẫy như bay trong làn nước, chúng nhao đến bên quả cầu giun bồng bềnh đưa đẩy. Những con giun nhỏ bằng cây kim bện vào nhau thành khối, tròn vo, ngoe nguẩy trên đĩa như một thứ đồ trang sức bầy trong bể cá cảnh, đó là sự sống cho bầy cá và là sự sống cho cả làng nghề nuôi cá cảnh. Ở đâu có giun ở đó người ta tìm đến, từng đoàn người nối đuôi nhau lần mò suốt ngày đêm. Loài giun nhỏ này sống và sinh sản ở những vùng nước nhơ bẩn nhất, trong những cống rãnh của những nhà vệ sinh công cộng trong thành phố. Dưới làn nước lờ đờ chảy, những đám giun bện vào nhau thành những lợt thảm đỏ ngoe nguẩy, người ta dùng vợt hớt lấy những đám giun ấy, lắc vợt trong nước cống hôi thối cho bùn tan bớt đi, đọng lại trong đáy vợt là lũ giun lẫn bùn nhão nhoẹt bẩn thỉu, đó là thứ sản phẩm mà làng cá phải làm. Ở đâu càng bẩn - ở đó càng nhiều giun, tất cả mọi cống rãnh bẩn thỉu trong nội ngoại thành phố đều có họ túc trực hàng ngày. Hàng vạn chiếc bể nuôi cá cảnh trong thành phố như những chiếc miệng há hốc đói khát đang chờ họ. Năm nghìn một bơ rồi lên đến cả mười nghìn mà nhu cầu vẫn không đủ. Ở làng hắn bỗng sinh ra hai nghề: nghề nuôi cá và nghề hớt giun. Đi hớt giun lãi suất bằng nghề nuôi cá, nhưng nghề hớt giun nghe chừng không sạchsẽ và cao quý bằng nghề nuôi cá, nên những người đi hớt giun bao giờ cũng nguỵ trang bằng vài ba bể cá cảnh cho đỡ tủi mà nhiều khi sinh lợi đôi đường, nhưng họ vẫn thích nghề hớt giun hơn vì vừa có mồi nuôi cá, còn bán được tiền tươi mà nuôi sống gia đình, nếu không may thất bại về con cá thì có con giun để mà sống. Mà khi đã có lợi thì sinh ra dành giật - người dân Nam ta xưa nay bao giờ chẳng thế, những người nghèo tính thời gian bằng ngày, bằng tháng, cứ ngăn ngắn đoạn một mà cộng lại thành đời. Khi tiếng gà chưa gáy, màn đêm còn đang ngủ, họ – những người thợ hớt giun đã len lén mà dậy… phải thật nhẹ nhàng ít tiếng động, phải thật lặng lẽ kẻo ông hàng xóm cùng nghề phát giác thì hỏng, họ lặng lẽ dắt xe máy tới cổng làng và nổ máy chạy như bị ma đuổi.
                        Hôm nay cũng như mọi ngày, vẫn vậy, hắn lay thằng con dậy - thằng bé độ mười lăm, mười sáu tuổi, cằn nhằn choàng dậy như vừa phải bỏng, đàn cá thần tiên trong bể kề bên chỗ nó nằm nhởn nhơ vẫy lượn, những vằn sọc thanh cao như bay trong làn nước, thằng bé dụi mắt nhìn đàn cá… lặng lẽ vùng đứng dậy, nó đã hiểu hai bố con phải làm gì. Ngoài trời cái rét mùa đông còn chưa nguội, hai bố con mặc vội bộ quần áo lao động lặng lẽ lên đường – Hôm nay hớt đâu bố? - Sấu Giá - nói khẽ đi mày. Thằng bé như tỉnh hẳn, co ro ngồi sau xe, tựa lưng vào thùng nhựa và cứ thế hắn phi thục mạng.
                        Đối với hắn, dòng sông Hồng chảy từ đâu về qua thành phố? Rồi sẽ qua những đâu? hắn cóc cần biết! hãy kệ mẹ dòng sông cho nó thả sức mà chảy, kể cả mưa nắng bốn mùa cũng vậy – trong đầu hắn chỉ có suy nghĩ về sự sống của gia đình... vợ hắn và hai đứa con. Đời hắn tù đày nhiều sinh lao phổi, hắn coi như bỏ, còn ngày nào hay ngày ấy, đối với hắn cóc cần, hắn luôn tự an ủi mình – ngồi tù còn chẳng chết thì lao động còn lâu mới quật nổi hắn. Hai thằng con, một đứa bỏ học theo bố đi làm, thằng em đang lẽo đẽo học phổ thông, hàng tháng cứ đần độn vì lo xin tiền học, vợ hắn gầy yếu vừa mổ cắt hai phần ba dạ dầy và có lẽ cái nghề cá cảnh, hớt giun sinh ra từ đấy. Hắn muốn vợ nuôi vài ba bể cá, vừa đỡ buồn lại có tiền, nên bố con hắn quyết định vào nghề, vài bể cá khi thay nước hàng ngày đã có ba bố con, vợ hắn lo cho cá ăn và ủ giun. Người không trong nghề thì khỏi phải nghĩ, cứ xỉa năm, mười nghìn là có một bơ giun thả bể, người làm nghề thì khác… Thùng giun nhão nhoẹt thối thá sẽ được sẻ ra làm vài chậu và trên mỗi chậu sẽ được phủ lớp bao tải để ủ, mùi hôi thối sinh nhiệt lũ giun sẽ nhoi lên mặt bùn, kết với nhau thành lớp mỏng, lúc này người hớt giun chính thức được thu hoạch - Họ bóc những lớp giun nổi trên mặt bùn thả vào chậu nước, nếu chậm bóc lũ giun sẽ chết thì hỏng bét – nên cứ nổi đến đâu là phải bóc ngay. Có nhiều khi giun không nổi, người ta phải đặt lên bếp ăn mà đun thì rõ khổ, lũ giun gặp sức nóng của bếp nhoai lên mặt bùn cho bằng hết, nhưng nhược điểm là chúng chỉ sống được vài giờ là phải bỏ, nên nhà nào phải đun là bán tống tháo cho nhanh mà thu về công sức. Đặc điểm chung của những gia đình làm nghề là cái mùi thum thủm, cái mùi thối thum thủm lưu cữu từ năm nọ qua năm kia, người ta phải giấu diếm nhau sản phẩm thu được nên nhiều khi thùng chậu phải ủ vào chỗ kín đáo mùi thối càng bốc lên tợn. Thật rõ khổ – cái lợi ở đời bao giờ cũng vậy, người ta giong duổi, dõi tìm đường đi lối làm của nhau mà xông tới…! Mọi cống rãnh trong thành phố cứ nhan nhản người khai thác, nên kiếm con giun đâu phải dễ - phải nghiên cứu đàng hoàng xem nước cống rãnh sẽ chảy về đâu và đi theo nó mà khai thác. Công việc cứ xa dần – xa mãi đến mười lăm, mười sáu cây số. Ở đó là những dòng sông nhơ bẩn đón nước thải thành phố. Hôm nay hai bố con hắn mò đến đó, trên đường lặng ngắt như tờ, thỉnh thoảng lắm mới thấy người thồ rau trở ngược vào thành phố. Ngồi sau hắn thằng bé co ro nép vào lưng bố.
                        Lạnh không con? – không sao bố ạ… - hắn cố nghiến răng mà dằn cái lạnh trong người.
                        Chỗ này hôm qua có người hớt được mấy chục bơ - thằng bé nghe phấn chấn hẳn lên – sắp vào chỗ rẽ đấy bố – biết rồi – hắn trả lời nhát gừng vì thấm lạnh.
                        Bố ơi… - sao? – con muốn lại đi học. Một thoáng im lặng – mày nghỉ học năm năm rồi - xin lại sao được! - hắn chợt thấy xót xa làm sao, nó như một vết thương không lành lại rỉ máu! – con sẽ tự học có được không? – việc đã xong… nhưng chẳng dễ dàng đâu… Một viễn cảnh lờ mờ hiện dần trong tâm chí hắn như mặt nước sông nhờ lấp lánh.
                        Đến rồi con ạ - hắn lặng lẽ dừng xe, tháo thùng, hai bố con cởi áo mưa, hắn rút chiếc bánh mì để từ tối hôm trước, bẻ đôi đưa cho thằng bé - ăn đi con cho đỡ lạnh. Thằng bé chừng chạc nuốt mẩu bánh cứng queo không
                        chút thú vị, nhưng nó hiểu trong hoàn cảnh này phải thế, phải ăn - phải ăn thật nhanh mà còn lội nước.

                        Một dòng sông đen sẫm chảy vắt qua cánh đồng tối sẫm… Hai bố con bắt đầu từ đây, hắn lẩm nhẩm trong miệng như nói với mình. Thằng bé lặng lẽ cởi hết quần áo, gói vào ni lông, cầm thùng vợt lội xuống sông theo bố.
                        Cái lạnh như cắt vụn từng phần cơ thể, đó là nỗi đau đớn phản về của từng thân xác, người hớt giun hiểu rõ về nỗi buốt giá này, thật nhanh họ đẫm mình ngập cổ và bắt đầu vận động, người còng xuống chỉ để hở cái đầu, toàn thân tì cán vợt, khéo léo hớt lớp bùn trên bề mặt, ở đó có giun ngoi lên kiếm mồi, khi gần đầy vợt, họ nâng miệng lên khỏi mặt nước và lắc cho bùn tan, cho đến khi chỉ còn một cục bùn như quả cam nhão nhoẹt đó là giun mà ta khai thác, họ đổ vào thùng và lại tiếp tục. Cứ thế cái lạnh và nỗi cơ nhục như quấn vào nhau, bố con hắn vật vã trên dòng sông nhơ bẩn, trên cao là bóng đêm và gió, thỉnh thoảng một vài lời trao đổi âm ba méo mó vì giá lạnh. Cái thùng lê theo hắn cứ chìm dần vì sức nặng của bùn giun hớt được. Thằng bé cứ tụt dần lại phía sau nên cứ một quãng hắn lại phải gọi và chờ thằng bé đuổi kịp. Trời dần tảng sáng, trên cánh đồng xơ xác quạnh hưu, xa xa thằng con hắn cố lê thùng lên bờ, nhưng sao thế kia? Thằng bé nằm lăn bên bờ ruộng! Hắn hốt hoảng nhao lên bờ chạy ngược lại – con hắn đang quằn quại trên vũng bùn nhơ nhớp, bụng nó đau quặn từng cơn, cứng đờ như gỗ, hắn ôm ghì nó vào ngực, chạy ngược về chỗ để xe, tay hắn run run cầm quần áo khô chà lên người nó như điên dại. Nỗi đau đớn trong trái tim hắn như đốt lửa, mặt thằng bé tái ngắt vì đau đớn, giữa cánh đồng, hai bố con hắn ghì chặt lấy nhau trong cô đơn lạnh giá…! Có một cái nghề luôn chìm sâu tận đáy đó là nghề hớt giun khốn khổ, nó chìm sâu – sâu mãi ở tận đáy cõi đời, họ phải vớt nó lên, vì đó là sự sống ngày mai không thể nào khác được, nỗi trần trụi đến hãi hùng cho từng ngày sống, thời gian của họ như bị mối xông hay mọt gặm mà họ phải lần giở từng ngày trong giá lạnh.
                        - Phải về ngay thôi con – hắn thốt lên như gào trong tuyệt vọng, vội vã trùm đúm cho thằng bé đỡ lạnh, dìu nó lên xe – bố ơi… cái… thùng… - xa xa cái thùng bồng bềnh trôi… Có biết bao dòng sông chảy qua cõi đời nhưng có một dòng sông cơ khổ nhất chảy qua đời người đó là dòng sông giun - vứt bỏ, hắn quả quyết rồ ga như một lời vĩnh biệt.
                         
                        2005

                        [font=.vntime] 
                        #12
                          vuthi 26.03.2009 10:36:12 (permalink)
                          NGƯỜI VỀ HƯU

                           
                          Tặng nhà giáo Vương Thị Phương

                           
                          Ngày hôm nay ông cảm thấy mệt nhiều! Cái ánh sáng đầu ngày còn tươi chênh chếch lùa qua ô cửa, căn buồng như bừng thức dậy, vài ba thứ đồ cũ kĩ cũng rõ thêm lên như cựa mình muốn sống. Từ cái giường giẻ quạt đến cái tủ hồ sơ cũ, hai ba cái nồi lỏng chỏng bên cạnh vài cái chai, mọi đồ vật như muốn tỏ rõ cái hồn của nó. Với người già sống hưu trí, mọi thứ dù sơ sài, nhưng rõ thật quý. Mọi vật dụng không thừa mà chỉ vừa đủ, dường như mọi đồ dùng đều có chỗ đứng cần thiết trong đời ông lão, từ cái túi ni lông phòng khi mua lưng canh cũng được rửa ráy sạch sẽ quàng trên song cửa, đến cái chăn rạ từ thời bao cấp cũng có tuổi sống của nó… cái màu vàng xin xỉn nhão nhoẹt, nhưng gần gũi thân quen làm sao. Có lẽ vì họ ăn chẳng nhiều, mặc không lắm nên mọi nhu cầu chỉ cần vậy, mọi thứ bù đắp vừa đủ cho những lồi lõm đời người.
                          Căn buồng chín mét vuông, lúc nào cửa ra vào cũng mở cả ngày lẫn đêm. Mất mát ông chẳng sợ – vì có gì đâu mà mất. Nó luôn mở để đón đợi mấy ông bạn cùng tổ hưu tới thăm đỡ phiền hà phải gọi. Có lẽ những người về hưu sống độc thân đều như vậy – cửa luôn mở như đón đợi bao điều… mà chung quy chỉ có họ đón đợi nhau thôi – những kẻ cô đơn sống qua một thời đã mỏi. Họ tụ tập bên bàn cờ, quanh khay nước trà, ngắm nhìn nhau mà sống, bao câu chuyện đời thường sẻ chia mà ngẫm ngợi… Họ kể lể cho nhau biết bao điều buồn vui, khốn khó. Con người về hưu là vậy – căn nhà, cái giường và vài thứ vật dụng, những bước chân luẩn quẩn qua ngày – dường như, vạn sự đời người vo lại trong căn buồng nhỏ bé. Thế hệ trẻ không muốn gần họ nữa, mọi thứ cứ phai đi như quần áo hay tuổi già của họ.
                          Cái mệt hôm nay nhiều hơn, đầu óc ông váng vất như muốn ngã. Dường như máu trong cơ thể muốn sôi lên dâng tràn lên não làm mắt ông mờ đi, mọi vật nhập nhèm rõ khó chịu. Ông cố gắng đi lại cho có vận động nhưng mấy lần suýt ngã. Cái bệnh huyết áp thật quái ác, chẳng khác gì cái ách gông lấy tuổi già, nó như trói chân, trói tay ông lại. Một thoáng tư lự - thôi cũng đành – cứ nằm xuống nền cho chắc – rải chăn chiếu xuống đất ngả lưng đỡ mỏi – cứ thế này là chắc nhất, chẳng còn ngã vào đâu được. Tuổi già cứ thấp dần đi, cận kề mặt đất! Có lẽ lúc đó họ nhìn thấy thật nhiều và nghĩ ra rõ lắm, cả không gian hiện lên… như quên khuấy mất họ. Chẳng mấy bận lòng về ai nữa nên cái nhìn của họ thấu suốt làm sao… cái nhìn không ôm đồm, chẳng bề bộn, bon chen, cái nhìn của kẻ bên lề nhòm vào cõi sống. Căn buồng ông ở bỗng tẻ ngắt làm sao, có thể lần đầu ông cảm thấy thấm thía như vậy… Vẫn tia nắng sáng ra vào cửa sổ, chiếc giường cá nhân có lẽ cũng đang già đi… trên tường mấy tờ lịch treo cong queo vàng ệch, năm tháng chẳng còn bao ý nghĩa. Thời gian được gạch đít cho từng ngày cần nhớ trong tháng, trong năm - ngày giỗ cha mẹ, ngày lĩnh lương hưu, ngày cháu nội về chơi, còn lại mọi ngày như nhau – ngày tháng của những người hưu trí - những cỗ máy ọc ạch già nua lần mò trong cõi sống. Bài ca của họ đã một thời vang lên trong khốn khổ để hôm nay dần dần lặng tắt trong âm thầm đau đớn.
                          Yên tĩnh quá, ông nghe thấy cả tiếng bánh xe nghiến trên đường phố, tiếng những bước chân, tiếng chào mời rao bán… sự sống như bay vút lên tầng tư nơi ông đang nằm trăn trở.
                          Đã là người phải đứng ở đâu chứ? Một câu tự vấn của người già - một câu tự hỏi không có đáp số. Thời gian tỉ lệ nghịch với đời người, nó cứ dài ra bên đời người đang dần dần co lại. Cả vạn vật đang dần dần co lại trong già nua tuổi tác, như căn phòng, đồ vật và cả ông nữa cũng đang cũ dần, cũ dần chẳng còn hương sắc sự sống. Trong cõi đời này vật chất là đời người, vì thân xác hữu hình nên nó là vật chất, để đến một ngày ta đi ra khỏi nó.
                          Ông nằm lặng dán mình trên nền đất mơ hồ nghe tiếng đời trôi với nỗi ao ước trước cửa phòng mình sẽ có bước chân ai dừng lại! Niềm ao ước như bài ca sám hối cho tuổi già, những nỗi khổ đau của đời ông như đúc lại thành cây nến mà đốt lên ngọn lửa cháy bừng biết bao điều nghĩ ngợi, với ông sẽ chẳng còn khái niệm vật chất nữa, dòng thời gian trôi qua thấm thía làm sao, họ như thấy được nó trôi qua từng ngày không trở lại, sự sống chỉ còn là tiếng vọng rã rời, khi người ta không còn đỡ nổi chính mình thì tuổi già đã đến, tuổi già là gánh nặng đè lên thân xác! Bao suy ngẫm đưa ông vào giấc ngủ…
                          Trong giấc ngủ chập chờn, bỗng ông có cảm giác một vật gì mềm mại nồng ấm đang lướt trên mặt mình. Ông lão choàng tỉnh giấc, trước mắt ông là con chó Ca phi của nhà ông bạn đang mừng rỡ chồm lên đứng bằng hai chân sau, hai chân trước chắp lại vái vái thi lễ với chủ nhà. Trong lòng ông bừng lên một niềm vui mới sau giấc ngủ. – Bác thấy không, chó với má - nó cứ như dắt tôi đến nhà bác không bằng, mình vừa lẩm nhẩm là sang bác nó đã chạy liền, ông Vân bạn cùng tổ hưu tất tưởi bước qua ngưỡng cửa.
                          - Sao thế kia? Ai bắt ông nằm đất trông mà thảm hại thế!”
                          - “Đầu óc cứ choáng váng tôi lê chăn chiếu xuống đất!” - Ông đáp.
                          Họ nhìn nhau lặng lẽ lắc đầu, con chó cào cào vào tay chủ như nhắc ông chiếc bánh. - À tôi mua biếu bác chiếc bánh giò nóng - mua ngay dưới tầng. Ông lặng lẽ đứng lên tìm bát - ăn đi ông, bọn mình răng kém ăn bánh giò lại hay – Cảm ơn bác, để tôi pha ấm trà cái đã - ông lật đật tìm ấm - bác Khởi ạ - bác Vện cùng tổ chết rồi – chết ngày hôm kia. Ông lão sửng sốt nhìn khách - hôm đó tôi định sang rủ bác ấy sang đây chơi, thấy cửa mở, gọi chẳng có ai, vào nhà bác ấy nằm còng queo dưới chân cầu thang, cũng may con Ca phi nó sủa loạn lên tôi mới vào. Lúc ấy bác ta chưa chết đâu, đau đớn lắm, bác ta còn cố rút cái ví ở túi ngực đưa cho tôi – biếu anh tôi chẳng cần nữa… đến trưa thì bác ấy mất, có lẽ cố đợi mấy thằng con… Ngẫm bọn chúng cũng đoảng… tôi gọi điện ngay nhưng chúng đang mắc việc cơ quan gì đó… mãi tới lúc bác ấy sắp mất anh em nó mới về - mà cũng may cả ba đứa cùng có mặt. Cứ nhớ lúc sống bác ấy hay phàn nàn là chẳng bao giờ gặp cả ba đứa một lúc. Nhiều khi tôi cứ ngẫm… thật rõ cái thời khốn khổ, nhà nào chẳng thế… đâu đâu cũng chỉ lo lắng chuyện kiếm tiền. Lũ trẻ thời này đứa nào cũng vậy cứ quẳng cho bố mẹ ít tiền rồi chúng biến ngay, chẳng đứa nào thiết ngó xem bố mẹ có còn răng lợi gì không mà gặm mấy đồng tiền ấy. Anh có biết không… tôi phải bế anh ấy lên giường… rồi ngồi chờ cả buổi sáng mới nẫu ruột - cứ như trên đời chẳng còn ai sống nữa không bằng. Tôi trả lại cái ví. Chúng nó cứ nhìn như hỏi mình có lấy trộm hay không mới buồn. Chúng có hiểu đâu rằng, người già ăn sao nổi những đồng tiền đau đớn đến thế… mà chúng là dân có học cơ chứ! Đứa luật sư, thằng nhà báo thì mới ức Bác Khởi ạ… thời này chúng nó là như thế!… Cứ phải kiếm nhiều tiền, thật nhiều tiền thì chúng mới sống nổi. Ông lão xẻ cho con chó tí bánh, nó nằm phủ phục bên cái đĩa, đuôi ngoáy tít, mắt hau háu nhìn chủ – đấy… có một tẹo mà anh lại còn cho nó. Nằm im… có để cho chúng tao yên không? Bàn tay ông vuốt trên bộ lông trắng đã có chỗ ngả vàng. Nó ư ử như nũng nịu. - Ông ạ… cứ ngẫm loài vật nó còn có tình… con này nó theo tôi mười mấy năm rồi còn gì… Tay ông ve vuốt trên đầu nó – Mỗi khi cứ nhìn lên mái nhà là lại nhớ đến nó… lứa đẻ đầu tiên được bốn con màu trắng toát… Thế là tôi đủ tiền đổ cái mái. Cứ ngẫm có lao động cả đời cũng chẳng đủ tiền mà làm được. Mà nó nuôi con khéo lắm bác ạ… Sáng ra bốn chú chó con như phép lạ trời cho… Nó tự đẻ, tự cắn rau, không kêu rên, liếm láp tinh tươm mới giỏi… Mà đúng là cái vận trời cho ông ạ! Nhà tôi hồi ấy đang khổ lắm… quả từ cái vận chó mà thành người. Xe máy thằng lớn, thằng bé đều từ chó mà ra. Cũng có thể kiếp trước mình là chó cũng nên… sang kiếp này chúng hiện về cứu giúp! Ông lẩm nhẩm như tự nói với mình. Câu chuyện về con chó ông nhắc đi nhắc lại đã bao lần… Ông cứ kể, cứ kể như lần đầu mới nói. Con chó nằm bên cạnh đầu ghếch lên đùi ông, mắt tròn xoe, ra chừng cũng hiểu, thỉnh thoảng nó lại liếm chân tay ông như cổ động cho câu chuyện đậm đà. Bác ạ… thế rồi cái thời chó đẻ cũng qua đi, chẳng mấy ai cần chó nữa, họ chỉ mua chó thịt – mắt ông già long lên vì bực tức - tôi không nuôi chó đẻ nữa… bán cho lũ người ấy thêm hoài chó. Ông ôm gọn con Ca phi trong lòng như thách thức với ai đó… Trong mắt ông, sau cặp kính một nỗi buồn ẩm thấp nhạt nhoà khơi lên – Sau cái thời chó má ông ạ… nhà tôi mất! Hai thằng con xin ra ở riêng… chúng dứt khoát không mang theo con chó… vì vợ nó sợ hôi sợ bẩn, mặc thằng cháu nội tôi với con chó chơi với nhau như đôi bạn… Mà cũng may… không thì tôi chỉ còn có một mình… ông bỏ kính lén lau nước mắt. Ông Khởi ạ… tôi ăn cùng chó, ngủ cạnh chó, đi chơi cùng chó - Một niềm vui nhỏ nhoi như nhóm lửa trong ông bên nỗi đau hằn vết trong trái tim người già. Buồn vui như hiện hình trong thời gian cháy dở, khi đời họ đang lún xuống trong tháng ngày vô định. Họ! những người già đã đi qua một thời đang chìm dần trong cái bóng của mình.
                          - Tôi phải về thôi – lời ông nói như trĩu xuống, vừa như lời chào chủ nhà vừa như tự nói với mình.
                          - Bác đã đi đâu mà vội thế? - Suốt từ sáng đến giờ nhà tôi đâu có ai trông, à… ngày mai bác có đi đưa đám bác Vện được không? Người mệt thế này… để tôi nói với các bác cùng tổ thông cảm – Không sao đâu… tôi thế nào cũng phải đi, tôi với bác ấy có nhiều duyên nợ với nhau lắm.
                           - Họ chia tay trong bao điều nghĩ dở… Những bước chân ông bạn và tiếng chó nhấm nhẳng cứ xa dần, nỗi cô đơn âm thầm khép lại…
                          “Ước gì mình có con chó như của bác ấy”. Một thoáng suy tư lướt qua đầu ông lão.
                           Tang lễ hôm nay đông lắm, chật ních những người. Ông lão phải nằm đấy cả ba ngày chờ người về thăm viếng. Bao bè bạn của con cái từ mấy miền hay tin nếu không về được cũng gửi điện chia buồn, gửi đồ phúng viếng. Nghe nói các đoàn từ trung ương cũng cử người về dự lễ tang. Mọi người ngạc nhiên vì cháu con ông Vện đông đến thế, cứ nhan nhản toàn những khăn xô. Ba anh con trai và mấy nàng dâu mặc áo xô đầu đội khăn cứ chạy ngược chạy xuôi cảm ơn những đoàn thể và bạn bè đến chia buồn thăm viếng, nào trướng nào hoa cứ nườm nượp người mang tới.
                          Cỗ quan tài sơn son thếp vàng uy nghi đặt giữa phòng khách. Bên trên là ảnh ông Vện với nụ cười đôn hậu. Mọi người ai cũng bảo bức ảnh tươi quá, có người lại bảo bức ảnh rõ đang vui – mà tươi hay vui thì cũng phải… Ngày đưa đám ông mà đông đủ cháu con bè bạn đến như vậy thì dẫu có xuống mồ cũng còn cảm thấy hơi ấm ở đời. Bức ảnh có cũ nhưng cũng còn tươm chán. Bảy, tám năm nay ông lão có chụp cái ảnh nào đâu… mà nếu có ảnh mới - cũng xin lỗi người chết - ảnh ông sẽ không đẹp bằng… vì từ lâu hai hàm răng ông hầu như rụng cả nên hai má cứ hóp lại trông khắc khổ đến não lòng. Con cháu treo cái ảnh kia người chết trông “hoành tráng” hơn đến mấy phần. Bên dưới bức ảnh là cả dàn huân, huy chương, dễ có đến chục cái nên bức ảnh càng được tôn lên cái vẻ bề thế của người đã khuất. Trên nóc áo quan là hai hàng nến đỏ sáng lung linh ôm lấy bát cơm quả trứng, hương khói lênh đênh hoà quyện với ánh sáng run rẩy của hai hàng nến tạo cho ta thấy cảm giác cỗ áo quan như con thuyền đang bồng bềnh trôi về đâu đó. Phía trước áo quan là cái bàn phủ khăn trắng, bên trên đặt bát hương và ba cái mâm để tiền phúng viếng. Dọc theo hai bên quan tài, bên phải là phường bát âm, bên trái là con cháu và gia đình đứng đáp lễ mọi người về thăm viếng. Tiếng kèn, trống cất lên khi mọi người tiến vào phúng viếng. Họ đặt lễ thắp hương vĩnh biệt người đã khuất, đi vòng quanh áo quan nhìn mặt người chết lần cuối trong những âm thanh não nề như miết vào lòng người đang sống. Họ siết tay chia buồn với gia đình và những tiếng khóc nhịp nhàng cất lên thay lời cảm tạ bao tấm lòng bè bạn tìm về thăm viếng.
                          Cõi sống và đời người, rộng lớn như căn nhà chứa đựng hạt cát, khi linh hồn cảm nhận được hơi ấm và sự no đủ của nó thì sự sống của họ đã qua bờ. Sự sống là chân lí bên đời người phi lí làm sao! Tiếng kèn trống cất lên như lời dụ dỗ biết bao người đang sống… Người chết mọi giác quan đã ngủ yên… tiếng mõ ấy tiếng kèn kia như đùa cợt cõi đời ru ngủ – giữa bát ngát thinh không, linh hồn sẽ thoát đi bỏ mặc lại cõi đời khổ đau bề bộn. Khi cõi sống sa thải họ… không muốn nhìn thấy họ nữa… cái đời người “quá đát” - hãy về đi… bao nhang khói, những vòng hoa như là tiếng khóc cho bao người đang sống… Những dòng nước mắt chợt ngưng chợt chảy, bao âm ba lời nói chợt buồn chợt vui. Những gương mặt chợt sáng chợt tối, đó là cõi đời! Hãy đến đây – hãy về đây mà nhìn, mà ngó khi hồn người lìa xác - Cõi thinh không của một đời người – Một bài ca không còn sóng vỗ, tất cả chỉ còn là yên lặng – im lặng và im lặng – hãy về đi – về đi.
                          Có lẽ đoàn các cụ là cuối cùng của dòng người thăm viếng. Có thể vì đông quá, bề thế quá, nên các cụ cũng đành nán lại vào sau, mà cũng đành… Tuổi già chẳng đi đâu mà vội, nên các cụ cứ lặng lẽ tụ tập đứng chờ - mà chờ một người bạn già thì mọi lẽ cứ nhẹ nhõm làm sao – Các cụ cảm thấy kiêu hãnh, thú vị cho kiếp sống của bạn mình - Đông thế - đông lắm - phải thế chứ… anh ấy sinh thời quan hệ rộng, nên lúc chết mới lồng lộng thế này… cứ dòng dòng toàn người với vòng hoa… Ngẫm có chết thì cũng đáng, vạn sự như nêm lấy một đời người như vậy cũng bõ - cũng bõ đã được sống làm người – Mọi chỗ cứ hầm hập mà hỉ xả, hoà quện vào nhau trong tình nghĩa mất còn – Cõi sống rạo rực bên cỗ quan tài thắp lửa. Các cụ cứ ngẫm mà thấy thèm… Xác chết như cái thước đo, thập thò, dài ngắn. Sự hữu ích của một đời người có lẽ là thế - khi chẳng còn mưu sinh vẫn dậy mùi cõi sống! Sự lèn bén đâu đây như chừng đang thức dậy, như nhón lửa đầu nén hương lặng thầm gặm nhấm. Cõi sống như chợt say, chợt tỉnh, chợt buồn, chợt vui, nó hiện sinh như mớ rau buộc túm, như vòng hoa kết lại nụ cười… Tất cả dường như phó mặc đời người có sinh, có diệt, có đến, có đi, nỗi đau đớn khả ái còn bừng thức trên từng gương mặt, chảy thành lời nói mà khoan, mà vít cõi đời trong tang lễ - Mọi thứ như vón lại, đầy ắp, hương hoa, bổng lộc, nghĩa tình, bao bề bộn chất ngất như khoanh lại một sự sống hư vô… đời người có lõi, mấy ai đào sâu mà nhìn thấy được - Ta chợt thấy buồn thấy vui – ta vui vì cuộc đời còn dở… ta buồn vì sự sống đã qua… Có một thứ gì đó ngấp nghé bờ vực trong cái nhìn các cụ – nó dở khóc dở cười như đời người hưu trí. Họ thương yêu đùm bọc một thứ gì đó… và chỉ thế thôi – họ tự thương mình khi cõi đời đang dần dần quên họ. Sự chết đâu phải là cái lõi! Cuộn chỉ cứ quay và cứ nhả, dòng thời gian lúc thít lúc buông. Người già hiểu nó như đường tơ kẽ tóc, có đấy và mất đấy. Chẳng hẹn hò sao lòng họ vẫn thương nhau – Họ tề tựu bên cái chết mà chia tình sẻ nghĩa. Người chết như đang sống lại bên bàn cờ với bao vui buồn một thuở, nhỏ bé thôi… là hàng ngày họ có nhau và họ chỉ còn thế, cả cõi sống dường như thu nhỏ lại khi đời người già cỗi – sự cô đọng lãng quên trong dòng chảy cõi đời. Sự mê muội chảy trong mê muội. Dòng tuần hoàn lặng lẽ buồn trôi… Có một lúc nào đó văn chương như một gã say chạy theo thời gian mà gạ gẫm, vẽ vời về một thứ gì đó đã qua - nhưng cũng chỉ thế thôi… như son phấn điểm tô bờ vực.
                          Họ túm tụm bên nhau, mỗi người mang đến một hoài niệm về người đã khuất, họ như nói với người chết, vừa như nói với ai đó quanh đây về những tưởng niệm một thời.
                          - Bác có thấy không…? đời người chỉ vèo một cái là biến mất tăm… - ông lão đứng bên buồn bã nói - ông Vân dáng vẻ tần ngần, tay mân mê sợi dây xích con chó – Cái gì rồi chẳng phải biến hả bác… Ở đời xưa nay vẫn thế. Tôi cứ nhớ hồi bác Vện chưa nghỉ hưu, nhà cửa cứ tấp nập những khách là khách - ông lặng lẽ giật xích con chó như người đang mộng du, con chó lặng lẽ nép vào chân chủ – rồi người đến cứ thưa dần, thưa dần, chẳng còn ai nữa… giọng ông trĩu xuống như kẻ mất hồn - Anh thấy không? – lời nói như căng ra, sự phẫn nộ như trào lên đâu đó trong ông – ở đời này là thế, mọi thứ cứ biến dần, biến dần cho đến khi ta chỉ còn trơ trọi ở đời, trụi thùi lụi như con gà bị vặt lông chỉ còn chờ lên thớt nữa là xong! – nhà tôi ngay bên cạnh mà… - hiểu trước về sự cô quạnh… nên tôi tìm sang anh ấy… Cuộc đời khi chẳng còn chức quyền thì cũng như ai thôi, cùng chẳng ăn được nhiều, ngủ nghê thì cũng vậy, tiền bạc cũng chẳng màng, không đùm bọc nổi ai nữa… thế là xong, có lẽ đồ vô dụng đều như nhau cả - cõi đời xưa nay là thế… mọi thứ cứ thưa dần thưa dần rồi quên lãng – anh cứ thử ngẫm… mình cần quái gì cơ chứ… già thì ta lại có kiểu già chứ sao? - ông như tự khẳng định với mình như thế – Tôi quý bác Vện vì anh là người ngay thẳng, chẳng ưa trò ỡm ờ khuất tất - cứ nhớ mãi, có một hôm tôi đến chơi đúng lúc hai bố con anh đang chất vấn nhau về một điều gì đó, cả hai bố con đều là quan chức nhà nước, mang trong mình dòng máu của Đảng, tôi nhớ mãi anh con trai lý giải với cha mình: “Ở thời bố Đảng ta khép cửa, vào thời con Đảng mở cửa ra” – “Tao rất ghét ỡm ờ… mày thử giải thích cho tao thế nào là khép với mở… tao là Đảng viên về hưu chất vấn mày là người đương chức”.
                          “Anh có biết không? Tôi rất thích sự ngay thẳng, mà có lẽ người già ai ai cũng thế… họ dám nhìn thẳng vào mọi sự tốt xấu ở đời. Dù rằng chẳng còn là ngọn lửa thiêu đốt nữa… nhưng nó là cái nhìn thấu suốt, tinh tế đến làm sao – một cái nhìn không còn tiếng nói, một cái nhìn tự vấn, một cái nhìn bất lực trong cái nhìn… Tuổi già như con tàu đắm. Trong khoảng khắc chợt chìm nghỉm… chỉ còn họ với họ… thế thôi… rồi lặng tắt! Đời họ như cái bơi chèo đã mỏi và đại dương như cái miệng há mồm. Cõi đời trả lại cho thời gian như tiếng chó cằn nhằn gọi chủ”.
                          “Tao đã bảo mày ở nhà… cứ đòi đi theo mà lắm chuyện” - ông lão như dỗi dằn cùng con chó - Ông ạ… buồn vui lũ chó nó biết cả đấy. - Ông Vân như được dịp nói về con chó. – Nó chẳng hay sang nhà ông Vện mà… vừa được ăn còn được chạy nhảy. Sáng nay tôi định xích nó ở nhà mà nó không chịu… nó cứ chồm chồm, sủa vang đòi đi đưa đám… Thật đúng là “khuyển mã tri tính”… nhưng mà ông ạ… nó biết từng người trong tổ, chỉ nhắc tên là nó chạy tới liền. Nhiều khi ngồi cứ ngẫm… cũng may về già còn có con chó… nó liếm bàn chân ông như khẳng định cảm tình của nó - Nhiều khi nhìn nó tôi cứ ngẫm… ở đời… mất cái nọ được cái kia, thật rõ ông Trời chẳng tận diệt với ai bao giờ… Mình lủi thủi mà có nó bên cạnh như có thêm người cùng sống. Nó là mình, mình là nó, nhiều khi đỡ buồn bác ạ. Họ lặng lẽ nhìn con chó mà thông cảm cho nỗi buồn của nhau. Loài chó là giống vật hữu tình, nó cứ quanh quẩn bên người mà sinh mà sống, nó bù lấp biết bao chỗ mà đời người chẳng có, những thiếu khuyết muộn phiền… Chó học tính người, người học tính chó - Anh có biết không… nhiều sáng tôi mệt không buồn dậy… nó cắn chăn lôi tôi dậy và mình phải dậy theo nó. Nhiều khi mình chẳng muốn ăn nhưng nó đòi ăn làm mình chợt thấy thèm ăn theo nó. Mọi thứ tủn mủn như bay biến đi đâu… thế mới lạ… mình như đang muốn sống để mà dạy dỗ một thứ gì đó cho ra hồn. Anh thử nghĩ xem… nuôi chó nhiều khi thật hữu ích. Loài người không gần động vật, nhiều khi trở nên khô cằn máy móc làm sao… cứ học thuyết nọ, triết học kia như cỗ quan tài chở người về đất, cứ gần giống chó nhiều khi ta thèm sống vì chúng luôn nhắc nhở ta là người, mà là người thì phải gọt dũa mà nhiều khi gọt dũa còn chẳng đâu vào đâu… đã là người nhiều khi cứ phải làm đi làm lại sao cho giống một cái gì đó mà lòng ta ước muốn và có thể loài chó cũng vậy… Niềm ao ước như giấc mơ đặt trước muôn loài mà dụ dỗ cho đất trời thức dậy.
                          Giữa đám tang ông chợt cười… tiếng cười như xé rách biết bao điều giả dối mà người đi bỏ lại… Mọi người nhìn ông, ông nhìn mọi người trong tiếng cười nước mắt. Bác có biết không… ngày hôm qua công an phường bắt tôi làm tường trình về cái chết ủa bác Vện… vì tôi là người đầu tiên chứng kiến… tôi phát khùng nói thẳng với họ: “Việc này có pháp y cần quái gì tới tôi”. Họ đấu dịu bảo tôi: “Bác thông cảm… đó là thủ tục nhà nước đối với tính mạng công dân”. Tôi chợt nghĩ: “Người già sống vạ vật có đứa nào buồn ngó đến đâu! mà cũng có thể chết rồi lại thành có giá - cái giá trị thằng người. – Nghĩ lại cũng khổ… hôm lĩnh lương tôi chạy sang bác Vện báo tin lương tháng này tăng mấy phần trăm thì bác hàng xóm báo anh mới mất hồi sáng… nhiều khi tôi cứ tự nhủ mình… trời chưa cất thì ta cứ bước…” - Ông lão trầm ngâm như người nửa tỉnh nửa say, cặp kính lão nhờ nhờ trên mắt như ánh sáng sự đời chẳng buồn chui qua lối ấy.
                          - Chẳng có tăng trưởng gì đâu… anh cứ thử nghĩ mà xem, lương tăng vài ba phần trăm trong khi mọi mặt hàng cứ tăng vọt thử hỏi tăng giảm có nghĩa lí gì? Còn hàng bao nhiêu thứ nữa chứ… nào đóng tiền an ninh, nào đóng tiền người nghèo vượt khó, tiền giúp đồng bào lũ lụt, mà lương người hưu trí được có là bao… miếng ăn cứ nhỏ dần đi thử hỏi lấy gì là sống! Họ lặng lẽ nhìn nhau mà buồn cho thân phận.
                          - Tiếng kèn trống như gọi người đến, như tiễn người đi, đoàn các cụ tề chỉnh giàn hàng ngang đứng trước linh cữu tiễn biệt người quá cố. Ông Khởi đại diện cho tổ các cụ, tay run run đặt chiếc phong bì lên mâm, nhưng khổ thay… hai lần đặt đều rơi tẹt xuống đất. Không biết vì run tay hay tại phong bì nhẹ quá. Có lẽ vì các mâm đều đầy đặn đến có chóp, nên nhiều khi rõ phiền cho người phúng viếng. Các cụ lặng lẽ vái người đã khuất, trong tiếng kèn nỉ non tiễn biệt - Những cái bóng già nua lặng lẽ trên đời như
                          món nợ không có người nhận trả… họ lặng lẽ bên nhau như một cộng đồng riêng biệt. Sự lãng quên như mặt nước khép lại trong chiều, mọi thứ đã chìm xuống đáy, chỉ còn lại sự quên lãng đâu đây trong lòng những người già sống dở.

                          Anh trưởng nam trang nghiêm đọc lời vĩnh biệt: “Cha của ba anh em chúng tôi Nguyễn văn Vện… sinh năm… sau một thời gian lâm bệnh nặng, mặc lòng con cháu và cả gia đình tận tâm cứu chữa, người đã ra đi… vĩnh biệt bè bạn và cháu con… Những người bạn mất đi một bằng hữu… những đứa con mất đi một người cha… đàn cháu con mất đi một người ông… đứng trước tổn thất lớn lao này… tôi xin một phút mặc niệm để tưởng nhớ và vĩnh biệt người”. Trên gò má anh trưởng… hai dòng nước mắt trào ra… trong nỗi nghẹn ngào không thành tiếng.
                          Người ta mau chóng giải quyết ba cái mâm và cả đàn con cháu xúm xít nâng quan tài trong tiếng khóc ào ào như con thác… ba người con đứng sau xe hai tay vái đáp lễ mọi người. Xe chuyển bánh, ông Vện như hạt lạc củ vùi giữa rừng hoa, trong những tiếng khóc thê thảm kéo lê trên đường phố. Dòng người như con nước đổ về lặng tờ trong nhang khói, đoàn các cụ lẽo đẽo sau cùng, nào người nào chó, lẳng lặng đi trong buổi chiều nhợt nắng. Bóng họ xiêu vẹo trên hè, cứ lớp lớp như những hồn ma xếp hàng chờ đến lượt, thỉnh thoảng họ thì thầm với nhau một vài điều gì đấy: “…Điếu văn gì mà điêu đến thế… chúng nó có ngó ngàng gì đến ông ấy đâu” - Ông Vân đi bên cạnh lặng lẽ lắc đầu: “Cũng thông cảm ông ạ, điếu văn thời này người ta in sẵn, cứ điền tên điền họ vào là xong” - họ lắc đầu: “Anh con trai là nhà báo cơ đấy, đúng là một lũ vô học”.
                           
                          2005
                           
                          #13
                            vuthi 02.04.2009 00:33:14 (permalink)
                            Ô CỬA SỔ
                            Tặng Hoàng Huyền Mi
                             
                            Ô cửa sổ có lẽ là ý tưởng cao quý mà mỗi vị chủ nhà đạt được, qua nó người ta như mời cả không gian thoáng đãng vào nhà, thật đắc ý khi cả trời đất như hòa vào bạn, căn nhà như mở rộng ra mà ôm lấy tất cả cuộc đời. Nhưng cõi sống nhiều khi không đến thế. Chẳng phải sự tốt xấu của ô cửa mà bởi tại những cuộc đời trong đó. Nỗi ám ảnh vật lộn của những kiếp người, sự chật chội đau đớn dường như không hiểu nổi cứ to lớn dần lên để đến một ngày cả không gian sống của gia đình dường như tắc nghẽn. Nỗi bức bối làm cho chúng ta không sao chịu nổi, tất cả cứ nhoài ra cửa mà hít thở không khí trong lành! Họ muốn thoát ra khỏi phòng - Cái tổ ấm suốt đời vun đắp.
                            Câu chuyện là thế – Vào một buổi sáng đầu thu khi lòng tôi không còn chịu nổi nỗi buồn đến thế – Chắc các bạn cũng hiểu sự lầm lỡ trong mỗi gia đình chúng ta, loanh quanh chỉ tại bát cơm, manh áo, sự đói khổ như đè nặng lên mọi kiếp người, nó lấn át đi phần hồn vốn vô hình yếu đuối, nên nhiều khi gây tổn thương không nhỏ cho mọi kiếp người, họ trở thành lạc lõng xa vời trong cõi sống.
                            Tôi thẫn thờ ngồi trên ghế nhìn qua cửa sổ, trong lòng nằng nặng buồn đau. Ngoài kia, một buổi sáng tinh mơ chan hòa sự sống, tôi nặng nề lặng ngắm nỗi buồn cứ nhen nhóm khơi lên! Ta nhỏ bé xiết bao trong quang cảnh buổi sáng đang bừng thức dậy, nỗi thấm thía về ô cửa sổ nhà mình! Chợt bên sân nhà hàng xóm cô chủ nhỏ ngồi bên thềm thả hồn trong cô quạnh. Nàng cũng có tâm trạng buồn như tôi, hai linh hồn chìm trong đời quên lãng! Tôi với nàng nhìn nhau lặng lẽ trong nỗi thấm mệt cuộc đời, ánh mắt nàng như xa vời nương náu, như kéo tôi lại gần, giữa âm thầm sâu thẳm người nọ chợt thấy mình trong người kia và tất cả… trong thầm lặng, ánh mắt như nói với nhau bao điều. Chợt đứa con nhỏ ôm lưng nàng, nép vào mẹ, chúng tôi lặng lẽ chào nhau. Bên nhà tiếng nàng chợt cất lên buồn thảm:
                            - Tôi khổ lắm! Lo ăn cho cả nhà còn đâu tiền cho anh hút sách…
                            Tôi trở về với bổn phận hàng ngày, lòng mang nặng biết bao điều nghĩ ngợi! Con người cứ phải hi vọng! Niềm hi vọng lấy đi trong ta rất nhiều nhưng trả lại chẳng còn bao nhiêu và nhiều khi còn trắng tay vì nó, cái nghèo đói như vít cõi đời này xuống, sự sống bỗng trở thành luẩn quẩn loanh quanh vì đó dường như là thiết thực, loài người trở nên háu đói, khát thèm, bóng dáng của tâm hồn chìm vào quên lãng, tất cả dành cho thể xác, sự sống phải chăng là thế?
                            Lại một buổi sáng!…
                            Một ngày mới bắt đầu khi tiếng gà gọi sáng, tiếng chó sủa cằn nhằn dưới sân. Xa xa một vùng hồ nước xanh êm như đang ngủ. Tôi lặng lẽ ngồi bên cửa sổ. Câu chuyện hôm qua chẳng sót lại trong đầu. Một ngày mới trải dài, đều đều lặng ngắt! Tất cả vẫn chỉ thế thôi, mọi người coi đó là sự bình yên, còn riêng tôi là giờ tàu chạy! Tôi lặng lẽ ngồi trên ghế nhìn qua “cửa tàu”, thế đấy! Mọi người nghĩ sao chẳng được! Một ngày mới trên “sân ga” nhà tôi. Cuộc chia ly nho nhỏ với bao điều quá khứ, không người đưa đón, chỉ có mình tôi lặng ngắm cõi đời! Tất cả vẫn thế, mọi vật dường như không đổi, chỉ có lòng ta tan đi với bao điều tiếc nuối thường ngày. Bên hiên nhà hàng xóm, cô chủ nhỏ ngồi lặng lẽ nhìn trời, mái tóc xõa trải dài trên hai bờ vai mỏng. Tôi ngắm nàng như chiêm ngưỡng một pho tượng nhỏ bán thân tĩnh lặng. Nàng là hình ảnh đưa tiễn cuối cùng trên “sân ga”. Chúng tôi nhìn nhau, cái nhìn trong sạch, vừa đầm ấm làm sao, vừa như lời chào, như là thân thuộc cảm thông. Khoảng khắc ấy ta chẳng biết làm sao cả. Cõi sống như bị cuốn hút trong mắt nhìn. Mọi nhục cảm tan biến chỉ còn sự hòa đồng giao cảm, người nọ như nâng người kia dậy trong nỗi buồn khó tả! Cuộc chia ly không lời nói, chỉ là ánh mắt. Một ngày mới bắt đầu như biết bao ngày khác, nhưng trong lòng tôi một niềm vui nhỏ nhoi đang lặng lẽ khơi lên, niềm vui không lời nói, không tên tuổi, không hứa hẹn nhưng nó làm cho cõi lòng ta ấm lại. Bên sân nhà, nàng đang tất tưởi đi chợ. Ánh nắng ban mai như dòng nước trôi trên ngõ nhỏ.
                            Lại một buổi sáng đang về!…
                            Tháng năm như trôi đâu mất, người ta luôn phải vật vã với lo âu. Tôi thường quên tháng, quên năm mình đang sống, có lẽ bởi tại nó giống nhau quá, ngày nọ như ngày kia, đều đều như cát bụi, cõi sống như bức họa tĩnh vật lặng lẽ trên tường. Ô cửa sổ vẫn nguyên vẹn hình hài, kích thước, một sự bằng bặn đến hãi sợ! Tôi chờ đợi sự chia lycho từng ngày. Bên cửa sổ vẫn chỉ là cái ghế! Thế thôi! Tôi sẽ ngồi suy tưởng về một điều gì đó! Mà cũng chẳng biết là chuyện gì! Tương tự như khói nhẹ nhàng bay đi! Con chim nhỏ đậu trên cành đa trước ngõ mải mê nhảy nhót. Nó cố tìm lấy chút gì dành cho buổi sáng, mặt hồ bàng bạc trong sương, trên bến thuyền câu bồng bềnh ngái ngủ. Tôi lặng lẽ ngồi nhìn ra ngõ. Nàng đang vội vã ra đi, dáng người thanh mảnh như bay trong buổi sáng. Nàng không nhìn ai cả, chỉ còn công việc, mặc tôi ngắm nàng và nàng biết có người đang nhìn mình. Mọi cử chỉ nhanh nhẹn, dứt khoát như cố gắng thoát khỏi ô cửa sổ! Trước lúc lên xe, trong khoảng khắc, nàng nhìn tôi và nụ cười mệt mỏi lặng lẽ trên môi, và mãi mãi cái nhìn ấy làm lòng tôi ân hận! Một thế giới đang chìm đi trong tiếc nuối, một cõi sống dường như không dành cho tình yêu, ở đó chỉ còn là bổn phận, nàng cố gắng làm theo nó. Tôi lặng lẽ nhìn theo bóng nàng như chia ly với chính mình buổi sáng.
                            Một buổi sáng lại về!...
                            Đời người như căn nhà, ngày tháng như từng viên gạch xếp thành hàng mà bồi đắp lên. Ở trong đó biết bao những góp nhặt buồn vui một thuở, người ta yêu thương và lạc lõng trong nó, chìm nghỉm trong chờ đợi! Có lẽ ngày mai sẽ thay đổi và ngày mai vẫn thế thôi! Để đến một ngày những hàng gạch như đè nặng thêm lên cõi sống, tòa lâu đài to lớn ấy như được kết dính bằng bao điều buồn thảm, người ta không tưởng trong cõi sống không tưởng, tất cả đều cố gắng và tất cả không gặp nhau, người ta cố lý giải rằng người nọ đang rất yêu người kia và tất cả.
                            Sáng nay, tôi khép cửa sổ vì không muốn nàng nhìn thấy… Qua ô cửa kính xanh đen tôi thấy nàng lặng lẽ nhìn lên, gương mặt nàng mệt mỏi vì lam lũ! Một thoáng suy tư lướt qua trong mắt và mọi việc lại bắt đầu! Nàng như cái kiến, con ong cứ lặng lẽ thả đời cho bổn phận. Sau lưng nàng là những đứa con và tôi cũng thế! Chẳng mấy ai bước ra khỏi nhà mình mà quên lãng! Có một thứ dường như không lặp lại đó là tình yêu!
                            Một ngày mới lại về!...
                            Trong cõi sống có những thứ đã mất mà ta vẫn tìm hoài không tưởng, khi hiểu ra cõi lòng như tan theo bao điều mất mát. Vật quý vô tri giác! Kẻ tầm vật quý có tri giác sẽ đau khổ xiết bao. Tấm lòng họ như bao dung cõi sống mà nâng cõi sống lên, nên trong mắt họ cỏ dại còn ánh lên màu ngọc.
                            Sáng nay, tôi ngồi sau cửa kính, không dám làm phiền nàng nữa, nhưng lại tự làm phiền chính mình. Ngẫm cũng lạ, loài người luôn làm phiền nhau để mà khẳng định ta đang tồn tại, không toại ý. Họ tự dằn vặt mình trong đau khổ như kẻ lạc loài bị cả thế giới bỏ rơi. Nàng đang lặng lẽ phơi quần áo cho lũ trẻ trước sân, những tia nắng mong manh vờn trên nếp áo, thỉnh thoảng nàng lại nhìn lên cửa sổ trong nỗi quên lãng đợi chờ! Tôi tự hỏi liệu có tình yêu trong cõi sống này không?
                            Một ngày mới chưa về!...
                            Hôm nay buổi sáng chưa về, màn đêm như níu cả không gian tĩnh lặng. Cành đa trước ngõ đờ đẫn trong sương. Sóng hồ vỗ vào đêm tiếng thở, ô cửa sổ trống rỗng lặng tờ, tôi ngồi trên ghế thả hồn cho suy ngẫm! Khi cõi sống lắng xuống, ngừng vận động thì linh hồn vật vã ngoi lên, người ta suy nghĩ và ngẫm ngợi bao điều! 24 giờ của một ngày! 24 giờ của một đời gom lại! Đời người, cái kho sống chứa chất biết bao điều không nói! Tôi suy tưởng về nó như nhìn ngắm chuỗi ngọc chẳng vẹn hình hài. Từng viên một lặng tờ trống rỗng! Nhân loại hay bàn đến chuyện mất của, còn tâm hồn thì sao? Có thể tâm hồn là điều tế nhị, nên nó cứ chìm vào quên lãng.
                            Chiều qua tôi gặp nàng đầu ngõ, chúng tôi nhìn nhau rất gần trong khoảnh khắc! Trong mắt nàng nỗi buồn đổ vỡ đến hoang sơ! Tôi định nói điều gì, nhưng nàng nói:
                            - Chú ơi, có lẽ cháu ra đi! Và tôi hiểu cái gì phải tới đã tới! Tôi khuyên nàng thương lũ trẻ và mọi thứ nàng đã làm, song tôi hiểu mọi lời khuyên chỉ là hư ảo, nó như khuyên người ốm là không nên ốm. Chúng tôi chia tay trong buổi chiều nguội nắng. Nàng đi ngược con đường tôi về nhà, một cuộc chia ly tôi hiểu rằng sẽ tới. Văng vẳng trong chiều tiếng máy hát nhà ai cất lên bản nhạc của Trịnh Công Sơn.
                            - “Thôi về đi đường trần đâu có gì! Tóc xanh mấy mùa! Ôi phù du...”.
                            Lời thơ như lưỡi dao cứa vào cõi sống, nó thật quá! Thật như cuộc chia ly giữa tôi và cô bạn nhỏ trong chiều, tất cả đã cố gắng song chỉ thế thôi! Có thể tôi là người bạn duy nhất mà nàng thổ lộ như lời chào vĩnh biệt – Vĩnh biệt con ngõ nhỏ đã chôn sống tuổi thanh xuân, vĩnh biệt biết bao mộng ước mà đời nàng buông thả. Có lẽ sáng nay nàng đã đi rồi! Có thể không người đưa tiễn, nàng sẽ nhìn lại ngôi nhà chồng, ô cửa sổ bên hàng xóm rồi lặng lẽ ra đi. Liệu thời gian có là điểm tựa cho sự sống đời người hay không? Khi cõi sống mãi mãi vẫn chỉ là câu hỏi!...
                            Thời gian như sáng dần lên, một ban mai dường như đến muộn. Trời có thể nắng, có thể mưa như con người có thể sung sướng hay khổ đau nhưng nỗi ước ao là bài ca cất lên từ cõi sống. Tiếng hát ấy cất lên vượt qua tháng, qua năm trong mỗi đời người. Tôi lặng lẽ ngồi trên ghế nhìn ra ngõ nhỏ. Bao nếp nhà thiêm thiếp trong sương, sự trầm mặc của đêm dường như vẫn đó. Ngõ nhỏ vắng lặng không người, như thể họ đang đi đâu trong cõi sống mà tìm cho mình tình yêu hạnh phúc. Những ô cửa sổ nhấp nhô cao thấp lặng lẽ trong trời. Chẳng hiểu sau những ô cửa kia có những ai đang nhìn ai trong âm thầm, lặng lẽ… Không hiểu rồi thời gian tôi có gặp lại cô bạn nhỏ của mình nữa không, nhưng tôi tin rằng mỗi người trong cõi sống đều có một chỗ để chết cho mình! Họ phàn nàn nhưng chấp nhận nó như một điều không thể khác và có lẽ những ô cửa kia vĩnh viễn là những con mắt quầng sâu thức dậy. Một ngày mới lại về, tôi lặng lẽ nhìn bầu trời sâu thẳm, vạn vật bình yên làm sao! Mặc cõi lòng ta dường như đang mất mát thêm một điều gì nữa! Rất nhỏ thôi, nhưng đó là giọt nước mắt của tâm hồn sâu thẳm.
                            1/8/2002
                            #14
                              Ct.Ly 02.04.2009 06:19:40 (permalink)
                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 28 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9