Tập truyện ngắn của VU THI.

Tác giả Bài
vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Tập truyện ngắn của VU THI. - 26.02.2009 20:22:55

ĐÁ ĐỎ

Truyện ngắn của Vũ Thi

Mẹ kiếp! (câu chửi thề đay nghiến như một tiếng thở dài). Hắn nhìn đôi bàn tay xù xì rạn vỡ dưới cái quầng sáng nhờ nhờ cuối ngày, có lẽ những tia nắng cuối cùng còn lọt lại rơi rớt xuống đáy giếng sâu. Hôm nay thấy nắng, có lẽ trên mặt đất phải là nắng to lắm. Mùi khen khét của bùn, đất, sạn, sỏi bốc lên làm nghèn nghẹt trong phổi hắn. Hắn ủ rũ nhìn những tia nắng hiếm hoi trong ngày còn rơi rớt đáy sâu, nơi tận cùng thế giới. Không hiểu sáu mươi mét đã là sâu chưa? Một khoảng rộng chừng hơn mét vuông chênh chếch vào núi chừng như đang nuốt đời hắn vĩnh viễn vào trong lòng đất. Hắn chán nản đào những nhát cuốc cuối cùng trong ngày. Có lẽ trên mặt đất gần 6 giờ (hắn lẩm bẩm trong miệng). Phía trên giếng dây gầu dần dật như nhắc hắn làm việc. Những nhát xẻ hằn học gằn lên trong lớp bùn sỏi nghe xào xạo như ai đang đào vào óc hắn. Nỗi đau đớn, tù túng như nén hắn lại bật ra một câu nói như gầm:
- Kéo lên đi!
Khi chiếc dây gầu căng thẳng từ từ kéo lên xảo sỏi đá lướt qua mặt hắn, một tia sáng đỏ ánh lên màu máu. Như cái máy, hắn chồm lên với dây gầu kéo lại, thò tay chộp lấy cái tia sáng ánh màu, bên trên tiếng cằn nhằn.
Hắn nhướng cổ lên phía trên quát to:
- Vướng mẹ nó phải áo tao, đổ cha nó hết rồi! - Hắn hất cái sảo sang bên, nhanh tay xúc đầy sảo mới. Hắn run run cầm viên đá, có lẽ đời hắn lần đầu được sờ tới một viên hồng ngọc lớn và đẹp như vậy.
Bên trên vọng xuống tiếng gọi “Về thôi”, cứ như tiếng vọng xa xăm gọi hồn người chết. Không đắn đo, cả viên đá lẫn bùn cát hắn đưa lên miệng và nuốt ực. Bụng thì đói, trưa được cái bánh mỳ chắc đã tiêu từ lâu, nên viên hồng ngọc trôi đến đâu cứ như cứa vào ruột gan hắn đến đó nỗi đau xót.
- Lên mẹ mày đi, không bố mày cho ngủ luôn dưới ấy bây giờ.
- Tao đang đau bụng! Hắn với lấy cái móc quàng vào dây lưng. Bên trên mấy đứa cẩu hắn như bay lên mặt đất, tay chân quệt vào thành giếng rát bỏng. Cơ thể hắn như quả đạn bắn lên trời rơi phịch xuống đất trước những tiếng cười đùa của dân đào đá - Hắn đau đớn quằn quại trên mặt đất mồ hôi vã ra như tắm. Thằng bưởng trưởng vỗ vào đít hắn vừa cười vừa lần từng túi hắn xem có thất thoát chút nào dưới hố hay không. Hắn đờ đẫn nhìn cái bộ mặt phèn phẹt, mắt to, mắt bé của gã như muốn cắn cho nát cái đầu súc sinh đang run lên vì khoái trá. Hắn lồm cồm bò dậy. Một cái gì đau nhói như dao cứa vào dạ dày. Chắc cơ thể con người đang thử tiêu hóa viên đá đỏ - Loài đá cứng như kim cương, cạnh góc sắc như dao. Nghĩ đến đây cái đau càng thêm dữ dội. Một thoáng suy nghĩ lướt qua đầu: Phải tọng cái gì vài bụng cho dạ dầy căng ra thì đỡ khổ. Hắn cố ôm bụng lê nhanh về lán. Mọi người lộn xộn, mỗi kẻ mỗi góc đang vừa nhai bát mỳ lèo phèo mấy cuộng rau, dăm ba khoanh thịt thủ vừa tán chuyện bậy bạ trên trời dưới biển.
- Chán ăn thèm lên nóc tủ à? Để tao đỡ! Mấy gã cười hô hố. Hắn lặng lẽ cầm bát mỳ lê về góc cố nuốt chừng nuốt chạo cho đỡ đau. Mỳ đi đến đâu trong ruột hắn như thấy được và cuối cùng mọi sự đâu vào đó. Hắn lặng lẽ lê về chỗ ngủ. Tiếng lạo sạo trên sạp làm hắn ghê người. Nỗi mệt mỏi như dán hắn xuống nền lán mặc cho hồn vía bồng bềnh phiêu du. Hắn thấy cái miệng giếng, thấy bao đoàn người thất thểu trên đường, hắn thấy những mặt người méo mó, nhếch nhác khổ đau và bao tiếng gào thét man rợ vì sung sướng. Chừng như cả nhân loại đang bu lấy cái ngọn đồi tỷ. Những đoàn xe gắn máy chen nhau luồn lách tới từng lán mà trao mà đổi, mua, bán, đâm, chém. Tiếng rên rỉ của thằng bên cạnh vang lên như lay thức hắn dậy. Thằng cha này bị sốt rét ác tính đã mấy ngày nay.
Khi đến, hắn to khoẻ là vậy thế mà giờ như cái hồn ma bẹp dí. Gã rùng mình, một trận đau như xé tan cơ thể hắn.
- Ối mẹ ơi, đau quá! Hán ơi! Hắn la trong rên rỉ! Mày đỡ anh một tư, Hán ơi!
Tất cả vẫn yên lặng ngoài tiếng ngáy của mấy chục cái xác không hồn. Hắn chợt tỉnh, một thoáng suy nghĩ, lướt qua trong óc. Hắn lê đến bên ngọn nến, với bao diêm và cây nến lết ra ngoài đồi. Những ngọn gió đêm hè thổi nhẹ như nâng hắn dậy. Xa xa đầu non, mảnh trăng như ngoặc vào đêm tối. Hắn mò đến chỗ vắng mà làm cái công việc tháo dạ, viên hồng ngọc như cái nút bật ra khỏi hậu môn để “cho” hắn nỗi đau đớn cùng cực. Cứ thế đầu hắn gục xuống sườn đồi, song hắn lại cố gượng dậy, mò mẫm trong đám phân bầy nhầy. Đây rồi! Hắn chìa tay về phía ngọn nến, viên đá nổi lên giữa lòng bàn tay vấy máu. Cầm nến soi lại, hắn đi ngoài ra toàn máu, nhưng cơn đau có vẻ nhẹ đi. Làm thế nào bây giờ! Để viên hàng ở ngoài thì kiểu gì cũng mất, mà còn ốm đòn, hắn nhìn ngọn nến mà nghĩ ngợi. Đúng rồi để viên hồng ngọc lên cái lá cho nến chảy bọc trùm lấy viên đá. Hắn khẽ nặn cho những cạnh sắc êm ru phẳng lỳ và cả quyết đưa lên mồm gửi nó vào trong ruột, lần này có vẻ êm ả hơn lần trước. Hắn quệt bàn tay bê bết máu lên cỏ rồi lê về lán. Lúc này trời gần sáng, tiếng rên rỉ của gã sốt rét vẫn đều đều cất lên mê sảng. Lão nằm vật trên nền lán như một cái xác. Khi tiếng gọi đểu cáng của thằng bưởng trưởng vang lên hắn không sao dậy nổi.
- Dậy đi mày.
- Thưa bác, hôm nay tôi bị đi ngoài ra máu.
- Không nghỉ được đâu! hắn nói như ra lệnh. Toản đâu, lấy thuốc clorôxit cho hai thằng nó uống.
Gã sốt rét rên rỉ nói:
- Thưa bác, tôi cần kư ninh. Thằng lé nói như gầm lên: Đ. mẹ, đồ ngu. Thuốc clorôxit chữa bách bệnh. Gã sốt rét không đứng dậy được, còn hắn, sau khi uống 3 viên clorôxit, ăn cái bánh mì "chay" rồi bị lùa ra miệng giếng. Một dây chuyền sản xuất thời nguyên thủy. Cả dãy người được trải dài từ dưới suối lên đến sườn đồi. Ở đâu cũng có tai mắt của chủ bưởng chỉ thấy thoáng ánh đỏ là chính họ nhặt lấy đưa đi.
- Này Hảo! - Thắng lé nói với hắn trên miệng giếng - cả hội chẳng đứa nào thay được việc của mày cố lên mà làm, rồi tao thêm cho!
Gã lặng lẽ móc quai gầu vào ngang bụng và từ từ, đồng bọn đưa hắn xuống. Hắn phải xuống bằng mọi giá vì hắn còn có việc cần làm trong giếng ngày hôm nay. Hắn cứ xuống dần như đang rơi vào địa ngục âm u. Kể cũng lạ ở đời kẻ thả ước mơ trên trời, dưới đất, trong lòng biển khơi mà hắn thì vùi mình trong lòng đất. Hắn lắc đầu ngao ngán như muốn xua mọi suy nghĩ ra khỏi óc. Đáy giếng tối như mực, người làm phải có kinh nghiệm để lần ra lớp bùn sỏi bên dưới lớp cát vàng, nếu sai lầm thì tốn rất nhiều công vì lớp trên chèn lên lớp dưới thì có hót cả ngày chưa chắc đã được gì. Đời hắn đã qua bao đời chủ, cứ bưởng nọ bán hắn cho bưởng kia vì hắn có đôi tay biết nhìn trong đêm, nhận ra vỉa có đá, một nhát xẻng cắm vào vỉa đá hắn đã hiểu được có đúng chỗ cần khai thác hay không.
Hắn định thần thò tay vào túi áo lấy bao diêm và cây nến đã thủ sẵn, thao tác rất nhanh, châm nến rồi bới trong đống sỏi, cát ngày hôm qua. Hắn làm đi làm lại nhiều lần tìm cái chấm lửa bắt sáng của loại đá đỏ nhưng vô hiệu, đúng như các cụ xưa thường nói: “Phúc bất trùng lai"!
Hắn tắt nến, xúc sỏi đổ vào đầy xảo rồi giật dây. Mỗi nhát xẻng, trong bụng lại đau nhói như phải bỏng. Lạy trời, hãy cho hắn vượt qua nỗi đau đớn này, hắn chẳng còn biết nương tựa vào ai ngoài trời phật, hắn nghĩ: Mình phải biến thôi mà biến vào lúc này là hợp lư nhất, vì hắn đang đi ngoài ra máu. Điều cốt tử là phải cố vượt qua cái chặng ngày hôm nay sao cho êm ả. Hắn cứ lầm lũi vừa xúc vừa suy nghĩ, rồi cũng đến lúc người ta đưa xuống cho cái bánh mỳ và chai nước nhỏ. Hắn tựa vách giếng, ngồi nhá cái loại bánh mỳ mua trước mấy ngày vừa rắn vừa hôi. Hắn cứ vừa nhai, vừa uống. Khi đã hoàn tất bữa ăn giữa ngày thì dây gầu lại dật, nhắc hắn đã đến giờ làm. Lưng hắn cứng như gỗ, hắn cố gượng dậy cầm lấy xẻng. Những cơn đau lẩm nhẩm như cồn lên trong bụng. Hắn cố gắng xúc đầy xảo rồi gục xuống trong đau đớn. Một dòng nước âm ấm cứ trào ra ướt hết cả ống quần không sao kìm lại được. Đầu óc hắn cứ quay cuồng rồi tối sẫm. Cái ranh giới giữa sống và chết đang hiện lên. Bỗng một tia sáng đỏ ngời lên trước người hấp hối. Cố gượng dậy thò tay vào trong quần lấy hòn ngọc tròn tròn nhầy nhụa máu, hắn cố gượng đưa lên miệng, nhoài người về phía dây gầu, tháo móc quàng vào dây lưng và gục hẳn. Khi bọn ở trên kéo lên hắn chỉ còn là một cái xác không hồn. Thẳng bưởng chưởng sợ hãi quát đàn em:
- Cõng nó về lán! Những tiếng rì rầm bàn tán như một dây chuyền kéo dài tới bờ suối, như lời thở dài trăn trở. Người ta đặt hắn trên sạp nứa. Thân hình tiều tụy, bất động, hắn chìm nghỉm trong đại dương đau khổ. Giọng thằng lé phá vỡ cái tĩnh lặng đang bao trùm trong lán:
- Để nó nằm đấy, chúng mày đi làm!
Và mặc! mọi việc đâu lại vào đấy. Dây chuyền có thể mất đi vài mắt xích nhưng nó vẫn là một dây chuyền. Trong lán chỉ còn lại hai kiếp sống phù du trôi nổi. Khi chiều xuống, mọi người trở về thì gã sốt rét đã bỏ mặc cõi đời mà ra đi, chỉ còn lại hắn âm thầm trong đói khát. Sự chống chọi với tử thần làm cho hai quầng mắt hắn trũng xuống, lồi lên hai con ngươi sáng quắc như con ma ngồi canh nhà xác. Mọi người vấp phải hắn như vấp phải tử thần đứng đợi, họ đứng sững lại rồi lặng lẽ tản ra, mang nặng trong lòng nỗi buồn mặn chát. Chỉ còn lại hắn đối diện với thằng lé. Một khoảnh khắc yên lặng, họ nhìn thấu vào nhau, bỗng thằng lé phá tan sự yên lặng:
- Mày có dặn dò gì vợ con không? Tiền nong của mày tao sẽ gửi về tận nhà!
Chợt bàng hoàng như người tỉnh mộng, giọng hắn cất lên như từ cõi xa xăm:
- Tao phải về nhà, ngày mai cho tao về sớm, tao vào đây đã cả năm mà ở lại thì cũng chả làm gì được. - Hắn nói với thằng lé, giọng thều thào như cầu khẩn.
- Nhưng mày về làm sao được. Giọng thằng lé ra chiều thông cảm.
- Mày khỏi lo đi, tao đến được thì tao về được. - Hắn nói giọng mệt mỏi nhưng quả quyết.
- Thôi được, ngày mai tao cho mày về.
Bóng chiều loang lổ trên những sườn đồi, một bóng đêm khơi lên từ những miệng giếng như những lỗ mắt quái vật khát thèm cõi sống. Cả khu lán chiều nay như chìm xuống, quên đi. Người ta vừa đi chôn thằng sốt rét gần ven suối. Tiếng đào đá khô khốc như ai nấy khơi mộ cho chính mình. Hắn lặng lẽ như pho tượng, mọi người qua lại ngỡ ngàng nhìn hắn. Liệu hắn có qua được đêm nay để ngày mai mà về không?
Thế rồi hắn sống. Tia nắng mặt trời đầu tiên trong ngày ngời trong mắt hắn. Những tia nắng còn non ru bổng tiếng gà, cái vùng đồi loang lổ như ngửa mình đợi nắng. Xa xa, lán nào đập nứa khơi lửa nấu ăn, ngọn khói bồng bềnh trong gió. Hắn lọ mọ tới chào từng người trong bưởng, cái nắm tay nghe day dứt, đượm buồn. Người ta nấu cho hắn tô cháo nóng và mấy nắm cơm ăn đường. Thằng lé xuất hiện để làm nốt cái thủ tục cuối cùng. Nó nhâng nháo đặt trước mặt hắn 600 ngàn đồng và nói:
- Đây là tiền tạm ứng cho mày về. Mọi đứa khác chỉ có hai trăm, khỏi ốm vào làm lĩnh nốt.
Hắn tự hiểu cái giá của cả năm làm việc có thế! Cõi đời chỉ có thế! Người ta chỉ cho nhau lời nói, cho bao nhiêu cũng được! Nhưng nói đến tiền thì chỉ có thế! Hắn đã hiểu luật chơi! Không cò kè, cầm tiền loạng choạng bước ra khỏi lán.
Tiếng thằng lé còn đuổi theo hắn:
- Tao cho hai thằng dìu mày ra bến! - Kiểu hắn vỗ về cho những người còn ở lại.
Hắn lặng lẽ đi cùng hai người bạn, lòng nhẹ nhơm bâng khuâng. Mọi kẻ ra bến xe Quỳ Châu cùng chung một vẻ! Đó là những người thất bại trong may mắn. Cánh lái xe không mặn nồng với họ. Xe chở người vào bãi thì đâu vào đấy, đó là những người mới đến tìm vận may, họ vẫn có tiền để mua vé, còn lúc xe quay ra thì lái xe thật khổ. Xe qua Quỳ Châu, nếu những người mua vé không cầm tiền vẫy thì xe phóng thẳng. Hôm nay bến vắng, hai người bạn cầm tiền vẫy xe hộ hắn. Người ta nhồi hắn lên thùng xe khách đầy người hồi hương. Đoạn đường Quỳ Châu – Yên Lư khoảng hơn 80 cây số, đường rải đá hộc và đất đỏ. Bao trận mưa rừng cứ xối trôi đi lớp đất nên mặt đường chỉ còn lại những lớp đá lô nhô như bộ xương người đã rũa hết thịt. Dân đào đá cứ đùa: "Đi qua con đường này cứ như đi Tây Trúc lấy kinh”. Tài xế mà non tay thì chẳng dám chạy, cứ như thế, hành khách trên xe như con xúc xắc trên đĩa thả sức mà lăn lóc. Những kẻ thất bại ngồi cùng nhau trên một chuyến xe thì thật là yên ả, tĩnh lặng. Người ta cố chịu đựng để mà trở về, không nói chuyện, không bàn tán. Họ lặng lẽ đong đưa mà suy ngẫm sự đời. Hắn lịm đi trong giấc ngủ ngày hụt hẫng. Thỉnh thoảng sắp tới bến nào thì mọi người lại xì xào về cái tên bến. Có lẽ viên đá đỏ trong bụng như một liều thuốc bổ nâng hắn dậy. Lạy giời nó vẫn ngủ yên ở chỗ nào trong bụng, chỉ có chỗ ấy là còn tạm kín đáo! Mà nếu có ai biết thì họ sẽ xúm lại mổ phanh hắn ra như con lợn, mà đào mà bới cho kỳ thấy cái bảo vật chung của trời đất.
ở đây mọi thứ thuộc về kẻ mạnh, mà sự may mắn lại rơi vào chính hắn thế mới lạ! Bao hình ảnh tăm tối trong mỏ cứ đeo bám lấy hắn không rời, cứ như cả đời hắn thuộc về cái miệng giếng sâu tun hút đầy bóng tối khổ đau! Hắn đang nằm trên ô tô ôm giữ một kho tàng mấy tỷ trong bụng. Không được chết, vì chết thì phí quá, có ai mà tiền nhiều đến mấy tỷ lại chết không? Xe rùng mình dừng lại nghỉ ăn trưa. Mọi người lục tục xuống xe mà hít thở thì đúng hơn! Vì mấy ai có gì để ăn. Cái giống thợ mỏ quanh đời khác chi mấy xẻng đá trên đồi cứ là tha hồ mà lăn lóc. Có lẽ chất dân quê còn mãnh liệt lắm trong từng quả timhọ. Lấy nắm cơm, rắc muối lặng lẽ ngồi nhai. Mấy anh chàng thợ mỏ hau háu nhìn hắn.
- Các cậu cùng ăn với tớ, hắn gạt nắm cơm ra mời họ. Chỉ một loáng, hai nắm cơm đã biến vào chỗ cần đến, hắn chỉ được vài mảnh nhỏ. Càng ăn ít hắn đỡ làm phiền đến viên hồng ngọc. Xe lại chòng chành đi theo vũ điệu ghê hồn, cả sóng người nghiêng ngả như say, những bộ mặt hốc hác, lim dim như đang trong buổi cầu nguyện.
ánh hoàng hôn đang táp dần trên trên những đỉnh đồi xa. Những cơn gió dải nồng lùa qua cửa xe toang hoác. Một thứ không khí dễ chịu như món quà chia sẻ cho những kiếp người. Tiếng còi xe báo cho họ ga Yên Lư đang gần phía trước. Mọi người nháo nhác như đàn ong vỡ tổ, mọi ánh mắt đều ngóng về phía trước nơi con đường ngọt ngào trải nhựa cắt ngang. Xe đỗ lại, họ xô nhau mà chen xuống trước. Hắn cũng được sóng người xô đẩy mà bật xuống đường. Họ tán loạn chạy về phía ga cho kịp giờ tàu chạy. Hắn cũng vội vã theo sau bước họ, nhưng chợt sững người, tập tiền trong túi quần trong cài kim băng cẩn thận không cánh mà bay. Túi đựng nắm cơm khoác liền sườn cũng rỗng tuếch. Trong lúc ngủ gật trên xe, người ta đã giật đi cả năm trời công sức của hắn. Nỗi buồn như làn khói mỏng nhen nhóm khơi lên trong lòng hắn. Tiền đâu mà mua vé, cơm đâu mà ăn? Cứ lững thững tiến vào trong ga như kẻ mất hồn, hắn như kẻ mộng du qua trạm soát vé, lên tàu ngồi vào ghế góc toa. Thế đấy! Sự khốn khổ là tấm vé thông hành cho những kẻ hành khất trên đời, hắn như vật thể lạ rơi vào góc toa tàu đang chạy. Mọi con mắt đổ dồn vào hắn, họ ngồi xa hơn để được ngắm một hình hài đến vậy, một kẻ khốn khổ đã rơi xuống giữa hành trình của họ. Một hình hài xương thịt tách bạch rơ ràng, hai gò má nhô lên đỡ lấy hai hố mắt hơm sâu buồn thảm, hai bàn tay khô khan mệt mỏi rủ xuống nan ghế. Thế đấy! Sự sống chừng như chưa tắt trong hắn, cái ánh sáng nhỏ nhoi mờ ảo vẫn còn khơi dậy. Hắn hiện hữu trong cõi đời, chẳng ai nỡ vứt hắn đi nên hắn ngồi đó mà nhìn đời trào lộng. Sự đời người giàu sợ kẻ đói rách, họ tự khoác cho mình một vẻ đẹp cao ngạo, kẻ nghèo cần cơm, rầu rĩ trong vẻ cơ hàn. Có lẽ ở đây đức Phật cũng phải mỉm cười trước những thích nghi của một sinh vật sống. Đoàn tàu cứ chạy, mọi vật đung đưa, lòng hắn cũng đung đưa với sự đói khát của loài thú. Khi sự bình an trở lại, có lẽ cái đói lớn lên mà giày vò hắn. Tất cả mọi người đang nhâm nhi bữa ăn chiều không mấy gì thú vị thì hắn ngồi kia, đang cồn cào đói khát với ánh mắt khát thèm ảo não. Cái đói như làm cho cõi đời này bé lại! Cái đói nén sự sống chỉ còn là cái chấm! Chính hắn - một cái chấm sự đời lặng lẽ mà nghe mình thác loạn. Hắn rùng mình khi ai đó động vào người! Một đứa trẻ 3 - 4 tuổi chìa ra cái bánh sừng bò cho hắn!
- Ông ăn đi!
Một cặp mắt ngây thơ trong sáng như hiện lên nhìn hắn. ở cuối toa có tiếng ai gọi, thằng bé lon ton chạy đi! Hắn cúi đầu cảm ơn họ! Hắn nhớ vợ, nhớ con, thằng bé nhà hắn đã 18-19 tuổi có thời nó cũng như thế. Đói khát không làm cho trẻ nhỏ khác được, vẫn tin yêu và trân trọng cõi đời. Rơ khổ vợ con hắn đã chờ hắn mấy năm trời có lẻ!
Nhưng không sao, trời sẽ bù đắp lại cho họ, hắn sẽ xây lại nhà và cưới vợ cho thằng Hải. Hắn cứ chờ cái ngày ấy mãi. Nhà gái cứ giục đến mấy lần vì người ta có con thì phải lo!
Cứ nghĩ đến chúng là lòng hắn lâng lâng dễ chịu, nhưng lại dằn vặt vì cái nỗi khổ có con mà kẻ làm cha không lo nổi cho đời chúng trọn bề gia thất. Vợ hắn cứ âm thầm khổ sở mà nghĩ ngợi, cả nhà trông cậy vào hắn! Và mãi rồi cũng sẽ có ngày…
Tiếng còi tàu rú lên mấy hồi dài dài, từ từ dừng lại ga Hàng Cỏ! Mọi người tập nập xuống sân ga. Hắn đi theo đoàn người xuống tàu, mệt mỏi đứng trước cửa ga Hà Nội, thành phố sẽ định đoạt số phận của viên hồng ngọc. Những ngọn đèn đường nhờ nhờ toả sáng trong đêm hè tĩnh mặc. Trên phố chẳng còn ai qua lại, chắc là khuya lắm, bóng hắn siêu vẹo đổ dài… Hắn phải về nhà càng nhanh càng tốt, cứ loay hoay thì chết đói. Hắn lầm lũi đi ra phía bờ sông xuôi về bến Nứa. Hắn cứ đi thất thểu bồng bềnh trong cái đói. Ngọn gió trên cầu như muốn lật hắn xuống sông. Hắn cứ vịn lấy thành cầu mà lê về phía trước. Còn 50 cây thì đi sao nổi! Chân hắn cứ nhích dần về cái đích Hải Dương quê hắn. ở đời có những việc tưởng chừng làm không nổi mà người ta vẫn làm, xác suất một trên cả ngàn người ta vẫn đào. Con người là thế, chẳng có ai buồn lư giải về điều này mà họ cứ làm. Có thể cái đích là con số một trên một nghìn chăng! Còn chín trăm chín mươi chín người sẽ ra sao? Có lẽ chỉ có trời mà biết! Cả nghìn thằng cứ giằng co với số phận mà làm thành nỗi khổ. Thế đấy! Cuộc đời là vậy! Hãy lăn vào nó đi, anh sẽ biết anh là ai! Hắn cứchênh vênh qua cầu trong mê sảng, đói khát! Phố đêm Gia Lâm lạnh lẽo không người, những hàng cây ven đường xoè tán sù xì đen xẫm. Thỉnh thoảng hắn lại vịn vào đâu đó cho khỏi ngã rồi lại đi. Đầu hắn trống rỗng mê sảng, cố lê từng bước chân nặng nhọc, bởi hắn hiểu rằng nếu dừng lại thì hắn sẽ không thể bước tiếp được. Con đường Năm dưới chân cứ câm lặng trải dài chừng như vô tận. Từng cột mốc như đánh dấu một khoảng đời đã qua. ở đây chỉ có mình hắn trong đêm, trong bóng tối đơn độc hắn chẳng cần công lư hay công bằng chi cả. ở đây sự cân bằng động đang tiến tới chu kỳ bất động. Hắn cứ chênh vênh tiến trong đêm chẳng còn bóng đổ để nhìn mình sao nữa. Hắn đi đâu, về đâu? cái đích cứ mập mở ảo não! Quê hương hắn, vợ con hắn ở tận cuối đằng kia mà hắn phải lê về với họ. Hắn cứ đi giữa đường như một bóng ma ám ảnh trên cõi đời, mà có lẽ là bóng ma thực sự! Khi người ta chẳng còn gì mà sống thì họ sẽ là ma, là quái ám ảnh cõi đời.
Giờ đây, nếu cho lên đĩa cân, viên đá đỏ và miếng ăn thì đối với hắn cán cân đã nghiêng về bát cơm. Thật thú vị khi người ta cần viên đá phù phiếm đổi lấy hạt cơm mà nhá cho qua khỏi độ đường, nhưng ở đây hắn biết đổi cho ai trong cái bóng đêm dày đặc khốn khổ. Chẳng có sự minh triết nào dành cho bóng tối, hắn cứ phải len lỏi vào nó mà sống. Có một sự cân bằng mà chính hắn phải tìm lấy trong cái dạ dày lép kẹp. Niềm tin trong hắn đã cạn, ngọn lửa nhen nhóm ấy cứ sẫm dần trong đêm. Hắn gục xuống giữa đường khi từ xa đang có ánh đèn ô tô rọi lại.
Xe ô tô dừng lại, người tài xế chạy đến, hắn chỉ còn thều thào được câu “Cứu tôi với”. Anh ta bế xốc hắn đặt lên cabin. Môi hắn nứt nẻ vì đói khát. Anh tài xế cho hắn uống chai nước đường pha sẵn. Hắn có vẻ tỉnh dần lại. Một lần nữa vận may lại mỉm cười cùng hắn! Trong bóng tối vẫn lẩn khuất đâu đó những tấm lòng từ thiện. Người ta cho hắn ăn và chở hắn về tận đầu làng quê hắn. Trong thôn, tiếng gà gáy chập chờn gọi sáng. Dưới chân, con đường gạch gồ ghề nham nhở đưa hắn vào làng. Mọi người vẫn còn đương giấc ngủ, hắn lặng lẽ đi vào trong thôn. Nhà hắn vẫn thế, trước cửa là cái ao, mấy con nhái hoảng hốt lao mình xuống nước, con chó già vẫn nhận ra chủ, nó dụi mơm vào tay hắn mà chia sẻ tình cảm. Nếp nhà mái rạ bê bết thời gian, ủ rũ trong sương. Vẫn cái vại nước mưa đặt bên cửa bếp, cây hồng xiêm xếp tán góc sân. Hắn ngồi đầu hè mà bâng khuâng cho cả năm xa cách. Tất cả dường như vẫn thế, có lẽ chỉ vợ chồng hắn mòn mỏi hơn xưa. Đồng ruộng không trả được niềm mơ ước cho những người từng đổ mồ hôi vì nó. Người ta ra đi, người ta trở lại. Người ta cấy cày, người ta đào đá chung quy chỉ vì cái ước mơ yên hàm mà suốt đời chẳng bao giờ có, mà mơ ước thì tốt chứ sao! Mơ ước giúp cho hắn tồn tại mà sống, hắn cứ ngồi trên đầu hè mà suy ngẫm đời hắn. Niềm vui như gió thổi, nỗi buồn như nắng hè, cái nóng cứ như là thiêu đốt hắn, ấy thế mà hắn sống!
Vợ hắn đứng cạnh lúc nào hắn cũng chẳng biết nữa.
- Ông về lâu chưa! - Bốn con mắt họ nhìn nhau như thấu hiểu tất cả, mọi thứ người vợ đã hiểu hết.
- Ông đi nằm nghỉ đi. - Hắn không đứng dậy nổi.
- Tôi đỡ ông.
Chị vực hắn tới giường, thế là giấc ngủ. Sự bình yên khép đôi mắt hắn lại. Chị lặng lẽ sang gian bên gọi thằng Hải, hai mẹ con nhìn hắn ôm nhau khóc. Họ khóc cho đời hắn, khóc cho chính họ, nỗi cay đắng cứ che phủ mãi đời họ.
- Con đi mời bác y tá xem bố mày làm sao?
Hắn hốc hác như bộ xương còn thở. Chẳng cần biết mình là ai, đang ở đâu, hắn như con ma trở về nhà, vợ hắn thương hắn vì cả đời lam lũ, thương vợ, thương con. Nhưng tất tật chỉ có thế, không khác được, mà lẽ đời người ta phải sống, con cái phải đi lên. Đi lên thì chẳng thấy, mà chỉ thấy hắn tàn tạ quay về. Sự bất lực hiện hình trên cơ thể sống, nó như một quả chuông sẽ ngân lên ai oán khi có người đụng đến. ở đây, trong căn nhà hắn, những đường nét ấy được hòa đồng, như nếp nhà tranh xơ xác đặt bên bờ ao lở lói, đầy váng bẩn, như cái vại nước sứt miệng đặt bên cửa bếp toang hoác, như con chó nằm đầu hè ghếch đầu lên mảnh bát vỡ. Vạn vật tất cả dường như có chỗ của nó, mọi chuyện từ xưa vẫn thế! Tất tật vẫn chỉ là hơn thiệt, buồn vui, thật giả, nhưng ở đây tại nhà hắn chỉ được nửa vế câu trên. Hắn vẫn nằm kia mà ôm lấy niềm vui chưa hề có, cả gia đình đã nhận lại hắn như một phần xương thịt. Sự hoang vắng được bù trả, thế đấy! Cõi đời thật bình dị, người ta vượt qua hoang mạc trở về nhà để nằm ngủ an bình. Tất cả dường như chưa qua, chưa thấy, chưa đến, chưa đi, hay chăng đó là sự quên lãng để tồn tại. Nỗi khổ truyền từ vật sống sang vật sống, nó lưu chuyển như con nước trên sông, từ hắn sang vợ, từ vợ sang con như một bản hòa tấu uyển chuyển mà nâng lên cái nỗi đau cõi đời.
Mỗi gia đình là một cõi sống, cả làng quê là một trời rộng, quê hương không còn gói gém nổi những kiếp người, hãy nhìn vào mắt vợ hắn sẽ hiểu về bố con hắn.
Tiếng thằng Hải vội vã ngoài sân, vợ hắn ra mở cửa để tìm sự bấu víu. Bộ mặt chị hoảng loạn như người chết đuối vớ được cọc.
- Ôi, bác Hạnh giúp nhà tôi với, ông ấy đi làm xa về chẳng hiểu sao mà cứ ngất lịm, không dậy được. - Sự hoang mang tràn trong mắt chị.
- Cứ bình tĩnh bác Hải! Để đấy tôi xem, bà y tá khám bệnh cho hắn.
- Ông ấy thế này bà Hải ạ! Ông nhà bị mất nước trầm trọng nên rối loạn điện giải, kèm với không chịu ăn nên cơ thể suy nhược. Phải truyền cho ông ấy chai nước cái đã, để tôi về nhà mang sang.
- Thế bác Hạnh ơi! Em hỏi có không phải bác đừng trách! Thế thưa bác chai nước có đắt không?
- Thôi đừng lo, cứ lấy của tôi mà dùng còn tính sau.
Bà y tá xã tốt bụng đi ra cửa.
Thế rồi 5 hôm sau hắn mới ngồi dậy được mà húp cháo. Lúc vợ, lúc con, họ cứ quấn lấy hắn mà chăm sóc như chưa từng được chăm sóc hắn bao giờ. Có lẽ thằng Hải khổ hơn cả vì cái việc hệ trọng mà nó ấp ủ coi như là hỏng. Song nó thương bố nhường nào, cứ trông nét mặt rầu rĩ mà thêm buồn cho nó. Có những nỗi buồn người ta phải giấuđi mà gánh chịu, ánh mắt nó luôn lảng tránh mọi người. Nỗi thất vọng như muốn đè bẹp trái tim nó.
- Thày ơi! Con đỡ thày dậy xơi bát cháo!
Nó quàng tay xuống gáy nâng cha dậy. Hắn ngồi như pho tượng mà ngắm mọi người tất tưởi lo toan cho mình. Mà hắn cứ phải che dấu nỗi lo viên hàng đang mắc kẹt đâu đó trong cơ thể? Mà không lẽ rơi đâu trên xe, trên tàu, mà hắn không biết cũng nên! Nếu như thế thì chỉ còn nước chết quách cho xong. Hắn nhìn vợ, nhìn con, cái "vương quốc” thủy chung trông chờ vào hắn. Thằng Hải gợt thìa cháo đưa lên miệng hắn.
- Thày ăn thêm chút nữa, nó nài nỉ.
- Ông cố lên, chút nữa thì mới khỏe lên được. - Nụ cười khích lệ héo hon trong mắt chị.
Có nhiều khi người ta phải đón nhận hạnh phúc ánh lên toàn vụn vỡ trong khổ đau như vậy! Cái thế giới tinh thần lóe lên như sao hôm để rồi chết chìm trong cõi thực. Một thứ hy vọng chết ngấm mà không thể thiếu nó được. Nó vừa như đổ vỡ, vừa như hoàn thiện giữa hai cái ranh giới ấy có lẽ là hy vọng. Người ta tồn tại trong đó, giữa âu lo, chờ đợi. Nó như động lực làm cho quả tim đập trong lồng ngực, nó vực dậy cho cõi sống nỗi đam mê. Và có lẽ vì thế họ vẫn còn sống! ở đây người vợ hy vọng chồng mình tai qua nạn khỏi và đừng bỏ làng đi đâu nữa, còn đứa con thì hy vọng có một gia đình riêng khá giả mà đùm bọc thày mẹ mình. Còn hắn hy vọng viên hồng ngọc đừng có rơi trên đường. Cả ba niềm hy vọng ấy tựu chung đều mong manh mà làm thành cuộc đời họ - cõi thực. Ở đời người ta nghĩ ra quay số để mà hy vọng, chơi bạc để mà hy vọng, buôn lậu để mà hy vọng! Cứ ngẫm hy vọng nó hiện sinh đến là bao!
Và rồi đến ngày thứ 6, “niềm hy vọng” mới ra khỏi bụng, rơi xuống mảnh thạp vỡ, hắn nhược người đi vì lo lắng!
- Này, mẹ con thằng Hải đâu? - Giọng hắn run run vì chờ đợi.
Vợ hắn và thằng con lo âu, chạy lại.
- Mẹ thằng Hải gợt cho tôi cái hòn nến, rửa sạch mang vào đây! Bà cẩn thận đấy, đừng rửa dưới ao!
Vợ hắn bê mảnh thạp đi ra cửa, hắn quay lại phía thằng con.
- Hải ra bàn thờ lấy cho thày cái đèn bút soi đá.
Vợ hắn quay trở lại với cục nến trắng nhờ nhờ bẩn thỉu.
- Hải lấy cho thày cái đĩa.
Hắn nướng viên hồng ngọc trên ngọn lửa. Cục nến xù xì méo mó tan dần, dưới ngọn đèn để lại trên cặp một viên hồng ngọc trong veo ánh lên màu đỏ tươi của máu. Hắn lẩm nhẩm:
- Viên ngọc đẹp quá, đến hôm nay tôi mới được nhìn kỹ. Hắn đặt viên hàng lên đĩa, dùng đèn bút soi thẳng vào viên đá ở mọi góc cạnh, nét mặt hắn căng thẳng và rạng rỡ niềm vui.
- Mẹ nó ơi! Nhà ta thế là giàu! Thế là hết khổ! Hải ơi!
Viên đá đẹp quá! Có tới 200kr, màu hoa mười giờ mới càng qúy, chẳng rạn nứt tẹo nào. Hắn nói trong niềm hạnh phúc không tả.
Nếu trời phật cho gia đình hắn gặp may mắn thì ở đâu đó ngài đang mỉm cười trước hạnh phúc của gia đình họ. Hai mẹ con tựa vào nhau mà sung sướng, họ chẳng hiểu tẹo nào về đá đỏ, nhưng họ thấy hắn vui, mà niềm vui thực sự! Gia đình họ đỡ khổ thì mới lạ, cái hòn đá nham nhở cạnh sắc như thế mà lại đắt, quý đến vậy.
- Thày ơi, hòn đá này làm sao mà lại quý thế?
Thằng Hải hào hứng hỏi. Hắn với cái chai trên bàn khoanh một đường trên cổ, gõ nhẹ cổ chai vào cạnh bàn, một tiếng rắc, cổ chai tiện lìa rơi trên đất.
- Con thấy không? Loại này rắn gần như kim cương chuyên để làm đồ trang sức mà nó đắt chẳng thua gì kim cương. Trên thế giới nghe đâu chỉ có vài nước có loại đá này.
- Liệu bán có dễ không hả thày? - Nó nôn nóng hỏi.
- Mấy ai có hàng đẹp mà bán. - Hắn trầm ngâm tính toán.
- Mấy hôm nữa khỏe, thày lên Hà Nội.
Hắn tư lự đứng trước cửa hàng buôn bán gia công đá quý ở phố Hàng Bông. Hai dẫy tủ quầy đầy ắp những đồ trang sức, những vòng vàng, xuyến ngọc xếp đặt trên những giá đỡ trong quầy như chào mời quý khách ngắm vuốt. Hắn cứ lặng lẽ trước cái vẻ bề thế như muốn xua đuổi hắn hãy biến đi đâu cho nhanh, cái hình dáng quê mùa cứ lởn vởn trước cửa hiệu thì quả là bất tiện cho cửa hàng. Hắn tiến đến trước quầy nhận gia công hỏi người tiếp khách:
- Chào bác, tôi muốn gia công viên đá đỏ.
Mặt gã nhận hàng sáng lên:
- Bác có thể cho tôi xem qua.
- Được thôi.
Hắn đặt viên hồng ngọc trên mặt quầy. Sau một chút lật đi, lật lại trước ống kính ngọn đèn soi đá, gã chủ nhà niềm nở rạng rỡ hẳn lên.
- Nếu bác có nhu cầu bán, thì cửa hàng đặt vấn đề mua! Bác đỡ phải gia công, về phía bác có lợi hơn không.
- Tôi cần gia công, phần cắt via viên đá thuộc về anh. Hắn bình tĩnh nhắc lại lời mình.
- Xin lỗi bác có phải là thợ làm đá?
- Tôi làm từ những ngày đầu có mỏ Quỳ Châu.
Lão chủ nhà dường như đã hiểu đối tượng là dân đào đá bất trị nên không hỏi thêm, mà phần công chế tác viên hàng đã là quá tươm rồi.
Một viên ngọc rubi được chế tác theo một tác phẩm của ư đã được hoàn thiện, gã bỏ kính đặt viên hàng lên chiếc khay thủy tinh bật đèn soi, một ánh sáng diệu kỳ từ bao giác cạnh tán xạ phát sáng long lanh, cả chiếc khay như được nhuốm thành một màu phơn phớt đỏ, long lanh chuyển động theo những góc sáng ánh đèn.
- Suốt cả đời gia công, đây là viên hàng đẹp nhất mà tôi gặp. Nếu có nhu cầu, ông cứ báo tôi xin đáp ứng.
- Hắn cho gã địa chỉ, đút hàng vào túi lững thững trở về trước sự nuối tiếc của cửa hàng.
Năm ngày sau người ta trả hắn viên hàng giá hai tỷ.
Còn lâu mới tới giá bán, gã quả quyết nói với gã buôn đá.
Thời gian cứ ánh lên trong gia đình họ niềm hy vọng. Mọi dự định dường như đã được lấp đầy, người ta tự tin mà nhìn thẳng vào cõi sống. Thằng Hải và người yêu cứ chạy đi chạy lại làm cho không khí gia đình dường như khác lạ.
Vào một buổi sáng theo thường lệ, hắn xách túi lững thững ra bến xe lên thành phố. Chiều hôm trước, chủ cửa hàng buôn đá cho người về gặp hắn hẹn nhau ngày mai bàn tính về một ông khách xộp nước ngoài. Trong lòng hắn lâng lâng nhẹ nhơm, những con số cứ hiện lên rồi mất đi chập chờn trong suy nghĩ, để đến một con số mà hắn cho đó là vừa phải không bị bọn buôn bán bóp nặn và hắn cảm thấy hài lòng về niềm tin ấy. Một niềm vui nhẹ nhơm như dắt hắn vào thành phố, hắn lững thững thả bộ về phía hàng Bông.
Gã chủ cửa hàng vồn vã vồ lấy hắn như bắt được của - Bác cả đây rồi - Tôi cứ chờ từ sáng, thôi chúng ta vào việc ngay! Thế bác có mang viên hàng lên không?
- Tôi chẳng mang theo! Viên hàng thì tự tay bác làm chắc bác thật rơ về nó! Anh em mình cứ ngã giá cho phải rồi ta bàn đến chuyện hàng có sao!
- Thôi cũng được, anh em mình làm việc. - Hắn với cốc nước đon đả mời lão Hải - chỗ anh em buôn bán thật lòng. - Hắn ngừng xin lỗi với lấy điện thoại gọi cho ai đó:
- Hùng à lên rồi! - Chỗ anh em buôn bán thật lòng (gã nói tiếp) xin hỏi viên hàng bác định bao nhiêu?
- Tôi lấy về ba tỉ không bớt. - Hắn lạnh lùng trả lời.
- Thế còn nhà hàng? - Gã chủ hàng nhắc khéo.
- Cửa hàng ăn theo bên mua. - Gã trả lời dứt khoát.
- Coi như đã xong, tôi sẽ bàn kỹ với bọn Tây, sau đó điện cho bác cả! – Còn bây giờ anh em mình cụng ly cái đã, ăn mừng cho buổi kỳ ngộ này, hắn gọi với xuống nhà và một mâm cơm thịnh soạn được bưng lên bày trước bọn họ.
Khi hắn về tới nhà thì mặt trời đã lặn, những tia nắng nhạt nhoà nổi váng trên mặt ao. Con chó già chậm chạp chạy ra mừng chủ ngoài ngõ. Trên hiên, vợ con đang đợi hắn về.
- Ông nó ơi! Nhà hôm nay có ông khách Tây về xem hàng.
- Bà bảo sao? - Hắn ngạc nhiên hỏi vợ.
- Có cái anh gì buôn đá trên Hà Nội đưa một ông Tây về xem hàng, tôi chẳng biết giá cả ra làm sao, thằng Hải cho xem, họ ưng ý lắm! Ông đi vắng họ hẹn ngày mai quay lại. Một suy nghĩ chẳng lành thoáng qua trong mắt hắn:
- Hải! Tại sao không có ý tao mà mày lại làm như thế?
- Bố cứ yên tâm con cho họ xem qua rồi cất ngay, nó chạy về phía bàn thờ lấy trong bát hương cái lọ nhỏ đưa cho bố.
- Họ xem xong con cất liền, họ dùng đèn soi kỹ lắm, ông người Tây thích lắm thày ạ.
Hắn mở nút lọ đổ viên hàng lên tay, và không còn là linh cảm nữa, nỗi thất vọng như đè nặng lên tim hắn - Hắn từ từ ngồi bệt trên hè chết chìm trong đau khổ – Chị vợ hốt hoảng lay vai hắn.
- Ông làm sao thế?
- Mất rồi! Mất hết rồi mẹ nó ạ!
- Ông bảo sao?
- Nó tráo mất viên đá của nhà mình rồi.
- Mặt thằng Hải cắt không còn hột máu.
- Sao lại thế được! Thày ơi thày xem lại đi! - Nó cầm bàn tay cha lay lay như sợ cha mình mê ngủ.
- Hải ơi mày hiểu sao được con! (Hắn xoè bàn tay về phía nó giọng run run đau khổ) - Hai viên giống hệt nhau, viên thật thì nó lấy còn hàng giả nó để lại cho mày (lão gầm lên trong phẫn uất vùng dậy ném mạnh viên hàng xuống mặt ao).
Chỉ còn sự yên lặng đến ghê sợ trong gia đình hắn và nỗi yên ắng trong chiều. Cảnh vật dường như nổi bềnh lên trong cô liêu, tất cả lại vẫn thế, niềm hi vọng trả lại cho họ buổi ban đầu, vẫn nếp nhà tranh xơ xác được đặt bên bờ ao lở lói đầy váng bẩn. Cái vại nước sứt miệng đặt bên cửa bếp toang hoang. Con chó đói nằm đầu hè ghếch đầu lên mảnh bát vỡ. Vạn vật tất cả dường như có chỗ của nó, một bóng tối mon men đang xoá dần đi tất cả những đau đớn trong gia đình họ. Lặng lẹ ngoảnh lại! Mẹ thằng Hải đang nhìn hắn đầy chua xót, bốn mắt họ nhìn nhau trong cái quầng sáng nhờ nhờ chạng vạng cuối chiều. Tất cả đều không đến như tất cả đã ra đi bỏ mặc họ như buổi ban đầu trong âm thầm sự sống. Ánh mắt họ như nương tựa vào nhau trong bóng chiều khơi dậy. Một sự lặng lẽ như bóng đêm trải dài toả rộng, nếp nhà tranh nghèo đói như tan biến đâu đây, chỉ còn lại tiếng con chó già cằn nhằn sủa bóng, nghe âm vang gờn gợn trong chiều. 

  Ngày 7-1-2003
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.02.2009 10:16:19 bởi vuthi >

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Truyện ngắn "Người chăn chim" - 27.02.2009 00:13:11
NGƯỜI CHĂN CHIM


Lão bàng hoàng đứng trước cái chậu cảnh tàn tạ nằm ở góc khuất cuối sân, cái chậu hoa rêu bám mốc meo, xin xỉn cái thứ màu xanh cổ đại. Trong chậu một thứ cây cảnh sù sì khẳng khiu có lẽ chả ai đoán định được đó là loài gì đang cố lay lắt mà sống, nó chỉ còn vài cái lá già lắm, nửa muốn rụng, nửa như cố gắng bám mà sống leo lắt trong cái thứ không gian thời gian lặng ngắt như vầy. Dù có cố đoán nó là loài thực vật gì... có lẽ cũng xin chịu. Vì nó già quá, cũ quá như chính cái góc sân gác hai nhơ nhớp, hoang tàn. Có lẽ chỉ có lão là biết đó là loài thực vật gì có tên tuổi đàng hoàng chứ không như chúng ta đang nghĩ. Nó vẫn sống... cứ nhìn mấy cái lá là đủ thấy... nó còn đang thở... Mà có lẽ nó đang cố thi gan cùng lão già xem ai sẽ là người tắt trước. Trên khoảng sân gác hai rách nát này đã từ lâu lắm chỉ còn tồn tại ba vật thể sống. Cứ kể hắn là một vật thể sống thứ nhất, ở góc sân sát cửa buồng là một cây đa lớn xoè tán xanh um, đó là vật sống thứ hai. Cây đa cũng già cỗi như lão như nó sù sì khoẻ khoắn siết bao, nó như một gã khổng lồ tham lam phè phỡn vươn lên, bỏ lại vạn vật muốn ra sao cũng mặc. Đã từ lâu lắm rồi, cảnh nhà lão như thế. Sự cô quạnh dường như được cô lại sền sệt như vật thể hữu hình và đời lão chìm nghỉm trong đó... người nhà cứ thưa dần đi rồi chỉ còn mình lão. Chuột bọ cũng chẳng thèm đếm xỉa đến nơi đây vì cái lẽ không còn gì mà kiếm chác, tất cả bỏ rơi lại lão như con ma tươi vất vưởng sống trong khung cảnh rã rời. Cứ hàng năm mùa cây đa có trái, chim chóc mò về kiếm mồi, trong lòng lão lại mừng như ngày hội, chúng nhảy nhót kén chọn từng trái đa chín xơi cho thoả thích rồi ríu rít bay đi, để lại cho lão trên nền sân lổn nhổn những trái đa chén dở... Nhưng lòng lão như ấm lại... đã có thời căn nhà này cũng như thế... trong căn buồng khách, chậu cây cảnh kia mềm mại xanh biếc lộc chồi hoà trong tiếng nói cười đầm ấm... rồi tất cả tan đi như cục vôi rã rời trong nước, mặc cho lòng lão sôi lên buồn thảm, sự chống rỗng, nỗi cô đơn... Trong phòng chỉ còn lão và cái chậu cảnh cuối mùa, từng chiếc lá cứ lặng tờ rơi trên nền nhà, đến một hôm trên cành chỉ còn sót lại một cánh lá... một cánh lá cuối cùng trong mùa thu năm ấy. Lão lặng lẽ khệ nệ bê cái chậu cây để khuất tận góc sân, cũng có thể lão không muốn nhìn thấy gì nữa... Không muốn nhìn thấy tất cả... Cả cõi đời, cả căn nhà, cây đa và cái chậu cảnh... lão như thấy tiếng cười nói đầm ấm còn phảng phất giữa vòm cây đa, còn thấm trong lòng chậu cảnh. Dĩ vãng là vạn vật của ngày hôm qua đang hiện diện trước mắt ta ngày hôm nay và cả bao chuyện đã biến đi chẳng còn hình hài nhưng vẫn để lại dáng dấp nỗi niềm trong lòng người ở lại.
Đã từ lâu lắm, hôm nay lão đi về góc sân ngó nhìn chậu cảnh, gốc cây xương cá sù sì vẫn âm thầm sống, nó chỉ còn vài chiếc lá xanh thẫm như nén lại cả cái màu xanh của không gian thời gian. Chợt lão lặng người... một ổ chim nhỏ bé nằm lọt thỏm giữa hai chạc cành. Hai cái đầu non nớt há mỏ vươn lên khỏi ổ... hai cái mỏ bé nhỏ cứ vươn lên như hớp vào không gian, như đòi gọi chim mẹ mau trở về mớm mồi cho chúng. Ông lão cứ đứng lặng như thế không biết bao lâu nữa, cái ổ chim, những cái mỏ như thôi miên ông đứng lặng không hồn... Chợt ông lão như người tỉnh mộng: Mình cứ đứng đây, chim mẹ có mà dám về... - Ông lẩm nhẩm tự nói với mình. Rón rén ông đi giật lùi, mắt không rời khỏi chậu cây. Ông ngồi phệt xuống hè và cứ thế âm thầm theo dõi. Có những lúc tận đáy sâu của nỗi cô đơn lại bừng lên ánh lửa. Sự hồi hộp đợi chờ, niềm hy vọng lại ánh lên với bao niềm xao xuyến. Trong nhà ông hôm nay có khách. Những vị khách nhỏ nhoi không mời, nhưng lòng ông ấm lại. Ông chia sẻ sự mong mỏi cùng hai chú chim non.
Không gian buổi chiều tĩnh lặng. Cái nắng vơi vớt run rẩy trên vòm lá đa một bóng tối mờ ảo như tràn ra từ ô cửa sổ. Ông lão như sực tỉnh: Loài chim nuôi con thoắt đi thoắt về... mà nay đã ba bốn tiếng - Ông tặc lưỡi: Phải cho hai vị khách chén gì cái đã - Nhẩm nghĩ: Trong nhà chỉ còn nửa bìa đậu ăn tối... Thôi cứ thử cho chúng ăn xem sao.
Ông với sang góc hè, hai cái nồi đen đủi méo mó đặt trên kiềng bếp, có lẽ đây là bộ đồ bếp duy nhất vừa là chạn vừa là bát vừa là nơi ủ ấp đói no cho một đời người. Ông với nồi cơm nguội dành ăn chiều, mở nắp, tay run run cầm đĩa đậu ăn dở. Tay véo một mảnh... Ông chợt nghĩ: “Cứ như thế này thì chúng chết nghẹn”. Một thoáng suy nghĩ: “Cứ thử bón ăn như lũ nhỏ nhà mình lúc xưa xem sao”. Ông đưa miếng đậu vào miệng dần cho nhỏ dập rồi nhả vào lòng bàn tay, đến bên tổ chim... Hai cái mỏ buồn bã, vô vọng cứ hớp vào không trung như lời hú gọi. Hai ngón tay run run, ông véo tí bột đậu... Không được rồi. To quá! Chút bột trên đầu ngón tay ông dù cố đến đâu vẫn là quá to so với hai cái mỏ chim nhỏ xíu. Ông đờ đẫn vì thất vọng và suy nghĩ... Chợt ông tặc lưỡi: Có lẽ là được. - Chạy đến bàn nước, với ống tăm, ông rút que tăm sều từng tí bột đậu, tay run run nhỏ từng giọt bột sền sệt vào hai cái mỏ non nớt đầy đói khát. Chúng như hớp lấy sự sống từ cái đầu tăm nhỏ bé. Cổ chúng cứ nghển lên như bấu víu lấy ông trong bóng chiều đổ sập. Những mảnh ánh sáng vụn vỡ cuối cùng như tan biến vào đêm, không gian cuối chiều lặng lặng trải dài như vô tận, có những lúc hạnh phúc ánh lên nhỏ bé chỉ bằng cái đầu tăm, nhưng nó đã thổi lên trong lòng ta biết bao là hy vọng. Nó dắt cõi đời đi qua từng thời khắc quạnh hiu. Xoa dịu trong ta nỗi đói khát tột cùng vô vọng. Bài ca ấy lại cất lên chiều nay, tại cái góc sân tăm tối kia, có lẽ chỉ có cây xương cá và gốc đa nhận thấy. Nó như nói với ông: Chúng tôi chưa già đâu, vẫn làm nên khối chuyện hỡi ông chủ! - Một niềm vui kỳ lạ đang sống dậy trong ông như mầm đa đang cựa mình thức dậy. Lợt gió hồ đang mày mò trong vòm lá, tiếng xào xạc, nhè nhẹ khúc ru ca.
Ông lặng lẽ vào nhà thắp cây nến, nhìn cái bóng đeo đẳng như nhà vắng thêm người. Ông luôn có cảm giác như thế... nỗi cô đơn nhiều lúc qua đi. Hôm nay, ông thấy vui hơn, trong căn nhà ông, sự sống lại trở về đâu đó... Dù rất mong manh nhưng nó lại trở về. Phải lo xong việc cái đã, mọi sự tính sau - Ông nhẩm nghĩ như thế. Lẳng lặng ra đầu hè với cái nón. Ông nhè nhẹ đậy lên cây xương cá. Có lẽ không ổn. Lấy chiếc áo lao động, ông khoác quanh chậu cây. Hai chú chim ngủ ngoẹo đầu quấn lấy nhau chập chờn trong ánh nến.
Ông lặng lẽ trở về với bữa cơm chiều đạm bạc.
Cả đêm ông mất ngủ, tuổi già nhiều khi như thế cứ lọ mọ với bao điều suy nghĩ vẩn vơ. Lúc lúc, ông lại mò ra quan sát ổ chim xem may ra mẹ nó lại về... Tiếp thêm cây nến phòng lũ chuột vãng lai hại chúng, rồi ông lại nằm... Ngày mai cho chúng ăn gì? Chẳng lẽ lại đậu! Phải làm sao cho tiện được cả mình lẫn hai chú chim. Người già sống qua thời bao cấp là vậy. Có lẽ ai ai cũng thế, lúc nào cũng có cảm giác đói khát và thèm muốn mọi thứ, nên vạn sự cứ phải lo toan. Mà giống đời càng lo toan thì lại càng nhỏ bé. Cứ luẩn quẩn với bát cơm manh áo rồi hết đời lúc nào chẳng hay. Đó là một cái thời kỳ lạ, tất cả cùng đói, cùng giành giật, vật lộn với nhau mà kiếm sống. Người nọ nghi hoặc người kia, nhà nọ nhòm ngó nhà kia mà tranh đấu. Ăn cũng phải giấu, mặc cũng phải lén, tranh nhau từng chỗ đứng trong đời. Mà kỳ lạ, tất cả đều như nhau, cùng nghèo, cùng đói thì mới chết! Tư sản và địa chủ đã chết ngỏm, của cải đã được chia bội... Cả cõi đời là của chúng ta sao vẫn phải giằng co, tranh đấu? Nỗi đói khát và lo sợ như một lớp bồ hóng bám trong hồn con người... Không thể khác được, cứ phải lo, lo cho ngày mai và chỉ ngày mai thôi cái đã và cứ thế từng chặng ngày mai ngăn ngắn đã nối thành đời lão ngày hôm nay. Lão gục ngã trong tuổi già cơ khổ. Cái nghèo đã đánh dạt lão ra bên lề cõi sống. Thời bao cấp rồi cũng qua nhưng nỗi khổ dường như tinh xảo hơn! Không gian, thời gian không còn là của lão nữa, lão là sự vướng víu cho hôm nay và ngày mai sự đời... Lão hiểu thế và lặng lẽ cô đơn ngắm nghía cõi sống. Cứ đứng bên ngoài mà thấm thía mọi sự trôi qua mà nghĩ ngợi, sự tàn khốc cứ lớn lên qua tháng qua năm, nỗi khổ nọ đè lên nỗi khổ kia mà vật lộn.
Lão lại về không như đêm nay, cô đơn trong căn phòng lạnh lẽo. Ngọn nến bập bùng leo lét hắt lên tường cái bóng nghiêng ngả xiêu vẹo đời người, nó nhún nhảy bồng bềnh như hồn ma từ cõi âm về báng nhạo trước đời người đang sống. Kể cũng hay, nó như thân xác tách ra để cho linh hồn ngắm nghía và có lẽ chợt lúc nào đó trong đời người ta thấy mình – thấy kiếp người tạm bợ đến làm sao... ngọn nến cứ lụi dần rồi tan biến vào đêm.
*
*     *
Khi những tiếng trái đa rơi trên sân, ông lão đã biết một ngày mới lại tới, loài chim chóc bao giờ sự sống cũng mãnh liệt hơn loài người. Trên vòm đa lại nhẹ nhàng rung lên những thanh âm buổi sáng. Ông lão lật đật trở dậy với công việc hàng ngày. Trong chậu cây, hai chú chim non đang há miệng chờ ăn và cái công việc mớm mồi cho chúng chẳng còn là khó khăn nữa. Cứ lúc lúc ông lão lại ngước lên vòm đa tìm chim mẹ có trở về đâu đó.
Ngày hôm nay nhiều việc lắm đây - Ông nhẩm nghĩ trong đầu – Phải đi vay tiền mua hàng. Cứ nghĩ đến mà ái ngại. Vay thằng con giai thì ông còn dám... chứ vay người khác thì cũng xin chừa. Kẻ khó là sự bận bịu cho cõi sống, họ như những bóng ma vất vưởng trên đời, chẳng còn sức lực và thời gian để mà bứt phá, mà bật lên nữa. Cứ vừa đi trên phố ông lão vừa nghĩ về cái khó ở đời. Hàng tháng năm trăm nghìn thằng con trợ cấp chỉ đủ đóng tiền điện nước nên lão cứ phải còng lưng ra mà bào mà đục, bụi hít có lẽ đầy đến lưng lá phổi... nhưng vẫn phải làm thôi, làm để mà sống, mà chờ ngày tiến lên chủ nghĩa xã hội và dứt khoát ông sẽ được vào viện dưỡng lão, thoát khỏi mọi lo toan ở đời. Cứ ngẫm mà khổ... tuổi trẻ lo ăn cho cả nhà, nào cơm áo gạo tiền nhà cửa, khi về già con cái thoát ly thì lại lo cho chính cái thân mình. Ông lão thở dài... về cái món nợ thân xác, cỗ xe đời ông mòn mỏi lắm rồi. Lao phổi đến mấy lần mà vẫn qua khỏi. Ngẫm cũng lạ... đời cơ khổ sao lại sống dai dẳng thế, cứ vài lọ kháng sinh, dăm ba ngày thuốc uống là con bệnh cứ nhẹ dần rồi qua đi, cũng có thể giời để mắt mà thương cho kẻ khó... có lẽ là thế nên cõi sống vẫn còn đầy dẫy những kiếp người như họ vất vưởng trên đời và có thể họ sống để mà chờ cái ngày nước nhà mọc lên cái nhà dưỡng lão mà tế bần cho đồng loại.
Ông lão như người tỉnh ngủ, dừng chân trước cửa hàng bia hơi đầu phố. Cũng có thể thói quen là thế. Tuổi già một thân một mình buồn lắm. Cái không khí huyên náo ở đây như khuấy lên trong óc ông cái sự sống hỗn độn một thời, nhưng hôm nay thì không phải, ông lão ngó vào quán tìm cô bé bán kẹo cao su. Ông quen nó đến cả tháng nay. Con bé trông đến ngộ, nó gầy quá, mảnh khảnh đến nỗi nhiều khi ông nghĩ: “Liệu con bé có sống nổi qua mùa đông này không”. Con bé độ lên năm lên sáu, mà cũng thật khó đoán, nỗi nghèo khó nhiều khi làm cho đời người biến dạng, nhưng trong đôi mắt nó vẫn ánh lên cái vẻ đẹp ngây thơ ngồ ngộ thật khó quên. Nó lớn hơn cháu gái lão một tí và có thể nỗi nhớ nhung cháu đã khơi dậy trong ông lão tình cảm ấy.
Nó lặng lẽ đứng trước bàn, tay run run cầm hộp kẹo. Cửa hàng của nó bé tí tẹo, chỉ là một cái hộp giấy, to như cái hộp đựng phấn, vài phong kẹo cao su màu xanh màu đỏ đủ loại. “Ông ơi mua cho cháu phong kẹo...” – Ở tận đáy mắt nó như đốt lên ngọn lửa yếu ớt của lời cầu khấn nài xin, người ta chưa thấy được thì nó cứ tần ngần đứng đó. Nó đứng như một sự bỡn cợt cõi đời này, như muốn nói với ông lão: “Ông ơi đừng uống nữa, hãy nhìn đi...”, và ông lão thấy nó, một vại bia giá sáu nghìn, một phong kẹo giá năm nghìn, một bên uống cho say để mà quên đi tất cả và một bên bán kẹo để sống mà đi qua cõi đời này. Trong đầu ông lão chợt loé lên cái dáng dấp hình hài của một thời mê muội, một sự bắt đầu đang quằn quại mọc lên bên một sự lụi tàn đang tìm về cát bụi, có những lúc sự sống bắt linh hồn ta nhìn lại tất cả... Đứa cháu ông no đủ chẳng cần biết đến ai ngoài sở thích chính mình và ở đây con bé kia đang cầu xin tất cả... bao bộ mặt đỏ gay nâng vại lên, đặt vại xuống cứ như thế hai lần một cốc, không khí quán xá hừng hực cựa mình, nó cứ sôi lên trong buổi chiều lặng gió. Người đi kẻ đến cứ nườm nượp sóng cồn và đời con bé như lọt thỏm trong đại dương của cõi đời cuồng nhiệt. Nó cứ đứng đó âm thầm nài nỉ... “Lại gần đây cô bé, ông cho cháu năm nghìn ăn quà”. Nó lặng lẽ lắc đầu. “Cứ lấy đi cháu... ông tặng cháu cơ mà”. “Con bé này buồn cười lắm bác ạ! Mọi người cho, nó chẳng lấy của ai” – Cô nhân viên nhí nhảnh giới thiệu đôi lời về tính nết kỳ lạ của con bé. “Vậy thì ông có lời đề nghị thế này, ông muốn mua một trăm nghìn tiền kẹo của cháu...”. Mắt con bé sáng lên đầy hy vọng. “Nhà ông đông người lắm... mà mua ngay thì không đủ tiền, nếu ông cứ đặt trước cháu mỗi ngày năm nghìn, đến khi đủ một trăm nghìn thì ông lấy kẹo... và bắt đầu từ ngày mai, ngày nào cháu cũng qua cho ông trả tiền kẹo”. Ông đặt vào tay nó tờ năm nghìn như trao cho nó cả tấm lòng cơ khổ... Và từ hôm đó ông lão và cô bé như đôi bạn.
Rõ lẩn thẩn! Ông lão quay đầu. Có nhiều khi người ta đi về trong không tưởng. Con đường phải đến rất ngắn thôi, nhưng nhiều khi trải dài là thế, người ta phải đi trọn một kiếp người để đến một mảnh đất hai mét vuông và nằm xuống... hai mét vuông luôn luôn nằm ở trước cuộc đời mà ta vẫn phải đi vòng vo để mà về đến đó, sự kỳ quái xưa nay là thế và vạn sự vẫn vậy, nó như kim đồng hồ nhúc nhắc quay, như bước chân người lặng tờ vô định, ta đi đâu trên đoạn đường kia. Có lẽ mọi toan tính của người già là như thế. Thời gian của họ như ngắn lại, mạch lạc hơn và đầy suy ngẫm, nhưng suy ngẫm cũng chỉ thế thôi, nó như bộ xương cá gỡ hết thịt chỉ còn trơ bộ gọng... Ngẩn ngơ như một đài tưởng niệm trên đời, và người già đối diện nhìn thẳng xuống đất, nơi dưới bàn chân mình, cái nơi kết thúc của vạn sự đời người.
Kẻ đi vay xưa nay là người mắc nợ, người mắc nợ là kẻ đi vay. Dù ngược hay xuôi vẫn chi chi là thế. Có một thứ vô hình luôn luôn bồng bềnh trôi nổi trước cõi sống, nó như một tảng băng hà luôn luôn hù doạ mà nhấn chìm tất cả, có lẽ đó là sự đói khát, đói khát tất cả mọi thứ từ linh hồn đến thể xác, nỗi đói khát không chừa một ai, từ người lớn đến trẻ nhỏ cũng vậy, tất tật đều như nhau, cùng thèm khát mọi thứ trên đời, người ta vật vã tranh giành mà kiếm sống. Sự thèm muốn no đủ như tranh vẽ treo tường, nó giống như câu khẩu hiệu cứ treo lên lại bạc màu rồi năm sau người ta lại dựng lên cái mới: “Tất cả vì tương lai con em chúng ta”. Nó chẳng khác chi câu nam mô a di đà phật. Cả loài người cứ tưởng niệm mà có thấm gì đâu, cả nước Nam này sống bằng khẩu hiệu và bao thứ băng-giôn lảm nhảm không làm mà cứ nói. Già hơn nói phét là lừa đảo và cứ thế chúng ta là người An Nam. Thân xác là cái bình chứa đựng vật chất và tinh thần, vật chất là hữu hình nuôi thân xác, tinh thần là vô hình nuôi linh hồn. Tất cả dường như đang chứa đựng trong đôi mắt kia - đôi mắt to tròn, mơ hồ khát thèm sự sống, nó cứ hiện lên lung linh trong đầu ông lão. “Tí nữa quay về phải ngồi làm một cốc” - Ông lão nghĩ thế rồi lặng lẽ quay đi.
“Có việc gì thế bố?”. “Ông đã đỡ chưa? Con Cún nó cứ nhắc là ông đang ốm”. “Ổn cả rồi con ạ” - Một thoáng nghĩ trong đầu: “Ta phải làm như thế thì lũ trẻ mới tin ta còn làm được”. “Anh thấy tôi đi bộ một mạch từ nhà ra đây... Cửa hàng dạo này thế nào?” - Ông lão ngước nhìn bảy tầng lầu cao như cố tìm cho mình câu trả lời nào đó. “Bố tính, khách vắng như ma, toàn công an với phòng thuế, rồi lại nhân viên đánh nhau, chuyện gì cũng là tiền bố ạ... Lại sắp mùa đông, bố tính... liệu có trả đủ tiền thuê nhà không con cũng chưa rõ...”. Ông lão lặng lẽ ngồi xuống chiếc ghế mây đặt trước cửa hàng, hai dòng người nườm nượp trôi qua... những tiếng chào mời níu kéo khách vào hàng uống nước. Tiếng lõng bõng của những giọt trà đang trôi vào lòng chén, hai điếu thuốc trơ trọi trên đĩa, cái hộp diêm nửa khép nửa hở quẳng góc bàn. Ông lão thở dài ngao ngán. Ừ, đã cất công ra đến nơi thì cứ nói: “Bố có chút việc cần bàn với con... Câu chuyện là thế này, bố mới tìm mua được một cặp loa cũ nhưng còn tốt lắm, giá sáu triệu, khách hàng đồng ý mua lại gấp rưỡi mà bố kẹt mới chỉ lo được hai triệu, con cho bố vay một hai ngày, giao hàng cho khách xong bố hoàn trả”. Gương mặt con ông sa sầm và đanh lại: “Con phải nói luôn với bố, nếu bố ốm thì mấy triệu con cũng lo, còn về việc làm ăn thì bố phải tự lo, muốn sống mà làm việc thì bố phải có đầu tư”.
Có những lúc con người ta cô đơn đến thế, múi chanh đã vắt hết nước rồi không còn đáng kể. Ông lão lặng lẽ nhìn đứa con mình - đứa con mà cả kiếp người ông đã sống để dựng xây nên nó ngày hôm nay rồi quá vãng... Sự sống cứ chồi lên mà xoa dấu đi tất cả biết bao điều cơ khổ. Họ không còn thấy ở dưới bùn kia, ở mãi sâu tận đáy vẫn có người đang sống. Đó là hai khung trời sống trong cùng một cõi, cái nọ không thừa nhận cái kia và họ cứ xa dần nhau trên cùng một con đường. Có lẽ ở đây thuyết tiến hoá đang mỉm cười nhìn họ. Loài người – thứ sản phẩm tột đỉnh mà tạo hoá sinh ra có những lúc phải âm thầm nhỏ lệ.
Cho bác một cốc - Ông lão như tự nói với mình vì lúc này gần trưa khách hàng đông lắm. “Của bố đây” – Cô gái niềm nở đặt trước bàn một cốc bia tràn đầy, sủi bọt. Có lẽ vì ông là khách quen nên mọi người phục vụ ai cũng nhớ. “Cảm ơn cháu”... Rồi ông lại đắm trong suy nghĩ, ông như kẻ lạc lõng trong cả một đại dương tiếng người, vạn vật đang xô đẩy, lay chuyển về muôn hướng, nỗi cô đơn bỗng nhỏ bé đến làm sao! Không nơi nương tựa, chẳng người bấu víu... và có lẽ khi tuổi già ta mới nhìn thấy được. Lòng chợt nghĩ: “Ta là ai? Ta đang trôi về đâu?”. Ông ơi! – Cô bé bán kẹo tần ngần đứng trước bàn, tay khư khư ôm hộp kẹo. Nó chỉ gọi thế thôi rồi tần ngần lặng lẽ. Đôi mắt nó hiền khô nhìn ông, gương mặt nó lặng tờ như thấm được những nỗi đau trong lòng của một người xa lạ mà nó thường cảm mến. “Lại gần đây, ông đang nghèo nên mấy ngày chưa có tiền giả cháu". "Ông ốm hả?”. “Ừ, ông đang ốm”. “Ông có cần tiền không?” – Gương mặt nó quả quyết nhìn lên. Nó đang muốn làm việc gì đó mà nó cảm thấy phải thế... "Ông có cần chứ, ai mà chẳng thế, phải có tiền để sống". Nó sát lại gần ông hơn: “Cháu cho ông vay”... Mấy cô nhân viên nhìn nó cười ngặt nghẽo... nhưng nó chẳng cần biết. Ông già và nó như đang chìm vào tận đáy hồn nhau và họ lặng lẽ tìm đến nhau trong thấm đậm cô đơn cuộc đời. Nó lần tất cả mọi túi... những đồng tiền nhàu nát đặt lên bàn và nó bắt đầu đếm. Bàn tay nhỏ cáu bẩn lần giở từng đồng tiền nhàu nát cho phẳng lại: “Ông ơi, cháu có năm mươi nghìn, cháu cho ông vay”... Nó giúi vào tay ông chẳng đắn đo, với ánh nhìn tin cậy. Gương mặt nó xanh xao, những mạch máu non nớt thoáng gằn trên gò má. Ông lão cầm chặt tay nó như cố dồn xuống bao điều đang thổn thức... Một thoáng nghĩ trong lòng: “Cõi đời này còn chưa vắng... chưa vắng những kiếp người có tấm lòng hướng thiện”. Mọi người nhìn họ nhưng họ chẳng thấy ai. Thời gian như chậm lại, trùng xuống cho không gian ngừng trôi... Cái khoảnh khắc kỳ ảo trong cõi đời bỗng hiện lên bồng bềnh ánh hào quang tràn qua cõi sống. Ông lão ôm ghì nó vào lòng và những giọt nước mắt nóng bỏng trào trên gò má héo khô... Có những lúc kiếp người bỗng ngập đầy hạnh phúc, dù rất nhỏ bé thôi nhưng đó là hy vọng – hy vọng để cho người ta sống đến những ngày mai... những ngày mai nổi trôi có thể là vô định. Bài ca ấy không thể nào thiếu trong cõi đời này... cho từng thời khắc sống... nó như ngọn gió, hơi thở lan từ cuộc đời này sang bao cuộc đời khác, đốt nóng lên những bếp lửa đời người mà thời gian vùi dập dường như đang tắt nguội, tất cả chừng như lắng xuống, chìm đi trong suy nghĩ...
“Ông đùa cháu đấy” – Lời ông lão như nghẹn lại: “Người lớn bao giờ cũng phải có tiền để sống. Hôm nay ông hoàn toàn khỏi ốm và lại đi uống bia bình thường... mà ông phải ra trả cháu tiền kẹo cơ mà... đã ba ngày cộng với ngày hôm nay là bốn, còn hai ngày nữa là đủ một trăm, hôm ấy ông sẽ lấy kẹo”. Mắt con bé tươi hẳn lên vì ngày mai vẫn đẹp như mọi ngày hằng sống.
Định ra phố một lúc mà về đến nhà đã quá trưa. Ông lão như ân hận đến với lũ chim. “Tao đã về đây. Chắc đói mèm rồi còn gì” – Tay với con dao, ông dần mẩu thịt nạc cho giừ nhỏ xều cho chúng ăn. Hai cái mỏ non nớt cố vươn lên như lần tìm sự sống và niềm vui đâu đó đang len lỏi trong trái tim ông. Trưa hè vắng lặng, thỉnh thoảng chỉ còn những bước chân chim lần giở trên vòm đa còn thức. Trưa nay, trong căn nhà vắng lặng lòng ông thấy vui. Cây đa dường như xanh hơn và căn nhà dường như ấm lại. Ông lão có thứ để mà lo mà nhớ, một niềm vui le lói nhẹ nhàng khơi dậy... Ông lấy chiếc giỏ nhỏ, xưa là cái lẵng hoa của cháu, nhẹ nhàng đặt ổ chim vào đó. Ổ chim mới trông rõ xinh xắn. “Thôi nhé, ta cho các con về nhà mới” - Ông treo giỏ chim lên cành đa sà trước cửa buồng: “Có lẽ thế này... chẳng chuột bọ nào làm gì nổi”. Ông lặng lẽ ngồi đầu hè mà toan tính cho tương lai ngày mai của đôi chim nhỏ. Sự sống trong ông lại thức dậy với những lo toan hằng ngày, không còn đơn giản nữa... những bận bịu nho nhỏ như bao đường tơ nhện giăng lên mỏng manh trong đầu... nỗi cô đơn còn phảng phất đâu đây, trong căn nhà này, những đứa con ông đang trôi về đâu... khi hạnh phúc hiện lên, người ta hay tìm về quá khứ. Có lẽ cái miền gốc rễ ấy là hiện sinh ngày hôm nay cuộc đời. Cái giỏ chim nhỏ nhoi kia là một niềm hy vọng đưa ông về quá khứ. Sự nhạt nhẽo của ngày hôm nay như đè ông xuống nơi đây – trong căn nhà này ngập đầy vắng lặng. Chân lý ngày hôm qua đã chết. Xin mọi người hãy sống với hôm nay – Cũng có lẽ là vậy - Ông nghĩ thế – Tất cả đều vội vã sống và tích góp, cõi sống dường như muộn lắm rồi. Mọi người cứ phải chen lấn xô đẩy mà lên toa tầu ngày hôm nay kẻo lỡ. Họ bỏ mặc tất cả mà sấn tới một cái gì chẳng ai biết đó là thứ quỷ quái gì ở đời. Cũng có thể chân lý là vậy – Chân lý của hôm nay khác ngày hôm qua và quá vãng... Ông như kẻ lỡ tầu ngồi lại trên sân ga lạnh lẽo hay chăng chính đó là bài ca giành cho tuổi già - hãy ngồi đấy để mà làm cội rễ. Ông nhìn lên vòm đa xanh um... Không hiểu sao hôm nay vòm cây xanh thế. Cái màu xanh không muộn phiền trong cõi đời ảm đạm, những mặt người cứ hiện lên trong trái tim ông rồi lặng tắt trong bóng chiều lằng lặng.
Ông ốm bê bết hai hôm... cái bệnh lao phổi luôn xung khắc với sự thay đổi thời tiết. Trong đêm, tiếng ho khan trầm mặc như tiếng gõ cửa nhà xác, cái tiếng ho rút ruột rút gan như tiếng gọi chính mình, cây nến trên bàn hờ hững toả sáng như nói với ông: “Không sao đâu... lão còn chưa chết”. Cũng có thể cây nến sinh ra là vậy... nó như hiện sinh một sự sống mà ta đang tồn tại và có lẽ đó là tất cả - ta còn chút nóng của trời và ta còn hy vọng. Để rồi một ngày mới lại sáng lên, những tia nắng nồng nàn ánh xanh lung linh trên vòm lá. Những người mắc bệnh phổi chỉ hồi lại khi tiết trời ấm áp, cơ thể họ như dựa hẳn vào trời. Mà cũng phải, các cụ xưa có câu: “Ba mươi biết đời và năm mươi biết trời” – nghĩ mà rõ phải. Trên bàn chỏng chơ mấy cái bát chứa trong lòng đểnh đoảng mấy thìa cháo nguội. Cây nến đêm qua đã tan biết chỉ còn một vũng nhoè nhoẹt góc bàn, mọi thứ chỉ còn thế cho một ngày đang lên. Ông lão lặng lẽ đến với lũ chim, những cái mỏ há hoác như lời chào buổi sáng. Ông vui lắm vì dường như lũ chim lớn lên từng ngày. Tay ông run run, khó khắn lắm mấy hạt cháo nguội mới lọt vào mỏ chúng. “Khổ thân chúng mày, từ hôm qua tinh những là cháo, người ăn cháo, chim ăn cháo” - Ông chép miệng xót xa cho thân phận chúng...
Khoác áo ấm, ông lặng lẽ ra phố. Người già cứ phải cố mà vận động may chăng mới khoẻ... Đi lúc thấm mệt lại đứng nghỉ, rồi lại cố mà đi. Nó như cuộc thách đấu giữa linh hồn và thể xác. Cái nọ là động cơ cho cái kia bật dậy, chỉ có họ với họ trong đời. Họ thấm hiểu thời gian đã qua và hiện tại, tất cả dường như đang đối chọi nhau trong từng thời khắc, vẻ đẹp ngày hôm qua là nỗi xấu xí của ngày hôm nay và ngược lại. Có một thứ lôgíc quái đản cứ ngạo nghễ trên đời mà tạo thành chân lý. Nó chẳng phải quy luật của tạo hoá... Nó là một thứ quy luật của ngày hôm nay cõi sống... Nó quay tít như cỗ xe máy đang phóng trơn tuột trên đường, trâng tráo chẳng buồn nhìn ngó lại và có thể nó chỉ dừng khi đâm phải ai đó và chấm dứt... Có lẽ cõi đời là thế, quá khứ đã cũ - Ông đã cũ quá trong cõi đời này. Tất cả mọi thứ kinh điển đều đã cũ trong dòng thời gian thực tại. Chỉ có thực tại là đáng giá cho cõi đời lăn xả. Ông sống chẳng ai buồn thấy, ông nói chẳng ai buồn nghe và thế đấy hãy tự hiểu mà thu xếp...
Ngày thu cứ chầm chậm trôi đi, lợt nắng non trải êm trên hàng phố. Ông lão cứ bồng bềnh trôi trên con phố thưa người, thỉnh thoảng tiếng động cơ xe máy xẹt qua như lay ông tỉnh lại. Ngẫm cũng lạ, nhiều khi tâm không định nhưng bàn chân lại dẫn họ đến và có lẽ đó là bài ca mù loà của thân xác dẫn dắt linh hồn họ đi... Ông lặng lẽ bước vào quán. Vẫn cái góc ấy, cái bàn này, ông mệt mỏi ngồi xuống và lặng lẽ... quán bia vắng tanh, có thể vì cái lạnh đầu mùa đã làm nêm như vậy. Mấy dãy bàn ghế ngay ngắn im phăng phắc như đài tưởng niệm... “Con chào bố” – Cô chủ nhỏ tươi cười như hiện lên trước bàn ông lão: “Cái Hải nó gửi kẹo trả bố đây”. Ngơ ngác ông còn chưa hiểu, cô gái trịnh trọng đặt trước bàn ông cái hôm bìa cát-tông quen thuộc mà hàng ngày ông thường thấy ở đây, trên bàn tay con bé. “Nó không đi bán kẹo nữa bố ạ. Trông con bé ốm lắm. Chiều qua nó rẽ lại đây nhờ con trả bố hộ nó một trăm nghìn tiền kẹo”. “Mình đã trả đủ tiền đâu” – Một thoáng nghĩ trong đầu, ông lão như bị thôi miên. Cái hộp cát-tông cáu bẩn mòn nhẵn vì mô hôi và thời gian bên trong còn đầy ắp những vỉ kẹo xanh đỏ các màu. Con bé đang ở đâu? Hộp kẹo còn nguyên vẹn thế này. Trời thì đang rét lắm. Hình ảnh nhỏ bé còm cõi vì đói rét chợt hiện lên trong đầu ông lão. Nó như thấm vào hồn ông cái bóng dáng nhỏ nhoi ấy, và vĩnh viễn ở lại đấy – trong linh hồn ông với mênh mông một nỗi buồn không tưởng. Ông như nhìn thấy nó co ro lạnh và đói khát ở một nơi nào đó trong trời, hay trên một toa tàu đằng đẵng trải dài về vô tận. Cách đây hai ngày nó có năm mươi nghìn và sẽ ra sao cho những ngày còn lại. Sự trống rỗng cứ khơi lên mà chùm lấp đi tất cả. Linh hồn ông như chìm trong nó, chẳng biết là bao lâu nữa... Cái trạng thái vô định cho đời người, vô định cho cõi đời, tất cả bỗng trở thành không tưởng. Sự vật lộn sinh ra để giành cho tất cả mọi sinh linh. Khi đã đến và sống trong cõi đời này đều phải thế... phải tranh đấu giành giật để mà sống. Có lẽ đó là chân lý ở đời trong một thời đang nguội. Đứa trẻ ý thức được sự tồn tại của mình và ông già cũng vậy. Chẳng cần ai bảo, họ tự tìm cho mình một chỗ đứng, dù nhỏ bé lắm chỉ bằng cái đầu kim chẳng hạn... nhưng đó là chỗ đứng. Ông cứ miên man trong suy nghĩ như thế, chẳng biết đã bao lâu, khi sực tỉnh vại bia trên bàn đã trở nên đắng ngắt. Bên ông vẫn cô chủ nhỏ lặng lẽ ngồi, có lẽ cô đang thấm nỗi buồn trong linh hồn ông. “Cháu tên gì?” - Ông hỏi cô gái. “Cháu là Tạ Thu Hằng, quê ở Thái Nguyên. Bố để con đổi vại mới” – Và cô lặng lẽ vút đi.
Ông bâng khuâng rời khỏi quán như người mộng du. Cứ bồng bềnh như thế trên con đường ven hồ, cái rét đầu mùa sẽ lạnh, dãy phố mới trầm tư khép cửa như những pháo đài nín lặng hững hờ, chừng như tất cả đang chìm vào quên lãng và dứt khoát là thế... Trong cõi đời nay mấy ai để ý đến ai, họ đang chầy chật sống cho mình còn chưa đủ. Cái cảm giác thiếu mọi thứ luôn đeo đẳng gia đình họ. Căn nhà có thể rất đẹp và nhiều tầng đang cầm tù những kiếp người lúc nào cũng thấy mình là thiếu – thiếu, thiếu quá chẳng bao giờ là đủ, đó là một cõi sống chẳng còn sự cân bằng cán cân, cái hữu hình luôn đè nặng lên cõi sống và nhấn chìm tất cả.
Rồi ông cũng về đến nơi – căn nhà của mình. Những bậc cầu thang lát sỏi, cây đa sừng sững như người bạn đứng đợi ông trở về. Mọi thứ dường như đang đổi khác đi – dứt khoát là thế. Trong giỏ, hai chú chim non nghển cổ, mỏ há hoác đang đợi ông về. Để hộp kẹo đầu giường, ông vội vã lo cho chúng ăn... Lũ chim như bén hơi người cứ nháo nhác tìm ông đòi che chở. Có những lúc con người và loài vật hoà đồng với nhau chẳng còn khoảng cách, loài nọ dựa vào loài kia mà sống. Thế giới đại đồng của nhà Phật đang thu nhỏ ở nơi đây – dưới vòm đa và mảnh sân lở lói này...
Ông chìm trong giấc ngủ – một giấc ngủ mà tiềm thức còn đang sống, tất cả như đang sống dậy từ ngôi mồ năm tháng. Những gương mặt thân thương, bao trầy trật đời người, nỗi mất mát, sự mỏi mòn mong đợi. Cả dĩ vãng như đè ông xuống, lôi ông đi – lôi ông ra khỏi cõi đời này muôn thuở. Ông bàng hoàng tỉnh dậy, tiếng cháu gọi ông “Mình ơi!” – Hai ông cháu xưa nay vẫn thế, đôi tay nhỏ bé vuốt trên chán ông bê bết mồ hôi. “Mình ơi! Người ông ướt sũng. Ông khỏi chưa?”. “Dứt khoát là ông khỏi rồi con ạ!” - Ông ôm chặt nó vào lòng và thế là hạnh phúc. “Có người gửi tặng con thứ này đây” - Ông chậm rãi giở hộp kẹo. Mắt con bé to tròn sáng lên vì vui thích. “Ông cho con chọn một vỉ”. “Của con tất” – Con bé sung sướng phụng phịu đòi. “Phải để giành, người ta dặn ông thế” - Ông lão lặng lẽ quay đi che giấu một nỗi buồn khơi dậy: “Con phải ngoan, còn một món quà nữa, nhưng phải hứa là không được đòi vì con nghịch thì nó không chơi với con nữa”. Mắt con bé ngơ ngác vì sung sướng. “Ông hỏi con, ai đưa con về với ông?”. “Bố đón con về”. “Thế bố đâu?”. “Bố ra cửa hàng rồi ông ạ! Ông mình ơi! Còn quà nữa cho con đâu?”. Vòng tay nhỏ ôm lấy cổ ông trìu mến: “À này ông mình hỏi cún, con quân ai?”. “Con quân ông mình”. “Thế thì được” - Ông dắt nó ra đầu hè nhẹ nhàng đặt chiếc giỏ xuống bên hè. Trong giỏ hai chú chim cổ nghển cao như chào mời, đón đợi. Mắt con bé sáng lên vì thích thú. Nó cứ ngồi như thế chẳng biết bao lâu nữa. Hai chú chim trong giỏ như thôi miên nó, từng động thái nhỏ yếu ớt như gửi gắm trong tấm lòng thơ ngây. Cứ lúc lúc nó lại gọi ông cho chim ăn và cứ thế cả ngày hai ông cháu quây quần bên tổ hai chú chim. Có những lúc người già như thấm đượm vẻ đẹp thuần khiết trẻ thơ mà họ không còn nữa, nó như vực ta lên trong bao tháng ngày còn lại. Những đôi mắt, tấm lòng tràn ngập yêu thương và nhân ái, nó óng như tia sáng trong trời sưởi nóng lên những nỗi niềm đau khổ.
Mùa đông bình minh như dậy muộn, những lạt sương còn đóng váng trên vòm cây kẽ lá, thiên nhiên như chìm xuống tĩnh lặng vô cùng nhưng sự sống vẫn khẽ khàng thức dậy. Dường như cõi sống đang nửa tỉnh nửa mơ. Xa xa, Hồ Tây nhạt nhoà trong sương sáng, chỉ có tiếng sóng nhẹ lắm mơ hồ vọng lại. Sự sống xưa nay có lẽ là thế, thật mơ hồ mà tồn tại, nhiều khi ta chợt thấy như mất như còn. Song buổi sáng vẫn là buổi sáng. Ông lão vẫn dậy khi bình mình còn chưa thức, người già đón đợi một ngày mới như vậy – với những âm ba khởi nguồn còn chưa thấy. Họ ý thức se sắt cho từng ngày, cũng có thể họ nhìn thấy nó... thời gian như cái thước căng ra cho một thời và dài ngắn cho đời người được sống. Ông lão đến bên ổ chim, hai chú chim đậu trên vành giỏ, nó nhận biết được chủ của mình, hai cái đầu nhú mào nghiêng ngó như đòi hỏi vòi vĩnh. Nó lớn rõ nhanh, đôi cánh non nớt đã nâng được nó loanh quanh trên mảnh sân. Suốt ngày nó luẩn quẩn bên ông chẳng dời một khắc. Cứ lúc lúc lại ăn nên ông lão luôn bận bịu với niềm hạnh phúc nhỏ nhoi mà thiên nhiên ban tặng. Cứ từng mẩu thịt nhỏ trên đầu tăm là chúng sà lên tay ông mà đánh chén. Thời gian cứ nhẹ nhõm trôi đi mang theo từng ngày sống. Đêm đêm ông mong về ngày mới – một ngày mới ở đó ông tìm được niềm vui mà thiên nhiên trao tặng. Mọi nỗi cô đơn như tìm đến với nhau mà chia sẻ gánh chịu.
Rồi một sáng tinh mơ khi những tiếng vỗ cánh nô đùa trên vòm đa lay ông tỉnh giấc. Không phải mùa có trái nhưng lũ chim xưa nay vẫn thế, chúng trở lại với vòm cây xanh um nơi đã giành cho chúng những mùa sai trĩu quả, ông bật dậy khỏi giường, đứng trên hè lặng lẽ ngắm nhìn đàn chim đang giỡn đùa trên vòm cây xanh biếc. Những chú chào mào đuôi sè như chẻ quạt ánh sắc đen đỏ mượt mà, có những con sa xuống bàn nước ngơ ngác nhìn ông rồi lại vút bay đi. Hai chú chim non như hoà tan trong vẻ đẹp lộng lẫy ấy, lúc ẩn lúc hiện, khi sà xuống vành ổ rồi vội vã bay đi. Chúng nô giỡn đến quên cả ăn, chúng vui cho thoả thích. Trên vòm đa những thanh âm cất lên như bản hoà tấu kỳ lạ có lẽ không mấy ai ở đời thấy mà nghe được. Ông lão cứ đứng đó ngây ngất mà hoà đồng trong thiên nhiên buổi sáng, tới gần trưa đàn chim như cơn lốc vỗ cánh bay đi, trên sân không có những trái đa rụng, chỉ có ông nhìn theo với vô vàn nỗi nhớ. Hai chú chim nhỏ cuốn hút theo đàn. Qua trưa rồi chiều, ông lão cứ lặng lẽ chờ đợi, những mảnh thịt trong tách nhỏ treo ở rìa ổ, kiến leo đến tha đi, ông lão lặng lẽ thay mồi mới. “Chúng còn nhỏ quá, liệu có kiếm được mà ăn” – Ông lão cứ day dứt như vậy. Đêm đến ông nằm mơ về nó, sáng sáng ông nhìn ngó đợi chờ, cái giỏ chim bâng khuâng như niềm hy vọng, vòm đa xanh ngắt như nỗi đợi chờ, tháng năm thì vẫn vậy nhưng ở trong nó chứa chất biết bao nhiêu hy vọng và khổ đau nhưng vĩnh viễn người ta vẫn đợi chờ và hy vọng. Vòm đa chừng như xanh hơn, hứa hẹn một mùa ra trái, chiếc ổ chim vẫn treo ở đầu hè. Cây xương cá thức dậy những lộc non. Ông khệ nệ bê chậu cây đặt ở giữa phòng nơi ngày xưa cả nhà cùng ngắm. Một ngày mới lại bắt đầu với những tia nắng non vời vợi.

Sinh nhật 23-12-2008
 
[font=.vntime] 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.02.2009 00:16:02 bởi vuthi >

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Vết răng cắn - 01.03.2009 16:34:56
VẾT RĂNG CẮN
 
Tặng em Nguyễn Chiến Thắng


Xe tôi lướt trên đường phố như bị ma đuổi, đằng sau là người bạn gái ôm đứa con nhỏ độ bốn, năm tuổi đang vùng vẫy thét gào. Chị phải ôm ghì nó vào ngực tỳ chặt nó vào lưng tôi, hai tay chị nắm lấy hai cổ tay nó cho đứa trẻ khỏi vùng vẫy cấu cào. Phố hàng Bột đông nghẹt người qua lại, tôi cứ phải luồn lách phi đến thục mạng. Cái tiếng khóc nhỏ nhoi, khàn khàn vì la hét vùng vẫy cứ ngoằn ngoèo trải dài trên đường phố.
Không đi đằng này – nó cứ vùng vẫy và gào lên như thế.
Được rồi không đi đằng này, anh rẽ đi – chị bảo tôi.
Mẹ nó cố dụ dỗ bằng cách rẽ đi lối khác mà nó không biết, nhưng nó vẫn hiểu là mọi con đường đều đưa nó đến bà ngoại, mà ở đấy thì nó thấy buồn chán biết nhường nào. Ở nhà ngoại không có mẹ, chỉ có mình bà và bao thứ đồ đạc nhếch nhác, hôi hám đến buồn tẻ. Nó cứ phải ngồi trên chiếc giường duy nhất trong căn buồng tối sẫm vì thiếu ánh sáng. Nó cứ phải ngồi như thế đã từ lâu lắm rồi, trên chiếc giường ấy. Mọi thứ trong trái tim nó dường như đã bị héo đi khi còn thơ dại, ở với bà, là ăn đúng bữa và ngồi một chỗ, chỉ được phép nghịch ngợm trong khuôn khổ manh chiếu mà thôi, bọn trẻ cùng lứa, chẳng có đứa nào, nên con bé cứ gầy còm đi trông thấy. Nỗi nhớ đang thiêu đốt trái tim nó từng giờ, từng khắc trong đời, tính tình con bé cứ dần dần trở lên bẳn gắt và hung hãn làm sao, nó sẵn sàng hỗn láo và hằn học với tất cả mọi người khi mới gặp, có thể vì sợ họ sẽ lại lôi mẹ đi xa nó. Cuộc đời nó chỉ có mẹ và nó yêu mẹ biết nhường nào. Bố chết từ khi nó còn chưa mở mắt, cả cuộc đời nó chỉ có mẹ và mẹ là tất cả những gì nó có trên đời. Nó có một anh, một chị, nhưng cả hai đều không mặn nồng với em, có lẽ vì nó chiếm nhiều tình cảm trong lòng mẹ quá, choán cả chỗ của người khác nên sự lơ là của lũ trẻ cũng có lẽ, mà trẻ con xưa nay thì vẫn vậy, chúng muốn chia mẹ mình thành từng phần đều nhau dù rằng không thể nhưng chúng vẫn ao ước như thế. Một người phụ nữ chồng chết, phải loay hoay với ba đứa con nhỏ mà xoay sở vật lộn trong cõi đời này kiếm miếng ăn cho cả gia đình thì cơ khổ xiết bao. Việc gì chị ta cũng làm, từ hầu bàn, đến gội đầu, xoa bóp, bấm huyệt việc gì cũng được, miễn là ra tiền, nên thường cả tuần chị mới về ngoại thăm con được. Vừa là tiếp tế lương thực, vừa là trang trải nỗi nhớ mẹ con. Và cứ mỗi tuần như thế, mẹ nó cứ như bà tiên hiện về trong tâm tưởng, nó ôm ghì lấy mẹ và biết bao là thương nhớ và trách móc như nước chảy cứ tràn vào lòng mẹ, có lẽ đến cả ngày vẫn chưa hết được bao chuyện mà nó tấm tức trong lòng. Nó chẳng rời mẹ lấy nửa bước, trong bữa nó ăn nhiều hẳn lên, nó kêu thèm bánh nọ, kẹo kia và chẳng quên nỗi ao ước là hộp bút chì màu và cái váy mới như lũ trẻ thường mặc mà nó nhìn thấy.
Mẹ ạ! cái váy phải xoè ra như thế này - Tay nó dang ra làm cữ - Phải có cái nơ và nhiều chấm hoa xanh đỏ – Những búp tay nhỏ xíu như muốn tô vẽ lên một chiếc váy mà nó thường ấp ủ trong lòng.
Được rồi, mẹ sẽ để dành tiền mua váy cho con, nhưng con ở với bà phải thật ngoan – Một nỗi trống rỗng trong mắt nó - Bên mâm cơm nó nép vào lòng mẹ, thời khắc của sự xa cách như rũ bỏ trong nó bao nỗi ao ước trong lòng.
Thời gian hiện sinh từ buổi đầu của mọi kiếp sống, nó hiện diện từ lúc đứa trẻ chào đời cho đến ngày thấm khổ, và khi đã thấm khổ nó sẽ bắt đầu suy nghĩ về thời gian. Thời gian của đứa trẻ thơ sắp xa mẹ dường như đang hiện dần lên trong nó, nỗi trống vắng mơ hồ tràn ngập nỗi lòng trẻ nhỏ, trào dâng trong đôi mắt ngây thơ. Thời khắc này, hình ảnh ấy, sẽ chứa đựng trong lòng người mẹ khi vật lộn với đời, và cái lẽ bao người mẹ phải sống mãi để trả lại niềm vui và tình yêu cho những đôi mắt ấy.
Tôi nhớ mãi về ngày tết vừa qua, trời rất lạnh, con bé phong phanh trong bộ váy mới – Tôi chợt rùng mình vì thấy lạnh, nhưng tôi hiểu dù lạnh nhưng nó sẽ dứt khoát không mặc thêm chút đồ cũ nào – Nó muốn khoe trước mọi người về món quà năm mới mà mẹ nó tặng. Nỗi buốt giá của cái nghèo còn thao thức trên từng thân xác, nó chẳng còn là sự hãi sợ nhưng nó là điều thách thức trong trái tim người mẹ.
Tiếng khóc trẻ thơ làm trái tim ta cảm nhận một nỗi bầm dập đâu đó trong tâm hồn, có thể nhỏ bé thôi nhưng tấm lòng người mẹ đớn đau đến thế… họ phải giằn lòng xuống - giằn cho tới đáy của mọi nỗi khổ đau mà vực lên sự sống. Có lẽ đó là sứ mệnh của tấm lòng người mẹ.
Cái tiếng khóc khản tiếng hôm nay - trên đường phố này, len lỏi giữa muôn dòng xe cộ, cái tiếng khóc như đeo bám lấy đời mà hờn, mà oán. Mẹ cố ôm ghì lấy nó như muốn nhận về mình mọi nỗi khổ đau, nhưng trái tim nó đã sẵn sàng gánh chịu, nó đòi lại tuổi thơ dại đã mất và tình yêu của mẹ trong đời. Tôi hoảng loạn như kẻ bắt cóc trẻ con, tay vít ga rồ máy như cố phóng ra khỏi cõi đời khốn khổ, sau lưng tôi con bé dữ dội thét gào…
- Phải dừng lại thôi em?
- Không dừng được đâu, dừng lại thì không ai dỗ nổi nó nữa.
Càng đến gần nhà ngoại, con bé càng trở lên hung dữ, những ngón tay nhỏ xíu cào cấu vào lưng tôi, miệng gào lên đến khản đặc:
- Không đi đường này. - Trong điên cuồng nó cắn vào lưng tôi, hai hàm răng thù hận như xiết chặt lấy da thịt, như nỗi đau đớn của loài thú cùng đường.
Xe đến gần nhà ngoại, tôi dừng lại bên hàng nước đứng chờ, ôm ghì lấy nó trong tiếng thét gào hoảng loạn:
 - Mẹ còn phải đi làm, cuối tuần mẹ về – Mẹ nó gào lên trong cơ khổ, và lời dỗ dành ấy cứ xa dần khuất sâu trong ngõ nhỏ.
Tôi mệt lả ngồi lặng trong quán nước, tay chân run run rã rời, cả thế giới dường như tan đi trong đau đớn, nhìn đồng hồ điện thoại – chắc giờ đây cháu nội tôi đang hờn khóc tìm người bồng bế và kia rồi cô bạn tôi đang hớt hải chạy ngược ra đầu ngõ, trong mắt chị còn ngập đầy nước mắt, gương mặt nhạt nhoà lặng lẽ quay đi cố chôn dấu biết bao điều đau khổ:
- Đi đi anh không con cún ở nhà nó khóc.
Nhìn chị tôi chợt nhớ đến câu cửa miệng mà cõi đời hay dùng “Phụ nữ ba đảm đang”. Một câu nói vô nghĩa và đau đớn đến thế, bao bà mẹ phải phó mặc con mình cho tiếng khóc ru quên mà đằm mình trong nỗi đau trần thế. Tại sao họ không cận kề bên lũ trẻ mà vỗ dậy cõi đời vì bổn phận của họ xưa nay là thế, người phụ nữ phải lo toan việc cửa nhà, sinh nở và nuôi con, trong xã hội loài người đó là một công việc lớn lao không hề nhỏ, nó dường như là một nửa gánh nặng gia đình và tại sao họ lại phải “Lo việc nước, đảm việc nhà”, câu nói trên đã cướp đi biết bao nhiêu hạnh phúc trong đời con trẻ. Người phụ nữ phải làm lụng như đàn ông, sinh nở và nuôi con, và tiếng khóc trẻ thơ cất lên từ đấy. Người đàn ông không đùm bọc, nuôi dưỡng nổi gia đình mình! Đó là điều ô nhục cho cánh đàn ông trong xã hội văn minh. Cả xã hội hô hào giải phóng cho phụ nữ và tôi ngẫm: Giải phóng phụ nữ đi đâu khi họ có một gia đình và những đứa con thơ? Hãy giải phóng họ về với chính họ tồn tại bên những đứa con, người đàn ông sẽ cố gắng cho bớt nhục vì không bao bọc nổi gia đình. Chiến tranh đã kết thúc từ lâu, câu nói trên nay trở thành sáo rỗng và tàn ác làm sao! Mọi trật tự chẳng lẽ không trở về đúng chỗ cho yên bình trở lại hay sao? Bao tiếng khóc trẻ thơ từ mọi góc đời tăm tối đang cố nhoài tìm về lòng mẹ, cái nôi của nó, tình yêu của nó, tiếng khóc xé lòng vô vọng ngân lên như dấu hỏi một thời.
Xe tôi trở về trong nỗi buồn tơi tả, sự im lặng như đè lên tất cả, tôi sẽ nói gì và bạn tôi sẽ nói gì. Một nỗi buồn mê sảng cứ phảng phất trên con đường trở lại. Cháu tôi sẽ vui và con chị sẽ buồn, một bàn cân luôn luôn thiên về nỗi khổ, ở đó có tiếng khóc con chị và lòng tôi thầm nhủ: Thắng ơi! nỗi đau của bạn là nỗi đau của tôi.
Khi tiếng khóc trẻ thơ cất lên dằn dỗi thì tôi đèo cô bạn về đến nhà.

2005
[font=.vntime] 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.03.2009 16:37:35 bởi vuthi >

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Bà lão ăn mày và em bé - 01.03.2009 16:42:32
BÀ LÃO ĂN MÀY VÀ EM BÉ
       Tặng con Vũ Quốc Bảo
Bà lão chống gậy, một tay cầm mảnh gáo dừa đứng trước cửa mọi nhà xin của bố thí. Tiếng con chó nhà chủ rít lên nghe khác thường, quyết liệt hơn mọi khi. Một chú bé chừng năm tuổi đứng gần bà lão, trên tay cầm chiếc kẹo đứng xem bà chăm chú. Có lẽ vì nó không có bà hay cụ, nên bà lão đã khiến nó nhìn bà chăm chú đến thế. Cái tiếng chó sủa như té tát cũng chẳng làm bà lão sợ. Vẫn mảnh gáo dừa chìa ra phía trước. Cái mảnh gáo dừa vỡ tướp, như bóng lên dưới thời gian của đủ các loại ngọc thực - Chắc cầm nó khi đói cũng nặng.
Ở trong sân một tiếng người trung tuổi vọng ra:
- Khổ lắm! Nhà này chẳng có gì đâu!
Lời nói ấy như một thông điệp quen thuộc. Tiếng chó thôi sủa, sự yên tĩnh trở lại nơi ngõ nhỏ. Bà lão lặng lẽ cầm mảnh gáo ra đi. Cái lưng còng như gánh trên thân bà bao mảnh áo quần rách tướp sói lở theo thời gian. Đôi tay gầy gò nhăn nheo, rạn nứt như chứa đựng bao buồn đau cuộc đời.
Thằng bé cũng lặng lẽ ngơ ngác theo bà lão ra đầu ngõ. Chợt rất nhanh nó tiến tới gần bà. Như có lực hút. Nó đưa biếu bà lão chiếc kẹo đang cầm trên tay.
Bà lão cũng ngơ ngác như như chính khi nó ào tới:
- Ôi! Tôi xin cảm ơn cậu. Và trong mảnh gáo dừa run run kia có một cái kẹo. Thằng bé chạy ào đi như trốn sự nuối tiếc.
Ngày hôm sau, vẫn trên lối ngõ nhỏ ấy, tiếng chó lại cồn lên huyên náo. Và bà lão lại ra đi với mảnh gáo dừa trống rỗng. Tới đầu ngõ, vẫn thằng bé hôm qua ngơ ngác theo bà. Nhưng lần này, nó mạnh dạn hơn, tiến tới bên bà lão, trên tay nhỏ còn lại nửa chiếc quẩy đang ăn dở.
- Cháu cho bà - Nó nhẹ nhàng đặt vào lòng gáo.
Tấm lưng còng như rung lên:
- Ôi! Xin cảm ơn cậu. Nó nhẹ nhàng bay đi, trong mắt còn ánh lên một niềm vui nhỏ. Và cứ thế, ngày nọ qua ngày kia, hai cực của hai kiếp người nhỏ nhoi ấy như tiến gần lại nhau hơn.
Tiếng chó vẫn sủa! Song một hôm, trước cái ngõ nhỏ ấy. Thằng bé tần ngần nhìn bà lão, họ đang tiến đến gần nhau, song trong ánh mắt thằng bé, một nỗi ân hận, thiếu vắng như chìm xuống. Trên tay nó trống không, bất lực, đôi mắt buồn bã hướng xuống con đường nhỏ.
- Cảm ơn cậu! - Tiếng bà lão nói rất khẽ, như chỉ để cho họ nghe thấy. - Bà muốn biếu cháu một thứ! - Trên tay già nua hướng về phía thằng bé, một mảnh nhựa đỏ có in hình đức Phật.
- Bà biếu cháu chút quà.
Trong tay thằng bé vẫn cầm chặt mảnh nhựa, tần ngần nhìn theo bóng bà già khuất dần trên lối xóm. Và mãi những ngày về sau, trong xóm nhỏ, không còn ai nghe tiếng sủa của con chó thường cắn, có lẽ nó đã già và chết.
Nhưng trước ngõ, thằng bé vẫn nô đùa cùng các bạn. Trên cổ nó, cái mảnh nhựa đỏ có in hình đức Phật, như bay theo những nô đùa của lũ trẻ trong không gian.
Hà Nội ngày 30-11-2000
 
[font=.vntime] 

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Ước mơ không thành - 01.03.2009 16:47:20
ƯỚC MƠ KHÔNG THÀNH
 
Trong cuộc sống chúng ta,
Có những mơ ước nhỏ nhoi
Tưởng chừng như dễ dàng thực hiện
Như những món quà gửi đi không bao giờ đến
Song vẫn còn vĩnh viễn trong ta!
 
Tiếng cưa xọc cằn nhằn trong nắng hè oi ả. Cái nắng thiêu phồng lớp giấy dầu trên mái, những cơn gió hiếm hoi chỉ làm tăng thêm cảm giác oi nồng ngột ngạt. Trong lán gỗ lạt ngổn ngang bụi bậm.
Nó lặng lẽ nhìn cha làm việc. Sự nôn nóng làm chân tay nó ngọ nguậy luôn, lúc sờ cái nọ, lúc hốt cái kia. Những giọt mồ hôi lẫn bụi bết trên vầng trán, bên trên thái dương làm bệt những sợi tóc tơ nguệch ngoạc. Cha nó ngồi nghiêng dọc theo cầu bào đè lên thanh gỗ, lưng hơi cong về phía sau, đôi tay cầm cưa kéo lên giằn xuống đều đều. Những nhịp cưa soàn soạt nghe thật vui tai, mùn cưa phía dưới thanh gỗ phun ra trông thật sướng mắt. Một ý nghĩ loé lên trong mắt - Nó cũng có thể làm được như bố. Ở trẻ thơ trí tưởng tượng bao giờ cũng vượt xa tầm vóc.
Cha nó chắc mệt lắm!
Mồ hôi trên trán tràn vào mắt, nhỏ xuống áo, chiếc áo dính bệt vào lưng. Chắc chắn mình làm được đứt đuôi.
Nó tự khẳng định một lần nữa dễ dàng như hai lần hai là bốn và sán lại gần chỗ cha vòi vĩnh:
- Bố cho con làm với, con làm được mà!
- Khổ lắm! - Bố nó dừng tay quệt mồ hôi trên trán, quay về phía nó:
- Thôi đừng quấy bố nữa, lên nhà rửa mặt đi con. Bố đã bảo khi nào con cao bằng hai cái cưa thì làm được cơ mà.
Anh ngồi xổm, ôm nó vào lòng dỗ dành. Nó tần ngần, phụng phịu, vừa đi vừa ấm ức vì bố ngăn cản công việc mà chắc chắn nó làm được. Nó đứng nhìn mãi mà chả được giúp bố tẹo nào. Nó vẫn chưa lớn, bố bảo năm nay nó lên năm. Không hiểu lên mấy thì làm được? Câu hỏi ấy đã mấy lần khiến nó phải suy nghĩ. Bố nó thì vẫn phải làm, còn nó thì chưa lớn, nó phải lớn thật nhanh mới được, nó tự quyết định như vậy.
Chậu nước giúp nó quên đi những ấm ức. Cảm giác mát mẻ qua đôi bàn tay tràn ra khắp cơ thể. Nó thích thú khoả đôi bàn tay tí xíu làm bắn tung những giọt nước lên người! Óc nó bỗng loé lên một ý nghĩ mới mẻ. Bỏ chậu nước nó chạy vụt lên nhà vội vàng mở ngăn kéo. Ở trẻ thơ, bất kì việc gì cũng có thể gợi cho nó một ý tưởng nào đó, một trò chơi hay một cái gì đó và chúng lao vào với tất cả sự say mê cuồng nhiệt.
Nó đang còng lưng mở ngăn kéo đồ chơi và cái thế giới mộng mơ hằng ngày đã hiện ra dưới bàn tay nó. Chú vịt mỏ vàng mình trắng nằm bên chị gà hoa mơ mào đỏ. Ông hùm lông vằn bên cạnh bác báo hoa. Một đoàn tàu nhựa màu vàng và mấy chiếc máy bay nhỏ xíu. Tất cả những thứ đó hôm nay không làm nó hứng thú. Điều gì đang thu hút sự chú ý trong nó. Nó lôi cái hộp bìa cáp tông phía trong cùng ngăn kéo - Hộp đựng tiền mừng tuổi. Những đồng tiền mà bố mẹ và mọi người tặng nó vào ngày tết và ngày sinh nhật. Nó dành dụm để bố mua những đồ chơi mà nó thường ao ước. Nó trịnh trọng nhấc lấy một đồng kềch kệch, đậy hộp cẩn thận đặt vào chỗ cũ, rồi chạy vù ra cửa. Ý nghĩ gì đang thôi thúc nó ba chân bốn cẳng chạy về phía ngã tư đầu phố? Má đỏ hây vì nắng, tim trong ngực đập thình thịch vì chạy quá sức, song điều đó không quan trọng bằng dự định của nó đang thực hiện. Nó hớn hở khi thấy bà bán hàng quen thuộc. Nó sẽ mua tặng bố một que kem. Một que kem mát lạnh, ngọt lừ. Dứt khoát bố sẽ thích thú trong khi làm việc mệt nhọc. Nó vừa thở hổn hển vừa nói:
- Bà bán cho cháu một chiếc.
- Làm gì mà chạy ghê thế hở cháu? Bà cụ mở phích rút cho nó một chiếc. Làn khói lạnh toả ra từ que kem “thần diệu” dưới nắng hè oi ả. Nó đang cầm một chiếc “đũa thần” trên tay.
Cảm giác lành lạnh ở cán que làm nó thích thú. Bố mình vui thích biết bao khi được ăn chiếc kem này. Song những giọt nước nhỏ dần trên tay báo hiệu một sự đe doạ. Nó chợt hiểu và thế là lại ba chân bốn cẳng.
Cuộc chạy đua với những giọt nước kem tan đang nhỏ dần trên đất. Que kem đã biến dạng trở nên méo mó, gầy còm, làm nó phát hoảng. Niềm hi vọng và nỗi lo âuthôi thúc đôi chân cuống cuồng chạy. Sự mất mát và mệt mỏi làm nó ức phát khóc lên được. Nó chạy ùa vào lán mồm la lớn như bị ma đuổi:
- Bố ơi! Kem.
Lúc bố nó hiểu ra thì mảnh kem cuối cùng buột khỏi que rơi bệt trên nền lán. Trên bộ mặt bé nhỏ tủi hờn kia, những giọt mồ hôi mệt mỏi hoà cùng những giọt nước mắt thất vọng. Nó không khóc nổi thành tiếng như khi bị đòn.
Bố ôm ghì nó vào ngực dỗ dành:
- Nín đi con. Bố cứ trông thấy kem của con cũng đủ mát rồi, không cần ăn nữa - Mắt anh cũng rưng rưng mấy giọt nước mắt vui sướng.
Nỗi luyến tiếc làm nó còn tấm tức: Chắc tại mình chưa lớn! Không hiểu đến bao giờ mình lớn.
21/3/1984
Tặng con trai Vũ Tùng Anh. Mẩu chuyện ngắn bố viết như món quà đầu tiên trong đời. Ông nội là người chỉ bảo và sửa tác phẩm. Mỗi khi đọc con hãy nhớ đến ông với tất cả tấm lòng kính yêu.

 
[font=.vntime] 

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
CON NUÔI - 07.03.2009 19:25:37
CON NUÔI
 
Xóm Đặng làng Hồ hôm nay có chuyện! Mọi người đi qua trước cửa nhà cô Lý đều nghiêng ngó nhìn, tò mò ái ngại và mừng cho chị, họ thì thầm chia sẻ cho nhau về cái tin chị ta cho con bé út làm con nuôi.
- Thôi thế cũng được! Mẹ con họ đỡ khổ! Nhà năm, sáu miệng ăn mà thằng chồng thì nghiện ngập! Mà khổ! Đẻ gì nhiều thế? - Mà ai xin đấy hả cô.
- Lão Hoạch thôn trên bà ạ.
- Lão ta đi làm trên Hà Nội có mấy năm mà có vẻ khá ra phết! Nghe đâu cũng có vợ nhưng chẳng đẻ được bà ạ.
- Rõ chán! Đã què thì còn nuôi nấng gì ai được.
- Chắc lão muốn nuôi để lấy chỗ nương tựa khi về già - cụ cứ nghĩ nó ở nhà còn khổ hơn đi làm con nuôi - mà lão mang lên Hà Nội, ở đấy họ văn minh chứ đâu như ở ta.
Trong sân lão Hoạch đang khua hai tay trong không gian mà phân bua với hai mẹ con đứa trẻ.
- Mới đủ ăn đủ tiêu thì con vợ tôi nó nghĩ ngay đến chuyện con với cái, mà tôi thì chẳng sao làm cho nó đẻ được, mà phụ nữ không có trẻ con thì khác nào như ma ngoài bãi. - Cái mắt còn lại trên bộ mặt nhăn nhúm như chìm xuống trong nuối tiếc.
- Thôi chị sinh nhiều cháu, nhường cho tôi một đứa lấy chỗ nương tựa tuổi già. - Thân hình hắn vặn vẹo tronglần áo ba đờ xuy phủ kín, như cố che giấu đi cái khuyết tật chân thọt bẩm sinh mà hắn phải đeo mang suốt đời. Chợt tiếng đứa trẻ khóc ré lên như nhắc hắn còn một đoạn trong màn kịch chưa thực hiện, vội thò tay vào túi xách bên sườn hắn rút ra một bầu sữa, chắc không còn nóng, nhanh nhẹn chìa về phía mẹ con đứa trẻ.
- Đấy cô thấy… con vợ tôi nó háo hức trẻ con làm sao, từ sáng đã chuẩn bị cho tôi đủ thứ nào tã lót, đường, sữa đủ cả! Hắn nhe hàm răng vàng khè cười hề hề sảng khoái. Cái tiếng khóc trẻ thơ cằn nhằn như bị ru đi theo bầu sữa. Sự yên tĩnh được trả lại cho cuộc trao đổi, song ở đây có lẽ trao nhiều hơn đổi, vì lẽ lão ta chẳng có gì để đổi.
- Cô cứ yên tâm vợ chồng tôi sẽ yêu nó như con! Người cùng làng ta cả chứ đi đâu mà mất, thỉnh thoảng tôi bế nó về thăm nhà có đi mất đâu mà lo. Tiếng mấy người hàng xóm như củng cố thêm niềm tin cho người mẹ đứa trẻ:
- Đấy cô xem! Con bé bú sữa xong ngủ thin thít! Cha này thật có duyên hợp con bé. Cuộc trao đổi ấy qua đi trong một buổi chiều thu ảm đạm. Lão Hoạch thọt tập tễnh địu đứa trẻ ra đi xa dần cái làng Hồ buồn thảm để lại đằng sau nó những giọt nước mắt chứa chan về thân phận nghèo của một người làm mẹ.
Ở tận góc cùng của một vườn hoa thành phố vào một buổi sáng, trong một thùng công te nơ bỏ hoang. Giọng lão Hoạch như gầm lên trong cảnh hoang sơ bàng bạc.

- Thế nào! Mụ đã xong chưa! Chỉ có ăn với nằm mà cũng phải chờ đợi! Đã cho nó bú bầu chưa?
- Cáu cái đếch gì… Bú rồi… Biến đi cho rảnh. - Mụ khệ nệ cắp đứa trẻ qua bãi cỏ rộng đến ven đường. Lão Hoạch bò lê trên cỏ kéo theo mảnh ván được đóng gờ qua loa bốn cạnh, ở mỗi góc có ổ bi, chiếc xe nhỏ ngoằn ngoèo lê theo hắn đến ven đường, mụ ta đặt đứa trẻ kềnh càng trên mảnh ván, mớ tã lót bù xù bẩn thỉu. Đứa bé ngủ thin thít như cục thịt trên phản. Lão quay lại hỏi:
- Sữa đâu?
- Trong túi xách ông quàng đấy thôi.
- Thuốc ngủ pha chưa?
- Khỏi phải nói! - Mắt mụ đanh ác nguýt gã thật dài và chiếc xe lăn bánh ngoằn ngoèo theo những nhịp bò lê của hắn trên con đường công viên, dáng hắn bò trông thật thiểu não khốn cùng, nửa người lết trên mặt đường nhựa, cái chân què lắt lẻo lê theo như món nợ bần hàn. Tay hắn tì xuống đường nhoài lên, đầu hơi ngửa, mồm lải nhải cầu xin.
- Ông bá ơi! Ông bà ơi!… Cái điệp âm ấy đều thiểu não như một bài kinh dài bất tận, sợi dây quàng nơi cổ tay cũng dần dật theo nhịp lê của gã và mỗi lần như vậy đứa trẻ lại giật thót mình rên lên nhè nhẹ. Có lẽ nó chẳng còn khóc được nữa vì thuốc ngủ đã ngấm sâu vào từng đường gân thớ thịt nhỏ nhoi của một kiếp sinh linh khốn khổ. Đứa trẻ mê đi trong cõi đời quên lãng. Chiếc mũ phớt rách để cạnh nó dần đầy lên vì những của bố thí của mọi người. Cái xe cứ lúc lắc ngoằn ngoèo như giễu cợt, như van vỉ cầu xin những người qua lại. Có những lúc họ xúm lại xem đứa trẻ và thằng què như xem những con thú kì lạ trong vườn thú, một loại thú gây đau lòng tất cả. Họ chua xót cho một kiếp người đã được sinh ra.
- Khổ đứa bé chưa! - Họ ngỡ ngàng thốt lên với tất cả tấm lòng thương xót.
- Đã què mà lại còn đẻ đái.
- Có lẽ mẹ nó đã chết! - mà đúng vậy, mẹ nó như đã chết khi trao nó vào tay người khác, rồi nó sẽ chết sau những tháng ngày vật lộn vất vả.
Cái cỗ xe độc mã chở một kiếp người nhỏ bé ấy cứ lưu lạc mãi trên những nẻo đường cuộc đời rồi sẽ về đâu? Thật kì lạ! Trên cõi đời chúng ta, cái nghề ăn mày đã có từ mấy nghìn năm trước, như một lời thách đố những tấm lòng từ thiện và có lẽ sẽ còn mãi mãi cái nghề nghiệp đau lòng này, song lão què làng Hồ đã nâng cấp cái nghề đau lòng này lên đỉnh cao của nỗi đau lòng nhơ bẩn. Nó như thách thức với tất cả mọi tấm lòng trắc ẩn trong đời. Nó là đỉnh cao của mọi đỉnh cao tội ác. Hắn vẫn tồn tại trên đời và kéo theo một kiếp người bé nhỏ. Trên miệng hắn vẫn còn cái lời kinh đều đều bất tận.
- Ông bà ơi! Ông bà ơi!...
Như một sự đùa cợt cõi đời.
Thật kì lạ trong xã hội loài người lại có một cái nghề kinh khủng đến thế.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.03.2009 16:38:52 bởi vuthi >

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
CẶP KÍNH - 09.03.2009 16:38:02
CẶP KÍNH

 
Cuộc đời khi mắt kém thì thực là buồn, nên hắn cũng đành dành dụm mà mua cho mình cặp kính. Mà khi nói đến kính thôi thì đủ loại: của Mỹ, Nhật đắt lắm thì ai mà dám mua, cứ làm cái kính Tàu 15 nghìn vừa rẻ mà nhìn gì cũng thấy. Rẻ mà nhìn rõ thì mới quý, nhìn đâu được đấy, rõ cứ như ban ngày. Có đọc cuốn sách chữ nhỏ li ti mắt sáng lên như hồi còn trẻ, mà cái giống sáng mắt thì hay thích nhìn, mà đã thích nhìn thì lại thích đi. Thật rõ tác dụng của cặp kính lợi hại biết bao và chính cái kính lôi hắn ra đường phố đi đây đi đó thăm thú bạn bè. Khi ở nhà thì việc gì cũng tỏ! Khi đi toa lét, nhìn một cái đích ngay cái chốt cửa chẳng phải sờ lần trong tối như xưa. Ngẫm cái kính Tàu có 15 nghìn mà thật là đắc lợi. Có hai mảnh lăng kính đeo lên mắt mà nó nối cõi đời dài ra đến mọi nơi, mọi chốn. Khi đã có tuổi mà còn được nhìn ngắm cõi đời óng ả thì thú vị biết bao. Mà các bà vợ cũng thú vị chẳng kém khi các ông chồng mù tịt đi đâu đó cho khuất mắt. Cũng có thể vì lẽ đó hắn được đôi tròng kính chắp cánh cho đôi cẳng lên đường. Ngẫm cho cùng cõi đời thật kì quái! Chỉ có 15 nghìn mà đã thành bước ngoặt. Thôi thì chỗ này chỗ nọ đôi cẳng cứ là lắm việc để làm! Mà lại thú vị cơ chứ! Ngẫm thật cũng đáng! Cái kính muôn năm, cái kính cao quý! Hắn cứ thả bộ trên vỉa hè công viên, bên những hàng cây mà suy, mà nghĩ, mà sờ, mà ngắm cái cõi đời là lạ đã có thờichừng như bỏ rơi hắn. Xa xa dưới gốc cây ven hồ, một cặp tình nhân đang quện vào nhau mà tình tứ! Hắn sững lại! Cặp kính chừng như làm mắt hắn sáng lên! Vợ hắn! Chính vợ hắn đang ôm một thằng cha bỏ mẹ nào đó! Bàn chân hắn không tiến lên nữa. Cái cỗ máy cơ thể ọp ẹp dường như lún xuống, chùn lại. Cặp kính như mờ đi! Trời ơi cái cặp kính 15 nghìn đang làm hại hắn. Cái thứ ánh sáng khổ đau, ảm đạm làm sao! Chính hắn đã nhìn thấy vợ hắn qua cái lăng kính 15 nghìn khốn khổ!
 Hắn lặng lẽ ném chiếc kính xuống mặt hồ! Một tiếng “bõm” khô khan vọng lại. Cuộc đời lại như cũ! Mờ ảo và đợi chờ! Hắn thẫn thờ trên con đường tản bộ, trước mắt hắn tất cả đều mờ ảo, khổ đau.
Hà Nội, 8/2001
 
[font=.vntime] 

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Chiếc ổ khóa - 14.03.2009 10:31:53
CHIẾC Ổ KHÓA
 
Họ đứng giữa căn phòng rộng ánh sáng dịu, trên trần một quầng chấm sáng xanh lốm đốm phản chiếu của bao hạt pha lê đèn chùm. Những giọt ánh sáng được thắp lên trong căn buồng huyền diệu. Hôm nay là ngày cưới, họ quàng vai nhau như hai đứa trẻ trong chuyện cổ Grim. Trước mắt họ là chiếc bàn gỗ lớn bóng loáng, đầy ắp những hộp quà thắt nơ xanh đỏ màu sắc sặc sỡ trông thật vui mắt, tất cả cứ như một mâm cỗ lớn gồm đủ các loại món ăn sơn hào hải vị đặt trước mặt hai đứa trẻ, họ ôm nhau thật nồng ấm hạnh phúc làm sao, hai bộ lễ phục đẹp nhất, hai linh hồn trẻ mới nhất ôm ghì lấy nhau trước bao nhiêu hạnh phúc và lễ vật. Căn phòng vắng vẻ chỉ còn lại họ nhưng tràn đầy vẻ no đủ tình yêu. Người chồng đặt lên môi vợ nụ hôn thật dài, nàng cố lắc mình chừng như nô nghịch, họ cứ quện vào nhau như hai đứa trẻ chẳng bao giờ no chán. Chàng nhẹ nhàng êm ái nâng nàng trên tay tiến về phía giường ngủ, đầu cô dâu ngả trên vai chàng trìu mến:
- Anh ơi em chưa muốn! Đôi tay nàng mơn chớn trên cổ chàng cưng nựng.
- Này cô bé – Anh muốn xem trong bộ váy xinh đẹp này mình có những gì! - Nàng nhẹ nhàng rụi môi vào má chồng thì thầm:
- Tất cả là của anh! Nhưng em muốn biết trong những hộp quà xinh đẹp kia là những thứ gì!
Chàng đặt cô dâu trước bàn, đứng sau ôm lưng vợ trìu mến.
- Em ạ! tất cả là của em!
- Cả là của anh nữa chứ – Nàng ngửa đầu nhìn chồng trong niềm hạnh phúc đằm thắm, trước mắt là bao điều thích thú đang chờ đợi, họ là hai đứa trẻ được đặt trước cả một đại dương niềm vui.
- Anh ơi! Chúng ta bắt đầu từ hộp nào – Nàng bâng khuâng trong lựa trọn – Ngả đầu vào vai chồng.
- Cứ lần lượt chúng ta mở tất cả - Chàng với một chiếc hộp lớn màu xanh thắt nơ đỏ đặt trước vợ.
- Em mở đi! À khoan đã, anh đố em trong hộp này là thứ gì?
- Cả hai cùng đoán mới công bằng anh ạ!
Nàng ngoái đầu nhìn chàng thách thức và cuối cùng cả mâm quà lớn lần lượt từng thứ đã được mở. Có thứ nàng đoán đúng, chàng đoán sai hay ngược lại! Nó như nối dài chuỗi cười đùa chừng như bất tận. Bao âm thanh hạnh phúc tràn ngập cả phòng, như thể chả ai trong cõi đời này hạnh phúc bằng họ, cả căn nhà trở nên bề bộn nào đồ, nào hộp, nào nơ. Họ như hai đứa trẻ vung vãi ra quanh mình tất cả những gì họ có mà đùa nghịch mà giằng co cho thoả thuê với biết bao là hạnh phúc như ngập tràn quanh họ.
- Anh ơi thử tìm xem còn hộp nào nữa không! Họ cố bới trong bao thứ lẫn lộn như hai đứa trẻ đang lần tìm đồ chơi trên bãi cỏ ngoài vườn.
- Em tìm thấy rồi! Nàng la lên vui sướng! Trên tay nàng chiếc gói nhỏ thắt nơ vàng, trông thật xinh xắn.
- Bây giờ anh thử đoán xem! - Không hiểu vật gì mà nằng nặng anh ạ. Tay nàng nâng nâng thử định lượng rồi ngả vào chồng – Nhỏ mà nặng thì sẽ là vật gì anh nhỉ?
- Rứt khoát là một lọ nước hoa hảo hạng giành cho em! Chàng hồ hởi khẳng định như vậy.
- Em cho là một cái gạt tàn thuỷ tinh giành cho anh. Nàng băn khoăn, tay cầm đầu dây nơ nhìn chồng.
- Rứt khoát em đoán sai, đưa anh mở!
- Không anh đoán sai! Em mở. Nàng hồi hộp rút dây thắt nơ.
- Ôi chiếc khóa (cả hai vợ chồng cùng đồng thanh thốt lên vui sướng) trước mắt họ một ổ khoá cửa bằng đồng mạ vàng sáng loáng, về hai phía có hai ổ tra chìa trông thất ngộ nghĩnh.
- Chiếc khoá hạnh phúc anh ạ! Trông thật tuyệt làm sao!
Chàng ôm lấy nàng mãn nguyện.
- Ngày mai đi làm khỏi lo về chuyện khoá cửa, mà cũng lạ anh chưa nghĩ đến chuyện cái khoá cho gia đình mình.
- Em ơi anh mệt lắm rồi! - Chàng quàng vai vợ tiến về phía giường cưới trong buồng của họ.
Đêm tân hôn của đôi vợ chồng trẻ hạnh phúc biết bao. Nếu có ông trời ở đâu đó trên cao chắc các ngài cũng cười vui khi thấy hạnh phúc của họ.
Hai vợ chồng đứng trước căn hộ, cánh cửa còn thơm mùi sơn mới. Nàng vui vẻ quàng chiếc khoá mạ vàng sáng bóng vào chốt và khoá lại.
- Anh khoá nốt chìa của anh đi, chàng vui vẻ lắp chìa khoá rồi ôm hôn vợ nồng thắm. Ánh nắng bình minh tran hoà trên những vòm cây bên đường phố. Hôm nay là ngày đầu tiên sau khi cưới họ lên đường vào công sở.
- Anh nhỉ! Sao lại có những người thông minh đến thế – Ý tưởng thật tuyệt vời! Có lẽ họ phải yêu nhau lắm. Chàng ôm nàng đồng tình với vợ, nhẹ nhàng hôn lên môi nụ hôn tạm biệt.
Rồi ngày nào cũng thế, buổi sáng hay buổi chiều, giận hờn hay vui vẻ cứ đúng vào hai thời khắc sáng và chiều họ lại chờ nhau trên ngưỡng cửa nhà mình. Hai linh hồn dường như là một.
Năm tháng cứ nhẹ nhõm trôi qua cuộc đời họ. Chiếc ổ khoá thật là tốt vẫn sáng bóng như xưa chẳng hỏng hóc tẹo nào, cứ hai chìa tra vào ổ thì tức khắc nó mở như câu thần trú “Vừng ơi mở cửa”.






[font=.vntime]80
Thời gian cứ thấm thoắt trôi qua cuộc đời họ dường như không có - Cuộc sống hạnh phúc như xoá đi mọi ý nghĩa thời gian. Cuộc đời họ êm ru như dòng mật ngọt, để rồi một hôm chàng đứng trước cửa nhà mình sau một buổi tan làm. Chiếc ổ khoá vẫn sáng ngời như buổi ban đầu, lặng lẽ nhưng trịnh trọng làm sao. Chàng nhẹ nhàng tra chìa vào ổ, sự chuyển động của những nấc bi nhẹ nhõm rung lên cho bàn tay chàng cái cảm giác khoan khoái sau một ngày làm việc, cứ để cả chùm chìa khoá rung rinh như quả lắc đồng hồ cho thú vị. Chàng lặng lẽ tựa cửa chờ vợ, có lẽ thời gian là hiện sinh của đời người. Nó như độ dài của cái thước giành cho hạnh phúc hay khổ đau. Cõi sống – Khi ta hạnh phúc chừng như nó ngắn, khi khổ đau nó dài như vô kể! Và chờ đợi thời gian của cái thước chừng như dài ra mà đùa cùng thân phận. Người ta bảo chờ đợi là thước đo của tình yêu và tình yêu là con xúc xắc dành cho thân phận. Con người cứ phải chờ đợi, mà chờ đợi là thời gian và lần đầu từ khi lấy vợ chàng hiểu thế nào là chờ đợi. Một bên là cái ổ khoá, một bên là vợ về, chàng đang bị mắc kẹt giữa cái ổ khoá và vợ mình và sự lo lắng như lợt khói cứ lặng lẽ khơi lên! Giờ này nàng đang ở đâu? Liệu có chuyện gì chẳng lành xảy ra không? Bao câu hỏi rồi lại câu hỏi cứ len nhau mà lấn tới trong đầu chàng, có lẽ từ khi họ lấy nhau đây là lần đầu tiên chàng thực sự thấm thía với thời gian, khoảng cách, cái ổ khoá cứ sáng bóng lên như nụ cười chế nhạo. Chàng chỉ có một nửa câu thần chú “vừng ơi” và thế là cứ đợi! Rồi cái giá của chờ đợi cũng được hoàn trả! Từ đầu phố bóng nàng đang vội vã trở về, mái tóc bay bồng bềnh trong gió, nàng sà vào vòng tay chàng, mái tóc còn thơm mùi dầu gội.
- Em đi làm đầu phải chờ lâu quá anh ạ! Anh lo lắm phải không? Chàng lặng lẽ ôm gì lấy vợ, và nàng làm nốt nửa kia của câu thần chú “Vừng ơi mở cửa ra”, họ quàng vai nhau tiến vào nhà sau một ngày làm việc và chờ đợi mệt mỏi.
- Chờ em anh có buồn không? - Nàng trìu mến hỏi chàng.
- Này cô bé! Anh xin đánh đổi sự chờ đợi lấy một mái tóc đẹp thế này.






[font=.vntime]82
Chàng hơi ngả người ngắm khuôn mặt vợ mình như đứa trẻ đắm mình trong ham muốn. Nhưng trong mắt họ như gờn gợn một nỗi ưu tư thoảng buồn, dường như một cái bóng vô hình đang len đứng giữa linh hồn họ. Cả hai người đang cố né tránh cái bóng vô hình ấy đang lẩn khuất đâu đây! Chiếc ổ khoá như vị quan toà hào nhoáng với nụ cười bỡn cợt họ. Người nọ về muộn để lại trong người kia bao suy nghĩ và cứ thế cả hai người cứ nghĩ hoài về nhau, mà họ thật sự là yêu nhau cơ chứ! Nhưng mỗi lần chờ đợi, đối diện với cái ổ khoá mạ vàng sáng bóng, như diễu cợt họ thì lòng kiên định mờ đi để lại một thoáng lo âu. Lợt sương ấy cứ tích tụ lớn dần lên để làm thành mây mù giông bão. Cứ nhìn thấy cái ổ khoá thì họ lại nhớ tới bao thời khắc chờ đợi mà chờ đợi quả là nặng nề cho sự sống hữu hình – Nhưng họ vẫn phải chờ vì họ thực là yêu nhau. Ở đây chiếc ổ khoá bỗng trở thành đa tác dụng - Ngăn giữ kẻ gian và giữ luôn cả kẻ ngay, nó chẳng tin bất cứ ai ở đời, cứ đúng khấc thì nó mở và căn nhà hạnh phúc của họ như biến thành cái lò đúc gang luyện thép trong mỏ không bằng! Thế mới thật khổ! Họ yêu nhau nhưng mà chẳng tin nhau nữa! Cái ổ khoá cứ hiện hữu như một cán cân cho lòng chung thuỷ, loài người thường huyễn hoặc! Họ làm đẹp cho mình bằng vòng vàng xuyến ngọc, dây thừng dây chão, xiềng xích, khoá ổ, chừng như thiếu nó chúng ta không chịu nổi, nó trở thành một công thức cho cõi đời! Như ta đeo lên cổ một sợi dây vàng thì lòng ta mãn nguyện, họ
quàng lên cổ ta cái ách thì bỗng thấy khổ đau! Ta chấp nhận bao thứ vô tri là khuôn vàng thước ngọc cho sự sống hữu hình – Ở đây vợ chồng họ đứng trước cái ổ khoá - Vị quan toà làm chứng cho nghĩa tình chồng vợ. Ngẫm cũng khổ, khi cứ phải sống cạnh cái ổ khoá chẳng biết nói, khỏi phải nhìn nó cứ lặng lẽ mà thít đời họ lại trong chờ đợi và ngờ vực. Chẳng hiểu cha nào nghĩ ra cái loại ổ khoá quái đản đến vậy? Có thể đời hắn bị vợ ngoại tình nhiều bận nên hắn đúc kết thành cái ổ khoá ghê gớm đến vậy. Mà hắn nguỵ trang cho sự đê tiện quả là đẹp đẽ! Trông cứ sáng ngời như của quý. Nào khoá hạnh phúc, nào chó giữ nhà mới khổ. Mà loài người cũng dễ bị nó lừa, hễ trông thấy là mê, là thích, khi ngộ ra thì nó đã cắp đi của họ khối thứ chẳng bỡn! Mà ở đây sự ngờ vực thường câm lặng, nó cứ từ từ mà nghiền nát đi tất cả những gì mà tâm hồn ta có! Thế mới bỏ mẹ! Khi người ta nhận biết ra nó thì lại trở thành chuyện khó nói, chẳng ai dám vứt đi cái niềm tin mà họ làm nên! Chừng như nỗi khổ cứ dài ra lê theo cuộc đời họ. Cái ổ khóa hạnh phúc chặn giữ cửa nhà họ như một thông điệp buồn. Họ yêu nhau nhưng vấp phải nó, cái của nợ tê buốt như đồng, cái niềm tin hão huyền tệ hại và thời gian cứ lạnh giá trôi đi.

Một hôm khi trở về nhà chàng lặng lẽ đứng bên ổ khoá! Tất cả mọi thứ chừng như vẫn thế – Lại là chờ đợi – Cứ đợi đi! Cái ổ khoá như nói với chàng vậy và thời gian bỗng trở thành vô nghĩa cho những kẻ đợi chờ. Nỗi mệt mỏi cứ khơi lên nhấn chìm đi thần xác, chàng ngẩn ngơ nhìn chùm chìa khoá rung rinh trong ổ như nhạo báng, như
đùa cợt với chàng! Nó! Nó chính nó cái của quý đang đè nặng lên thời gian, nhấn chìm đi cõi sống, dường như nó lấy đi tất cả những gì quý giá mà đời chàng có được. Lặng lẽ quay đi, chàng không còn muốn nhìn thấy nó, nỗi lo âu chờ đợi như hằn lên trên dáng vẻ, những bước chân ngược xuôi đan hoài trên khoảng lan can bé nhỏ, có lẽ chẳng bao giờ chàng phải chờ lâu đến thế! Sẽ lại là lý do gì đây? Chàng dừng chân bên ô cửa sổ, một suy nghĩ lướt qua trong óc, với tay nhặt chiếc que trên nền, chàng thò que qua khe cửa gạt cái chốt và quyết định vào nhà bằng con đường này vậy. Vừng ơi hãy đợi đấy – Chàng nói trong nỗi tức bực chẳng cùng. Chàng gọi điện về nhà ngoại cũng chẳng thấy. Chẳng hiểu tan làm vợ mình đi đâu? Kim đồng hồ trên tường đã chỉ nàng về muộn cả mấy giờ, không hiểu có ai phải chờ đợi lâu đến thế này không? Chàng mệt mỏi nhao người xuống đệm và thế là giấc ngủ.
Nàng bàng hoàng đứng trước cửa nhà mình, chùm chìa khoá của chàng lặng tờ trong ổ! Chàng không chờ mình nữa! Nỗi ân hận như chìm trong mắt. Nàng nhìn mọi phía trong chờ đợi, trên phố tấp nập những người, họ đang vội vã trở về nhà sau một ngày làm việc! Mọi người đều giống nhau nhưng sao trong nhà nàng lại buồn đến vậy. Cả dòng người đăm chiêu đang trôi về đâu bất tận, họ trở về nhà yên nghỉ. Nàng cố tìm chàng đâu đó trong cả dòng người kia. Trên phố hoàng hôn lịm dần trả lại cho đêm những ngọn đèn đường thức dậy. Có thể chàng bực mình đi đâu đó - Đành phải thế thôi, mọi việc cứ tưởng nhanh lại thành chậm – Chờ đợi là khúc hát lẻ loi cho mọi gia đình, nó cứ từng nấc làm mờ đi mọi thứ, ngoảnh lại cái ổ khoá như một nỗi muộn phiền. Nhìn đồng hồ đã 7 giờ, thời gian cứ trôi hoài như một tì vết. Chiếc ổ khoá như gã cai ngục lạnh lùng đang giam giữ hai trái tim đồng cảm, họ yêu nhau nên sợ mất nhau, tình yêu như lấy đi niềm tin trong họ, sự mù loà đang dắt họ tới đâu trong cõi đời? Mà họ thực sự yêu nhau cơ chứ! Họ cứ phải mò mẫm trong chờ đợi mà tìm nhau như hai kẻ cơ hàn. Đã qua giờ nấu ăn cả tiếng mà chàng vẫn đâu? Nàng lo âu sờ tay lên ổ khoá, trong bóng tối nó còn ánh lên như một niềm tin kì dị, tất cả đã chờ sẵn! Hai chiếc chìa ủ rũ bên nhau! Có nên vào nhà lúc này không? Nỗi day dứt là tiếng thở dài của niềm tin ngay cả khi chính ta hiểu đằng sau bao lời nói bóng bẩy và những cuộc đời hào nhoáng có thể ẩn chứa biết bao điều xảo trá tồi tệ! Con người ta không dám bước qua chính mình – Như bộ quần áo ông Thiện khoác lên hình hài ông Thiện nhưng có thể chứa chất biết bao điều không thiện. Mọi người ao ước mình có một cái ổ khoá dành cho tình yêu hạnh phúc. Chúng ta cần khoá để cất giữ một điều gì đó dù nhỏ nhất dành cho riêng mình. Ổ khoá và cuộc đời đã trở thành niềm tin cõi sống. Loài người tồn tại không thể thiếu được cái ổ khoá nên niềm tin trở thành một nỗi thật buồn. Nàng không dám bước qua cánh cửa kia vì vấp phải nó, cái niềm tin của chung nên chẳng ai dám tự mình bước qua và cuối cùng chỉ còn lại họ, hai kẻ yêu nhau đắm mình trong chờ đợi, chẳng còn niềm tin.
Nàng mở khoá vội vã bước vào nhà mình, bật đèn nhao đến bên điện thoại – Chợt sững lại! Chàng đang nằmkia, nàng bâng khuâng bước lại bên chàng, giấc ngủ yên lành làm sao…! Chẳng muộn phiền, không chờ đợi, vạn vật như lắng xuống chìm sâu trong sự bình yên giấc ngủ. Nàng khẽ khàng quay về với việc nội trợ hàng ngày.
Cơm nước đã xong nàng đến bên nhưng không dám mà lay chàng dậy. Giấc ngủ êm đềm hạnh phúc làm sao! Nàng cứ lặng lẽ ngắm chàng trong tĩnh lặng, chỉ còn lại hơi thở đều đều. Nàng nhẹ nhàng nằm sát bên chồng và chìm vào giấc ngủ. Khi họ thức dậy thì đã muộn giờ làm, tiếng chuông báo thức không lay nổi họ, nỗi thấm mệt còn phảng phất trong từng dáng vẻ. Lặng lẽ nằm bên nhau, người nọ muốn nhường người kia lời chào trách móc.
- Sao anh chẳng nói gì? Anh vẫn giận em sao!
- Anh thật buồn về cái ổ khoá! Nếu người ta sinh ra nó để bắt nhau chờ đợi thì gia đình chẳng còn gì để nói.
- Anh không muốn chờ em nữa sao? - Nàng nhẹ nhàng hỏi chàng.
- Những lúc ấy anh thấy thời gian là vô vị – Mọi thứ chỉ còn là câu hỏi không bao giờ có đáp số – Em có muốn phải chờ đợi anh không? Nếu cứ kéo dài chuyện này chúng ta sẽ đến đâu? Chàng lạnh lùng quay đi. Trên bàn mâm cơm còn nguyên vẹn, họ đã sống một ngày với bao ấn tượng buồn, giữa hai vợ chồng là một khoảng cách đến ghê sợ! Họ phải đối diện với những thời khắc buồn thảm vô cùng – Mọi thứ chỉ còn là suy nghĩ mà câu hỏi và câu trả lời chẳng còn là điều thuyết phục, niềm tin như trôi tuột đi đâu.
- Tối qua sao em không ăn cơm?
- Em chờ anh rồi ngủ mất.
- Em thấy không! người ta sinh ra cái ổ khoá để mà chính xác.
- Làm gì có tuyệt đối chính xác anh ạ!
- Nếu nghĩ thế thì mãi mãi chúng ta cứ chờ. – Chàng hậm hực bước xuống khỏi giường.
- Chiều qua em đi khám… Em bảo sao – Chàng quay lại bên vợ.
- Nhà mình có tin vui – Chúng ta sắp có con, chàng buâng khuâng quỳ xuống ôm vợ vào lòng.
- Sao tối qua em không nói với anh ngay?
- Thấy anh ngủ ngon quá nên em không dám…! Chàng ân hận nhìn vợ trìu mến – Phải thế chứ – Em thật là giỏi mà anh thì ngốc nghếch làm sao! Chờ có một tí mà đã nghĩ – Em à, anh có cảm tưởng cái ổ khoá nhà mình đang biến nốt chúng ta thành kẻ gian – Hôm qua về sớm anh mua một cái ổ khoá mới.
- Anh mua rồi sao? - nàng hồ hởi hỏi chồng – Em cũng nghĩ vậy, còn dùng nó thì có ngày vợ chồng mình sẽ mất đi nhiều thứ…
Họ đứng trước căn hộ trong một ngày mới, gia đình họ có tin vui! Chàng nhẹ nhàng gỡ chiếc khoá “của nợ” thả trên thềm, treo vào chốt một ổ khoá mới – Chìa khoá mới của em đây! Chàng gỡ chiếc chìa khoá cũ đưa cho vợ – Em vứt nó vào sọt rác giùm anh. Anh đưa nốt cho em cả cái ổ!
– Nàng hồ hởi ném mạnh 2 cái chìa khóa xuống đường, còn ổ khoá họ vứt vào thùng rác.
- Thế là xong anh nhỉ? – Phải làm thế ngộ nhỡ ai nhặt được dùng lại thì khổ thân họ. Hai vợ chồng hôn nhau tạm biệt, một ngày mới thật nhiều niềm vui, thời gian đang dắt họ đi trong bao điều đáng kể.
25-3-2003

Ct.Ly

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Cái đầu - 18.03.2009 15:59:50
CÁI ĐẦU
Kính tặng bác sĩ Nguyễn Trung Linh

 
Thật giỏi! Ông trời sinh ra loài người - Một loài động vật hoàn thiện nhất trong muôn loài! Mà niềm kiêu hãnh này cũng thật là xứng đáng. Song tổ tiên ta xưa, cũng tự cho mình thông minh chẳng kém tạo hoá, các cụ đã phân ra chức năng cho mọi bộ phận cơ thể thật là hoàn hảo và các cụ coi đó là niềm tự hào cho nòi giống.
Cái cỗ máy con người thật là hoàn thiện đến tinh xảo! Phàm một cơ thể sống cứ phải tuân theo một quy củ chính xác như bảng cửu chương của ta thời nay! Mọi trật tự cứ phải là hai lần hai là bốn không thể nào khác được. Cái thủ ở nơi cao nhất, các cụ trân trọng đặt lên hàng đầu, và cứ thế mắt mũi, mồm miệng, chân tay, và mọi thứ của nợ sẽ được đặt lần lượt theo thứ tự trên dưới rõ ràng! Quả là tinh xảo, cứ như khoa học thời ta cũng phải là nghiêng mình kính nể! Mà các cụ lại nghĩ ra từ cái thời “đút nút” nào cơ chứ! Có trời mà biết - ấy thế mà cái trật tự ấy tồn tại cho đến tận thời ta. Trong một cơ thể sống, cứ là theo tuần tự cái gì ở trên thì cao quý hơn cái ở dưới, thật rành mạch rõ ràng. Quả thật cái đầu cao quý – Cái đầu to lớn! Nó cứ ngạo nghễ ở trên cùng của một cơ thể sống! Từ cái đỉnh mọc tóc ấy, mọi thông tin được truyền đi, tỏa rộng mà điều hành mọi hành vi bộ phân cơ thể. Con người có thể từ tâm hay độc ác, cướp giật hay nhường cơm sẻ áo cũng từ nó mà ra. Chả hiểu cái cục thịt đặc biệt ấy, cấu thành từ những phân tử, hay lượng tử gì, mà tinh xảo đến thế! Cứ mỗi khi xơi cỗ óc lợn, tôi lại nghĩ đến óc mình chắc phải văn minh đến mấy lần! Có lẽ óc chúng ta là thượng đẳng! Mà thượng đẳng đến ghê người cơ chứ, nó đẻ ra cả ngàn phát minh khoa học, hiền có, dữ có! Mà kiểu gì nó chơi cũng được! Nào bom nào đạn để mà giết nhau, rồi lại thuốc men để mà chữa lành cho họ! Ngẫm ra cứ như là ảo thuật! Suy cho cùng, vui buồn, sướng khổ tất tật từ nó mà ra. Chung quy cái thể xác từ cổ đổ xuống, suy cho cùng chẳng khác chi tên đầy tớ cho cái chòm trên đỉnh, mà cũng có thể nó ở nơi cao nhất gần thượng đế, nên lộng hành như vậy. Quả cái đầu thật lợi hại! Đầu ngu, đầu dại, đầu khôn, đầu bác học chung quy cũng đều là cái đầu mọc lên trên đỉnh từng thân xác! Quả thật nó thực là cao quý. Song có lẽ các cụ ta tính nhầm! Vì tất cả mọi cái đầu ấy chẳng cái nào muốn hòa đồng với nhau cả, nên nỗi khổ cứ lênh láng cả cõi đời! Theo tôi nghĩ, thế mới thật là khổ! Chẳng thà cứ ủn ỉn, đều tăm tắp như óc lợn thì có lẽ đỡ khổ hơn. Không lẽ chúng ta đặt cái đầu xuống đâu đó trên cơ thể cho phải! Mà làm như vậy chắc các cụ giận lắm! Nên chúng ta cũng đành là cứ khổ mãi với nhau. Mà theo tôi nghĩ chỉ còn có thượng đế hay đức phật may ra mới có thể gắn hàn mọi cái đầu hòa đồng với nhau được.
Ngẫm đời người thật là cùng khổ!
 
Rằm tháng 8 – 2001
 
[font=.vntime] 

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Ông tướng về hưu - 19.03.2009 09:54:20
ÔNG TƯỚNG VỀ HƯU
 
Lặng lẽ ngồi trên đi văng, nỗi cô đơn như thu nhỏ cuộc đời ông lại, sự lẻ loi bao giờ cũng thế, ta cứ bé dần, bé dần chỉ còn là chấm nhỏ như cát bụi, nó là một cái chấm hãi hùng chẳng chừa một ai khi đã từng được sống ở đời - Để đến một hôm ta chợt nhìn thấy nó, đau đớn và nhỏ bé làm sao! Nó nhọn như mũi kim hay đầu ngọn giáo, cứ lặng lẽ xuyên vào đâu đó đời ông.
Căn phòng bỗng trở nên rộng thế – lần đầu tiên ông cảm thấy như vậy, có lẽ khi đời mình bỗng trở thành bé nhỏ thì cõi sống bỗng thênh thang làm sao. Bốn mươi mét vuông chứa đựng một hạt cát… đó là một cảm nhận khi ta chợt hiểu thấu mình – bỗng dưng một hôm, sự sống chợt co lại trong một không gian định hình, cô đơn quá khi đời ông cảm nhận đầy đủ về nó. Mọi thứ trong ông dường như thu nhỏ dần, cứ bé mãi bé mãi cho đến khi chỉ còn là cát bụi. Bao li chén ngày hôm nay, trong bàn tiệc, là ngần ấy gương mặt cuộc đời. Niềm hoan hỉ như còn phảng phất đâu đây. Những tiếng li cụng li, lời nối lời, niềm hoan hỉ sâu chuỗi trong tiếng cười lộng gió. Ông chợt thấy yên tĩnh quá! Mọi thứ quanh ông trong căn phòng này dường như đang cũ đi, thiêm thiếp ngủ, nó giống như một thời mới kề bên cái cũ như cái li đựng rượu. Cái cũ chứa đựng cái mới và ông chợt thấy mình mỏng quá. Có thể sự già nua là vậy, nó mỏng manh như bộ quần áo che thân. Trên giường ngủ phủ tấm vải ga màu sáng, bộ quân phục trải ngay ngắn, trên ngực áo gắn đầy huân, huy chương như bao chứng tích cuộc đời của một ông tướng còn hằn lên bao nỗi nhớ. Ông như kẻ mộng du nhìn vào nó – Quầng ánh sáng một thời, cái thời ông đã sống, có thể rộng lớn như một mặt trận và hôm nay là một căn phòng nhỏ bé chứa đựng đời ông. Có lẽ thời gian là cỗ đại bác bắn vào quá khứ và bao mảnh vụn đời ông còn bám trên những tấm huy chương kia. Đó là xương thịt hiện hình thành tưởng niệm khi đời người còn sống – khi ông còn sống để được nhìn thấy nó – những tấm huân, huy chương gài trên ngực áo trải trên giường nệm trắng. Bộ quần áo kia như một hình hài rũ mỏi mà ông là người nhìn ngắm. Thật thú vị khi ta nhìn ngắm chính mình, như linh hồn đang nhìn thể xác, bảy mươi năm thời gian đã trôi qua… - Buổi ban đầu và ngày hôm nay mọi người ăn mừng ông đã về nghỉ hưu - ngày hôm nay phải chăng là cái đích cho từng đời người nếm trải. Nó như một con tàu mệt mỏi về ga trong đêm tịch lặng. Sự yên ắng sẽ trả lại cho đời người bao điều suy nghĩ… Bao ly chén và những lời chúc tụng như găm chặt đời ông vào cõi sống. Con cháu, bè bạn, những gương mặt thân quen còn ánh lên biết bao là nỗi nhớ. Chẳng mấy ai đang sống, vui sướng hay khổ đau mà lại nghĩ đến cái ngày về hưu của đời mình. Mọi việc làm và suy nghĩ ta đều hướng đến vĩnh cửu. Vật chất có thể sẽ còn mãi, như đống huân, huy chương kia… nhưng đời ông đã về hưu, nó hiện hữu như ánh hào quang trùm lên giấc ngủ. Từng tia sáng bừng thức trong đêm như những vì sao. Mọi khổ đau vật lộn đã được trả giá bằng nó – những tấm huân, huy chương lạnh lùng gài trên bộ quân phục cấp tướng.
Tướng rồi cũng phải về - ông lẩm nhẩm trong miệng tự nói với mình về nguyên lý ấy. Ngày mai đối với ông công sở sẽ chẳng còn ý nghĩa, chỉ là số không – một lỗ hổng lớn trong đời người, nó là cuối con đường, đầu con sóng. Loài người luôn sống và quên đi ngày hôm qua, sự tồn tại trên đỉnh sóng luôn bắt ta phải thế. Có một nguyên lý thật giản dị trên đời là sống và tồn tại như cái cây và ngọn cỏ. Vấn đề là chỗ đứng cho từng sự sống – Ngọn cây kia ngoài cửa sổ buồng ông, nó có nghỉ hưu không? Vẫn chỉ một màu xanh quanh năm toả bóng. Cái bóng ở đời, một cái bóng đau đớn làm sao! Trong đầu ông ý tưởng về cái bóng chợt buồn ảo não… những cái bóng loài người chập chờn điên đảo. Những cái bóng! những cái bóng…! Đó là những vùng đen sẫm phủ khuất đời người.
Một vũng không gian bốn mươi mét vuông chỉ có ông với cái bóng đổ nghiêng trên nền nhà lạnh lẽo. Có thể lần đầu tiên ông suy nghĩ về nó – cái bóng của chính mình – Cái bóng chẳng là linh hồn, nó là sự phản chiếu hình hài thân xác, nó giống như bộ quân phục trên giường kia ngợp nhoà hào quang và thân phận. Bên kia bờ thân xác là linh hồn… Ông đang nhìn về quá khứ. Có lẽ tuổi già bao giờ cũng thế, dòng sông ý nghĩ trôi ngược về đâu đó cội nguồn - Cũng có thể đó là một lô-gíc tâm linh không nằm trong quy luật hiện sinh cõi sống, như con nước không còn trôi nữa và lặng lẽ trở về. Ông như lạc ra khỏi bao điều đang sống – như đứa trẻ chăn trâu ven sông, chiều chiều về qua phố chợ, như những cô hàng sén nhạt mờ quẩy gánh, tiếng sáo diều như mắc vào đêm, bữa đói bữa no đi vào giấc ngủ, ánh ban mai như lửa đốt bên thềm.
Tuổi già bao giờ cũng thấp xuống kề sát cõi đời, họ bắt đầu nhìn lại, dĩ vãng là cái bóng của năm tháng hiện hình trong tâm tưởng, thật gần gũi nhưng xa lạ xiết bao ta đã đi qua và dường như chưa bao giờ nhìn thấy… những cái bóng đời người ngủ yên không bao giờ thức dậy bên những cái bóng hiện lên. Bóng đêm và lãng quên!… Ông thấy lửa nung trong li rượu đắng! Đời người khi dừng lại, họ chợt nhìn trước sau – Cái ngưỡng của thời gian quàng lên thân xác, đời người được đóng khung trong nó – trong thời gian hữu sinh đời người. Kẻ cùng quẫn nhìn thấy cái bóng - cái bóng của mình cơ khổ làm sao? Nó như nỗi ám ảnh hình hài lạc lõng - như ta chợt thấy mình rồi chợt biến trong hư không. Bài ca thời gian hiện lên như con đò chở người qua bến. Ông chợt hiểu thời gian của mình và của người, cõi sống gối lên nhau trải dài mà làm nên sự sống, cái mất cái còn, cái hiện lên là cõi đời ông đang đứng và thời gian sẽ trôi đi mang theo cả đời ông - Đời người là bất định trôi trong thời gian vô định. Sự hào nhoáng của đời loé lên rồi lịm tắt trong thời gian - một khoảng khắc dậy mùi máu - ngót trăm năm dậy mùi máu rồi quên lãng. Cái đã mất được bù lại bằng thịt xương hôm nay. Những bộ mặt đỏ gay vì rượu - bao li chén ngổn ngang và trong lòng ông nỗi buồn lại thức. Chỉ có người già nghe thấy tiếng vỡ - tiếng vỡ của thời gian. Ông nghe thấy nó như tiếng đổ vỡ trong hồn, sự dồn nén của thời gian trong cõi hiện sinhthiêu đốt thành ngọn lửa. Mùi khen khét thịt người như còn nồng mãi nơi đây. Mùi lửa bom, mùi năm tháng như bệt trong óc ông một lớp bồ hóng mà nhiều khi nghĩ lại ngọn lửa lại nung nóng lên bao nỗi buồn cháy dở. Bao khuôn mặt, những dáng hình, chưa một lần được yêu đã chết chìm trong tiếng gọi - tiếng gọi mẹ… tiếng gọi quê hương… như kéo dài trong nỗi nhớ - như mùi máu lặng câm, như họng súng âm thầm. Bao chiến sa chìm trong đêm lạnh! Mọi thứ chừng như đang ngủ - giấc ngủ mê đắm trong đêm với nỗi buồn tự tại. Những đôi mắt người mẹ cằn khô trong thương nhớ, ủ ấp bao đứa trẻ mồ côi, bao nén nhang còn đang thức trên đời, dòng lệ nguôi ngoai cùng năm tháng. Một nỗi buồn bi tráng trong lòng người chiến binh thắp lên thành ngọn lửa… đêm mãi là đêm cho ngọn lửa được thắp lên.
 
2005

[font=.vntime] 

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Dòng sông giun - 26.03.2009 10:18:48
DÒNG SÔNG GIUN

 
Trong đêm hắn lặng lẽ mò tìm bật lửa, cơn buồn ngủ còn trĩu trên đôi mắt, bóng tối trong đầu và bên ngoài như bện vào nhau muốn đè hắn xuống, tay sờ soạng, đầu lắc lắc trong đêm, cơn buồn ngủ qua đi khi ánh sáng loé lên từ đầu máy lửa, một tia sáng nhỏ nhoi như bừng thức trong đầu hắn một ngày mới phải sống. Đời hắn bắt đầu từ đấy… khi ngọn lửa thắp lên trong óc nửa tỉnh nửa mê là hắn phải vùng dậy lần tìm bật lửa mà đốt cháy lên một ngày - một ngày mới không làm sao thoát nổi. Chân đá mớ chăn màn vào góc, hắn mò mẫm lật đật xuống thang, tia sáng run rẩy như bóng hắn chập chờn muốn tắt, tiếng cọt kẹt của những bậc cầu thang khô cằn như mọt gặm, đêm tịch lặng chợt gằn lên những âm ba sự sống, một bức hoạ nền đen và ánh lửa, có lẽ vạn vật đều bắt đầu như thế… một ngày chưa đến, nhưng nó sắp đến kia, rất gần, chỉ vài tiếng nữa thôi, trời lại sáng. Ở đây trong bóng đêm là dĩ vãng… khi ngọn lửa thắp lên là tương lai, một ngày mới hiện sinh đời hắn, ngọn lửa non đầu máy lửa, ánh mặt trời nửa tỉnh nửa mê lay đời người thức dậy. Bật đèn bếp, chiếc xe máy hon đa màu đỏ cũ kĩ hiện lên như chú ngựa già đứng đợi. Hắn mau lẹ buộc chiếc thùng nhựa vào sau yên xe, cẩn thận cài chiếc vợt may bằng vải màn tuyn Mỹ trên mặt thùng, cán vợt thòi về phía sau như cái đuôi cá mực, hắn hài lòng vì mọi việc chuẩn bị đã hoàn tất, lặng lẽ quay lên gác, hắn bật đèn buồng chính gọi thằng con dậy đi làm.
Thằng bé nằm còng queo ở cuối phòng, bên chiếc bể cá cảnh rõ lớn, dài như cỗ quan tài bằng kính. Lũ cá thần tiên bắt ánh sáng đèn căng vây lượn lờ khoe vẩy, những bộ cánh sọc vằn óng ánh lộng lẫy như bay trong làn nước, chúng nhao đến bên quả cầu giun bồng bềnh đưa đẩy. Những con giun nhỏ bằng cây kim bện vào nhau thành khối, tròn vo, ngoe nguẩy trên đĩa như một thứ đồ trang sức bầy trong bể cá cảnh, đó là sự sống cho bầy cá và là sự sống cho cả làng nghề nuôi cá cảnh. Ở đâu có giun ở đó người ta tìm đến, từng đoàn người nối đuôi nhau lần mò suốt ngày đêm. Loài giun nhỏ này sống và sinh sản ở những vùng nước nhơ bẩn nhất, trong những cống rãnh của những nhà vệ sinh công cộng trong thành phố. Dưới làn nước lờ đờ chảy, những đám giun bện vào nhau thành những lợt thảm đỏ ngoe nguẩy, người ta dùng vợt hớt lấy những đám giun ấy, lắc vợt trong nước cống hôi thối cho bùn tan bớt đi, đọng lại trong đáy vợt là lũ giun lẫn bùn nhão nhoẹt bẩn thỉu, đó là thứ sản phẩm mà làng cá phải làm. Ở đâu càng bẩn - ở đó càng nhiều giun, tất cả mọi cống rãnh bẩn thỉu trong nội ngoại thành phố đều có họ túc trực hàng ngày. Hàng vạn chiếc bể nuôi cá cảnh trong thành phố như những chiếc miệng há hốc đói khát đang chờ họ. Năm nghìn một bơ rồi lên đến cả mười nghìn mà nhu cầu vẫn không đủ. Ở làng hắn bỗng sinh ra hai nghề: nghề nuôi cá và nghề hớt giun. Đi hớt giun lãi suất bằng nghề nuôi cá, nhưng nghề hớt giun nghe chừng không sạchsẽ và cao quý bằng nghề nuôi cá, nên những người đi hớt giun bao giờ cũng nguỵ trang bằng vài ba bể cá cảnh cho đỡ tủi mà nhiều khi sinh lợi đôi đường, nhưng họ vẫn thích nghề hớt giun hơn vì vừa có mồi nuôi cá, còn bán được tiền tươi mà nuôi sống gia đình, nếu không may thất bại về con cá thì có con giun để mà sống. Mà khi đã có lợi thì sinh ra dành giật - người dân Nam ta xưa nay bao giờ chẳng thế, những người nghèo tính thời gian bằng ngày, bằng tháng, cứ ngăn ngắn đoạn một mà cộng lại thành đời. Khi tiếng gà chưa gáy, màn đêm còn đang ngủ, họ – những người thợ hớt giun đã len lén mà dậy… phải thật nhẹ nhàng ít tiếng động, phải thật lặng lẽ kẻo ông hàng xóm cùng nghề phát giác thì hỏng, họ lặng lẽ dắt xe máy tới cổng làng và nổ máy chạy như bị ma đuổi.
Hôm nay cũng như mọi ngày, vẫn vậy, hắn lay thằng con dậy - thằng bé độ mười lăm, mười sáu tuổi, cằn nhằn choàng dậy như vừa phải bỏng, đàn cá thần tiên trong bể kề bên chỗ nó nằm nhởn nhơ vẫy lượn, những vằn sọc thanh cao như bay trong làn nước, thằng bé dụi mắt nhìn đàn cá… lặng lẽ vùng đứng dậy, nó đã hiểu hai bố con phải làm gì. Ngoài trời cái rét mùa đông còn chưa nguội, hai bố con mặc vội bộ quần áo lao động lặng lẽ lên đường – Hôm nay hớt đâu bố? - Sấu Giá - nói khẽ đi mày. Thằng bé như tỉnh hẳn, co ro ngồi sau xe, tựa lưng vào thùng nhựa và cứ thế hắn phi thục mạng.
Đối với hắn, dòng sông Hồng chảy từ đâu về qua thành phố? Rồi sẽ qua những đâu? hắn cóc cần biết! hãy kệ mẹ dòng sông cho nó thả sức mà chảy, kể cả mưa nắng bốn mùa cũng vậy – trong đầu hắn chỉ có suy nghĩ về sự sống của gia đình... vợ hắn và hai đứa con. Đời hắn tù đày nhiều sinh lao phổi, hắn coi như bỏ, còn ngày nào hay ngày ấy, đối với hắn cóc cần, hắn luôn tự an ủi mình – ngồi tù còn chẳng chết thì lao động còn lâu mới quật nổi hắn. Hai thằng con, một đứa bỏ học theo bố đi làm, thằng em đang lẽo đẽo học phổ thông, hàng tháng cứ đần độn vì lo xin tiền học, vợ hắn gầy yếu vừa mổ cắt hai phần ba dạ dầy và có lẽ cái nghề cá cảnh, hớt giun sinh ra từ đấy. Hắn muốn vợ nuôi vài ba bể cá, vừa đỡ buồn lại có tiền, nên bố con hắn quyết định vào nghề, vài bể cá khi thay nước hàng ngày đã có ba bố con, vợ hắn lo cho cá ăn và ủ giun. Người không trong nghề thì khỏi phải nghĩ, cứ xỉa năm, mười nghìn là có một bơ giun thả bể, người làm nghề thì khác… Thùng giun nhão nhoẹt thối thá sẽ được sẻ ra làm vài chậu và trên mỗi chậu sẽ được phủ lớp bao tải để ủ, mùi hôi thối sinh nhiệt lũ giun sẽ nhoi lên mặt bùn, kết với nhau thành lớp mỏng, lúc này người hớt giun chính thức được thu hoạch - Họ bóc những lớp giun nổi trên mặt bùn thả vào chậu nước, nếu chậm bóc lũ giun sẽ chết thì hỏng bét – nên cứ nổi đến đâu là phải bóc ngay. Có nhiều khi giun không nổi, người ta phải đặt lên bếp ăn mà đun thì rõ khổ, lũ giun gặp sức nóng của bếp nhoai lên mặt bùn cho bằng hết, nhưng nhược điểm là chúng chỉ sống được vài giờ là phải bỏ, nên nhà nào phải đun là bán tống tháo cho nhanh mà thu về công sức. Đặc điểm chung của những gia đình làm nghề là cái mùi thum thủm, cái mùi thối thum thủm lưu cữu từ năm nọ qua năm kia, người ta phải giấu diếm nhau sản phẩm thu được nên nhiều khi thùng chậu phải ủ vào chỗ kín đáo mùi thối càng bốc lên tợn. Thật rõ khổ – cái lợi ở đời bao giờ cũng vậy, người ta giong duổi, dõi tìm đường đi lối làm của nhau mà xông tới…! Mọi cống rãnh trong thành phố cứ nhan nhản người khai thác, nên kiếm con giun đâu phải dễ - phải nghiên cứu đàng hoàng xem nước cống rãnh sẽ chảy về đâu và đi theo nó mà khai thác. Công việc cứ xa dần – xa mãi đến mười lăm, mười sáu cây số. Ở đó là những dòng sông nhơ bẩn đón nước thải thành phố. Hôm nay hai bố con hắn mò đến đó, trên đường lặng ngắt như tờ, thỉnh thoảng lắm mới thấy người thồ rau trở ngược vào thành phố. Ngồi sau hắn thằng bé co ro nép vào lưng bố.
Lạnh không con? – không sao bố ạ… - hắn cố nghiến răng mà dằn cái lạnh trong người.
Chỗ này hôm qua có người hớt được mấy chục bơ - thằng bé nghe phấn chấn hẳn lên – sắp vào chỗ rẽ đấy bố – biết rồi – hắn trả lời nhát gừng vì thấm lạnh.
Bố ơi… - sao? – con muốn lại đi học. Một thoáng im lặng – mày nghỉ học năm năm rồi - xin lại sao được! - hắn chợt thấy xót xa làm sao, nó như một vết thương không lành lại rỉ máu! – con sẽ tự học có được không? – việc đã xong… nhưng chẳng dễ dàng đâu… Một viễn cảnh lờ mờ hiện dần trong tâm chí hắn như mặt nước sông nhờ lấp lánh.
Đến rồi con ạ - hắn lặng lẽ dừng xe, tháo thùng, hai bố con cởi áo mưa, hắn rút chiếc bánh mì để từ tối hôm trước, bẻ đôi đưa cho thằng bé - ăn đi con cho đỡ lạnh. Thằng bé chừng chạc nuốt mẩu bánh cứng queo không
chút thú vị, nhưng nó hiểu trong hoàn cảnh này phải thế, phải ăn - phải ăn thật nhanh mà còn lội nước.

Một dòng sông đen sẫm chảy vắt qua cánh đồng tối sẫm… Hai bố con bắt đầu từ đây, hắn lẩm nhẩm trong miệng như nói với mình. Thằng bé lặng lẽ cởi hết quần áo, gói vào ni lông, cầm thùng vợt lội xuống sông theo bố.
Cái lạnh như cắt vụn từng phần cơ thể, đó là nỗi đau đớn phản về của từng thân xác, người hớt giun hiểu rõ về nỗi buốt giá này, thật nhanh họ đẫm mình ngập cổ và bắt đầu vận động, người còng xuống chỉ để hở cái đầu, toàn thân tì cán vợt, khéo léo hớt lớp bùn trên bề mặt, ở đó có giun ngoi lên kiếm mồi, khi gần đầy vợt, họ nâng miệng lên khỏi mặt nước và lắc cho bùn tan, cho đến khi chỉ còn một cục bùn như quả cam nhão nhoẹt đó là giun mà ta khai thác, họ đổ vào thùng và lại tiếp tục. Cứ thế cái lạnh và nỗi cơ nhục như quấn vào nhau, bố con hắn vật vã trên dòng sông nhơ bẩn, trên cao là bóng đêm và gió, thỉnh thoảng một vài lời trao đổi âm ba méo mó vì giá lạnh. Cái thùng lê theo hắn cứ chìm dần vì sức nặng của bùn giun hớt được. Thằng bé cứ tụt dần lại phía sau nên cứ một quãng hắn lại phải gọi và chờ thằng bé đuổi kịp. Trời dần tảng sáng, trên cánh đồng xơ xác quạnh hưu, xa xa thằng con hắn cố lê thùng lên bờ, nhưng sao thế kia? Thằng bé nằm lăn bên bờ ruộng! Hắn hốt hoảng nhao lên bờ chạy ngược lại – con hắn đang quằn quại trên vũng bùn nhơ nhớp, bụng nó đau quặn từng cơn, cứng đờ như gỗ, hắn ôm ghì nó vào ngực, chạy ngược về chỗ để xe, tay hắn run run cầm quần áo khô chà lên người nó như điên dại. Nỗi đau đớn trong trái tim hắn như đốt lửa, mặt thằng bé tái ngắt vì đau đớn, giữa cánh đồng, hai bố con hắn ghì chặt lấy nhau trong cô đơn lạnh giá…! Có một cái nghề luôn chìm sâu tận đáy đó là nghề hớt giun khốn khổ, nó chìm sâu – sâu mãi ở tận đáy cõi đời, họ phải vớt nó lên, vì đó là sự sống ngày mai không thể nào khác được, nỗi trần trụi đến hãi hùng cho từng ngày sống, thời gian của họ như bị mối xông hay mọt gặm mà họ phải lần giở từng ngày trong giá lạnh.
- Phải về ngay thôi con – hắn thốt lên như gào trong tuyệt vọng, vội vã trùm đúm cho thằng bé đỡ lạnh, dìu nó lên xe – bố ơi… cái… thùng… - xa xa cái thùng bồng bềnh trôi… Có biết bao dòng sông chảy qua cõi đời nhưng có một dòng sông cơ khổ nhất chảy qua đời người đó là dòng sông giun - vứt bỏ, hắn quả quyết rồ ga như một lời vĩnh biệt.
 
2005

[font=.vntime] 

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Người về hưu - 26.03.2009 10:36:12
NGƯỜI VỀ HƯU

 
Tặng nhà giáo Vương Thị Phương

 
Ngày hôm nay ông cảm thấy mệt nhiều! Cái ánh sáng đầu ngày còn tươi chênh chếch lùa qua ô cửa, căn buồng như bừng thức dậy, vài ba thứ đồ cũ kĩ cũng rõ thêm lên như cựa mình muốn sống. Từ cái giường giẻ quạt đến cái tủ hồ sơ cũ, hai ba cái nồi lỏng chỏng bên cạnh vài cái chai, mọi đồ vật như muốn tỏ rõ cái hồn của nó. Với người già sống hưu trí, mọi thứ dù sơ sài, nhưng rõ thật quý. Mọi vật dụng không thừa mà chỉ vừa đủ, dường như mọi đồ dùng đều có chỗ đứng cần thiết trong đời ông lão, từ cái túi ni lông phòng khi mua lưng canh cũng được rửa ráy sạch sẽ quàng trên song cửa, đến cái chăn rạ từ thời bao cấp cũng có tuổi sống của nó… cái màu vàng xin xỉn nhão nhoẹt, nhưng gần gũi thân quen làm sao. Có lẽ vì họ ăn chẳng nhiều, mặc không lắm nên mọi nhu cầu chỉ cần vậy, mọi thứ bù đắp vừa đủ cho những lồi lõm đời người.
Căn buồng chín mét vuông, lúc nào cửa ra vào cũng mở cả ngày lẫn đêm. Mất mát ông chẳng sợ – vì có gì đâu mà mất. Nó luôn mở để đón đợi mấy ông bạn cùng tổ hưu tới thăm đỡ phiền hà phải gọi. Có lẽ những người về hưu sống độc thân đều như vậy – cửa luôn mở như đón đợi bao điều… mà chung quy chỉ có họ đón đợi nhau thôi – những kẻ cô đơn sống qua một thời đã mỏi. Họ tụ tập bên bàn cờ, quanh khay nước trà, ngắm nhìn nhau mà sống, bao câu chuyện đời thường sẻ chia mà ngẫm ngợi… Họ kể lể cho nhau biết bao điều buồn vui, khốn khó. Con người về hưu là vậy – căn nhà, cái giường và vài thứ vật dụng, những bước chân luẩn quẩn qua ngày – dường như, vạn sự đời người vo lại trong căn buồng nhỏ bé. Thế hệ trẻ không muốn gần họ nữa, mọi thứ cứ phai đi như quần áo hay tuổi già của họ.
Cái mệt hôm nay nhiều hơn, đầu óc ông váng vất như muốn ngã. Dường như máu trong cơ thể muốn sôi lên dâng tràn lên não làm mắt ông mờ đi, mọi vật nhập nhèm rõ khó chịu. Ông cố gắng đi lại cho có vận động nhưng mấy lần suýt ngã. Cái bệnh huyết áp thật quái ác, chẳng khác gì cái ách gông lấy tuổi già, nó như trói chân, trói tay ông lại. Một thoáng tư lự - thôi cũng đành – cứ nằm xuống nền cho chắc – rải chăn chiếu xuống đất ngả lưng đỡ mỏi – cứ thế này là chắc nhất, chẳng còn ngã vào đâu được. Tuổi già cứ thấp dần đi, cận kề mặt đất! Có lẽ lúc đó họ nhìn thấy thật nhiều và nghĩ ra rõ lắm, cả không gian hiện lên… như quên khuấy mất họ. Chẳng mấy bận lòng về ai nữa nên cái nhìn của họ thấu suốt làm sao… cái nhìn không ôm đồm, chẳng bề bộn, bon chen, cái nhìn của kẻ bên lề nhòm vào cõi sống. Căn buồng ông ở bỗng tẻ ngắt làm sao, có thể lần đầu ông cảm thấy thấm thía như vậy… Vẫn tia nắng sáng ra vào cửa sổ, chiếc giường cá nhân có lẽ cũng đang già đi… trên tường mấy tờ lịch treo cong queo vàng ệch, năm tháng chẳng còn bao ý nghĩa. Thời gian được gạch đít cho từng ngày cần nhớ trong tháng, trong năm - ngày giỗ cha mẹ, ngày lĩnh lương hưu, ngày cháu nội về chơi, còn lại mọi ngày như nhau – ngày tháng của những người hưu trí - những cỗ máy ọc ạch già nua lần mò trong cõi sống. Bài ca của họ đã một thời vang lên trong khốn khổ để hôm nay dần dần lặng tắt trong âm thầm đau đớn.
Yên tĩnh quá, ông nghe thấy cả tiếng bánh xe nghiến trên đường phố, tiếng những bước chân, tiếng chào mời rao bán… sự sống như bay vút lên tầng tư nơi ông đang nằm trăn trở.
Đã là người phải đứng ở đâu chứ? Một câu tự vấn của người già - một câu tự hỏi không có đáp số. Thời gian tỉ lệ nghịch với đời người, nó cứ dài ra bên đời người đang dần dần co lại. Cả vạn vật đang dần dần co lại trong già nua tuổi tác, như căn phòng, đồ vật và cả ông nữa cũng đang cũ dần, cũ dần chẳng còn hương sắc sự sống. Trong cõi đời này vật chất là đời người, vì thân xác hữu hình nên nó là vật chất, để đến một ngày ta đi ra khỏi nó.
Ông nằm lặng dán mình trên nền đất mơ hồ nghe tiếng đời trôi với nỗi ao ước trước cửa phòng mình sẽ có bước chân ai dừng lại! Niềm ao ước như bài ca sám hối cho tuổi già, những nỗi khổ đau của đời ông như đúc lại thành cây nến mà đốt lên ngọn lửa cháy bừng biết bao điều nghĩ ngợi, với ông sẽ chẳng còn khái niệm vật chất nữa, dòng thời gian trôi qua thấm thía làm sao, họ như thấy được nó trôi qua từng ngày không trở lại, sự sống chỉ còn là tiếng vọng rã rời, khi người ta không còn đỡ nổi chính mình thì tuổi già đã đến, tuổi già là gánh nặng đè lên thân xác! Bao suy ngẫm đưa ông vào giấc ngủ…
Trong giấc ngủ chập chờn, bỗng ông có cảm giác một vật gì mềm mại nồng ấm đang lướt trên mặt mình. Ông lão choàng tỉnh giấc, trước mắt ông là con chó Ca phi của nhà ông bạn đang mừng rỡ chồm lên đứng bằng hai chân sau, hai chân trước chắp lại vái vái thi lễ với chủ nhà. Trong lòng ông bừng lên một niềm vui mới sau giấc ngủ. – Bác thấy không, chó với má - nó cứ như dắt tôi đến nhà bác không bằng, mình vừa lẩm nhẩm là sang bác nó đã chạy liền, ông Vân bạn cùng tổ hưu tất tưởi bước qua ngưỡng cửa.
- Sao thế kia? Ai bắt ông nằm đất trông mà thảm hại thế!”
- “Đầu óc cứ choáng váng tôi lê chăn chiếu xuống đất!” - Ông đáp.
Họ nhìn nhau lặng lẽ lắc đầu, con chó cào cào vào tay chủ như nhắc ông chiếc bánh. - À tôi mua biếu bác chiếc bánh giò nóng - mua ngay dưới tầng. Ông lặng lẽ đứng lên tìm bát - ăn đi ông, bọn mình răng kém ăn bánh giò lại hay – Cảm ơn bác, để tôi pha ấm trà cái đã - ông lật đật tìm ấm - bác Khởi ạ - bác Vện cùng tổ chết rồi – chết ngày hôm kia. Ông lão sửng sốt nhìn khách - hôm đó tôi định sang rủ bác ấy sang đây chơi, thấy cửa mở, gọi chẳng có ai, vào nhà bác ấy nằm còng queo dưới chân cầu thang, cũng may con Ca phi nó sủa loạn lên tôi mới vào. Lúc ấy bác ta chưa chết đâu, đau đớn lắm, bác ta còn cố rút cái ví ở túi ngực đưa cho tôi – biếu anh tôi chẳng cần nữa… đến trưa thì bác ấy mất, có lẽ cố đợi mấy thằng con… Ngẫm bọn chúng cũng đoảng… tôi gọi điện ngay nhưng chúng đang mắc việc cơ quan gì đó… mãi tới lúc bác ấy sắp mất anh em nó mới về - mà cũng may cả ba đứa cùng có mặt. Cứ nhớ lúc sống bác ấy hay phàn nàn là chẳng bao giờ gặp cả ba đứa một lúc. Nhiều khi tôi cứ ngẫm… thật rõ cái thời khốn khổ, nhà nào chẳng thế… đâu đâu cũng chỉ lo lắng chuyện kiếm tiền. Lũ trẻ thời này đứa nào cũng vậy cứ quẳng cho bố mẹ ít tiền rồi chúng biến ngay, chẳng đứa nào thiết ngó xem bố mẹ có còn răng lợi gì không mà gặm mấy đồng tiền ấy. Anh có biết không… tôi phải bế anh ấy lên giường… rồi ngồi chờ cả buổi sáng mới nẫu ruột - cứ như trên đời chẳng còn ai sống nữa không bằng. Tôi trả lại cái ví. Chúng nó cứ nhìn như hỏi mình có lấy trộm hay không mới buồn. Chúng có hiểu đâu rằng, người già ăn sao nổi những đồng tiền đau đớn đến thế… mà chúng là dân có học cơ chứ! Đứa luật sư, thằng nhà báo thì mới ức Bác Khởi ạ… thời này chúng nó là như thế!… Cứ phải kiếm nhiều tiền, thật nhiều tiền thì chúng mới sống nổi. Ông lão xẻ cho con chó tí bánh, nó nằm phủ phục bên cái đĩa, đuôi ngoáy tít, mắt hau háu nhìn chủ – đấy… có một tẹo mà anh lại còn cho nó. Nằm im… có để cho chúng tao yên không? Bàn tay ông vuốt trên bộ lông trắng đã có chỗ ngả vàng. Nó ư ử như nũng nịu. - Ông ạ… cứ ngẫm loài vật nó còn có tình… con này nó theo tôi mười mấy năm rồi còn gì… Tay ông ve vuốt trên đầu nó – Mỗi khi cứ nhìn lên mái nhà là lại nhớ đến nó… lứa đẻ đầu tiên được bốn con màu trắng toát… Thế là tôi đủ tiền đổ cái mái. Cứ ngẫm có lao động cả đời cũng chẳng đủ tiền mà làm được. Mà nó nuôi con khéo lắm bác ạ… Sáng ra bốn chú chó con như phép lạ trời cho… Nó tự đẻ, tự cắn rau, không kêu rên, liếm láp tinh tươm mới giỏi… Mà đúng là cái vận trời cho ông ạ! Nhà tôi hồi ấy đang khổ lắm… quả từ cái vận chó mà thành người. Xe máy thằng lớn, thằng bé đều từ chó mà ra. Cũng có thể kiếp trước mình là chó cũng nên… sang kiếp này chúng hiện về cứu giúp! Ông lẩm nhẩm như tự nói với mình. Câu chuyện về con chó ông nhắc đi nhắc lại đã bao lần… Ông cứ kể, cứ kể như lần đầu mới nói. Con chó nằm bên cạnh đầu ghếch lên đùi ông, mắt tròn xoe, ra chừng cũng hiểu, thỉnh thoảng nó lại liếm chân tay ông như cổ động cho câu chuyện đậm đà. Bác ạ… thế rồi cái thời chó đẻ cũng qua đi, chẳng mấy ai cần chó nữa, họ chỉ mua chó thịt – mắt ông già long lên vì bực tức - tôi không nuôi chó đẻ nữa… bán cho lũ người ấy thêm hoài chó. Ông ôm gọn con Ca phi trong lòng như thách thức với ai đó… Trong mắt ông, sau cặp kính một nỗi buồn ẩm thấp nhạt nhoà khơi lên – Sau cái thời chó má ông ạ… nhà tôi mất! Hai thằng con xin ra ở riêng… chúng dứt khoát không mang theo con chó… vì vợ nó sợ hôi sợ bẩn, mặc thằng cháu nội tôi với con chó chơi với nhau như đôi bạn… Mà cũng may… không thì tôi chỉ còn có một mình… ông bỏ kính lén lau nước mắt. Ông Khởi ạ… tôi ăn cùng chó, ngủ cạnh chó, đi chơi cùng chó - Một niềm vui nhỏ nhoi như nhóm lửa trong ông bên nỗi đau hằn vết trong trái tim người già. Buồn vui như hiện hình trong thời gian cháy dở, khi đời họ đang lún xuống trong tháng ngày vô định. Họ! những người già đã đi qua một thời đang chìm dần trong cái bóng của mình.
- Tôi phải về thôi – lời ông nói như trĩu xuống, vừa như lời chào chủ nhà vừa như tự nói với mình.
- Bác đã đi đâu mà vội thế? - Suốt từ sáng đến giờ nhà tôi đâu có ai trông, à… ngày mai bác có đi đưa đám bác Vện được không? Người mệt thế này… để tôi nói với các bác cùng tổ thông cảm – Không sao đâu… tôi thế nào cũng phải đi, tôi với bác ấy có nhiều duyên nợ với nhau lắm.
 - Họ chia tay trong bao điều nghĩ dở… Những bước chân ông bạn và tiếng chó nhấm nhẳng cứ xa dần, nỗi cô đơn âm thầm khép lại…
“Ước gì mình có con chó như của bác ấy”. Một thoáng suy tư lướt qua đầu ông lão.
 Tang lễ hôm nay đông lắm, chật ních những người. Ông lão phải nằm đấy cả ba ngày chờ người về thăm viếng. Bao bè bạn của con cái từ mấy miền hay tin nếu không về được cũng gửi điện chia buồn, gửi đồ phúng viếng. Nghe nói các đoàn từ trung ương cũng cử người về dự lễ tang. Mọi người ngạc nhiên vì cháu con ông Vện đông đến thế, cứ nhan nhản toàn những khăn xô. Ba anh con trai và mấy nàng dâu mặc áo xô đầu đội khăn cứ chạy ngược chạy xuôi cảm ơn những đoàn thể và bạn bè đến chia buồn thăm viếng, nào trướng nào hoa cứ nườm nượp người mang tới.
Cỗ quan tài sơn son thếp vàng uy nghi đặt giữa phòng khách. Bên trên là ảnh ông Vện với nụ cười đôn hậu. Mọi người ai cũng bảo bức ảnh tươi quá, có người lại bảo bức ảnh rõ đang vui – mà tươi hay vui thì cũng phải… Ngày đưa đám ông mà đông đủ cháu con bè bạn đến như vậy thì dẫu có xuống mồ cũng còn cảm thấy hơi ấm ở đời. Bức ảnh có cũ nhưng cũng còn tươm chán. Bảy, tám năm nay ông lão có chụp cái ảnh nào đâu… mà nếu có ảnh mới - cũng xin lỗi người chết - ảnh ông sẽ không đẹp bằng… vì từ lâu hai hàm răng ông hầu như rụng cả nên hai má cứ hóp lại trông khắc khổ đến não lòng. Con cháu treo cái ảnh kia người chết trông “hoành tráng” hơn đến mấy phần. Bên dưới bức ảnh là cả dàn huân, huy chương, dễ có đến chục cái nên bức ảnh càng được tôn lên cái vẻ bề thế của người đã khuất. Trên nóc áo quan là hai hàng nến đỏ sáng lung linh ôm lấy bát cơm quả trứng, hương khói lênh đênh hoà quyện với ánh sáng run rẩy của hai hàng nến tạo cho ta thấy cảm giác cỗ áo quan như con thuyền đang bồng bềnh trôi về đâu đó. Phía trước áo quan là cái bàn phủ khăn trắng, bên trên đặt bát hương và ba cái mâm để tiền phúng viếng. Dọc theo hai bên quan tài, bên phải là phường bát âm, bên trái là con cháu và gia đình đứng đáp lễ mọi người về thăm viếng. Tiếng kèn, trống cất lên khi mọi người tiến vào phúng viếng. Họ đặt lễ thắp hương vĩnh biệt người đã khuất, đi vòng quanh áo quan nhìn mặt người chết lần cuối trong những âm thanh não nề như miết vào lòng người đang sống. Họ siết tay chia buồn với gia đình và những tiếng khóc nhịp nhàng cất lên thay lời cảm tạ bao tấm lòng bè bạn tìm về thăm viếng.
Cõi sống và đời người, rộng lớn như căn nhà chứa đựng hạt cát, khi linh hồn cảm nhận được hơi ấm và sự no đủ của nó thì sự sống của họ đã qua bờ. Sự sống là chân lí bên đời người phi lí làm sao! Tiếng kèn trống cất lên như lời dụ dỗ biết bao người đang sống… Người chết mọi giác quan đã ngủ yên… tiếng mõ ấy tiếng kèn kia như đùa cợt cõi đời ru ngủ – giữa bát ngát thinh không, linh hồn sẽ thoát đi bỏ mặc lại cõi đời khổ đau bề bộn. Khi cõi sống sa thải họ… không muốn nhìn thấy họ nữa… cái đời người “quá đát” - hãy về đi… bao nhang khói, những vòng hoa như là tiếng khóc cho bao người đang sống… Những dòng nước mắt chợt ngưng chợt chảy, bao âm ba lời nói chợt buồn chợt vui. Những gương mặt chợt sáng chợt tối, đó là cõi đời! Hãy đến đây – hãy về đây mà nhìn, mà ngó khi hồn người lìa xác - Cõi thinh không của một đời người – Một bài ca không còn sóng vỗ, tất cả chỉ còn là yên lặng – im lặng và im lặng – hãy về đi – về đi.
Có lẽ đoàn các cụ là cuối cùng của dòng người thăm viếng. Có thể vì đông quá, bề thế quá, nên các cụ cũng đành nán lại vào sau, mà cũng đành… Tuổi già chẳng đi đâu mà vội, nên các cụ cứ lặng lẽ tụ tập đứng chờ - mà chờ một người bạn già thì mọi lẽ cứ nhẹ nhõm làm sao – Các cụ cảm thấy kiêu hãnh, thú vị cho kiếp sống của bạn mình - Đông thế - đông lắm - phải thế chứ… anh ấy sinh thời quan hệ rộng, nên lúc chết mới lồng lộng thế này… cứ dòng dòng toàn người với vòng hoa… Ngẫm có chết thì cũng đáng, vạn sự như nêm lấy một đời người như vậy cũng bõ - cũng bõ đã được sống làm người – Mọi chỗ cứ hầm hập mà hỉ xả, hoà quện vào nhau trong tình nghĩa mất còn – Cõi sống rạo rực bên cỗ quan tài thắp lửa. Các cụ cứ ngẫm mà thấy thèm… Xác chết như cái thước đo, thập thò, dài ngắn. Sự hữu ích của một đời người có lẽ là thế - khi chẳng còn mưu sinh vẫn dậy mùi cõi sống! Sự lèn bén đâu đây như chừng đang thức dậy, như nhón lửa đầu nén hương lặng thầm gặm nhấm. Cõi sống như chợt say, chợt tỉnh, chợt buồn, chợt vui, nó hiện sinh như mớ rau buộc túm, như vòng hoa kết lại nụ cười… Tất cả dường như phó mặc đời người có sinh, có diệt, có đến, có đi, nỗi đau đớn khả ái còn bừng thức trên từng gương mặt, chảy thành lời nói mà khoan, mà vít cõi đời trong tang lễ - Mọi thứ như vón lại, đầy ắp, hương hoa, bổng lộc, nghĩa tình, bao bề bộn chất ngất như khoanh lại một sự sống hư vô… đời người có lõi, mấy ai đào sâu mà nhìn thấy được - Ta chợt thấy buồn thấy vui – ta vui vì cuộc đời còn dở… ta buồn vì sự sống đã qua… Có một thứ gì đó ngấp nghé bờ vực trong cái nhìn các cụ – nó dở khóc dở cười như đời người hưu trí. Họ thương yêu đùm bọc một thứ gì đó… và chỉ thế thôi – họ tự thương mình khi cõi đời đang dần dần quên họ. Sự chết đâu phải là cái lõi! Cuộn chỉ cứ quay và cứ nhả, dòng thời gian lúc thít lúc buông. Người già hiểu nó như đường tơ kẽ tóc, có đấy và mất đấy. Chẳng hẹn hò sao lòng họ vẫn thương nhau – Họ tề tựu bên cái chết mà chia tình sẻ nghĩa. Người chết như đang sống lại bên bàn cờ với bao vui buồn một thuở, nhỏ bé thôi… là hàng ngày họ có nhau và họ chỉ còn thế, cả cõi sống dường như thu nhỏ lại khi đời người già cỗi – sự cô đọng lãng quên trong dòng chảy cõi đời. Sự mê muội chảy trong mê muội. Dòng tuần hoàn lặng lẽ buồn trôi… Có một lúc nào đó văn chương như một gã say chạy theo thời gian mà gạ gẫm, vẽ vời về một thứ gì đó đã qua - nhưng cũng chỉ thế thôi… như son phấn điểm tô bờ vực.
Họ túm tụm bên nhau, mỗi người mang đến một hoài niệm về người đã khuất, họ như nói với người chết, vừa như nói với ai đó quanh đây về những tưởng niệm một thời.
- Bác có thấy không…? đời người chỉ vèo một cái là biến mất tăm… - ông lão đứng bên buồn bã nói - ông Vân dáng vẻ tần ngần, tay mân mê sợi dây xích con chó – Cái gì rồi chẳng phải biến hả bác… Ở đời xưa nay vẫn thế. Tôi cứ nhớ hồi bác Vện chưa nghỉ hưu, nhà cửa cứ tấp nập những khách là khách - ông lặng lẽ giật xích con chó như người đang mộng du, con chó lặng lẽ nép vào chân chủ – rồi người đến cứ thưa dần, thưa dần, chẳng còn ai nữa… giọng ông trĩu xuống như kẻ mất hồn - Anh thấy không? – lời nói như căng ra, sự phẫn nộ như trào lên đâu đó trong ông – ở đời này là thế, mọi thứ cứ biến dần, biến dần cho đến khi ta chỉ còn trơ trọi ở đời, trụi thùi lụi như con gà bị vặt lông chỉ còn chờ lên thớt nữa là xong! – nhà tôi ngay bên cạnh mà… - hiểu trước về sự cô quạnh… nên tôi tìm sang anh ấy… Cuộc đời khi chẳng còn chức quyền thì cũng như ai thôi, cùng chẳng ăn được nhiều, ngủ nghê thì cũng vậy, tiền bạc cũng chẳng màng, không đùm bọc nổi ai nữa… thế là xong, có lẽ đồ vô dụng đều như nhau cả - cõi đời xưa nay là thế… mọi thứ cứ thưa dần thưa dần rồi quên lãng – anh cứ thử ngẫm… mình cần quái gì cơ chứ… già thì ta lại có kiểu già chứ sao? - ông như tự khẳng định với mình như thế – Tôi quý bác Vện vì anh là người ngay thẳng, chẳng ưa trò ỡm ờ khuất tất - cứ nhớ mãi, có một hôm tôi đến chơi đúng lúc hai bố con anh đang chất vấn nhau về một điều gì đó, cả hai bố con đều là quan chức nhà nước, mang trong mình dòng máu của Đảng, tôi nhớ mãi anh con trai lý giải với cha mình: “Ở thời bố Đảng ta khép cửa, vào thời con Đảng mở cửa ra” – “Tao rất ghét ỡm ờ… mày thử giải thích cho tao thế nào là khép với mở… tao là Đảng viên về hưu chất vấn mày là người đương chức”.
“Anh có biết không? Tôi rất thích sự ngay thẳng, mà có lẽ người già ai ai cũng thế… họ dám nhìn thẳng vào mọi sự tốt xấu ở đời. Dù rằng chẳng còn là ngọn lửa thiêu đốt nữa… nhưng nó là cái nhìn thấu suốt, tinh tế đến làm sao – một cái nhìn không còn tiếng nói, một cái nhìn tự vấn, một cái nhìn bất lực trong cái nhìn… Tuổi già như con tàu đắm. Trong khoảng khắc chợt chìm nghỉm… chỉ còn họ với họ… thế thôi… rồi lặng tắt! Đời họ như cái bơi chèo đã mỏi và đại dương như cái miệng há mồm. Cõi đời trả lại cho thời gian như tiếng chó cằn nhằn gọi chủ”.
“Tao đã bảo mày ở nhà… cứ đòi đi theo mà lắm chuyện” - ông lão như dỗi dằn cùng con chó - Ông ạ… buồn vui lũ chó nó biết cả đấy. - Ông Vân như được dịp nói về con chó. – Nó chẳng hay sang nhà ông Vện mà… vừa được ăn còn được chạy nhảy. Sáng nay tôi định xích nó ở nhà mà nó không chịu… nó cứ chồm chồm, sủa vang đòi đi đưa đám… Thật đúng là “khuyển mã tri tính”… nhưng mà ông ạ… nó biết từng người trong tổ, chỉ nhắc tên là nó chạy tới liền. Nhiều khi ngồi cứ ngẫm… cũng may về già còn có con chó… nó liếm bàn chân ông như khẳng định cảm tình của nó - Nhiều khi nhìn nó tôi cứ ngẫm… ở đời… mất cái nọ được cái kia, thật rõ ông Trời chẳng tận diệt với ai bao giờ… Mình lủi thủi mà có nó bên cạnh như có thêm người cùng sống. Nó là mình, mình là nó, nhiều khi đỡ buồn bác ạ. Họ lặng lẽ nhìn con chó mà thông cảm cho nỗi buồn của nhau. Loài chó là giống vật hữu tình, nó cứ quanh quẩn bên người mà sinh mà sống, nó bù lấp biết bao chỗ mà đời người chẳng có, những thiếu khuyết muộn phiền… Chó học tính người, người học tính chó - Anh có biết không… nhiều sáng tôi mệt không buồn dậy… nó cắn chăn lôi tôi dậy và mình phải dậy theo nó. Nhiều khi mình chẳng muốn ăn nhưng nó đòi ăn làm mình chợt thấy thèm ăn theo nó. Mọi thứ tủn mủn như bay biến đi đâu… thế mới lạ… mình như đang muốn sống để mà dạy dỗ một thứ gì đó cho ra hồn. Anh thử nghĩ xem… nuôi chó nhiều khi thật hữu ích. Loài người không gần động vật, nhiều khi trở nên khô cằn máy móc làm sao… cứ học thuyết nọ, triết học kia như cỗ quan tài chở người về đất, cứ gần giống chó nhiều khi ta thèm sống vì chúng luôn nhắc nhở ta là người, mà là người thì phải gọt dũa mà nhiều khi gọt dũa còn chẳng đâu vào đâu… đã là người nhiều khi cứ phải làm đi làm lại sao cho giống một cái gì đó mà lòng ta ước muốn và có thể loài chó cũng vậy… Niềm ao ước như giấc mơ đặt trước muôn loài mà dụ dỗ cho đất trời thức dậy.
Giữa đám tang ông chợt cười… tiếng cười như xé rách biết bao điều giả dối mà người đi bỏ lại… Mọi người nhìn ông, ông nhìn mọi người trong tiếng cười nước mắt. Bác có biết không… ngày hôm qua công an phường bắt tôi làm tường trình về cái chết ủa bác Vện… vì tôi là người đầu tiên chứng kiến… tôi phát khùng nói thẳng với họ: “Việc này có pháp y cần quái gì tới tôi”. Họ đấu dịu bảo tôi: “Bác thông cảm… đó là thủ tục nhà nước đối với tính mạng công dân”. Tôi chợt nghĩ: “Người già sống vạ vật có đứa nào buồn ngó đến đâu! mà cũng có thể chết rồi lại thành có giá - cái giá trị thằng người. – Nghĩ lại cũng khổ… hôm lĩnh lương tôi chạy sang bác Vện báo tin lương tháng này tăng mấy phần trăm thì bác hàng xóm báo anh mới mất hồi sáng… nhiều khi tôi cứ tự nhủ mình… trời chưa cất thì ta cứ bước…” - Ông lão trầm ngâm như người nửa tỉnh nửa say, cặp kính lão nhờ nhờ trên mắt như ánh sáng sự đời chẳng buồn chui qua lối ấy.
- Chẳng có tăng trưởng gì đâu… anh cứ thử nghĩ mà xem, lương tăng vài ba phần trăm trong khi mọi mặt hàng cứ tăng vọt thử hỏi tăng giảm có nghĩa lí gì? Còn hàng bao nhiêu thứ nữa chứ… nào đóng tiền an ninh, nào đóng tiền người nghèo vượt khó, tiền giúp đồng bào lũ lụt, mà lương người hưu trí được có là bao… miếng ăn cứ nhỏ dần đi thử hỏi lấy gì là sống! Họ lặng lẽ nhìn nhau mà buồn cho thân phận.
- Tiếng kèn trống như gọi người đến, như tiễn người đi, đoàn các cụ tề chỉnh giàn hàng ngang đứng trước linh cữu tiễn biệt người quá cố. Ông Khởi đại diện cho tổ các cụ, tay run run đặt chiếc phong bì lên mâm, nhưng khổ thay… hai lần đặt đều rơi tẹt xuống đất. Không biết vì run tay hay tại phong bì nhẹ quá. Có lẽ vì các mâm đều đầy đặn đến có chóp, nên nhiều khi rõ phiền cho người phúng viếng. Các cụ lặng lẽ vái người đã khuất, trong tiếng kèn nỉ non tiễn biệt - Những cái bóng già nua lặng lẽ trên đời như
món nợ không có người nhận trả… họ lặng lẽ bên nhau như một cộng đồng riêng biệt. Sự lãng quên như mặt nước khép lại trong chiều, mọi thứ đã chìm xuống đáy, chỉ còn lại sự quên lãng đâu đây trong lòng những người già sống dở.

Anh trưởng nam trang nghiêm đọc lời vĩnh biệt: “Cha của ba anh em chúng tôi Nguyễn văn Vện… sinh năm… sau một thời gian lâm bệnh nặng, mặc lòng con cháu và cả gia đình tận tâm cứu chữa, người đã ra đi… vĩnh biệt bè bạn và cháu con… Những người bạn mất đi một bằng hữu… những đứa con mất đi một người cha… đàn cháu con mất đi một người ông… đứng trước tổn thất lớn lao này… tôi xin một phút mặc niệm để tưởng nhớ và vĩnh biệt người”. Trên gò má anh trưởng… hai dòng nước mắt trào ra… trong nỗi nghẹn ngào không thành tiếng.
Người ta mau chóng giải quyết ba cái mâm và cả đàn con cháu xúm xít nâng quan tài trong tiếng khóc ào ào như con thác… ba người con đứng sau xe hai tay vái đáp lễ mọi người. Xe chuyển bánh, ông Vện như hạt lạc củ vùi giữa rừng hoa, trong những tiếng khóc thê thảm kéo lê trên đường phố. Dòng người như con nước đổ về lặng tờ trong nhang khói, đoàn các cụ lẽo đẽo sau cùng, nào người nào chó, lẳng lặng đi trong buổi chiều nhợt nắng. Bóng họ xiêu vẹo trên hè, cứ lớp lớp như những hồn ma xếp hàng chờ đến lượt, thỉnh thoảng họ thì thầm với nhau một vài điều gì đấy: “…Điếu văn gì mà điêu đến thế… chúng nó có ngó ngàng gì đến ông ấy đâu” - Ông Vân đi bên cạnh lặng lẽ lắc đầu: “Cũng thông cảm ông ạ, điếu văn thời này người ta in sẵn, cứ điền tên điền họ vào là xong” - họ lắc đầu: “Anh con trai là nhà báo cơ đấy, đúng là một lũ vô học”.
 
2005
 

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Ô cửa sổ - 02.04.2009 00:33:14
Ô CỬA SỔ
Tặng Hoàng Huyền Mi
 
Ô cửa sổ có lẽ là ý tưởng cao quý mà mỗi vị chủ nhà đạt được, qua nó người ta như mời cả không gian thoáng đãng vào nhà, thật đắc ý khi cả trời đất như hòa vào bạn, căn nhà như mở rộng ra mà ôm lấy tất cả cuộc đời. Nhưng cõi sống nhiều khi không đến thế. Chẳng phải sự tốt xấu của ô cửa mà bởi tại những cuộc đời trong đó. Nỗi ám ảnh vật lộn của những kiếp người, sự chật chội đau đớn dường như không hiểu nổi cứ to lớn dần lên để đến một ngày cả không gian sống của gia đình dường như tắc nghẽn. Nỗi bức bối làm cho chúng ta không sao chịu nổi, tất cả cứ nhoài ra cửa mà hít thở không khí trong lành! Họ muốn thoát ra khỏi phòng - Cái tổ ấm suốt đời vun đắp.
Câu chuyện là thế – Vào một buổi sáng đầu thu khi lòng tôi không còn chịu nổi nỗi buồn đến thế – Chắc các bạn cũng hiểu sự lầm lỡ trong mỗi gia đình chúng ta, loanh quanh chỉ tại bát cơm, manh áo, sự đói khổ như đè nặng lên mọi kiếp người, nó lấn át đi phần hồn vốn vô hình yếu đuối, nên nhiều khi gây tổn thương không nhỏ cho mọi kiếp người, họ trở thành lạc lõng xa vời trong cõi sống.
Tôi thẫn thờ ngồi trên ghế nhìn qua cửa sổ, trong lòng nằng nặng buồn đau. Ngoài kia, một buổi sáng tinh mơ chan hòa sự sống, tôi nặng nề lặng ngắm nỗi buồn cứ nhen nhóm khơi lên! Ta nhỏ bé xiết bao trong quang cảnh buổi sáng đang bừng thức dậy, nỗi thấm thía về ô cửa sổ nhà mình! Chợt bên sân nhà hàng xóm cô chủ nhỏ ngồi bên thềm thả hồn trong cô quạnh. Nàng cũng có tâm trạng buồn như tôi, hai linh hồn chìm trong đời quên lãng! Tôi với nàng nhìn nhau lặng lẽ trong nỗi thấm mệt cuộc đời, ánh mắt nàng như xa vời nương náu, như kéo tôi lại gần, giữa âm thầm sâu thẳm người nọ chợt thấy mình trong người kia và tất cả… trong thầm lặng, ánh mắt như nói với nhau bao điều. Chợt đứa con nhỏ ôm lưng nàng, nép vào mẹ, chúng tôi lặng lẽ chào nhau. Bên nhà tiếng nàng chợt cất lên buồn thảm:
- Tôi khổ lắm! Lo ăn cho cả nhà còn đâu tiền cho anh hút sách…
Tôi trở về với bổn phận hàng ngày, lòng mang nặng biết bao điều nghĩ ngợi! Con người cứ phải hi vọng! Niềm hi vọng lấy đi trong ta rất nhiều nhưng trả lại chẳng còn bao nhiêu và nhiều khi còn trắng tay vì nó, cái nghèo đói như vít cõi đời này xuống, sự sống bỗng trở thành luẩn quẩn loanh quanh vì đó dường như là thiết thực, loài người trở nên háu đói, khát thèm, bóng dáng của tâm hồn chìm vào quên lãng, tất cả dành cho thể xác, sự sống phải chăng là thế?
Lại một buổi sáng!…
Một ngày mới bắt đầu khi tiếng gà gọi sáng, tiếng chó sủa cằn nhằn dưới sân. Xa xa một vùng hồ nước xanh êm như đang ngủ. Tôi lặng lẽ ngồi bên cửa sổ. Câu chuyện hôm qua chẳng sót lại trong đầu. Một ngày mới trải dài, đều đều lặng ngắt! Tất cả vẫn chỉ thế thôi, mọi người coi đó là sự bình yên, còn riêng tôi là giờ tàu chạy! Tôi lặng lẽ ngồi trên ghế nhìn qua “cửa tàu”, thế đấy! Mọi người nghĩ sao chẳng được! Một ngày mới trên “sân ga” nhà tôi. Cuộc chia ly nho nhỏ với bao điều quá khứ, không người đưa đón, chỉ có mình tôi lặng ngắm cõi đời! Tất cả vẫn thế, mọi vật dường như không đổi, chỉ có lòng ta tan đi với bao điều tiếc nuối thường ngày. Bên hiên nhà hàng xóm, cô chủ nhỏ ngồi lặng lẽ nhìn trời, mái tóc xõa trải dài trên hai bờ vai mỏng. Tôi ngắm nàng như chiêm ngưỡng một pho tượng nhỏ bán thân tĩnh lặng. Nàng là hình ảnh đưa tiễn cuối cùng trên “sân ga”. Chúng tôi nhìn nhau, cái nhìn trong sạch, vừa đầm ấm làm sao, vừa như lời chào, như là thân thuộc cảm thông. Khoảng khắc ấy ta chẳng biết làm sao cả. Cõi sống như bị cuốn hút trong mắt nhìn. Mọi nhục cảm tan biến chỉ còn sự hòa đồng giao cảm, người nọ như nâng người kia dậy trong nỗi buồn khó tả! Cuộc chia ly không lời nói, chỉ là ánh mắt. Một ngày mới bắt đầu như biết bao ngày khác, nhưng trong lòng tôi một niềm vui nhỏ nhoi đang lặng lẽ khơi lên, niềm vui không lời nói, không tên tuổi, không hứa hẹn nhưng nó làm cho cõi lòng ta ấm lại. Bên sân nhà, nàng đang tất tưởi đi chợ. Ánh nắng ban mai như dòng nước trôi trên ngõ nhỏ.
Lại một buổi sáng đang về!…
Tháng năm như trôi đâu mất, người ta luôn phải vật vã với lo âu. Tôi thường quên tháng, quên năm mình đang sống, có lẽ bởi tại nó giống nhau quá, ngày nọ như ngày kia, đều đều như cát bụi, cõi sống như bức họa tĩnh vật lặng lẽ trên tường. Ô cửa sổ vẫn nguyên vẹn hình hài, kích thước, một sự bằng bặn đến hãi sợ! Tôi chờ đợi sự chia lycho từng ngày. Bên cửa sổ vẫn chỉ là cái ghế! Thế thôi! Tôi sẽ ngồi suy tưởng về một điều gì đó! Mà cũng chẳng biết là chuyện gì! Tương tự như khói nhẹ nhàng bay đi! Con chim nhỏ đậu trên cành đa trước ngõ mải mê nhảy nhót. Nó cố tìm lấy chút gì dành cho buổi sáng, mặt hồ bàng bạc trong sương, trên bến thuyền câu bồng bềnh ngái ngủ. Tôi lặng lẽ ngồi nhìn ra ngõ. Nàng đang vội vã ra đi, dáng người thanh mảnh như bay trong buổi sáng. Nàng không nhìn ai cả, chỉ còn công việc, mặc tôi ngắm nàng và nàng biết có người đang nhìn mình. Mọi cử chỉ nhanh nhẹn, dứt khoát như cố gắng thoát khỏi ô cửa sổ! Trước lúc lên xe, trong khoảng khắc, nàng nhìn tôi và nụ cười mệt mỏi lặng lẽ trên môi, và mãi mãi cái nhìn ấy làm lòng tôi ân hận! Một thế giới đang chìm đi trong tiếc nuối, một cõi sống dường như không dành cho tình yêu, ở đó chỉ còn là bổn phận, nàng cố gắng làm theo nó. Tôi lặng lẽ nhìn theo bóng nàng như chia ly với chính mình buổi sáng.
Một buổi sáng lại về!...
Đời người như căn nhà, ngày tháng như từng viên gạch xếp thành hàng mà bồi đắp lên. Ở trong đó biết bao những góp nhặt buồn vui một thuở, người ta yêu thương và lạc lõng trong nó, chìm nghỉm trong chờ đợi! Có lẽ ngày mai sẽ thay đổi và ngày mai vẫn thế thôi! Để đến một ngày những hàng gạch như đè nặng thêm lên cõi sống, tòa lâu đài to lớn ấy như được kết dính bằng bao điều buồn thảm, người ta không tưởng trong cõi sống không tưởng, tất cả đều cố gắng và tất cả không gặp nhau, người ta cố lý giải rằng người nọ đang rất yêu người kia và tất cả.
Sáng nay, tôi khép cửa sổ vì không muốn nàng nhìn thấy… Qua ô cửa kính xanh đen tôi thấy nàng lặng lẽ nhìn lên, gương mặt nàng mệt mỏi vì lam lũ! Một thoáng suy tư lướt qua trong mắt và mọi việc lại bắt đầu! Nàng như cái kiến, con ong cứ lặng lẽ thả đời cho bổn phận. Sau lưng nàng là những đứa con và tôi cũng thế! Chẳng mấy ai bước ra khỏi nhà mình mà quên lãng! Có một thứ dường như không lặp lại đó là tình yêu!
Một ngày mới lại về!...
Trong cõi sống có những thứ đã mất mà ta vẫn tìm hoài không tưởng, khi hiểu ra cõi lòng như tan theo bao điều mất mát. Vật quý vô tri giác! Kẻ tầm vật quý có tri giác sẽ đau khổ xiết bao. Tấm lòng họ như bao dung cõi sống mà nâng cõi sống lên, nên trong mắt họ cỏ dại còn ánh lên màu ngọc.
Sáng nay, tôi ngồi sau cửa kính, không dám làm phiền nàng nữa, nhưng lại tự làm phiền chính mình. Ngẫm cũng lạ, loài người luôn làm phiền nhau để mà khẳng định ta đang tồn tại, không toại ý. Họ tự dằn vặt mình trong đau khổ như kẻ lạc loài bị cả thế giới bỏ rơi. Nàng đang lặng lẽ phơi quần áo cho lũ trẻ trước sân, những tia nắng mong manh vờn trên nếp áo, thỉnh thoảng nàng lại nhìn lên cửa sổ trong nỗi quên lãng đợi chờ! Tôi tự hỏi liệu có tình yêu trong cõi sống này không?
Một ngày mới chưa về!...
Hôm nay buổi sáng chưa về, màn đêm như níu cả không gian tĩnh lặng. Cành đa trước ngõ đờ đẫn trong sương. Sóng hồ vỗ vào đêm tiếng thở, ô cửa sổ trống rỗng lặng tờ, tôi ngồi trên ghế thả hồn cho suy ngẫm! Khi cõi sống lắng xuống, ngừng vận động thì linh hồn vật vã ngoi lên, người ta suy nghĩ và ngẫm ngợi bao điều! 24 giờ của một ngày! 24 giờ của một đời gom lại! Đời người, cái kho sống chứa chất biết bao điều không nói! Tôi suy tưởng về nó như nhìn ngắm chuỗi ngọc chẳng vẹn hình hài. Từng viên một lặng tờ trống rỗng! Nhân loại hay bàn đến chuyện mất của, còn tâm hồn thì sao? Có thể tâm hồn là điều tế nhị, nên nó cứ chìm vào quên lãng.
Chiều qua tôi gặp nàng đầu ngõ, chúng tôi nhìn nhau rất gần trong khoảnh khắc! Trong mắt nàng nỗi buồn đổ vỡ đến hoang sơ! Tôi định nói điều gì, nhưng nàng nói:
- Chú ơi, có lẽ cháu ra đi! Và tôi hiểu cái gì phải tới đã tới! Tôi khuyên nàng thương lũ trẻ và mọi thứ nàng đã làm, song tôi hiểu mọi lời khuyên chỉ là hư ảo, nó như khuyên người ốm là không nên ốm. Chúng tôi chia tay trong buổi chiều nguội nắng. Nàng đi ngược con đường tôi về nhà, một cuộc chia ly tôi hiểu rằng sẽ tới. Văng vẳng trong chiều tiếng máy hát nhà ai cất lên bản nhạc của Trịnh Công Sơn.
- “Thôi về đi đường trần đâu có gì! Tóc xanh mấy mùa! Ôi phù du...”.
Lời thơ như lưỡi dao cứa vào cõi sống, nó thật quá! Thật như cuộc chia ly giữa tôi và cô bạn nhỏ trong chiều, tất cả đã cố gắng song chỉ thế thôi! Có thể tôi là người bạn duy nhất mà nàng thổ lộ như lời chào vĩnh biệt – Vĩnh biệt con ngõ nhỏ đã chôn sống tuổi thanh xuân, vĩnh biệt biết bao mộng ước mà đời nàng buông thả. Có lẽ sáng nay nàng đã đi rồi! Có thể không người đưa tiễn, nàng sẽ nhìn lại ngôi nhà chồng, ô cửa sổ bên hàng xóm rồi lặng lẽ ra đi. Liệu thời gian có là điểm tựa cho sự sống đời người hay không? Khi cõi sống mãi mãi vẫn chỉ là câu hỏi!...
Thời gian như sáng dần lên, một ban mai dường như đến muộn. Trời có thể nắng, có thể mưa như con người có thể sung sướng hay khổ đau nhưng nỗi ước ao là bài ca cất lên từ cõi sống. Tiếng hát ấy cất lên vượt qua tháng, qua năm trong mỗi đời người. Tôi lặng lẽ ngồi trên ghế nhìn ra ngõ nhỏ. Bao nếp nhà thiêm thiếp trong sương, sự trầm mặc của đêm dường như vẫn đó. Ngõ nhỏ vắng lặng không người, như thể họ đang đi đâu trong cõi sống mà tìm cho mình tình yêu hạnh phúc. Những ô cửa sổ nhấp nhô cao thấp lặng lẽ trong trời. Chẳng hiểu sau những ô cửa kia có những ai đang nhìn ai trong âm thầm, lặng lẽ… Không hiểu rồi thời gian tôi có gặp lại cô bạn nhỏ của mình nữa không, nhưng tôi tin rằng mỗi người trong cõi sống đều có một chỗ để chết cho mình! Họ phàn nàn nhưng chấp nhận nó như một điều không thể khác và có lẽ những ô cửa kia vĩnh viễn là những con mắt quầng sâu thức dậy. Một ngày mới lại về, tôi lặng lẽ nhìn bầu trời sâu thẳm, vạn vật bình yên làm sao! Mặc cõi lòng ta dường như đang mất mát thêm một điều gì nữa! Rất nhỏ thôi, nhưng đó là giọt nước mắt của tâm hồn sâu thẳm.
1/8/2002

Ct.Ly

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Lão hàng xóm - 02.04.2009 17:30:21
LÃO HÀNG XÓM

 
Hắn sống lâu đến mức những người yêu hắn cũng phải thành ghét hắn. Mà ngẫm cho cùng Thần Phật còn bị bào mòn nữa là hắn, nhưng hắn vẫn buồn, mà buồn thì cũng phải thôi, đang trơn tru bỗng xù xì gai góc. Đạo lý còn có lúc thăng, lúc trầm nữa là hắn. Ai nói cũng không tỏ, người ngỏ cũng chẳng hay, cái vẻ đẹp nào đó trong hắn vẫn nguyên hình, nguyên khối!
trên đời có bao nguyên lý chừng như không đổi! y thế rồi mà đổi, cái lẽ tầm thường như vậy mà hắn nghĩ cũng không ra, mà có phải trẻ trung gì đâu! Ngoài năm mươi rồi chứ đâu còn nhỏ nhắn gì nữa mà ra vành ra vẻ. Cứ nhìn hắn mà lại thêm nẫu ruột, ấy thế mà hắn vẫn sống, mà xưng xỉa với đời. Cõi sống có hạn! Mà hắn thì muốn sống lâu thêm nữa. Không hiểu lẽ sống gì mà dai dẳng bền lâu đến thế, sao không đứt phựt một cái cho xong. Cứ nhìn thấy hắn là tôi lại ngẫm - Ngẫm cho mình, ngẫm cho hắn. Cái bóng thì để làm gì? Có nhiều khi tôi tự hỏi: liệu cái bóng có hồn phách gì không, nó cứ lẳng lặng mà dán lên cõi đời, cõi sống! Chẳng thà tan biến mẹ nó đi cho xong, đỡ bận mắt loài người. Cả cõi đời đang xình xịch đi lên… nhưng lại vướng phải hắn, họ cứ tưởng là ma, là quái, ấy thế mà hắn vẫn cứ sống vất vưởng trên đời. Khổ nỗi nhà tôi gần nhà hắn quá! Cách nhau chỉ bằng bức vách. Khi hắn còn hơi, còn sức, nghe hắn nói chẳng ai chịu nổi! Lời nói gì lại như đóng đinh vào tai người khác! Mà hắn có hiểu gì đâu! Đinh đóng cũng phải rỉ, đời mỗi ngày mỗi khác, thằng khố rách áo ôm lại bàn đến chuyện váy đầm, váy hẫng thì bố ai nghe nổi! y thế mà hắn vẫn nói, người ta chẳng nghe hắn vẫn nói, mà nói lợi ích gì cho hắn cơ chứ? Ngẫm cũng lạ, ở đời có những thanh âm rền rĩ đều đều như nước chảy, nó cứ róc rách làm thành lời ru cho gà hàng xóm ngủ. Và chợt có một ngày lão không nói! Lòng tôi thấy nhớ… thấy như hụt hẫng! Chẳng lẽ lại gõ vách cho hắn phát ra lời nói! Song có lẽ thằng già bị câm – Hắn bị câm thật rồi! Đang nói như thế mà câm thì rõ khổ! Tôi thực sự thương hắn. Tâm trạng như vậy thì tù túng lắm! Nó cứ như cái loa phóng thanh bỗng gặp ngày xấu trời, giọng rè rè rồi câm hẳn, chẳng còn ho he được câu nào nữa. Cứ nghĩ đến lão mà thương lão, cõi đời thì cứ trôi, còn lão có lẽ là cái bóng - Một cái bóng câm lặng. Nhưng không phải! Lão chưa câm hẳn! Mắt hắn vẫn nói, mà nói gì mọi người chẳng ai biết được thì mới bực! Thà rằng lão chết quách đi cho xong. Hàng xóm trùm lên mồm hắn vòng hoa, xông vào họng hắn mấy thẻ hương cho tịt hẳn còn đỡ bực, chứ đằng này, hắn giải quyết mọi nỗi bất bình chỉ bằng ánh mắt thì cụ ai mà chịu nổi! Thế mới khổ… chẳng biết hắn có khổ không? Còn tôi, nhân danh hàng xóm tôi khổ quá. Không biết vợ con hắn sống ra làm sao bên thằng câm mà lại có cái nhìn như thế? Thế mà họ vẫn chịu, thằng con vẫn đi nhảy đầm, còn bà vợ thỉnh thoảng lèo nhèo như chảo mỡ sôi cho đời có chuyện. Có thể lão đã cố thủ mà nằm xuống! Nhưng không phải, từ nhà mình tôi vẫn nhìn thấy cái bóng lão đi đi, lại lại nhưng câm lặng. Cái bóng như nhìn tôi và chấm hết! Bực quá tôi muốn cầm gạch ném vào mồm hắn, nhưng làm thế sao được nên tôi đành thầm ước: “Hỡi thằng già đến cõi kia ơi! Mày hãy nói lên đi! nói gì cũng được, kể cả mày chửi bố tao cũng được, miễn rằng mày đừng là cái bóng đi đi, lại lại mà câm lặng”. Nhưng lão vẫn câm, vẫn nhìn như thách đố tất cả!
Trong mắt lão cả cõi đời này như đã chết, như con tàu chìm nghỉm trên đại dương mà lão là kẻ dõi nhìn! Không lẽ ngày mai tôi lại phải là kẻ lắm mồm thay hắn! Mà thay hắn đâu phải dễ! Phải có thời gian mà tu, mà luyện! Mẹ kiếp cõi đời mà câm lặng thì khổ thực! Yên tĩnh quá thì khổ lắm, ngẫm mà thương đời hắn như mọc rễ xuống bùn, chỉ mọc rễ mà không ngoi lên được! Có thể kêu mãi cũng chẳng có người cứu nên hắn câm, mà có lẽ câm thì đỡ lún. Cái nguyên lý này có vẻ chấp nhận được nên tôi đỡ bực. Tuổi tác lão có lẽ sắp lún ngập đầu, mà lúc ấy sẽ chẳng còn bóng lão để mà tôi bực.
 
Ngày 15-2-2002


 

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Mất mình - 08.04.2009 17:55:45
MẤT MÌNH

 
Ai cũng khuyên hắn nên nhìn ngắm cõi đời vừa phải thôi, mọi thứ chưa làm gì đến nỗi, vết thương đã chết người đâu mà đã u uất làm vậy! Có thể hắn đang nghĩ về thời gian - thời gian của hắn, một dòng thời gian đóng khuôn trong cái đồng hồ hình tròn có kim có vạch! Hắn như hòn gạch được đóng khuôn… chỉ có thế, sáu cạnh là sáu cạnh không làm sao khác được! Đời người chỉ có vậy không làm thế nào khác được nữa! Có cựa quậy mấy đời hắn cũng chỉ là hòn gạch đóng khuôn… hòn gạch biết nhìn, biết thở, mà còn thở dài được nữa - nhưng dứt khoát hắn chỉ là hòn gạch, vợ hắn cũng là hòn gạch, con hắn cũng vậy và tất cả chỉ là những hòn gạch. Mọi người đều giống nhau là phải sống, nên từng hòn một chồng chất lên nhau thành hàng để mà xây cất nên cõi đời thực tại. Từng hàng một liên kết với nhau bằng sự ham muốn khổ đau! Cái thứ vữa bủn xỉn mà cõi đời suy ngẫm ra được. Gắn thằng người nọ dính vào người thằng kia xem ngộ nghĩnh làm sao. Người ta hoà quyện gạch với gạch để mà xây cất nên từng thế hệ. Thế hệ sau đè lên thế hệ trước, từng từng lớp lớp mà hoàn thiện và hoàn thiện ra sao thì khó ai mà biết. Chúng ta tự hào, chúng ta suy ngẫm, rồi ta buồn thảm. Các vị cứ thử nghĩ mà xem, mỗi hòn gạch là một cuộc đời có suy nghĩ thì bức tường kia sẽ ra sao? Cuộc đời đè lên cuộc đời, suy nghĩ đè lên suy nghĩ thì rõ khổ. Vợ tôi thường nói: “Anh phải sống sao cho khuôn khổ” - nhưng tôi xin lỗi, đừng mang hòn gạch đời tôi mà xây vào bức tường ấy mà tốt nhất hãy để tôi là đất, đừng mang đi đóng gạch - tôi sợ mọi loại khuôn vì loại khuôn nào cũng vậy sẽ chỉ đúc ra được một sản phẩm giống nhau đều tăm tắp như ta đẻ ra một đứa con nó phải giống cha từng nét vẻ hình hài, suy tư giống hệt, nó phải là một thằng con tái bản… Để đến một hôm chính ta phải kinh tởm về sự giống nhau đến thế! Mà nếu nó không giống thì cũng thật khổ! Ta sẽ nghi hoặc, lo sợ vì sao nó không giống. Tất cả mọi chuyện tồi tệ này đều sinh ra bởi cái khuôn tù đày khốn khổ… Người ta luôn luôn quên rằng kẻ đứng bên cạnh mình là một người khác, nên học hỏi nhau mà sống thì hay biết bao nhiêu. Họ luồn lạch trong thời gian mà nặn nhào người khác ép vào khuôn cho rõ khổ. Cứ đời nọ lê theo đời kia mà ấn vào khuôn khổ, tất cả đều giống nhau đều tăm tắp như cát bụi, những cái tôi nhỏ nhoi tụ họp lại làm thành cái chúng ta khốn khổ. Chính bản thân hắn không định hình nổi cái tôi cho bản thân! Một sự ích kỉ đến bần tiện. Hắn muốn tập thể là cái tôi của riêng hắn, được ngụy trang bằng hai từ “chúng ta”, thật hoa mỹ và rộng lớn, nó dường như là tất cả cái khoảng mênh mông của cõi đời và những cái tôi yếu đuối, bồng bềnh, trôi trên mặt biển chúng ta cuồng sóng. Quả là vĩ đại khi bản giao hưởng chúng ta cất lên với biết bao là tiết tấu thét gào cuồng nộ cả một đại dương âm ba sôi động đến hãi hùng… Chừng như ta bị cuốn trôi đâu mất để rồi như con tàu đắm! Hắn chợt ngẫm - mình là gì nhỉ? Một gã bủn xỉn bần hàn, thích hoà đồng trong hai từ chúng ta cho đượm vẻ! Mà nếu có ai xẻ hắn ra khỏi tập thể chúng ta, thì hắn chẳng bằng con giun, con dế… Hắn thuộc về tập thể từ trong trứng, hắn lớn lên trong chúng ta và hắn thuộc về tập thể, có một khối óc nào đó mang danh chúng ta đã định hình tất cả… Hắn phải làm giống như bố hắn, vợ hắn và nòi giống của hắn - hắn phải vui khi trong lòng hắn chẳng vui - thời gian dường như là của ai! cứ hiện hữu trong hắn và cò kè trong hắn. Khi tất cả đều phải giống nhau tại sao hắn lại buồn phiền than vãn? Hắn cứ phải sống mà đi hết thời gian, mà hi vọng… Thời gian như đánh luống trong đời hắn, mỗi một năm hắn phải làm một điều gì đó như như ai trên thửa ruộng đời mình… Hắn thấy mình nhỏ bé và ti tiện dần lên! Ngày hôm sau ti tiện hơn ngày hôm trước. Hắn buồn phiền khi trông thấy ruộng của gã nhà hàng xóm tốt hơn thửa ruộng nhà mình! Ở đây - trong hắn một cái tôi ti tiện làm sao! Nhưng đó là cái tôi của hắn - hắn muốn giằng mình ra khỏi cái chúng ta hòa quyện vì hắn chợt thấy mình chưa bao giờ là mình! Những khát vọng trong nghèo đói như con sóng làm cho người ta bé lại, cái tôi đời hắn mờ đi, đầy thèm thuồng ước muốn, nhưng hắn chẳng làm sao xoay sở nổi. Người ta mang hắn ném tới cộng đồng… khi hắn chưa là hắn. Một thằng già đầu bạc của ngày hôm nay, ngồi đây trong thất vọng! Hắn là kẻ bị người ta đóng khuôn trong thời gian của mình, hắn như cái mặt nạ hiện sinh trong nỗi bất lực cuộc đời, hắn sẽ đi đâu, về đâu trong thời gian của hắn? Loài người không chấp nhận cái chết, dù rằng nó sẽ đến - Ở cuối thời gian của hắn là nó, bóng dáng của sự suy sụp cứ hiện lên khi ta đã đi qua bán cuộc đời - song ở hắn không có canh bạc, chẳng có được thua, hắn như toa tàu về ga mệt mỏi, não nề. Dưới chân hắn lặng lẽ hai đường ray có vậy! Hãy nghỉ đi và ngày mai vẫn thế, nhưng có lẽ không phải… Hắn sẽ ti tiện hơn mà chạy trong đời… Toa tàu của hắn sẽ chở lũ buôn lậu cho bõ tức - thế đấy - đó là tư hữu, đó là cái tôi… Hắn phải thấy mình cái đã - hình ảnh của hắn dưới vũng nước hay trong tấm gương có dáng hình của hắn - một sự khoái cảm, xem hắn ra sao khi còn sống! Sự vật vã thấy mình, khẳng định mình thì mới lạ! Giữa một vườn hồng đỏ choét đầy hoa mà hắn phải tìm mình trong màu sắc ấy, có lẽ hắn là ngọn cỏ! Hắn hài lòng vì hắn là cỏ, tối thiểu phải là thế, vì hắn hiện sinh là hắn - dẫu rằng đã già… nhưng hắn phải là hắn - một thằng già tóc bạc đầy mưu mô sảo trá trong chúng ta… Chúng ta bao dung hắn, nhưng chính hắn không sao chịu nổi chính mình – như linh hồn không có chỗ trong thể xác. Tất cả mọi thứ trong hắn cứ yểu đi trong thời gian mà chiếc đồng hồ đã đóng khuôn cho hắn. Hỡi thằng già, chúng ta chỉ cho mi đến thế! Hãy chạy đi, trên hai đường ray mà kiếm miếng. Nhân loại hay tập thể không cho hắn tình yêu! Tình yêu là sự nhân lên từ chính hắn, có một thứ le lói cứ nhân lên hiện hình ra hắn thì mới khoái, hắn phải là mình - muốn là mình thì phải làm lại cho ngay ngắn mới sợ… làm lại thì quả là lâu và dài, khi đời hắn tiếng chuông đã điểm những hồi thu không trong chiều. Tiếng chuông như thức tỉnh, như dẫn dụ hắn trở về một miền đâu đó xa vời cõi thực, hắn nhìn vào trong hắn, một linh hồn ọp ẹp khổ đau. Hắn chợt ngẫm… - Đức Phật là hiện sinh của cái tôi vĩnh cửu, ngài tự khẳng định được mình trong cõi sống khổ đau, không gọi ai đến, chẳng đuổi ai đi, ngài muốn mọi chúng sinh hãy tự khẳng định cái tôi của mình trong thời gian hữu sinh của họ. Khi tất cả đã giác ngộ thì cõi đời này thật hạnh phúc. Hắn thấm thía về cái tôi “Phật học”. Một cái tôi con người không mờ đi trong chúng ta tập thể. Hắn phải là hắn, độc lập mà sáng tạo và suy ngẫm. Hắn là cỏ cũng được, bén rễ vào lòng đất mà tìm lấy cho mình sự sống dù chỉ là một điểm nhỏ dưới chân, nhưng hắn khoái cảm vì mình đứng dậy. Trước mắt là bao ngả đường mà hắn phải tự quyết định đi vào, hắn là kẻ phải quay lại cái ban đầu tập đi như đứa trẻ lần mò vào cuộc sống - không thể khác được - đó là cách duy nhất mà mỗi người phải làm… Phải bắt đầu từ cái tôi chính mình - một cái tôi hoàn thiện mà hoà vào cõi sống. Từng cái tôi hoàn thiện hoà đồng sẽ làm ra cái “chúng ta” hoàn thiện. Những kẻ dựa dẫm thì không thể làm ra cái tôi ra hồn. Hắn như hòn gạch mê sảng mà nhìn vào tập thể. Cái tập thể mà có lúc mọi người xô nhau đập chết cái tôi tư hữu mà xây dựng nên, một sự dựa dẫm chung đụng đến hão huyền… Để đến hôm nay họ lại thét gào mà xoá đi tập thể. Cuộc hành trình tìm lại chính mình trong đống vụn vỡ khổ đau, trong tiếng hú mê sảng của một thời đã nguội! Đời hắn, vợ con hắn, cái tập thể gia đình hắn sẽ phải bắt đầu từ đâu?
Cõi sống phải chăng là một lối mòn mà loài người cứ đến mà đi vào? Con người thuộc về ai? Cá thể sống là một sự khẳng định không thể nào khác được… Nòi giống và tự nhiên sẽ dạy hắn cách làm người, hắn vĩnh viễn sẽ là hắn. Có một thứ tình yêu và thù hận sẽ nảy mầm trong tim hắn, đó là sư giằng xé vĩnh cửu cho từng đời người không nghỉ, để đến một chiều hắn cảm thấy hài lòng ngơi nghỉ mà trở về với đất. Hắn là nhân tố cá thể đi trong loài người, bài ca của hắn có một thời cất lên vui buồn trang trải, nó như nắng như mưa, ưu phiền và xa ngã nhưng hắn vĩnh viễn là hắn, là thằng người của hôm nay và ngày mai thức dậy. Hắn sống trong thời gian của hắn, hắn đi trên con đường của hắn không lạc loài và ân hận bởi hắn là hắn. Tất cả dường như chỉ có thế, một thằng người đứng trên đôi chân của mình và suy nghĩ vì mình, đó là cá thể, là hạt cát trong vô vàn hạt cát nhưng hắn là chính hắn, còn mọi thứ tình yêu, hoà đồng, khổ đau va xảo trá chỉ là những phản ứng mà khi ta muốn. Cõi sống là những nhân tố phân dã hợp thành… có hoà đồng hay không? Xin hãy hỏi từng người khi mà họ muốn. Mọi đạo nghĩa trên đời sẽ mỉm cười cùng họ khi lẽ sống bắt đầu từ chính mình.
 
 2003

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Đồ rởm - 08.04.2009 17:59:42
ĐỒ RỞM

 
Nhân đến chơi nhà người bạn. Vợ chồng họ vừa tậu được chiếc xe máy “đờ rim” của tàu. Chiếc xe thật lộng lẫy, chợt ngẫm! son phấn ở đời, nhiều khi cũng đắc đạo, mà có lẽ đời phải thế! Đồ thật đắt khủng khiếp họ chẳng dám mơ, những gần ba mươi triệu, đắt gấp năm lầm xe tàu. Song cũng là nỗi khổ cho ông chủ và khách tiêu dùng đồ thật. Chiếc xe mọi phụ tùng đều bị cắt giảm chất lượng xuống nhiều lần, họ chỉ bảo đảm sao cho hình hài giống y thật, cứ đà này các cụ trên nóc tủ sẽ nhận được từ con cháu gửi quà hàng mã chất lượng cao. Mà ngẫm cho cùng người tàu họ giỏi thật sự, thực giả y sì cứ đều tăm tắp như mẹt cháo quẩy, ta mà học mót thì cũng còn mệt! Rởm mà như thật thì mới vui chứ! Nó cứ như hai nửa âm dương quện lại, mà niềm vui thật vui cho cái nghèo của bạn. Mà đời cũng nên thế, có đồ thật đồ rởm mà trang trải buồn vui cho mọi chỗ, kẻ nghèo cũng phải mút mát chút đỉnh mới phải lẽ, ta nên cảm ơn đồ rởm dành cho cõi đời. Mà có lẽ các ông chủ thật rởm cũng hiểu ra điều đó nên chỉ cãi vã qua loa cho phải phép còn phó mắc cho đời nhấm nháp, họ nghèo mà vui thì mới tuyệt chứ, khi thật rởm cứ giống nhau như đúc, như hai chị em sinh đôi, cứ như tôi nhìn thì cũng xin chịu!
Mà người nghèo thì suy ngẫm hay ngắn. Cái giấc mơ triệu phú trong vài năm có nghoẻo thì cũng là đã rồi! Còn trước mắt thì cứ là hoan hỉ cái đã. Cầu trời cái gì cũng rởm như vậy thì đỡ tủi biết bao, đồ rởm cần nhiều hơn đồ thật, có lẽ đồ thật nên nằm trên biển quảng cáo.
 
2001

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Cái đít nồi - 08.04.2009 22:36:00

CÁI ĐÍT NỒI
 
Đến một hôm hắn chợt thấy mọi thứ quanh mình dường như đang cũ đi, đen đủi, dúm dó như cái đít nồi nhôm Liên Xô. Thời gian nung nấu như phết lên nó một thứ bồ hóng khổ đau đen đúa mà chẳng làm sao gột rửa nổi, thân hình dúm dó tiều tuỵ làm sao. Tất cả mọi thứ ở đời dều nằm trong thời gian hữu hình của nó, mọi vật thể hữu hình đều có tuổi, tháng, năm mà tồn tại. Cái đít nồi là cái đít nồi, nó có tuổi để mà kho mà nấu. Niềm mơ ước có cái nồi, cái xoong Liên Xô để mà hầm mà ninh cho đã đời – cứ ngẫm mà thú vị, một thứ nhôm dầy dầy bền chắc như chẳng bao giờ hỏng và hắn cảm thấy thú vị về cái nồi nhôm. Người dân Nam ta chẳng mấy ai tin vào đồ nội địa - Vừa mỏng, vừa điêu – cứ phải là đít nồi Liên Xô, vừa giày vò và giữ mình bền chắc.
Hắn lặng lẽ nhìn cái đít nồi – lạy giời đời hắn cũng chỉ đến thế - Đời hắn như cái đít nồi hầm Liên Xô, đen đủi và méo mó – cái niên hạn cho cái đít nồi giống như đời hắn - hắn tồn tại như cái đít nồi và hắn giống nó – cái đít nồi nhôm Liên Xô. Thời gian đang nung nấu mọi thứ từ đời người cho đến cái đít nồi, tất cả đều chỉ là chất hữu cơ - đó là vật chất. Muôn năm vạn vật như nhau - mọi thứ hữu hình như đời ta hay cái đít nồi cũng vậy - Cái bóng là sự phản chiếu của cõi đời hai thứ chỉ là một. Cái đít nồi méo mó và đời hắn là hai tì vết mà cõi sống không chịu nổi – cũ quá! Khổ đau quá, phải có một thứ gì mơi mới mà dụ dỗ cho loài người muốn sống. Và lạy giời - thiên hạ sinh ra thêm cái nồi Inox, đun mãi chẳng đen mà cứ lỳ lợm trắng tinh như còn mới. Niềm sung sướng như tiếp sức cho cõi đời chẳng già - thật thú vị khi ta chẳng già mà bóng loáng như cái đít nồi Inox. Lạy giời ai lại phát minh ra những thứ lạ lẫm như vậy? Hắn chợt thấy mình đen đủi làm sao! Cứ như cái đít nồi nhôm Liên Xô đen đủi và méo mó. Mọi chất hữu cơ dường như luôn đổi – hắn là gì bên cạnh cái đít nồi méo mó. Mọi thứ đều trôi đi trong thời gian và công thức là sự chắc bền tồn tại – mọi thứ cứ phải được nhìn thấy sờ nắn được như củ khoai, củ sắn, bởi nó là hữu hình, có hạn. Hắn cảm thấy nghi hoặc mà ngẫm nghĩ về cái đít nồi Inox - nó là thứ nguyên liệu gì mà lì lợm và bền chắc đến thế? Có lẽ thời này họ phải chuẩn bị những cái nồi chắc bền như vậy để mà chịu đựng cái tuổi thọ của loài người hiện đại. Thật là thú vị khi đời người cứ bóng lên như cái đít nồi trường thọ thì quý hoá làm sao - Dứt khoát phải là như thế – cứ thử ngẫm – các cụ ta xưa dùng nồi đất mà nung nấu nên tuổi thọ chẳng được là bao, rồi là chết non, chết yểu. Cho dến thời nồi đồng, nồi nhôm, có nhỉnh hơn một tý và con người cũng phải bẹp – có lẽ đến thời ta thì khác hẳn, có thể khoa học sẽ kéo dài ra cho mọi thứ - dài đến đâu thì hắn chẳng rõ nhưng dứt khoát phải là thế. Cứ ngẫm ngày xưa người ta đi bộ, sau nữa người ta đi xe đạp đến hôm nay cưỡi hẳn xe máy và ô tô, chẳng phải mất sức gì mấy mà được việc nhanh nhẹn làm sao, có thể cao hơn nữa chúng ta sẽ tự bay như chim trong đời là cái chắc - hắn cảm thấy thương mình vì đến lúc thú vị ấy đời hắn có lẽ sẽ tan ra thành cám, và chắc hẳn câu chuyện sẽ xảy ra như thế.
Thật thú vị, lớp trẻ ngày nay văn minh hiện đại làm sao, để chuẩn bị cho bữa ăn cứ như là nghi lễ thì mới lạ, xoong chảo sáng ngời loá cả mắt, họ đặt vào đó những con tôm tảng thịt to bằng cả bàn tay thì mới lạ - có lẽ loài tôm cũng thích nghi với cái thời hiện đại mà lớn nhanh đến thế và họ bật lửa tự động chỉ đánh cách một cái là ngọn lửa xanh biếc chẳng có khói tẹo nào hiện lên - ngọn lửa chắc phải có sức nóng kinh khủng gấp mấy lần cái bếp rạ ngày xưa là cái chắc. Chỉ một loáng con tôm, miếng thịt cứ là vã mồ hôi mà bốc mùi thơm tho sản vật. Mà đi theo con tôm hay miếng thịt đâu phải là dễ, nào gia vị, bột ngọt, hạt tiêu, rau thơm, hành hoẹ… cứ xếp hàng nhao đầu vào lửa mà góp phần cho con tôm, tảng thịt cao quý, mọi thứ cứ quện lại mà toả lên mùi thơm thú vị. Người ngày nay họ ăn cả bằng mắt, bằng mũi và bằng tai, cứ thứ tự mà hưởng thụ thì mới khoái. Mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, mồm nhai ngáu nghiến những sản vật mà nền văn minh tân kỳ đã nghĩ ra và làm nên được. Nền văn minh thật lợi hại làm sao, nhiều khi nghĩ đến hắn lại phát thèm rỏ dãi. Đời hắn như cái đít nồi nhôm Liên Xô cứ nghĩ mà thêm khổ, con tôm, con tép, đũa muối thìa tương, chấm chấm, mút mút, ăn nhịn để dành cho cái ngày hôm sau bao lo ngại. Cứ ngẫm mà buồn cười chua xót làm sao, hắn sợ chính cái ngày hôm sau đời mình - có lẽ cũng phải thôi – những đứa con bé nhỏ há hốc mồm chờ miếng – ở đây cái nồi sẽ đứng ở vị trí quan trọng làm sao bên cạnh đời hắn - Nó như người bạn song hành trong suốt khoảng đời hắn phải chịu đựng. Đầu tiên nó cũng mới và sung sức như hắn để rồi nó cũng già đi như hắn ngày hôm nay. Tất cả mọi thứ thời ấy đều bị thời gian bào mòn xói lở. Ở đời bao giờ cái cũ cũng đứng cạnh cái mới, họ hằn học nhìn nhau mà suy ngẫm - nó bóng bảy và cứng khỏe lắm, dễ đến cả nghìn năm cũng chẳng mòn.
- Nó già cỗi quá, bẩn thỉu quá thế mà cũng sống nổi. Có thể đó là những suy ngẫm của hai cõi sống gối nhau trên cùng một dòng thời gian đang chảy, nó như một cái cây rụng lá bên những mầm non vươn lên trào lộng trong trời, nó như cái đít nồi nhôm Liên Xô đen đủi, dúm dó đặt bên một cái nồi Inox của Anh của Mỹ. Giờ đây họ chẳng buồn đánh nhau nữa, bực tức là họ gõ đít nồi hay lấy tay vỗ vào đít vì ở mông đít có cái ví đựng tiền. Quả là nhẹ nhàng và hiệu nghiệm, tiếng đít nồi có thể còn oai hơn cả tiếng trống đồng của các cụ ta xưa. Nhưng cũng còn được cái may cho các cụ, thỉnh thoảng thời nay họ đào bới ở đâu đó được vài thứ mảnh chum, cái trống đồng của tổ tiên thì quý hoá lắm. họ bảo trọng như kỷ vật thời tiền sử, giá trị đắt hơn cả vàng, họ đặt ở những nơi trân trọng nhất trong nhà, coi đó là niềm tự hào dân tộc. Cái trống mốc xanh mốc đỏ, ngượng ngập trước anh đít nồi bóng loáng trâng tráo cứ ngẫm mà buồn cười làm sao.
Cũng có thể đến một niên đại xa xôi nào đó, loài người lại móc hắn lên từ dưới đất, bộ xương hắn oai vệ phải biết, đầu đội mũ cối Trung Quốc, tay cầm cái nồi Liên Xô, chân đi dép cao su đúc. Có lẽ lúc ấy đời hắn mới hả sau bao năm vật lộn với đời, con cháu phải đặt hắn ngồi trên nóc nhà cho bõ tức. Thật rõ khổ khi mọi thứ trong hắn cứ cũ đi mà hắn không làm sao thay đổi được cho mình nữa, quanh hắn mọi thứ cứ khập khiễng và choáng ngợp, như vùi lấp lên hắn một thứ bụi vàng trĩu nặng của ngày hôm nay, hắn cố nhoai lên xong sức lực tiêu tan đâu mất cả. Có lẽ cái cũ đang qua đi cho một ngày mới đang tới, ánh mặt trời óng ánh như cái đít nồi Inox toả sáng hoà tan trong tiếng cười của những kiếp người thức dậy.
 
Tháng 11 năm 2004
 

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Chân dung tự bạch - 04.07.2009 11:50:09
Chân dung tự bạch
 
Hắn như vật thể lạ hiện hữu trên cõi đời… Thân hình tiều tuỵ và méo mó. Hắn làm ta liên tưởng tới một loài vật nào đó ốm yếu đang cố bấu víu vào cõi sống. Thật kì lạ - ở đời xưa nay vẫn thế, mọi người chẳng muốn rời xa sự sống, dù rằng nó cứ leo lét như phao dầu cạn, hay ánh lửa nến sắp tàn. Có thể hiện sinh đời hắn là vậy! cứ lặng lẽ trầm tư đi trên hè phố.
Cái dáng dấp gầy nhẳng rã rời, khuôn mặt mờ tối dưới mái tóc bù xù không chải, dường như ở dưới mái tóc kia, trong cái nhá nhem gương mặt, hiện lên cái tia sáng nhỏ nhoi còn đang thức… đó là đôi mắt hắn – có lẽ phải thế thì hắn mới còn đi được đó đây mà lạc lõng trong cả bể người huyên náo ở đời. Cơ thể vàng ệch, bủng beo như quả cam ủng, móp mép đang thối rữa và có lẽ đời hắn như trái cam kia đã có thời hi vọng… nhưng để rồi bị vứt bỏ. Người ta không ăn quả cam đời hắn, thời gian gạt hắn vào sọt rác như trái cam ủng. Nhưng đời hắn khác quả cam… mà dứt khoát là thế vì hắn là thân phận thằng người có khả năng bấu víu vào cõi sống mà tồn tại. Hắn chẳng khác chi mấy kẻ ăn mày, tay cầm bát, lặng lẽ đứng trước cổng chùa mà chờ đợi lòng hỉ xả của khách thập phương ghé thăm vãn cảnh Phật, chẳng phải làm lụng gì mà nhiều khi được “khối” - vì trò bố thí ở ta bây giờ đang là mốt… nó như một chiến công nho nhỏ để làm thành câu chuyện cuối ngày, vừa vui vẻ và có lẽ còn làm nhẹ cả cái phần thể xác tham lam của họ. Đã nhiều lần hắn dự định đi ăn mày! Song hắn hiểu – sẽ chẳng ai cho hắn một xu – dù rằng nỗi khốn khó, khổ đau như nhau – nhưng hắn thì không được, sẽ chẳng ai bố thí cho hắn. Không lẽ vì cơ thể hắn bốc mùi như quả cam thối chẳng hạn, có thể là như thế, sự suy ngẫm thối nát, sự hiểu biết thối nát và cả tình yêu thương trong hắn cũng thối nát. Mọi thứ tồn tại trong hắn – cả linh hồn và thể xác đang bốc mùi thối nát trong cõi sống hữu hình. Hắn hiểu được đời hắn đã thấm mệt, đã chấm dứt, chẳng còn tranh đua gì với đời, thời gian băm vằm lên thể xác hắn bao dấu tích già nua. Hắn lạc lõng trong nhà và ngoài đường – nhưng dù sao ngoài đường hắn còn dễ lẩn trốn hơn ở nhà, có thể vì cõi đời rộng lớn nên ít ai nhìn ngắm ai cho tường tận. Ở đấy họ tưởng hắn là kẻ bệnh hoạn hay ăn mày hoặc thằng điên dại nên xa lánh cũng được, và cũng có thể hắn như một tì vết trở ngại trong đời và cũng có thể vẻ đẹp đứng cạnh một cục phân như hắn lại tương phản mà tôn thêm cho vẻ đẹp cũng nên.
 “Cũng chẳng sao!” hắn luôn tự an ủi mình như vậy, ta cứ đi đâu đó cho một ngày chóng qua và cứ thế cái thể xác dã rời cứ lay lắt lênh đênh trôi đi như một ảo ảnh trong đời. Chân hắn bước, đầu hắn nghĩ – bởi đời hắn là thằng người bị cõi đời xa thải. Hắn như quả cam bán cả ngày chẳng được, họ bỏ vào kho, ngày hôm sau lại bán mà kém tươi thì đời vứt bỏ. Ở ta có rất nhiều kho như vậy – nếu bề ngoài kém tươi thì họ vứt vào đấy để quên lãng hay để cho chuột tha đi cũng chẳng ai cần quan tâm…
Người ta muốn xây dựng một mô hình con người mới hoàn hảo, trong sạch và khoẻ khoắn hơn, với dáng vóc phải như ông Phù Đổng chẳng hạn - đại để phải là một sự đột biến về con người, chung đúc đủ mọi điều mới lạ để có thể giải quyết mọi nỗi bất bình trong xã hội mà ông cha chúng ta không làm nổi. Theo họ nghĩ, đó mới là một mẫu người vẻ vang khủng khiếp – mà muốn xây dựng được típ người như vậy – công việc đầu tiên họ tính đến là phải đoạn tuyệt với những người như hắn hay cũng là đoạn tuyệt với quá khứ - vì quá khứ luôn luôn chứa trong mình một sự bất cân bằng về nhiều mặt. Nó giống như ta đang yêu một cô gái và chợt lại thích cô khác thì chỉ còn cách đoạn tuyệt cắt bỏ cô gái cũ đến mà ủ ấp cô gái sau.
Phải làm như vậy mới là “cải cách” hắn cứ suy nghĩ sự việc nôm na như vậy “thế là họ vứt bỏ - đoạn tuyệt với quá khứ – chỉ để lại vài ông như ông Phù Đổng chẳng hạn - đột biến trong lòng dân tộc, tất cả tinh hoa của mọi thời họ tạm thời vứt bỏ”. Hậu quả là những lớp người cũ có suy nghĩ cứ vào kho mà ngồi cho đỡ nhức đầu xã hội. Đến ngành y họ cũng chẳng cần vì thuốc tây kê đơn quá tốn kém – nên ngành tây y cũng vậy, được san phẳng như nhau - cả xã hội dùng thuốc lá lẩu cổ truyền dân tộc và khốn nạn thay đời hắn một đứa trẻ mười sáu tuổi cũng chịu chung số phận. Hắn cũng lủi thủi như mọi người ngồi xó mà hun đúc một điều gì đó cho cái ngày mai bất tận. Họ phải lao động rèn luyện như người nông dân và được ăn cơm kẻng – họ bị xã hội nguyền rủa vì không biết lao động chân tay. Một năm chưa tốt thì hai năm và cứ thế nhân lên có thể đến hai mươi nhăm năm, cho đến khi nào kỳ tốt như ý họ muốn. Hắn phải giống như một người nông dân thuần tuý “con trâu đi trước cái cày theo sau”, đó là mô hình truyền thống mà người nông dân vẫn làm và họ muốn cải tạo mọi người phải được như thế và lạy trời hắn đã thành con trâu – con trâu tự kéo chẳng cần người theo quất roi thúc. Cỗ xe bò như lôi hắn vào cuộc – cỗ xe bò hai bánh, hắn lôi nó trên những nẻo đường Hà Nội nơi gia đình hắn đang ở - hai anh em, một kẻ ở tù về cầm càng và người lính thương binh gò lưng đẩy – nào gạch nào ngói, vật nặng, vật nhẹ, anh em hắn đều làm miễn là ra cơm ra gạo đổ vào nồi. Đối với hắn lao động là sự sống - đời hắn chỉ có thế - đừng suy nghĩ gì nữa – hãy làm việc đi – hãy giống mọi người phải lao động, hắn cố gắng uốn nắn cho mình làm sao giống như mọi người… có nhiều khi hắn hài lòng vì bản thân giống hệt như ông hàng xóm và hắn luôn thú vị vì mình đã cố gắng làm được như thế. Hắn lấy vợ và có con như mọi người, cái gia đình nhỏ nhoi của hắn ấm cúng làm sao. Hắn thương vợ, thương con và vợ con cũng thương yêu hắn, một cái tổ ấm nghèo khổ đùm bọc lấy nhau mà tồn tại trong cõi sống. Mọi thứ cứ đè nặng lên gia đình hắn – nào ăn, nào mặc, nơi ăn, chốn ở, tất cả dường như được lèn vào một góc nhỏ tù túng, mùa hè thì nóng, mùa đông lạnh giá, giường nằm chẳng có, cả nhà còng queo trên hai phiên giát giường ọp ẹp.
Hắn lặng lẽ đi trên hè phố, buổi chiều mùa hạ như đốt lửa trên đường, cái nóng ngột ngạt cho hắn thứ cảm giác nghèn nghẹn trong phổi, nỗi mệt mỏi như tràn qua cơ thể hắn, luồng hơi nóng như bốc lên từ đôi chân, bùng cháy trong gan ruột và trào lên đỉnh đầu hắn. Mọi thứ trên đường như mờ đi ảo giác, những vệt pha đèn quét qua, quét lại trong đầu hắn như bao làn roi vút – hắn lại thấy thứ cảm giác bị hành hạ tù đầy – mà nào có ai định bỏ tù hắn nữa đâu – mà bỏ tù hắn làm gì cơ chứ? Khi tất cả mọi thứ trong đời hắn đã bị họ chặt đi tất cả - từ ý nghĩ đến tay chân, mắt nhìn và bao mùi vị ở đời hắn đều mất cả! Hắn đã già, chẳng còn là sự nguy hiểm cho xã hội, người ta đã nói thẳng vào mặt hắn – hỡi thằng tù già - xã hội cho mày được tồn tại là một cơ may, phải thấm nhuần như một người vô sản – và đúng thế – hắn đang là người vô sản như họ muốn.
Những ngọn đèn đường vụt sáng như bén lửa trong chiều, mặc bóng tối khơi lên từ những vòm cây đứng lặng, nó nhẹ êm như ngọn khói lam chiều rồi dần dần sẫm lại trong những hốc cửa sổ bên đường, như những cửa hang há mồm đón đợi. Đường bờ sông trải dài theo con đê quai mới được làm bằng bê tông cốt sắt, chạy vòng vèo như ôm lấy thành phố. Tạo cho ta thứ cảm giác tù túng như đang sống trong một pháo đài cổ thời xưa. Bờ đường bên kia, những căn nhà mới cũ nhấp nhổm chen lấn nhau, tạo nên một sự bấp bênh bệnh hoạn đến khó tả.
Ở ta có cái lệ xây nhà theo phong trào – nhà anh A xây thì anh B cũng lồng lộn vay mượn mà xây cho hả dạ và thời gian sau nếu có mốt mới thì lại đập đi làm lại, họ cóc cần theo công thức nào và họ cảm thấy thú vị về việc xây lên rồi lại đập – mà việc gì cũng thế – ví dụ cả con đường vừa rải nhựa mới toanh được vài hôm họ lại sẻ ngang sẻ dọc để đặt ống nước hay cáp điện. Theo tôi nghĩ dứt khoát đó là kiểu Việt Nam - ta cứ đào lên lấp xuống cho có sự mới lạ - cứ loanh quanh như vậy mà nên chuyện – như đứa trẻ nhỏ ngồi nặn đất sét chẳng hạn, cứ nặn đi nặn lại cho đến khi thành voi thành chuột ở đời, sẽ chẳng ai mà đi bắt tội đứa nhỏ cho thêm mệt.
Hắn chợt nhớ tới một câu triết lý phương đông “Cõi sống là sự lặp lại và sự ngu dốt cũng vậy” nó cũng lặp lại cho từng tháng năm… Ở thời ta cái gì cũng tuyệt đối, nào là trung thành tuyệt đối, nào là tin tưởng tuyệt đối, hay đổi mới tuyệt đối, hoặc vâng lời tuyệt đối song tất cả đều chỉ là huyễn hoặc trong hai từ tuyệt đối – cái tuyệt đối đã chìm nghỉm trong thuyết tương đối và sau đó còn thuyết bỏ mẹ nào nữa không thì chưa rõ – song hắn tin tưởng sẽ có một học thuyết quái quỉ nào nữa sẽ sinh ra để cho hai thuyết trên nương tựa mà lừa đảo cõi đời – hắn luôn tin tưởng là như thế – sẽ phải có một cái gì đó mà dụ dỗ những kẻ khờ dại trong đời. Chân lý thuộc về vật chất hữu hình, đó là sức mạnh vật chất, nó như ánh mặt trời trơ tráo mà đun nấu kiếp người trong nỗi đói khát khổ đau. Loài người cứ đi tìm một thứ gì đó cho mình và mãi mà không thấy. Cõi sống như câu chuyện Tàu bàn về hai từ “mâu thuẫn” bát sà mâu đâm đâu cũng thủng và cái thuẫn không cái gì đâm thủng.
Con đường dưới chân hắn như hút vào đêm - bờ đê như con rắn trườn về đâu chẳng rõ, càng xa trung tâm thành phố, ánh đèn thưa dần như trả lại cho đêm tối. Hắn lặng lẽ hoà mình trong nó với nỗi dã rời sảng khoái. Những đợt gió giải nồng hiếm hoi từ dưới sông phả lên, khoả đi những nung nấu trong hắn, một bóng đêm đen bóng là đêm – thứ cảm giác như từ giã cõi sống trong hắn bỗng trồi lên êm dịu làm sao! Chẳng lệ thuộc vào ai nữa, chỉ có hắn và bóng đêm, chẳng sợ ai dòm dõi, chỉ có hắn trong cái vùng đen sẫm tự do không còn ràng buộc. Những đợt gió sông Hồng căng dần lên thổi tới như xua đi mọi nỗi muộn phiền trên đời, hắn như thấy mùi bãi ngô và tiếng thì thào toả ngát cứ lộng lên bao nỗi niềm không tỏ. Trong cô đơn, con người như nghe được tiếng nói của vạn vật cựa mình, tiếng con nước trên sông cuồn cuộn trong đêm và mọi thứ muộn phiền trong hắn được thoát đi theo con nước, chỉ còn lại một khoảng trống mênh mông cõi lòng. Có lẽ đó là sự trống rỗng đầu tiên mà đời hắn thấy được, dù chỉ là khoảng khắc, cuộc đời hắn như hoà tan trong gió, như thấm vào đất trong nỗi dã rời, hắn như nhìn thấy và nghe thấy sự mênh mông trời đất, đời hắn như vo lại bé nhỏ trong đêm vũ trụ bao la… Vạn vật như cây ngô trên bãi, ngọn cỏ ven sông, con đò trên bến đều có một điểm tựa cho mình trong cõi đất trời, tất cả dường như bỏ lại hắn chênh vênh sống trong bóng tối điệp trùng vô tận. Đời hắn bồng bềnh không chỗ đứng, không bóng dáng, chẳng hình hài bé nhỏ như hạt cát lẩn vào đêm. Hắn cố cưỡng lại cảm giác hụt hẫng ấy, đó là bản năng tồn tại con người – hắn lặng lẽ ngoảnh đầu quay lại – xa xa, cái vùng ánh sáng nhờ nhờ như mê sảng trong đêm - là kẻ đứng trong bóng tối nhìn vào chỗ sáng – phải về thôi – hắn tự nhủ lòng như vậy. Loài người thật giống như con thiêu thân lao mình vào lửa – có lẽ hắn cũng vậy – cõi đời như bó đuốc dụ dỗ hắn về đấy – hắn lặng lẽ trở lại con đường cũ như kẻ thiếu nợ nộp mình. Dưới chân hắn những mảng màu nham nhở, loang lổ sáng tối chập chờn buồn thảm, hắn lặng lẽ quay về, bỏ lại phía sau một vùng đêm cựa mình trăn trở.
Phải về thôi – hắn cằn nhằn trong miệng – nỗi buồn như món nợ đè nặng trong hắn – có lẽ ai ai cũng thế – nó làm ta trăn trở không sao sống nổi - ta cứ phải sống mà giày vò vì nó - sự đeo đẳng trong ý nghĩ, dưới mỗi bước chân lạc lõng ở đời – phải về thôi – nhà hắn – cái món nợ mà ai ai chẳng thế – mọi thứ như hiện lên – vợ hắn, người phụ nữ đã can đảm lấy hắn là một thằng tù. Ngẫm cũng lạ - đêm tân hôn của đôi vợ chồng hắn kì quái làm sao – quần áo cưới đi mượn, giường ngủ cũng mượn của khách, chăn mượn, màn mượn, ruy đô mượn – mà lạy trời nếu trừ đi những thứ mượn ấy vợ chồng hắn sẽ nằm trơ trên nền đất. Rồi mọi khốn cùng cũng qua đi, đời người có thời giờ đâu mà ngồi ôn lại bao kỉ niệm tủi cực như vậy, sự khốn khó như dìm họ trong thực tại, không quá khứ, chẳng tương lai, mọi suy nghĩ vật lộn chỉ cập nhật từng ngày, mọi người chỉ còn đủ sức nghĩ đến mình là vừa gọn, gia đình hắn phải tựa lưng vào nhau mà sống cho qua ngày. Hắn có con – từ tấm bé thằng bé quặt quẽo làm sao, vợ hắn đi làm nhà nước, còn hắn lặng lẽ làm ngoài, vì sẽ chẳng cơ sở nhà nước nào lại thèm thuê mướn hắn. Cả gia đình, ai ai cúng thèm khát một cái gì đó – nhỏ bé thôi – một bữa ăn có thịt – một giấc ngủ không lo và một ngày được nghỉ.
Có lẽ, giấc mơ là bài ca sám hối cho mọi kiếp người – có lẽ là vậy trong cái thời cơ khổ ấy. Người ta có thể giành dật nhau với đứa trẻ miếng bã cam đã được vắt hết nước - trời ơi! con hắn – chính con hắn thèm thuồng miếng bã cam ấy – nỗi đau đớn như hằn vết trong trái tim hắn – miếng bã cam – một sản phẩm thiên nhiên mà cõi đời đã vắt cạn mà vẫn làm đau đớn những kiếp người – hắn vẫn như nhìn thấy thời khắc khổ đau ấy nó buồn bã làm sao… như con đường dưới chân hắn đang đi về đâu?
Bóng tối dường như vẫn thế – chỉ là một màn đêm trải khắp và chứa đựng, dãy đèn ven đường như khoét vào đêm một vết thương sâu thẳm. Cái bóng hắn đổ dài lênh đênh trên phố, như chiếc lá hay một loài bò sát đang cựa mình trăn trở. Hắn dừng lại nhìn cái bóng - ảo ảnh đời hắn dán trên hè – một bức chân dung vô hồn vô sắc – phải chăng đó là năm mươi năm hun đúc ở đời – một cái bóng sẽ hiện lên lặng câm trên hè phố.
Đâu đó nhà ai vọng lại tiếng nhạc Trịnh Công Sơn: “Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi”, lời ca giống như đời hắn được mở ngoặc và đóng ngoặc trong lời hát ru trầm bổng trên hè.
Hắn đã già - thời gian như trả hắn về cho loài bò sát, cõi đời dường như không còn là của hắn nữa, cuộc chen lấn, sô đẩy đã gạt hắn ra khỏi vòng chơi, hắn như cái bong bóng lặng câm nhìn người trong cuộc. Hắn đã hiểu và nhìn thấy nhiều thứ trong bao năm tháng trôi qua.
Phố đầu cầu, nhịp sống vào đêm dường như vấn còn nóng, xe thồ, xe đạp, người gánh, kẻ gồng chen lấn xô đẩy, cãi cọ om sòm. Trong cái khung cảnh nửa sáng nửa tối ở khu chợ đêm như cuốn hút mọi người nhao vào sự sống.
Những lời nói phỉnh phờ, co kéo, bao bộ mặt sống động điêu ngoa, toan tính, ỡm ờ – có lẽ ở đây đang cô đọng hiện lên một khuôn mặt khắc khổ già nua, một bức tranh hiện sinh toàn xã hội. Bác nông dân mang nông sản về chợ, cánh con buôn tới cất hàng cho buổi sáng bầy bán – hầu như tất cả các chợ nội thành đều tụ tập ở đây trong đêm để lần mò mua bán cho ngày hôm sau buổi chợ. Mọi thứ tệ nạn trong thành phố chung đúc tại đây mà kiếm chác, từ cờ bạc bịp, trộm cắp, trấn lột, cướp giật, mại dâm, cứ nhung nhúc bâu lấy những con người kẻ chợ, chỉ sểnh một tí thôi có thể mất hàng hay mất tiền như bỡn. Hắn lặng lẽ hoà vào trong dòng người không ngủ. Thời bao cấp, nhà nước thu mua tại từng xã và cung cấp lại một vài thứ ít ỏi cho mọi người, ai tự do buôn bán sản phẩm của mình là phạm pháp và bị cắt đi nhiều quyền lợi cung cấp. Nhưng về sau cả hai thứ cung và cấp đều chẳng có nên nhà nước thây mặc, mọi người phải tự cung tự cấp cho mình và xã hôị sau bốn mươi năm thay đổi lại quay về như ngày xưa – trong xã hội có người tài và kẻ bất tài, có lẽ đó là khởi nguồn của bao cảm hứng sướng vui và đau khổ, song dứt khoát là hơn thời bao cấp, mọi người được làm chủ bản thân trong mọi công việc đời mình. Có lẽ đó là động cơ cho cái chợ đêm đầu cầu còn thức và nó sẽ thức thâu đêm cho đến sáng – những bộ mặt tưng bừng mặc cả, cãi lộn, lườm nguýt, đề phòng, do dự như làm cho lòng hắn ấm lại trong đêm – gia đình hắn cũng thế, cãi vã nhau từng ngày từng giờ để mà tồn tại.
Hắn lặng lẽ đi ra khỏi chợ đêm như kẻ dật dờ say tỉnh, sự huyên náo chợ búa trôi đi trả lại cho hắn một con đường vắng lặng ven đê âm thầm heo hút, cả dãy phố chìm sâu trong giấc ngủ, có lẽ nhà hắn cũng vậy – sự thanh bình tự nhiên sẽ tháo bỏ cho loài người bao nỗi buồn cơ cực, họ được thoát ra khỏi mình chìm vào quên lãng, có thể một vài nơi, niềm an lạc tự nhiên bị bỏ quên như hắn và khu chợ – nhưng chẳng sao, nhân loại là loài vật hữu hình có sức bền cơ học dẻo dai nhất, vượt qua sức bật của muôn loài mà tồn tại - càng cơ cực thì ta càng muốn sống, họ vượt qua mọi lô-gíc ở đời mà tồn tại.
 Xã hội lại tạo ra địa chủ, cường hào, tư sản, lại đẳng cấp giàu nghèo như xưa thì đã sao? Có thể đó là sự lôi cuốn cho loài người thức dậy – song đời hắn không nằm trong khu chợ kia, người ta đã cướp đi của hắn mọi thứ, hắn khéo tay và cần cù lao động, họ đã đóng lên đời hắn cái số tù không thể nào xoá được. Ông cha hắn khi xưa là quan lại, địa chủ và tư sản là thành phần bị xã hội loại bỏ, nhưng hôm nay ông cha hắn đã được xã hội chấp nhận vì giai cấp vô sản ngày nay đã trở thành địa chủ và tư sản và còn vượt trội hơn nhiều lần. Còn lại những thằng tù thì chưa được – có thể vì nó còn sống nên xã hội thật khó lí giải – chẳng lẽ xã hội lại bỏ tù nhầm thì bỏ mẹ – nên thây mặc, nó sống mà như chết cũng chẳng sao – mà sự thực cũng chẳng được như thế. Ra khỏi tù hắn tưởng là hết tội. Hắn lăn lóc lao khổ làm người – thà rằng cơ thể hắn mọc sừng, mọc đuôi như con bò còn đỡ khổ, vì con bò còn được nghỉ – cuộc đời hắn ngơi tay thì phải nghĩ – phải nghĩ cho cái ngày mai phải làm – có lẽ đó là sự khôn khéo nhất mà xã hội đã làm được – hắn phải nghĩ và nghĩ để rồi phải làm, cái vòng tròn ấy như thít lấy đời hắn như cái thòng lọng treo cổ.
Hắn thật nghèo nhưng đôi bàn tay thì khéo léo nên nhiều khi công việc nhận làm quả là chẳng khó, nhưng nhiều khi công việc lại là điều tệ hại đối với hắn, người ta tạm ứng cho hắn một phần nhỏ để làm, vài ngày sau cái lý lịch của hắn bị phát giác và thế là hỏng bét – không đủ tiền để làm nên hắn cứ phải vá chỗ nọ vào chỗ kia lấy kinh phí mà làm việc, trẻ nhỏ cần ăn và cả vợ chồng hắn cũng thế nên phần lớn công việc thường bị nhỡ hẹn – cái lý lịch đời hắn – cái con dấu đỏ choét “Việt nam dân chủ cộng hoà” đóng vào bản lí lịch đời hắn như là dấu chấm hết cho mọi chuyện đời người – ai muốn làm hại hắn quả là dễ, chỉ cần một câu nói về quá khứ là hắn đủ khổ.
Đứng trước xã hội hắn phải vác trên vai cái lý lịch đời ông, đời cha và đời hắn. Ba sức nặng quan lại, tư sản, tù tội dường như đè bẹp gí hắn xuống cõi đời – hắn cố gượng đứng lên - đứng lên mà tự đầy ải đời mình trong cõi sống. Anh em trong gia đình ái ngại thương hắn – người cho cặp lồng thịt, kẻ cho cân đường, manh quần tấm áo – những giọt nước mắt nòi giống nhỏ xuống cho tâm hồn hắn hạn hán sa mạc, nó làm cho trái tim hắn đau hơn nỗi đau của kẻ làm người không vực nổi cho chính mình.
Nền kinh tế tự lập không đồng đều, có kẻ giàu người nghèo, ông chủ và người làm thuê, tạo ra bao nỗi bập bềnh cho xã hội – người nghèo suy nghĩ như bao năm qua mà họ được chế độ dạy bảo, trong khi đó người giàu thì như thoát ra khỏi một thời quá độ. Họ vừa như tấm gương vừa như một cái mốc cho mọi người thù địch. Vì đã từ lâu, ở ta cái nghèo luôn là người bạn đường cho xã hội, bao nhiêu nỗi khát thèm mới lạ như chảy đến đây cái vùng đất chúng quê hương hắn. Mọi thứ mới lạ cứ như công thức sống và con người vội làm quen học tập. Họ sung sướng đón nhận mọi điều như những món quà mới lạ - đó là những vật phẩm phù du suốt bao năm dân ta quên lãng – ngày hôm nay mọi người đua nhau thèm muốn – nó như chất kích thích cho cả xã hội ganh đua. Phụ nữ đua nhau áo quần, son phấn, đàn ông thích xe cộ, máy móc âm thanh nghe nhìn. Mọi vật dụng cứ như những cái đích cho con người nhao tới trong cuộc chạy đua cho toàn xã hội.
Gia đình hắn cũng không thoát khỏi cái vòng xoáy đời thường ấy, bao khao khát mà hai đứa con hắn thèm muốn bên sự cơ khổ mà đời hắn không sao thoát ra nổi. Sau khi ra tù người ta lại nhốt hắn vào một nhà tù mới khốc liệt hơn đó chính là quê hương và gia đình, hắn tự giam mình trong đó, vợ con là cánh cửa là những hàng song sắt, hắn như con chó bị xích ngồi canh cái hạnh phúc gia đình, họ đã chặt đi tất cả mọi thứ chi giác, thả đời hắn trong chiếc lồng gia đình bỏ mặc hắn lồng lộn vật vã trong sự khốn cùng uất hận! Đứa con lớn căng thẳng nói với hắn – Bố nuôi con cả đời trong khốn khổ – còn đứa em sau một lần đi chơi đêm về muộn – bố quở mắng – nó đã thẳng thắn nói lại – Sau giờ làm con phải được chơi – Có lẽ hắn đã già cùng cái thời mà hắn đã sống – cái nguyên lý sau ngày làm, con người phải nghỉ ngơi để phục sức cho ngày mai đã trở thành lỗi thời.
Niềm ao ước khi các con lớn, gia đình hắn sẽ đoàn kết làm ăn cùng thoát khổ đã tiêu tan mất cả… “con đường mà hắn dẫn dắt gia đình đã trở thành cổ hủ già nua…”.
 Khi xưa con người bị khuất phục bởi cái đói – hôm nay con người bị khuất phục trước mọi ham muốn đời thường – mọi thứ vẫn chỉ là như thế, nỗi quẩn quanh với bao điều không thể. Người ta không chuẩn bị cho con người chịu đựng đói khát và con người phải sống trong đói khát. Người ta chẳng chuẩn bị cho con người làm quen với nền văn minh và con người phải sống trong nền văn minh hiện đại. Đó là lối dẫn dắt mà người dân Nam ta xưa nay vẫn phải làm – những kiếp sống không có sức chứa nhưng phải đựng - đó là sự quá tải đè lên cõi sống – Họ nhòm ngó và đoạ đầy lẫn nhau bởi bao điều không tưởng – Quá khứ và tương lai chỉ còn là những mặc cảm hão huyền…
Hắn cứ lặng lẽ bồng bềnh trôi trên đường phố, dưới những chùm ánh đèn đêm, hắn như cái hồn ma ẩn hiện, chênh vênh không siêu thoát. Đợt gió đêm hè xới lên tiếng lào xào lá rụng. Hắn như kẻ bị cõi đời bỏ rơi trên con đường hoang vu tịch lặng, hắn như giọt dầu loang lênh đênh trên mặt nước cõi đời, vĩnh viễn không hoà vào nhau được. Người ta đã lấy đi mọi thứ thuộc về hắn, bao tình cảm thiết tha và đầm ấm mà đời người ấp ủ. Trên con đường tự dẫn giải, hắn cam phận nộp mình cho bao điều đổ vỡ đang chờ trong căn nhà mà hắn suốt đời tha thiết, những khuôn mặt người thân cứ hiện lên rồi lại nhoà đi trong xa mờ ảo ảnh… Nỗi đau đớn cứ nhói lên trong tim, như tiếng mõ cổ trâu gọi đàn, như tiếng kẻng cơm trong trại, như tiếng chuông chùa thức dậy… Hắn mệt mỏi ngồi xuống ven hồ, một ban mai đang dậy, những tia nắng còn ướt loé lên phía bờ xa Tây Hồ như một bàn tay lửa nâng dần lên cho thế gian một ngày mới – một ngày của đời hắn...
 
Bên bờ vực cõi đời sao vắng thế?
Chỉ có ta và dưới ấy vực sâu
Ngửng mặt lên, trời bát ngát trên đầu.
Ta ché mé giữa hai bờ thế giới.
 
2005
 
 
 
 

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Cơn ốm - 04.07.2009 13:17:21
Cơn ốm
Tặng bác sĩ Nguyễn Trung Linh
Tại sao lại ốm được cơ chứ? - Khi hắn đang còn là cỗ máy vận hành trên cõi đời - Dù rằng là cỗ máy đã cũ xong hắn luôn đinh ninh là hãy còn tốt chán, bởi vì hắn vẫn còn bao nỗi đam mê, nào thơ phú, nhạc hoạ, rượu chè, hút xách, nói chung sở thích cứ phải trồng lên tận nóc nhà có thể còn chưa hết. Sống trong cái thời hiện đại này có ai mà lại không thế? Cho hẳn đến những ông sư hay bà sơ cũng chẳng sao mà thoát khỏi bao sở thích. Thời đại ta như cái bụng đói vừa ăn xong là lại thấy thèm ăn liền, nó cứ như cái véc xi quả bóng, càng thổi càng to mà càng to thì thật là oách, lạy giời quả bóng thời đại đừng bị châm kim thì thật hoài. Biết bao là hơi sức mới to lớn được đến thế, trông rõ oai vệ và thèm ăn, càng ăn nó càng to lớn… Ước gì nó phải lớn như ông Phù Đổng ở ta thì mới thú… Giặc ngoại xâm cứ nhìn thấy đã đủ sợ… Đối thủ to thế kia thì thật rõ chờn… Mọi người từ già trẻ lớn bé ai ai cũng cảm thấy tự hào vì cái cơ thể khổng lồ thời đại chứa đựng họ, tôi cũng thế - mà tại sao lại không thế cho được - già rồi mà vẫn còn lớn thì sung sướng xiết bao. Tôi cam đoan cùng quý vị thời đại ta có thuốc cải lão hoàn đồng - sở nhà táng cứ đợi đấy chờ mốc mép - Mọi thứ cứ hừng hực vươn lên thì còn lâu loài người mới chết. Có lẽ nghĩa địa bỏ không nên tạo thành cái vườn hoa cho khỏi phí, tôi nghĩ dứt khoát phải là như thế – khi cả nước chẳng ai thèm chết. Có lẽ họ được sống thay cho bao người nằm trên nghĩa địa Trường Sơn cũng nên. Mà nếu là như thế thì bao kẻ chết rồi lại được sống lại trong người khác và họ lại là những kẻ chưa chết… Cứ nghĩ mà thêm thú vị, cả nước chẳng ai chết thì cái nghĩa địa Trường Sơn rồi đây chúng ta cũng nên xoá bỏ. Theo tôi nghĩ, dựng quách một pho tượng ông Thánh Gióng khổng lồ vai khoác ba lô tay cầm cà mèn thì thú vị phải biết. Có thể ai đó sẽ kêu lên phản kháng… pho tượng Thánh Gióng to như thế phải cầm khẩu lê 40 thì mới hợp. Và tôi xin trả lời ý kiến của họ thật quả là thông minh… nhưng còn thiếu cái sâu xa của khoa lịch sử nước nhà. Các cụ ta xưa quả là minh mẫn, các cụ nhớ đinh ninh hình ảnh ông Thánh Gióng ở ta tay vác bó mía mà phang quân thù, có thể vừa phang vừa chén cũng nên, vừa đỡ lãng phí mà còn no bụng, cứ thử nghĩ không ăn no thì còn đánh đấm được ai? Khi mọi cuộc chiến tranh trên thế giới đâu đâu cũng chỉ vì ăn mà dầy vò đánh lộn, nên tôi dứt khoát tượng Thánh Gióng ở ta tay phải cầm cái cà mèn thì mới hợp lẽ, ở thời này mọi lẽ phải thích hợp với cái kích cỡ khổng lồ như vậy, mọi thứ không phù hợp là chúng ta bỏ đi liền. Giả dụ như tượng nàng Tô Thị bồng con chờ chồng hoá thành đá thì mới khổ, mà chẳng biết ai lại nỡ tô vẽ vớ vẩn đến thế là cùng! Cứ như thời ta không có mày thì tao làm lấy, mà khi đói thì phải có cái ăn là cái chắc - kể cả ăn thịt nốt cả nàng Tô Thị cho bõ bực, và ở ta họ đã làm như thế. Tất cả mọi thứ đều phải thích ứng với cái véc xi thời đại, mọi thứ đều thiết thực như cái dạ dày. Thỉnh thoảng có nốt dò rỉ ở đâu đó cũng chẳng sao đã có miếng vá ngoại quốc hàn gắn tức thì - thật quả là một công nghệ có khác… mọi thứ đã được nghĩ tới trước, những rủi do sẽ được khắc phục tức thì, cả xã hội chỉ việc vươn lên.
Mà tại sao tôi lại ốm được cơ chứ? Khi quanh đây mọi thứ cứ sừng sững vươn lên, có thể ốm đau là chuyện nhỏ, cuộc đời tôi mới là cái lớn, cái đáng kể ở đời. Đang ốm mà vẫn thích thú… mà không sợ ốm, ở thời đại ta ai ai cũng muốn khoẻ như nhau và chúng ta hay gọi đó là tầm vóc. Chẳng ai còn dám đánh nhau với ta nữa, mà ta đánh ai cũng thắng. Các bạn thử nghĩ xem niềm tự hào ấy có đáng giá đồng tiền bát gạo không? Mà nếu ta có chết thì hồn ta lại nhập vào thể xác con cái và ta lại sống. Con cái là kiếp sau của cha mẹ, sự oai vệ lại được nhân lên gấp hai gấp ba – quả là thích thú khi đời ta vĩ đại, chẳng còn biết sợ điều gì, cứ lớn mạnh thêm lên từng giờ từng khắc. Lạy giời – quả bóng mỗi ngày mỗi lớn – lớn lên mãi liệu có bị quá sức mà nổ tung ra không? Các nhà bác học có tính đến chuyện này chưa? Nhưng cóc cần quả bóng to lớn xã hội nếu chẳng may có vỡ thì nó lại đầu thai vào thời đại khác – mà đầu thai và đâu? Điều này cũng làm tôi hơi lo…
Hà Nội, ngày 27-1-2004

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Cái hàm thiếc - 04.07.2009 13:19:13
Cái hàm thiếc
 
Người ta chẹn vào họng hắn một que củi, người ta thọc vào óc hắn một thỏi thép, trong khi mắt hắn vẫn tinh tường còn nhìn thấy, tai hắn minh mẫn còn nghe được, và mũi hắn còn thưởng thức được bao mùi vị ở đời. Thật đau đớn khi ai đó chặt quách đi một giác quan nào đó trong cơ thể… có lẽ, ta gần hơn với loài súc vật, mọi phản xạ dường như bỗng trở thành hỗn loạn, điên khùng, hắn chợt như thằng câm, hắn chợt giống thằng điên. Nhìn thấy đấy mà chẳng làm gì được… hắn muốn gào to lên đấy nhưng cứ ư ử như chó bị giọ mõm… Trong khi ấy, mọi giác quan cứ thả sức phè phỡn tung hoành, nó giống như một con người chẳng có chim và đừng có bướm, hắn cứ lừng lững sống ở đời mà vật vã với biết bao là đau khổ. Hắn phải là đàn ông hay đàn bà chứ! Hắn chẳng có âm dương mà ve vãn đùa cợt cùng nhau thì rõ khổ ơi là khổ! Hắn như cái xe máy còn tốt gầm gào muốn chạy mà bị thỏi thép chặn ngay vành, thật rõ khổ… tiên sư cái thỏi thép, thằng bỏ cha, bỏ mẹ nào quái ác mà lại chơi đểu làm vậy. Mọi thứ muốn sống mà đành lặng đứng im, thế mới thật bỏ cha, bỏ mẹ cho cái đời hắn, cứ heo hút lặng lẽ trong trời, chẳng thà như cái lá cứ rụng quách cho xong… và hắn chẳng được như thế thì mới khổ… cái lá đời hắn vẫn xanh, nhưng lặng ngắt như trong tranh, hay bị bàn tay nào cầm giữ thì mới tức. Quanh hắn mọi người cũng thế, cứ im phăng phắc mà hắn phải giống họ thì hỏi có buồn không – nếu cứ gào rống lên thì nhận lấy cái nhục chẳng bằng người… mang cái tiếng là thằng khốn, không chịu đựng giỏi như người khác, và lạy giời hắn im thin thít như người câm, mà đã câm thì luôn kèm theo điếc, mà có lẽ thêm cả mù nữa cho hoàn hảo. Ở thời ta, người ta nuôi chó công nghiệp, cả đàn mấy chục con, họ chọc cho thủng màng nhĩ, chẳng còn nghe ngóng gì được nữa nên chó quên cả tiếng sủa, cứ việc ăn cho béo và họ làm thịt. Họ chẳng cần chó săn bắt, nên con chó thời ta chẳng còn mấy tác dụng, mà ngẫm cũng phải, chó má quái gì mà lại đi xơi cả bả, lăn đùng ngã ngửa ra mà chết hỏi có buồn cho loài chó hay không? Thời đại văn minh, loài người săn chó mà thịt – loài vật rõ gần người, ta chẳng phải mò mẫm gì mấy và miệng dễ có thịt xơi, quả là rõ tiện, khi loài chó chẳng còn đáp ứng được nhu cầu săn bắt mồi trong thời đại văn minh ngày nay, thì chó chết cũng là đáng, chó điếc, chó câm cũng là phải! Cứ câm điếc mà được ăn rồi được chết cũng là cái may cho loài chó. Vạn vật hữu tình rồi cũng đều chết cả cơ mà, đó là chân lý của trời! Chó chết trong miệng thằng người rồi thằng người cũng phải chết vùi thân trong đất. Tựu chung, chó người cùng được về với đất cả. Cứ chui về đấy mà quyến luyến bên nhau cho bõ bao bực tức ở đời. Cứ ngẫm cái nọ ăn thịt cái kia có lẽ là cái việc của trời cũng nên. Hắn lại nghĩ câu chuyện xưa các cụ kể lại, có những dân tộc từ thời cổ đại, khi những người già chẳng còn đắc dụng, họ lặng lẽ cầm mẩu thừng vào rừng sâu, tìm tới chỗ âm u tịch lặng, tự tay thắt thòng lọng vào cổ mình, chèo lên cây lớn, buộc đầu dây còn lại lên chạc cành và lặng lẽ buông mình từ giã con cháu mà về với tiên tổ. Thời nay, họ coi hành động trên là tiêu cực, là thủ tiêu cách mạng, nhưng hắn thì nghĩ khác – hắn thấy đó là hành động dũng cảm nên làm – sau khi đã sống hết mình nuôi dạy nòi giống, đời người đã mỏi mệt với bao điều suy ngẫm và họ lặng lẽ mà làm vậy theo tôi nghĩ thì cũng phải! Họ đã nhìn đủ, nghe đủ, nói đủ, và làm đủ mọi sự ở đời, thì mẩu dây thừng kia, cái thòng lọng ấy như vòng nguyệt quế toả ánh hào quang mà đưa người lìa cõi.
Mà ngẫm cũng lạ, người già thời nay thường ham sống và rất sợ chết. Họ cứ cố mà dai dẳng ở đời thì mới tức – dù khổ mấy, nhục mấy họ vẫn cứ là muốn sống… không lẽ họ ngượng ngập với tổ tiên nhiều điều chi đó mà lúc sinh thời chẳng làm được. Có lẽ là thế, hắn cũng như họ – những người già, chỉ được nhìn, chẳng được nói, và không được nghĩ… và cứ là sống để may ra còn nói lên được đôi điều chi đó cho thoả cái vận hóc xương… tôi cho dứt khoát phải là thế thì người già thời ta mới thèm sống dai đến vậy. Các vị cứ thử nghĩ mà xem, một lão già mắt loà, răng móm, tai nghễnh ngãng, chân tay lủng lẳng chẳng buồn cựa mà vẫn thèm được sống… mà tôi xin cam đoan họ chẳng khác mấy pho tượng nặn dở bằng sành bày bán ngoài chợ. Quả là ở đây – trong chuyện này – phải có một điều gì đó còn vướng mắc, còn dang dở, mà họ chưa làm cho được… dứtkhoát phải là thế… chứ ai đã già đến thế mà còn ngồi ăn vạ cõi đời không bõ nhục, mà cũng có thể các cụ cứ ngồi đấy cho cháu con nhìn thấy cái nhục đời mình làm người mà mãi còn dang dở. Dẫu có hỏi các cụ sẽ chẳng nói đâu… chỉ nhìn thôi – cái nhìn như bảo: “Mẹ bố chúng mày cứ sống đi rồi khắc biết”.
Khi sinh con, cha mẹ nào chẳng muốn dạy nó biết đi, biết cười, biết nói, để rồi biết suy, biết nghĩ, hiểu thế nào là nóng, lạnh và đau đớn, mừng vui, đó là niềm hoan hỉ trong lòng cha mẹ, có ai ở đời mà không muốn thế – con trẻ nó cứ cười, cứ nói bi bô mà nhận biết cõi đời, sự sống cứ chợt hiện, chợt tan trong từng ngày hé mở, họ khoái trá vì con mình khôn ngoan, hiểu biết hơn con người, mắt tinh, tai thính hơn con người khác. Nhưng rồi mỗi lớn nó cứ câm dần, điếc dần, như bao người khác, như hắn hôm nay chẳng hạn, có lẽ vì mọi người hiểu sự sống của họ chỉ hiện lên có một lần, thật quý hóa làm sao nên cứ lẳng lặng mà sống như ai ở đời, chẳng cần nghĩ ngợi bàn cãi chi lắm thêm khổ, thêm mệt. Sự sống đã được đúc kết sẵn, chẳng phải lo lắng lằng nhằng và cứ như vậy là xong chuyện. Mà nghĩ cho cùng, mọi giác quan sinh ra chỉ nhằm vào sự tranh giành ngớ ngẩn, có lẽ vứt bớt đi thì đời người đỡ khổ hơn chăng? Cả cõi đời cứ im lặng mà sống có hơn không? Vạn sự đã có trời phật toan định, thế mà hắn thấy ngứa ngáy, muộn phiền thì mới lạ…
Ở ta, phật sống hiện lên thành người, phật ông có, phật bà chẳng ít. Ông ngồi salông, ông ngồi trên sập, có ông gầy còm kham khổ, lắm ông béo phì như ông Di Lặc dáng trần. Vạn sự ở đời các ngài đều toan tính cho cả, non nước cứ đều đều trôi chảy mà hỉ sả mới hên. Ai cũng như ai, có gạo, có rau, có vừng, có lạc mà sinh sống, cứ lặng lẽ xếp hàng, tuần tự mà đong, mà đếm cho qua ngày. Ai cũng như ai, quân bình phẳng lặng, cả nước tu hành nên thịt cá chẳng cần nhiều chi lắm, cứ ít dần, ít dần cái khẩu phần sát sinh, nặng nghiệp nên con người cứ hiền khô, chẳng buồn vật lộn với nhau nữa, cả nước dốc lòng hướng về chính quả. Nhưng thỉnh thoảng trong cả ngàn vạn người cũng có một vài thằng điên, thằng dại mà nhiều khi cứ ngẫm thấy hắn lại buồn cười, mọi người ai ai cũng thế… mọi thứ cứ đều đều từ văn chương, báo chí, nhạc hoạ, cứ na ná mà tiến lên trên con đường hành đạo, thì hẳn mấy thằng điên lại rước hoạ muộn phiền, mọi cơ quan truyền thông đều đả phá, lẩn tránh họ. Cả nước chẳng ai giống họ mà họ cứ làm mới khổ, ở đời có ai lại đi chống phật bào giờ không cơ chứ – rõ bọn hắn là mấy thằng điên đứt đuôi chẳng còn cãi vào đâu được.
Cứ ngẫm trong sử sách, ở ta nào truyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, rồi là Nỏ thần chẳng hạn… có nhiều khi hắn phát sợ… dứt khoát là phật phải nhiều phép lạ thần thông hơn… mà nhiều đứt đuôi nữa là đằng khác… nên hắn sợ. Có lẽ vì hắn sắp điên nên thành phát sợ, thế nào phật cũng biết hắn sắp bị phát điên. Các ông phật nghìn mắt, nghìn tay thì thôi rồi, đời hắn cứ là bỏ mẹ… Hắn sợ hãi nhìn ngắm cõi đời… Có người nào phát bệnh như hắn không? Có đấy – hắn nhìn thấy, nghe thấy bao kẻ đã phát điên, phát rồ mà còn nặng bệnh hơn hắn nhiều. Một niềm vui kỳ lạ thổi bùng trong hắn, thứ cảm giác lạ lùng về những thằng điên – những chấm sáng lập loè đom đóm trong đêm, trên kia là những vì sao, dưới này lập loè của lửa đời đom đóm, vạn vật, bóng đêm và bóng đêm, hắn cứ thiêm thiếp trong nỗi buồn điên dại.
Đêm đêm, khi cõi đời tắt đèn đi ngủ thì hắn thức dậy, lặng lẽ bật đèn – bật thật nhỏ thôi - hắn nhủ thầm như thế với chiếc máy ghi âm, hắn bật băng nhạc của người điên lên ngồi thưởng thức. Hắn bật chiết áp nhỏ lắm – nhỏ đến nỗi âm thanh chỉ bằng đầu kim mà sâu vào lỗ tai hắn. Bao âm thanh nhen nhóm, như còn, như mất, bồng bềnh nổi trôi, như gió thoảng qua hồn: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi…” Hắn khoan khoái về lời ca, giọng hát ấy, nhạc sĩ điên nghĩ về hạt bụi và ca sĩ Khánh Ly hát về hạt bụi ấy. Hạt bụi ban đầu trôi trong không gian lại trở về hạt bụi. Nhưng ở khoảng giữa nó, hạt bụi ban đầu và hạt bụi sau cùng có lẽ bằng không. Hắn hoan hỉ về số không đời hắn vì nếu đã là không thì chẳng cần phật pháp – hắn lẩm nhẩm trong đêm – lạy phật, con cóc cần ngài, khi đời người là không, thì… hắn cảm thấy sợ hãi… liệu phật có nghe thấy hắn vừa nói đấy không? Hắn sờ tay lên miệng… cái hàm thiếc vẫn còn – hắn tự nhủ – có lẽ khoảng không là hỗn mang nên lòng ta hãi sợ. Chẳng thà mình cứ là hạt bụi quách đi có hơn không?
Cõi đời như không như có – lời phật dạy mấy ngàn năm còn đó, để đến hôm nay đời hắn cũng như có như không. Mọi chân lý bỗng trở thành mai mỉa trong khoảng trống rỗng ấy. Cõi đời và những cái hàm thiếc như neo bám vào nhau trong sự trống rỗng, vô tình đến quái đản – cái hàm thiếc ngáng lấy mồm hắn và hắn ngoạm lấy như con cá đớp phải lưỡi câu… nghe thấy đấy… mắt nhìn thấy đấy… khối óc suy nghĩ đấy… nhưng mà không – không nói lên được - đôi tay chẳng làm nên được hắn như con rối trong rạp xiếc, chờ dây giật mà thể hiện hình hài – rõ là thằng người quái đản, hắn đang trôi trong không gian, thời gian và chẳng là gì sất cả! Mọi thứ đang bị thời gian gặm nhấm cho tàn tạ đi, như hắn, mớ giẻ rách ở đời cố trùm đúm mà lau lia đi mọi thứ, nếm chải khổ đau trong một thời đã nguội.
2005

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Lời tựa Tập truyện ngắn của Vũ Thi - 04.07.2009 13:26:53
Lời tựa
 
Cõi sống là những kiếp người mà thời gian bện chúng ta lại. Sợi dây thừng cõi đời cứ nối dài tưởng chừng như vô tận, có thể là những mùa hoa êm ru sắc lá, có thể là nắng, là mưa, là ngọt nhạt của muôn loài hoa trái. Tất cả dường như kết nối lại mà cất lên bản trường ca cõi đời! Sự giao hoà giữa sự sống với sự sống, bài ca ấy sẽ mãi mãi ngân lên cho từng ngày, từng tháng, từng năm mà chúng ta hằng sống. Những âm ba đổ vỡ hay sinh sôi, khổ đau hay vui sướng, mãn nguyện hay hận thù, song ta không thoát ra khỏi sợi dây thừng cõi sống! Nó như thít lại tất cả trong vòng xoắn hữu hình của nó. Có bao kẻ như được nó kéo lên và bao người bị nó giằn xuống! Dường như chính nó – Cái sợi thòng lọng muôn thuở dành cho loài người và muôn vật, để đến một chiều ta quỳ xuống trong khổ đau! Hỡi Thượng Đế ngài hãy chỉ cho chúng con: “Tình yêu đâu trong cõi sống? Hay chăng là sợi dây thừng đang từ từ thít lại”. Một ngày mới sẽ qua và bình minh đang dậy cả vũ trụ chất chứa trong đó tất cả mọi thứ của ngài! Có máu và nước mắt – Tình yêu và xảo trá, tất cả mọi thứ dường như được phân định! Song lại là không định. Cõi đời! Sự huyễn hoặc đến vô cùng - Cho từng ngày, từng tháng, từng năm mà ta hằng sống. Hãy lặng lẽ mà đi vào chúng! Trong sự kết dính thời gian, có thể ta sẽ giành lại cho mình một mẩu thừng thân phận.
"Thừng bện xong rồi tự trói ta
Tre non chẻ lạt trói tre già
Một dây vô lại tình nhân thế
Gỡ được cho rồi cũng nát da".
 
Hà Nội, ngày 20-3-2003

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Hồi ký cây bút - 18.07.2009 20:31:17

Hồi ký “Cây bút”
 
Theo tôi nghĩ, phát minh đầu tiên lớn lao nhất của loài người là cây bút. Nó như một thứ vũ khí để tạo khắc trên cõi đời những suy nghĩ, tư tưởng của nhân loại. Nó làm cho cõi sống tuần hoàn và sinh động hơn nhờ vào sự hiểu biết những kinh nghiệm đã qua. Tôi không thể tưởng tượng thể loại bút nào xuất hiện đầu tiên trên cõi đời? Cây que hay lông thú? Nhưng ở thời tôi đã sống, có lẽ cây bút mà tôi còn nhớ được là cái ngòi "777". Cái loại ngòi bút được cắm trên quản gỗ tiện. Mỗi khi sử dụng phải chấm vào lọ mực. Người ta hay nướng ngòi bút trên ngọn lửa để đốt sạch dầu mỡ và làm mềm đầu ngòi bút, khi viết nét chữ sẽ mềm và linh hoạt hơn. Mà ngẫm cũng khổ, giấy má thời ấy sao mà tồi tệ đến thế. Trông cứ thâm sì sì mà lại còn lồi sà lồi sồi không phẳng, tờ giấy cứ cứng đơ đơ như cán bằng gỗ chứ đâu như bây giờ. Ấy thế mà thời đó, mọi thứ quý như vàng. Tôi muốn được mua một cái ngòi bút mới thì cha mẹ phải được nghe tường trình đâu vào đó về nỗi bất hạnh của cái ngòi bút hỏng. Đối với tôi nỗi bất hạnh của cái ngòi bút là vô kể. Tôi bị các cụ mắng mỏ thường xuyên về cái ngòi bút và áo quần sách vở giây mực. Biết là ăn đòn nhưng mà chẳng làm sao sửa nổi. Có lẽ vì trong đầu trẻ thơ chưa có nhiều ký ức nên chẳng có gì để viết, nên tác dụng của cây bút thì ít nhưng tai hoạ lại nhiều. Cứ ngẫm cậu họctrò thời ấy, cắp cái túi đi học, vá vài chục mảnh bằng các loại vải tiết kiệm đủ các loại hình thù: tam giác, vuông, lục lăng, xanh, đỏ, tím, vàng, đủ mọi màu sắc. Tất cả những mảnh vải nghèo đói ấy hoà quện lại thành cái túi xách học trò. Trong cái túi xách ấy, cây bút phải an phận nằm cạnh đủ mọi loại bát nháo. Nào sách nào vở, nào sỏi chơi ô ăn quan, nào quả bàng xanh trên phố, nào thỏi nam châm. Tất tật các thứ lỉnh kỉnh ấy cứ chen lấn mà đè lên cây bút. Thử hỏi khi đến lớp hay về nhà thì cái đầu hạt gạo nơi ngọn bút còn gì là hồn vía, hôm thì cong tớn, hôm thì mất một bên. Bài vở lem nhem, áo quần tím ngắt, và thế là lại xe điếu. Tôi còn nhớ mông đít tôi đã vằn lên nhiều "con lươn" tím ngắt, để rồi ngày mai vẫn thế. Cha mẹ mong muốn con mình hoàn hảo, nhưng trẻ thơ thì đâu cần. Những bài học đâu có chỗ trong cái dạ dày lép kẹp vì đói khát, có lẽ sự đùa nghịch giúp cho trẻ con quên đi nỗi cào cấu của cái đói. Mẹ tôi thường nhắc: "Hiên ba bát rồi"? Ba bát là chấm hết cho nhu cầu dinh dưỡng của nửa ngày, và cứ thế nhân lên cho một thời thơ trẻ. Tôi đói lắm nên chẳng cần ngòi bút với manh áo nâu mẹ khâu bằng bao đựng đường Cu Ba viện trợ. Tôi cắp túi lên đường có lẽ chẳng đúng! Các cụ xưa có câu "Miếng trầu là đầu câu chuyện" nếu đặt câu nói này vào thời đó thì phù du quá? Mà phải ngẫm nghĩ câu của trẻ con thường nói "Nhân bất "khợp" bất chi lý". Trẻ em bóp méo câu nói của các cụ thật đúng và tài tình vì thời đó sự sống còn dưới mức để cho chúng suy nghĩ đến việc học. Còn chúng lôi những đứa trẻ con thì cứ đùa nghịch cho quên đói.
Cái ngòi bút 777 sinh ra vào cái thời đói kém giáp hạt như vậy? Cái loại ngòi bút bất tiện cho lứa tuổi, làm phiền cho đói khát!
Câu chuyện bắt đầu vào một hôm mẹ xách làn đi chợ, đưa tôi rẽ vào thăm bà bác? Phố Nguyễn Biểu, một khu phố lặng lẽ, thanh bình. Đâu phải do đầu phố có nhà thờ Cửa Bắc. Sự thanh bình có lẽ là tính cách sẵn có của phố Nguyễn Biểu. Thời các cụ thì nó thuộc về tầng lớp quyền quý. Thời ta thì nó thuộc về các vị tai to mặt lớn. Thỉnh thoảng, có xen kẽ vài số nhà bình dân, xong có lẽ nó là những nét tô điểm cho sự bình dị của các nhà sang trọng. Thời ấy quan chức ai cũng muốn tỏ ra hoà mình xong có lẽ hoà chẳng nổi nên cứ lênh đênh trên ngôi cao sự sống.
Nhà bác tôi số 18 nằm gần đầu phố, trước mặt là nhà thờ Cửa Bắc và chạy song song với phố Đặng Dung, nơi gia đình tôi ở. Hai con phố đều có một nét giống nhau đó là cái tĩnh lặng thanh bình, nhưng phố Đặng Dung thì ít các vị chức sắc vì bản chất nó là nhà ở của các tư sản thời Tây, sang thời ta họ bị đánh bẹp nên im lìm nằm thở và gia đình nhà tôi cũng im lìm như họ, sự tĩnh lặng quả là có nhiều lẽ!
Tôi theo mẹ tiến vào nhà bác, một khu biệt thự hai tầng trang nhã có ngõ rộng trải sỏi và hiên lớn nhìn ra đường. Những dãy cửa sổ lớn sơn màu nâu giản dị mà sang trọng. Tôi len lén theo mẹ tiến vào phòng khách. Bác tôi thời Tây làm quan tri huyện, không hiểu sao sang thời ta bác tôi lại làm quan chức ở Phủ Thủ tướng. Kể cũng lạ, bác tôi khéo léo làm sao mà tránh khỏi bị đánh bẹp và sướng luôn cả hai thời? Bác tôi là một ông già nghiêm khắc. Khi chúng tôi gặp bác thì đã sang thời ta, nghe đâu Bác Hồ vận động bác tôi ra hoạt động kháng chiến có ít ngày mà gia đình bác tôi thoát khổ. Quả là may mắn! Bố tôi không được cái may như vậy, nên cứ còm cọm với đời từ con địa chủ xuống trung nông rồi bần nông và chấm hết vì có lẽ chẳng còn bậc nào để mà xuống nên gia đình tôi cứ vậy! Mỗi khi sang nhà bác tôi, gặp lại cái không khí quan huyện thời xưa và quan cách mạnh thời ta làm cho con cháu chúng tôi cứ rờn rợn mà kinh hãi! Mà kinh hãi thì cũng phải vì trong phòng khách nào sập gụ tủ chạm, đồ sành đồ sứ cổ la liệt trong phòng! Bác tôi là một người quắc thước, rất nghiêm khắc, cho dù giọng nói có hơi lắp song chẳng hề hấn gì tới cái phong cách uy nghi trong gia đình. Hôm ấy có lẽ mẹ tôi sang vay tiền thì phải, vì nhà tôi chẳng còn gì mà bán. Mọi thứ đồ đạc bán được chừng như vô duyên với gia cảnh đói kém nên nó cứ lặng lẽ ra đi theo từng bước thăng trầm. Sự phát mại chỉ được dừng lại trước bàn thờ tổ tiên vì trên ban có ông nội tôi đội mũ cánh chuồn trông thật nghiêm khắc. Dứt khoát vì lẽ ấy nên mẹ tôi hay phải đi vay mượn đó đây anh chị em trong gia đình họ hàng.
Tôi len lén nép sau lưng mẹ lí nhí chào bác rồi tiến vào phòng khách. Mẹ tôi ngồi trên ghế sa lông đối diện với bác gái, tôi đứng đằng sau, bác trai lừ lừ một vài câu xã giao rồi lặng lẽ đi vào nhà trong! Có lẽ đó là đặc tính riêng của mọi quan chức thời ấy? Họ không muốn tiếp xúc với tất cả mọi loại thứ dân hay người thân quen đến cầu cạnh? Khi xưa một người làm quan cả họ được nhờ nhưng thời ấy thì có mà đợi? Khi bác quay vào lúc đó tôi mới được hoàn hồn. Là đứa trẻ hiếu động, tôi chạy đến bên chiếc bàn gỗ lớn, trên mặt để nhiều tập sách lớn nhỏ chắc đó là nơi làm việc của bác trai. Trèo lên ghế, với lên mặt bàn và bắt đầu hí hoáy với mọi thứ lạ lẫm trong đời, trên bàn. Nào là những nghiên mực bằng thuỷ tinh pha lê, những giá cắm giấy tờ bằng gỗ mun đen bóng. Tiện tay tôi với được cây bút bi - Mà quả thực lúc đó tôi không hề biết đó là cây bút, chợt vạch lên giấy thấy có mực và thế là tôi thoả trí vẽ vời quên cả mẹ và bác gái đang trò chuyện. Đến khi mẹ tôi gọi về thì tôi mới tỉnh cơn nghịch. Về đến nhà tôi vẫn cầm trên tay cây bút bi của bác và lại say mê với cây bút của lạ, cứ thế mà vẽ vời cho đến lúc anh trai con bác tôi vỗ vai:
- “Này cậu em, sao mà gian thế, cho anh xin lại cây bút em cầm nhầm" - Tôi mới tỉnh cơn say trả lại cây bút cho anh mang về!
Có lẽ bác thấy tôi vẽ vời vớ vẩn nên phát hiện ra cây bút tôi cầm nhầm. Đối với đứa trẻ lên sáu tuổi đang học lớp vỡ lòng thì lời nói như vậy là quá nặng, nhưng lúc ấy tôi chưa hiểu. Sau khi anh về, bố cầm xe điếu lôi tôi ra trước bàn sa lông:
“Hiên! Con có biết đó là hành động gì không?”
Tôi lặng lẽ không trả lời vì có biết gì đâu - Đó là ăn cắp? Lấy của người khác không hỏi là ăn cắp. Cha tôi là một con người nhân hậu ngay thẳng, nhưng nếu cha tôi không giải thích tường tận đến vậy thì đời tôi có lẽ không đến nỗi! Ngày hôm ấy hai cái từ "Gian quá" "ăn cắp" cứ lởn vởn trong đầu tôi như một nỗi ám ảnh. Tôi ngượngngùng với mọi người trong gia đình nên thường lảng tránh những ánh mắt của người thân, cả tâm hồn dường như thu nhỏ lại. Mỗi khi và mãi cho tới những ngày sau khi cầm đến cây bút tôi lại có cảm giác hãi hùng như vậy. Tôi luôn luôn có cảm giác mọi người đang nghĩ xấu về mình. Nó như vết gợn đầu tiên và đeo đẳng tôi mãi mãi về sau, như một con bệnh dai dẳng cứ lớn dần lên để trở thành thù hận. Tôi luôn căm thù cây bút, suốt những năm đi học tôi luôn phải dùng duy nhất loại bút quản bằng gỗ, ngòi 777 vì bố mẹ không lo nổi cho con chiếc bút máy. Tôi rơi vào tình trạng vừa căm ghét vừa thèm muốn cây bút. Có lẽ suốt cả đời tôi không có nổi lấy một cây bút nên mỗi khi nhìn thấy các bạn có bút mới tôi đâm ra ganh tị bực tức, đã mấy lần thó thực sự của các bạn về giấu trong thạp gạo. Càng căm ghét cây bút thì tôi lại càng bị nó mê hoặc? Các bạn đi học gọn gàng sạch sẽ bao nhiêu thì tôi luộm thuộm chừng ấy, áo quần luôn nhem nhuốc vì cái lọ mực chết tiệt. Có lẽ cả quãng đời ấu thơ là sự thèm thuồng đói khát - Một sự đói khát chính đáng mà cha mẹ tôi không sao lo nổi và anh chị em tôi thực sự hiểu điều ấy! Tất cả cứ bị nén xuống như những quả cà trong vại. Cha tôi - từ một công chức Nhà nước lương cao, nuôi dưỡng cả một gia đình 14, 15 người sung túc, trong nhà người ăn kẻ ở, vú em cho từng đứa con mà mẹ tôi mỗi tháng còn để ra được mấy lạng vàng. Thế mà lúc ấy mức lương cha tôi chỉ còn bằng 1/20 thì hỏi rằng một gia đình sẽ ra sao? Có lẽ đó là một cú trượt dốc kinh khủng. Con người lúc đói chỉ còn duy nhất một mục đích là miếng ăn, một sự cân bằng đến kinh hãi. Người ta chỉ còn gặp nhau ở cửa hàng gạo phân phối hay ở cửa hàng mua thịt bán theo tem, người ta tranh dành, người ta trò chuyện? Có lẽ các ông bà nông dân muốn hoán vị chỗ đứng của mình cho bọn địa chủ và tư sản nên xã hội bỗng rơi vào trạng thái đói kém thế này, họ chẳng muốn chơi với ai hết như ông bác tôi chẳng hạn. Còn tôi, cái đứa trẻ tàn tật vì đói khát. Tôi chẳng cần chi nữa ngoài việc ăn...
Đúng như câu nói của các cụ ta xưa "Dân dĩ thực vi tiên" nên ngọn đòn đầu tiên có lẽ là cái đói! Cứ đói thì mọi chân lý của họ sẽ sáng lên, con người ta mới ngửa mặt lên mà cầu ông trời ban lộc. Có thể vì lúc đó tôi còn nhỏ quá - Cầu cha mẹ thì chẳng có nên cũng đành lăn như hòn bi con quay ngoài phố cho đỡ tủi. Thời ấy cha tôi thật hay đánh con cái? Tất tật mọi lỗi lầm đều cứ là xe điếu. Cha tôi đánh con nhiều lắm, đánh đến nỗi cha tôi còn mệt, vì hồi ấy cha tôi đang đau dạ dày. Mãi về sau này tôi mới hiểu và thương cha, một con người chăm lo sự sống cho mười mấy người thì còn thời gian đâu mà dạy dỗ con mình! Càng thương con cha tôi càng đánh, chân lý thì vẫn thế - Sự đói khát là điều không thể thiếu cho một xã hội đi lên - Mọi thứ Nhà nước lo cả, từ áo, quần, chăn, chiếu, cơm, gạo, tất tật cứ là xếp hàng. Tùy theo chỗ đứng, mức lương mà phân phối còn những kẻ không có chỗ đứng thì bình quân, cả xã hội không có tư nhân bán lẻ.
Một mình cha tôi cứ lặng lẽ mà làm, người càng ngày càng ít nói? Chị gái tôi đi học về phải ngồi cột điện mà đan len và ôn bài đến tận nửa đêm. Tôi và thằng em cũng phải học đan mà kiếm miếng, cứ đi học về là lại vào việc, hết đan thì quay tơ. Cả gia đình tôi là một công trường nho nhỏ. Tất cả dành cho cái miệng! Bài học hữu ích vì cái đói hiệu nghiệm làm sao. Sau này tôi còn chuyển qua cả nghề bốc vác, kéo xe bò làm thêm vì nghề này có vẻ hợp hơn với tôi bởi tính thích ngao du nghịch ngợm cùng bè bạn. Thời ấy tôi thực sự sợ hãi khi ở nhà - Vì ở đó trong nhà tôi có một cái gì na ná như địa ngục? Tác dụng cải tạo một xã hội quả là ghê gớm! Cứ đảo lộn lên cõi đời sẽ thấy cần ai! Sau này lớn lên tôi mới hiểu các bậc đàn anh của ta như Liên xô hay người Tàu chơi với đàn em Việt Nam cũng thế? Họ cũng trói cái bao tử của nhau để mà sai khiến, còn ta có lẽ là tương kế tựu kế định dùng họ để mà đắc lợi? Chúng ta thành công nhưng quả là mệt - Mà mệt thực sự nữa đằng khác! Vì cả một dân tộc đói ăn khi được ăn thì cứ phải là ăn đã - Mà kể cả bội thực cũng ăn thế đấy hãy đặt cái đói trước mặt chúng ta sẽ thấy vâng lời? Như cha tôi phạt cơm thì thằng em lặng lẽ dúi cho anh nửa phần cơm đỡ đói.
Thời ấy cả gia đình tôi sống trong một biệt thự, về sau này ở phố Châu Long, ngôi nhà thật to nhưng rỗng tuếch. Tôi còn nhớ mãi cái trường Yên Thành hồi cấp một! Các bạn tôi không bị quất ngọn roi thành phần thì có vẻ còn sáng sủa, anh em tôi thì ảo não làm sao - áo sơ mi mẹ khâu bằng bao bột mì, nhấn nâu còn nguyên cả cái triện như thằng tù "Đường Cu Ba", anh em tôi rất ngượng? Song để bù vào đấy tôi sẵn sàng đánh tất cả những đứa nào coi thường manh áo khốn khổ mẹ khâu và cứ thế một thời thơ ấu qua đi trong đói khát tủi nhục. Anh chị tôi trầy trật rồi cũng xin được vào một vài trường vớ vẩn nào đó cho có chỗ đứng nhưng mỗi người mỗi nơi, nên cái chỗ đứng ấy dường như chẳng có tác dụng gì mấy cho gia đình nhưng như thế còn hơn vì anh chị em tôi may ra còn có một chỗ đứng, cái nghề tư sản hay địa chủ có vẻ được nương nhẹ đi chút ít. Cả tháng hay cả tuần gia đình tôi may ra mới có dịp đông đủ và hôm ấy có lẽ là ngày luận tội nghịch ngợm của thằng em vì hồi này sau khi đi học về tôi lại theo bạn đi bán nước vối nóng và bán kem ở trên tầu điện, mà tôi rao thật khéo nghe cứ ảo não làm sao "Lào ai lước vối lóng đê, lước vối lóng lào... " lời rao như méo đi nghe thật thú vị vì tôi nói có ngọng đâu nhưng đối với khách hàng cứ như đùa cợt, ấy thế mà bán được. Một đứa trẻ con nhà quyền quý lên tầu đi bán que kem kể cũng thật vui! Người ta nặn sao chẳng được - Cải cách sai thì họ làm lại, nghe mới thật ghê? Nhưng theo tôi nghĩ chính những con người trong cõi sống bắt buộc họ phải làm lại. Cứ thử ngẫm một đất nước nhà nào chỉ biết nhà ấy, kèn cựa, nhòm ngó, bon chen nhau tất tật chỉ vì miếng cơm manh áo? Tôi tự hỏi: Đồng ruộng xưa nay vẫn thế, khung cửi dệt vải vẫn vậy, sao con người lại đói kém đến thế? Các ông to như bác tôi chẳng hạn, có cửa hàng cung cấp riêng, đi đưa về đón, vẫn kiểu cách như xưa, họ hoán vị chỗ đứng cho nhau nhưng chỉ có khác họ tranh đấu vì họ mà thôi. Họ có thể gửi cha mẹ là thành phần địa chủ lên Hà Nội chơi cờ bạc ở phố Hàng Bạc để ở nhà rảnh tay mà đâm mà chém những gia đình địa chủ khác. Thế đấy? Họ chỉ có thế! Khi sức mạnh đã trong tay họ thì chẳng còn gì là khó là không làm được. Họ dùng chính cái đói để làm mâu thuẫn xã hội và khi có mâu thuẫn thì có đấu tranh giai cấp, mọi thứ tất tật họ đổ cho đế quốc sài lang, họ chẳng bận tâm với bất kể vật cản nào trên đường, người lớn thì có trại tập trung, trẻ con thì có trại giáo dưỡng? Ngẫm quả là gớm - Khi có quyền lực thì gớm thật. Họ dựng bác nông dân dậy, cho ở nhà của địa chủ. Bác nông dân rồi cũng thay tâm, đổi tính, ăn lắm, ít làm, thích đè nén dạy bảo người khác cho ra vẻ, khi có chuyện thì họ gào ầm lên mà lao vào san bằng đạp đổ. Mà ngẫm cho cùng thì các ông to bà lớn thời ấy có mấy ai là con nhà bần nông. Tôi cứ ngẫm mãi, có lẽ họ tự đánh vào đít mình trước rồi họ làm thịt thiên hạ sau thì phải? Từ ngày xưa có thằng đế quốc nào giết đến cả triệu người dân Nam bao giờ đâu? Ấy thế mà họ làm được - Mà làm vẻ vang nữa đằng khác cơ chứ.
Ở làng tôi các bác nông dân được chia nhà địa chủ, họ dỡ dần ra mà bán rồi cuối cùng lại bán lại cho con cháu nhà địa chủ thì mới lạ? Thế đấy trò đời thật chớ trêu. Gia đình địa chủ bị đè nén nhưng họ vẫn cần cù làm ăn, học hành vươn lên để giành lại cuộc đời của họ. Quả thật loài người đặt trước cái đói thì khủng khiếp xiết bao, họ đóng cửa, bế quan toả cảng để mà nhào mà nặn một lớp người đói khát biết xếp hàng, bon chen và kèn cựa lẫn nhau, chẳng cần biết ông già người lớn hay trẻ nhỏ tất tật đều bằng phẳng như nhau mà hứng chịu.
“Bác ơi, nếu như bác có linh hồn thì thời ấy cháu đói - Cái đứa trẻ lên sáu, cháu của bác đang đói! Sao bác không cho nó yến gạo, manh áo, cái bút hay quyển vở?
Hay chăng bác tôi to quá rồi chưa phải đói bao giờ nên khỏi bàn này nọ? Sau này tôi mới rõ - Bác tôi thời đầu là chánh công an Bắc kỳ (có nghĩa tầm Bộ trưởng Bộ công an thời nay) rồi bác tôi còn làm đến trưởng phòng Lập pháp Phủ thủ tướng. Thật quả là những công việc to lớn nên bác làm gì còn thời gian đâu mà lo đến ai trong họ hàng làng nước nữa. Nhiều khi tôi ngẫm nếu như cách mạng xã hội chủ nghĩa đã san bằng xong mọi bất bằng trong xã hội mọi gia đình cả nước ai cũng như ai thì phản ứng nào sẽ xảy ra nữa đây? Một cõi sống không bất bình, không cao thấp chẳng có tài năng hơn kém thì thật kỳ lạ - Thế mà hồi đó dân ta cứ tin như là kinh Phật đà không bằng?
Họ thành lập hợp tác xã, một hình thức công bằng ai cũng như ai để rồi đồng ruộng chẳng có ai chuyên tâm mà làm. Nào là phong trào năm tấn lúa/ha, nào là ba đảm đang cho chồng vào Nam đánh giặc. Thôi thì đủ thứ, cuối cùng cả xã hội ai cũng chỉ muốn làm cho riêng mình, từ ông to bà lớn cho đến bác nhà nông và cuối cùng thì lại là quyền tư hữu và cái lầm lỡ thì ai chịu đây? "Ta sai ta sửa!" chỉ có thế!
Tất tật chỉ có thế! Theo tôi nghĩ nỗi khổ lớn nhất là nỗi khổ cha mẹ không bao dung nổi những đứa con mình và giờ đây mỗi khi nghĩ đến cha mẹ tôi và một đàn con lít nhít mọi lứa tuổi tôi lại thầm ước: Nếu có thiên đường và địa ngục? Thì trời ơi? Tôi cầu cho ông bác tôi được đứng cạnh vạc dầu mà xem khổ hình của bao kẻ ác độc trên đời đã làm hại cho non cho nước. Cuộc đời tôi cứ mất? Đầu tiên tôi mất mẹ, một năm sau tôi mất cha, rồi tôi mất dần biết bao người bạn thân yêu khác? Cõi sống thật bình dị thiết tha, nhưng sao cuộc đời tôi không cớ, dường như tất cả đều chỉ là huyễn hoặc? Một cõi sống tạm bợ cho những cuộc đời tạm bợ cơ cầu, dường như những nhà chính trị Việt Nam đã ru ngủ non nước này cho bao ý đồ của họ. Tôi căm thù hai từ “chính trị”, cứ thấy họ là tôi lại nghĩ Họ đang định làm việc gì bịp bợm ta đây? Mỗi kiếp người là bao điều đáng kể! Nhưng ở tôi chỉ có bao điều sợ hãi? Tôi vào tù khi còn rất trẻ sau bao năm tôi ra tù, nhìn lại gia đình mình buồn bã làm sao. Cha mẹ tôi đã bán ngôi biệt thự lấy tiền lo cho con cái và mua một căn nhà mới thật nhỏ tận cuối làng. Bố tôi vẫn còm cọm đi làm, mẹ tôi vẫn ngồi bên guồng sa quay sợi. Cả nước vẫn giữ lại một nét đặc trưng dường như không đổi là cái nghèo. Chẳng nhẽ cái nghèo là một quốc sách? Bố mẹ tôi con cái đã lớn, nhưng chỗ ở thì hẹp hơn tất cả chen chúc trong một buồng và phải sống - Phải sống để chờ xã hội đi lên. Đả đảo "đế quốc Mỹ sài lang" để rồi đến quan hệ Việt - Mỹ, rồi thì hội nhập kinh tế thế giới - Ngẫm đời cũng hay – Con đĩ chưa tụt váy người ta đã hiểu sau lớp váy kia là cái gì! Thế mới khổ, thế mới lạ - Đài báo vẫn chửi - Tay chính khách thì bắt tay cho quan hệ. Và cái thời ăn no ló mặt! Người ta bực mình vì hợp tác xã không đạt! thế là rũ bỏ giao giả chúng mày. Đồng ruộng trổ đòng, lúa mọc bội thu, mấy bác nông dân cứ là tha hồ được dịp - Chẳng phải họp hành, đừng phải chấm điểm, nhà cửa, đài đóm, cứ là lũ lượt hiện lên sau khi xã hội thoát khỏi thời bao cấp. Tôi chợt nghĩ, không hiểu con người nào chủ trì trong việc đưa đất nước vào thời bao cấp? Tôi chắc chắn rồi bác nọ lại đổ cho bác kia, mỗi bác gánh tội một tí nên tội to thành tội nhỏ mà tội nhỏ thì chẳng bõ thế là hoà. Chỉ khổ mấy bác nông dân tưởng đời thăng hoa để rồi vẫn thế. Mà cái giống đang bị trói chặt, bỏ đói khi thả ra thì thú vị siết bao? Cứ là ăn, cứ là nhậu, đài thì phải đài xịn, xe thì phải xe sang, toàn những là hàng hoá của tư bản, cái xe đạp có ném về quê chẳng khác gì cho nhau mớ rau mới lạ. Họ chơi với ta quả là hậu hĩnh chứ đâu như anh Nga, anh Tàu cứ là khoá cái bao tử để mà sai bảo. Đất nước cần xoá đói giảm nghèo thì họ cho vay? Tôi còn nhớ có thời người Mỹ cấm vận dân ta thật khổ? Nhưng chẳng hề hấn gì - Dân Việt Nam quen bướng đầu tuân theo kỷ luật sắt, nên họ có cấm nữa thì ta đâu có sợ, chẳng còn gì để mất? Nhưng rồi không hiểu sao họ lại bỏ cấm vận thì mới lạ? có lẽ họ chơi đến bài vỗ béo cho ăn, cho vay. Mà cái giống đói lâu dễ bội thực, nằm lâu cuồng cẳng gặp xe máy là cứ muốn phi thẳng lên trời. Tôi chợt nghĩ đến lời mẹ khi xưa: “Không nên ăn no vì ăn no không muốn làm việc - Không nên đắp ấm quá vì đắp ấm quá không muốn đứng dậy - phải nhìn thấy lỗi của mình thì mới sửa được. ” Mà sửa thế nào đây? - Khi chúng ta còn gì đâu mà sửa, một lũ trẻ nhuộm da, nhuộm tóc lởn vởn khắp đời. Chúng đã quen ăn không ngồi rồi, thích mình thành ông thần ông thánh, vì chúng luôn tự hào là tương lai của gia đình, đất nước. Quả thật đằng sau những người đi trước là một thế hệ đi sau. Vòng tuần hoàn cứ trải dài vô tận, người ta kế thừa, người ta cắt bỏ, và bao giờ cái mới cũng khoẻ và sắc hơn.
Ngẫm đến đây lại nhớ đến ông bác tôi khi về già. Vào một hôm tới thăm, bác đã già và chậm chạp hơn xưa. Căn phòng khách khi xưa, nay thuộc về con cái, bác lui về căn phòng gần gầm cầu thang. Hôm tôi đến các anh đang sửa nhà thật là ầm ĩ. Ngôi biệt thự được chia thành ba bốn chủ. Hợp ý ai người ấy làm, vương quốc này không còn là của bác nữa, nên cái quan trọng uy nghi dường như tan biến đâu mất. Tôi chào bác, xong ông chẳng nhận ra là ai. Theo tôi nghĩ có lẽ bác đã thấm hiểu bọn chúng tôi đều như nhau - Chẳng đứa nào muốn vào cái hợp tác xã của bác cho thêm mệt. Bác gái đã mất lâu trong một tai nạn lúc sang sửa nhà cửa nên bác trai cứ phải lủi thủi một mình trong căn nhà thật rộng, với một thế hệ con cháu không cùng ý tưởng. Cái bó đũa gia đình đã dỡ tán loạn trên mâm! Nỗi mệt mỏi cứ đến dần mà thấm vào trong bác. Cái niềm tin cõi sống nhạt nhoà dần đi, thời gian trả lại đâu đây nỗi cô đơn khơi dậy, bác là cái bóng của một thời cứ mờ dần trong kỷ niệm. Chú em tôi có mặt khi bác mất. Anh chị thay áo quần lần cuối cho bác, họ tìm thấy trong túi áo ngực một bức ảnh thời trẻ ngày hai bác mới cưới nhau. Đằng sau bức ảnh có dòng chữ bác viết "Bà ơi, cho tôi đi theo bà". Cả cuộc đời bác là một sự bất thành, không hiểu tại số phận hay con người? theo tôi nghĩ có lẽ tại cả hai, do vậy bác tôi cứ lui dần về quá khứ. Nhớ đến bác lòng tôi lại ngẫm về cây bút: Cây bút bi! Nếu như ngày hôm nay ai có nhu cầu tôi xin trịnh trọng mang biếu cả tá! ấy thế mà có lúc đời tôi tan nát đến vậy! Tôi căm thù cây bút!
Nhưng cái nghiệp cuộc đời lại là nhà văn nên mỗi khi hễ cầm đến bút tôi muốn dùng nó mà đâm toang hoang bao nỗi khổ trên đời cho hả một thời thơ trẻ tôi đã từng đau thương vì nó.
“Hỡi cây bút bi mà ta đang dùng để viết những trang hồi ký này, ta trả lại cho ngươi biết bao nhiêu đau khổ mà một đời người phải nếm trải”.
 
Hà Nội ngày 20 tháng 2 năm 2003


vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Tiến hoá - 25.07.2009 21:46:30
Tiến hoá

Thuyết tiến hoá của Đác-uyn đã chỉ ra rằng loài khỉ qua nhiều năm tiến hoá đã đứng dậy đi bằng hai chân và dần biết suy nghĩ như nhân loại chúng ta ngày nay. Phải cầu kỳ lắm trên hành tinh xanh chúng ta đang ở mới tạo nên loài người biết lao động, yêu ghét và có thể làm thêm biết bao điều oai hùng khác nữa. Tưởng cứ như thế là xong, nguyên lý đã rõ, chúng ta tiến lên từ khỉ chẳng có ông thượng đế nào cả, chúa trời phật pháp đều chỉ là vớ vẩn, chúng ta là khỉ thành tinh qua nhiều nghìn năm tiến hoá. Xong cũng lạ, mọi sự tiến hoá bao giờ cũng để sót lại một cái gì đó chưa hoàn hảo cho lắm – Chẳng hạn như có người còn sót lại một mẩu đuôi, không lẽ chúng ta lại nỡ đổ nghi ngờ cho một học thuyết vĩ đại như vậy… nghĩ thật xao đang – Còn tôi thì tôi mê học thuyết tiến hoá của Đác-uyn tới sái cổ, tôi trân trọng loài khỉ đến mê hoặc, cứ nhìn các cụ khỉ nhảy nhót leo trèo mà kính nể cái dòng tiến hoá bác học, mà đã là mê thì đi đến rắp tâm, một sự nỗ lực cá nhân nhưng thật là đáng kể. Vì thời ấy đang là thời bao cấp, thóc cao gạo kém, muốn xin được một việc làm thì quả là thật khó, mà lại càng khó khi ta muốn tự lựa ngành nghề, mà muốn được việc thì phải có chút gì gọi là nho nhỏ, cái phong bì có chút nhân chẳng hạn… Hồi đó sự đi lại có lẽ còn nhẹ nhàng nhân đạo, chứ như quãng này cứ phải là cả chai rượu remmi bạc triệu thì bố ai mà theo đuổi nổi, ấy thế mà bây giờ mọi người họ vẫn làm được mà làm vui vẻ là đằng khác, lại một lần nữa thuyết tiến hoá mở mắt cho tôi thêm về cái mãnh lực tiến lên của loài khỉ.
Ta lại phải quay lại câu chuyện của riêng tôi, không lỡ lại đi quá mất sự tiến hoá thời đó thì hỏng – Sự thể gia đình tôi hồi đó kinh tế cũng không được khoẻ mạnh gì cho lắm vì là thời bao cấp mà lị - Xong đứng trước một sở thích có lý của con mình – say mê về thuyết tiến hoá - mà cha mẹ tôi đã già có lẽ cũng muốn biết rõ liệu con người có phải là đồ con khỉ hay không? Hay là do chúa trời thần phật tạo ra cõi đời. Chung quy tính tò mò của loài khỉ đã tạo nên cái đột biến mà gia đình quyết định tòi ra ít tiền để chạy cho tôi vào cái phòng thí nghiệm của khỉ. Tiền có ít nên công việc cũng vừa phải, thật là khiêm tốn không được như ý muốn, nhưng cũng đành, miễn làm sao là được tiếp cận với cái khoa học mê say về tiến hoá loài người. Công việc thì chẳng có gì vất vả cho lắm, mà lại được ở gần loài khỉ hàng ngày thì cũng lý thú biết bao. Không làm thì chẳng bao giờ biết về việc nghiên cứu loài khỉ quả là phức tạp. Đứng đầu cơ quan tôi là một vị giáo sư già có nhiều kinh nghiệm, học thức uyên thâm và có một tấm lòng yêu khỉ đến kính nể. Ông thường coi công việc nghiên cứu như chính việc nhà mình, ông thương yêu lũ khỉ như con và đứng đằng sau ông có cả tá nhân viên kĩ thuật viên sừng sỏ. Nào phòng xét nghiệm, nào phòng tâm lý, nào phòng dinh dưỡng, nào phòng vệ sinh. Tôi được cái vinh dự trưởng phòng mà chẳng cần chạy chọt chút nào, xong có lẽ phòng tôi chỉ cần có một người nên cũng chẳng sợ phải bon chen leo trèo lên ai nên tôi cứ là thả phanh mà hót cứt. Trưởng phòng vệ sinh nghe thì có tủi nhưng lại có cái lợi được gần lũ khỉ nhất, gần đến nỗi nhiều khi tôi bị các cụ đái cả lên đầu. Ở đời ai cũng có cái tính là phải thích bằng được mà khi đã được có sao thì thôi cứ là phải chịu nó, như một anh chàng yêu một cô gái hắn ta rất hãnh diện với bạn bè nhưng khi phát hiện ra người yêu mình hôi nách trầm trọng không thể nào ngửi được thì cũng cứ phải là hãnh diện chứ sao. Tôi cũng thế - lúc đầu sau mỗi buổi làm là vội vàng lao vào nhà tắm mà xát xà phòng rồi biến cho nhanh. Nhu cầu xà phòng đối với tôi lúc ấy cần như cơm bữa, không đủ tôi lấy sạch của gia đình sau bị nói nhiều thì tôi chẳng cần lấy nữa, tôi kệ mẹ cái mùi hôi thối ấy cho bõ tức, mà có lẽ vì thế tôi đã tăng tiến trên bước đường tiến hoá, ngẫm cũng thú vị bầy khỉ cũng đỡ sợ tôi hơn. Nó có vẻ tiến hoá gần đến với con người một bậc còn tôi khi về nhà mệt phờ chẳng cần giặt rũ gì cho lắm vì chỉ nghỉ được vài tiếng thì đời đâu vẫn thế, mà thời gian đâu để mà suy ngẫm về mấy con khỉ trong chuồng. Ông giáo sư thì cũng khổ chẳng kém gì tôi, có vào nghề thì mới rõ mà thấy thương ông vô hạn, ông cứ trăn trở về mấy con khỉ xem có phương pháp nào cho nó tiến hoá tăng trưởng được nhanh hơn không. Mà nghĩ cũng phải, sự sốt ruột là có lý nếu cứ phải chờ cả ngàn năm thì đời ông lão đến ra bụi, vì thương ông mà ao ước lũ khỉ chóng thành người nên nhiều đêm trong mơ tôi chợt thấy lũ khỉ như ngộ không biến thành những nàng tiên bằng xương bằng thịt mà ao ước thì cũng thật là tốt cho cả người lẫn khỉ. Ông lão cứ dính vào chúng mà chăm lo, nào ngô khoai, nào hoa, nào quả các cụ cứ là xơi đẫy. Ông thấy chúng ăn được lên càng lo tăng khẩu phần, mà càng tăng thì chúng càng ăng thêm khoẻ, nhưng ở đằng sau có một sự thể ông chẳng bao giờ rõ được. Chuyện là như thế này - mấy chị ở tổ chăn nuôi đầu tiên khi cho chúng ăn mấy cụ khỉ chê kém tươi không buồn ngó, các chị cho hoa quả đó vào cặp lồng mang về cho trẻ thì lũ nhỏ hoan hỉ mừng vui, lâu lâu rồi trở thành thói quen không bỏ được, vì các cháu nhỏ mà lũ khỉ thiếu ăn nên đâm ra ăn tạp, thôi thì tươi héo chung quy đều là được cả nên cả tổ có một thông điệp ngầm với nhau giành phần cho khỉ nửa già còn lại để mang về cho trẻ vì như vậy nên lũ khỉ thường thì bị đói. Ông lão thỉnh thoảng cho quà là chúng cứ nhao nhao lên mà tranh cướp nên ông lại nghĩ cách tăng thêm khẩu phần, mà càng tăng thì càng mất, các chị suy nghĩ thật chu đáo, khoá dần cái dạ dầy chúng lại, tôi thì đỡ phải hót cứt nên cũng là ngậm miệng ăn tiền, các chị thì cứ ăn còn tôi thì phó mặc, ở chỗ này thuyết tiến hoá chừng như đã được cân bằng nên lòng tôi ra phần chán nản. Lũ khỉ thì cứ nhởn nhơ nhảy nhót và con người thì nén lòng chờ đợi. Có lẽ cơ quan tôi phải sống cả ngàn năm mà chờ nó tiến hoá, nghe cứ là vô lý làm sao ấy, chả biết ông Đác-uyn sống được bao năm mà tuyên bố hùng hồn đến vậy. Thật khổ đã có lúc tôi định treo ảnh của ông lên đầu giường mà thờ - nhưng còn may là chuyện ấy chưa xảy ra. Cứ ngẫm mà thêm buồn, theo một đời đã mỏi mà còn chưa thấm vào đâu phải cả ngàn năm mới thấy thì tôi là thằng ngu nhất, thằng hót cứt cho học thuyêt của ông cũng xin tuyên bố vứt mẹ nốt cả ông đi cho rảnh. Ở đời trẻ con cần hoa quả và tôi cần hít thở. Trong chuồng khỉ tôi cứ vừa hót cứt vừa ăn năn cho cái việc làm khờ dại của mình – có ai lại đi tìm hiểu về người ta ỉa ra sao đâu cơ chứ, thế mà ở trên đời có cái thằng tôi như vậy, thôi thì phân nát, phân rắn khỉ ơi là khỉ, chỉ thiếu chút nữa là tôi đâm đầu vào song sắt mà tự vẫn cho xong - nhưng sĩ diện của một phòng nghiên cứu như ngăn tôi lại, đối với bè bạn tôi đang tự hào làm ở viện nghiên cứu nọ kia nhưng kỳ thực thối ơi là thối, khỉ ơi là khỉ - thế đấy - cuộc đời vẫn thế, cứ ngoan ngoãn mà hót cứt cho bầy khỉ Đác-uyn.
Đáng lẽ thì cũng chưa đến nỗi, tôi vẫn còn làm cái công việc không mấy gì trơn tru nhưng tối thiểu thì cùng giải quyết được cái miệng mình để mà tiến hoá hay tiêu hoá thì cũng được. Vì hai cái từ tiến và tiêu nó có vẻ đồng âm như nhau có lẽ vì đói khổ người ta hay nhầm lẫn như vậy và sự thể là như thế này - Một hôm ông xuống thăm bầy khỉ và chợt nảy ra một ý mới – thử cho chúng xơi thịt xem sao, và ông ký giấy cho phòng dinh dưỡng đi lĩnh năm kilôgam thịt bò về cho lũ khỉ ăn thử, và ông không quên nhắc chị em nhớ ghi lại những diễn biến trong lúc cho ăn vào sổ trực hàng ngày. Tôi thì chẳng thích thú gì với quyết định kia vì phân của lũ ăn thịt chắc thối tha nhiều hơn nữa, song cũng tặc lưỡi - đằng nào thì cũng hót cứt mà có thối hơn thì cũng mặc mẹ cái lũ khỉ ghê người. Ngày hôm sau mấy chị đi nhận thịt bò ở trên kho về, nhìn túi thịt tươi roi rói, loại thịt phải qua kiểm nghiệm kỹ càng khi cho thú ăn. Cái thứ thịt bò hảo hạng, cả phòng ai ai cũng muốn sờ mó thử túi thịt bò cho bõ thèm con mắt, cả tổ ai ai cũng muốn dành chân thái thịt, họ say mê thái nhỏ từng miếng thịt bò mà nhựa dường như dính tay với bao vẻ lưu luyến tiếc rẻ. Chúng ta còn nhớ thời ấy là thời bao cấp, tiêu chuẩn mỗi nhân viên được ba lạng thịt phiếu dành cho cả tháng mà có mấy ai dám mua thịt, họ chỉ mua mỡ nước mà xào nấu vớ vẩn cho đỡ nhớ, ấy thế mà bây giờ trước mắt họ cả súc thịt bò tươi năm ký đang được băm vằm dâng cho khỉ. Mẹ kiếp tiến hoá bỏ mẹ gì! Ngẫm cũng lạ! Nhưng đã là lệnh thì cũng đành mà liếm mép cho xong. Họ xẻ thịt vào máng đưa vào chuồng khỉ, lũ khỉ nhao nhao ào tới trước những đôi mắt tiếc rẻ của mọi người, nhưng chúng lại ào ào bỏ chạy leo tót lên các gờ giáo sợ hãi. Chờ mãi chúng vẫn chẳng ăn, chị tổ trưởng nghĩ ra một cách mới - mang xào thịt lên như cho người và dâng cho chúng xem sao, kết quả chỉ làm khổ thêm cho bao người nấu nướng, vì cái mùi thịt bò xào nó lại thức dậy trong lương tâm mỗi người. Thịt thì đã bầy trong chuồng nguội tanh nguội lạnh mà các cụ thì chưa buồn xơi, tới giữa chiều thì chị tổ trưởng đành quyết định cho mang ra thanh lý. Và cả tổ trong đó có tôi cũng được mời xơi một bữa thịnh soạn, thịt nguội nhưng sao mà ngon thế, chừng như đến tận bây giờ trong tôi vẫn còn cái dư vị bữa tiệc ngày hôm ấy. Cả tổ cứ là cảm ơn cụ Đác-uyn vì cái thuyết tiến hoá mà cụ để lại, đời họ vừa có việc đi làm, có cơm để ăn, có hoa quả để xơi và hôm nay có cả món thịt bò tiến hoá. Khi đã giải quyết xong năm ký thịt, giờ đây là lúc mọi người sẽ phải lý giải ra sao cho năm ký thịt bò đương được tiêu hoá. Cả tổ cứ nhao nhao mà nghĩ kế và rồi họ đi đến một kết luận đầy vẻ tiến hoá. Chị tổ trưởng ghi vào sổ giao ban: “Có chịu ăn thịt bò nhưng còn chậm”.
Ngày hôm sau ông lão xuất hiện đầy vẻ sốt ruột vừa gặp mọi người ông đã hỏi thế nào? “Thưa sếp chúng chịu ăn nhưng còn chậm”. Ông lão vui mừng ra mặt, mắt ông ánh lên một niềm hy vọng khôn cùng, và ông lão hân hoan ra lệnh cho cả tổ: “Cứ tiếp tục”. Và cái lệnh quý báu ấy được kéo dài trong mười ngày. Cả tổ chừng như ai cũng thương yêu cụ khỉ nhiều hơn nữa vì có ánh sáng của cụ mà họ được xơi thịt bò miễn phí, nhưng rồi đến một hôm vào cái ngày đen tối khi thịt bò đã được xào hành tây đâu vào đó thì ông lão xuất hiện, cả tổ đành nín thở đổ chảo thịt vào máng dâng cụ khỉ. Trước mặt ông lão bầy khỉ rú lên như phải bỏng, còn tôi thì muốn bóp cổ chúng cho câm họng thét gào. Có lẽ lũ khỉ bị dị ứng hành tỏi và để lại nỗi khổ cho bao người. Ông lão giận dữ lặng lẽ quay ra, bỗng ông quay lại nhìn thẳng mọi người quát lên trong phẫn nộ:
Các chị đã làm hỏng một công trình khoa học, ngày mai các chị nghỉ việc.
Chợt nhìn thấy tôi lóng ngóng đứng đó ông nói lên như gào:
Cả anh nữa…
Thật vô lý, xong có một cái lý mà tôi không sao cãi lại được vì tôi là tòng phạm. Ngày hôm sau phòng tổ chức cho gọi cả phòng dinh dưỡng lên gặp và trước mặt mọi người có cả tôi - trưởng phòng vệ sinh – Họ đọc quyết định nghỉ việc. Tất cả nhao nhao lên mà phân bua, mà khóc lóc, trong tôi một nỗi ê chề chán nản như trào lên, tôi lặng lẽ ra đi không bàn cãi – Xin vĩnh biệt đống cứt thối tha của thuyết tiến hoá, vĩnh biệt ngài Đác-uyn. Tôi không thể chờ được thành quả của ngài, vì đời tôi có hạn, hãy vứt cả ngàn năm của ngài vào sọt rác còn tôi chỉ cần sống và có miếng ăn. Mấy ngày hôm sau, số phận lại bắt tôi trở lại cơ quan, khi đi qua khu chuồng khỉ, bọn nó vẫn thế, cứ nhởn nhơ trên bước đường tiến hoá chỉ có khác đã xuất hiện một số người mới lại tiếp tục cái sứ mệnh nghiên cứu về cái thuyết tiến hoá, mùi vị bốc lên vẫn vậy, thật khốn khổ khi bụng đói mà phải ngửi cứt. Tôi vội vã lên phòng tổ chức lấy lại hồ sơ và lặng lẽ ra về không một lời chào hỏi, ra đến cửa tôi gặp ông lão cũng lững thững đi ra, tôi bực tức nhìn ông và tôi nhìn thấy sau cặp kính, tận đáy sâu trong đôi mắt ông một nỗi buồn thất vọng, tôi chào ông - ông lặng lẽ cúi đầu. Mãi sau này tôi mới được biết, sau những ngày chúng tôi bị buộc thôi việc chính ông đệ đơn xin từ chức. Có lẽ ông đã tính lại và nhìn thấy các nhân viên của ông cần tiến hoá hơn trên cõi đời.
2002
 

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Trở về hoang dã - 07.08.2009 21:19:04
Trở về hoang dã
 
Cuối cùng trong khoảng khắc thí mạng nó đã được tự do! Thật kinh hãi khi bà chủ trại gầm lên tiếng thét phẫn nộ, dang tay quất kẻ phạm luật giành ăn. Trong khoảng khắc nóng giận của chủ, Mực ta sợ hãi lao qua cửa chuồng và một hơi phóng thẳng ra cửa trang trại! Bỏ lại sau nó bao tiếng gào bực tức.
Cứ thế bốn cẳng chụm lại căng ra mà nâng cái thân hình đen sẫm, uyển chuyển như bay trong gió. Sự sợ hãi trả lại cho nó bản năng loài thú chừng như bị quên lãng. Cứ thế, nó lao về phía trước như làn gió. Không khí miết vào bộ lông đen sẫm, tai nó cụp xuống, toàn thân như trườn trong không gian kinh hãi, sảng khoái, tự do. Có lẽ trong đời từ lúc sinh ra, lần đầu tiên nó được chạy nhiều đến thế! Chẳng cần định hướng, nó cứ chạy trong cái không gian muôn chiều. Thỉnh thoảng nó dừng lại, nhìn về nơi xa xăm đã tù túng nó gần hết cuộc đời, tai nó dương lên như chọn trong không gian những âm thanh quen thuộc từng bao dung nó một thuở, rồi lại chạy, quả thực tác dụng của đòn vọt vẫn còn linh nghiệm! Nó như làm tiêu tan đi bản năng loài chó. Một hấp lực ghê người, khi tiếng gào dội lên, làn roi xé gió trên không, thì bản năng sinh tồn loài chó tiêu tan đâu mất! Nó chẳng biết tại sao! Song có lẽ từ đời ông cha nó đã như vậy! Tất cả đều co giúm gào lên sợ hãi, Mực có thể cắn xé, hạ thủ tất cả mọi con trong trang trại để giành lấy quyền lực, song nó không thể vượt qua cái quyền lực ghê gớm của chủ mình. Và cứ thế, từ lúc còn bé nỗi đeo đẳng cứ lớn hoài theo năm tháng. Một sự khuất phục truyền đời thứ mệnh lệnh mà họ hàng nhà chó không sao hiểu nổi. Nó cứ phải trung thành, thủy chung với tất cả gia đình nhà chủ. Đêm về là thế giới êm đềm dành cho loài chó. Khi gia đình ông bà chủ đã ngủ yên, cả trang trại như một nấm mồ tĩnh lặng, vạn vật lắng xuống, quên đi, bóng tối từ trong những ô cửa như tràn ra, lấp đầy cả không gian mờ ảo, có lẽ lúc đó loài chó thức dậy cựa mình. Có một thứ ánh sáng mọc lên trong mắt chúng, cái thứ ánh sáng thủy chung, trong sáng mà loài người mấy ai thấy nổi. Nó phản chiếu thứ ánh sáng tinh khiết xiết bao, tự tin và ấm áp, mong manh nhưng thấu suốt, chân thành và tin cẩn, có thể đó là những tia nắng mặt trời cuối cùng trong ngày được giữ lại trong đôi mắt chúng, đầy thủy chung và ấm áp trong đêm. Vĩnh viễn trong cái bóng tối ấy, xã hội loài chó nương tựa, hòa quện vào nhau mà sống. Không thứ gì động đậy trong đêm mà thoát khỏi mắt chúng, tất cả được kiểm soát và phân loại, mọi hành động như bện vào nhau mà che chở cho trang trại yên hàn.
Có lẽ chúng hiểu! Khi ánh mặt trời mọc lên là lúc cơ hàn dành cho loài chó! Mọi thứ khổ đau như mọc lên dưới ánh mặt trời. Nó rùng mình dừng lại, đôi tai nghếch lên như dọi vào không gian. Ánh nắng đang lịm dần trên những sườn đồi tím sẫm, bóng tối phả những lợt sương mỏng trên những đỉnh đồi. Một bóng đêm nhen nhóm khơi lên, lòng nó như thức dậy, nhưng đói khát dìm bốn chân nó xuống. Nỗi hoang vắng và mệt mỏi, trang trại và khẩu phần ăn, nỗi nhớ bầy, nhớ bữa, như khơi lên trong mắt nó. Vẻ hoang dã của thiên nhiên đánh thức nó dậy, nhưng nó lại lặng lẽ nằm xuống, hai chân trước ôm lấy cái đầu mệt mỏi, tai nó vểnh lên như suy nghĩ, như thiếp đi. Một bóng chiều lướt qua đời nó đầy hoang dã! Thỉnh thoảng nó lại chồm lên gầm gừ với những con thú nhỏ nhoi trên đường về tổ. Có lẽ cái bản năng về đêm đang thức dậy trong nó với đầy đủ sự hoang dã, cô đơn, song cái đói như dìm nó xuống. Ở trên đời có một chân lý chung dành cho mọi vật sống đó là cái đói! Vạn vật như mờ đi! Ảo ảnh! Mọi loài vật như nhau, bản năng sinh tồn thức dậy! Ánh lửa trong mắt nó bừng lên thiêu cháy, khi trong đêm cất lên tiếng hú man dại của loài sói gọi bầy. Nó vùng dậy xù bờm lao vào đêm tối.
Đó là chân lý! Sự đói khát có một ma lực tìm đến nhau! Trong đêm tối những ánh mắt lang sói hiện lên, những đốm lửa tìm nhau thèm khát, và cái vũ điệu ghê hồn của đêm cồn lên trong tiếng tru gào man dại, những tiếng dằng xé, như quện vào nhau trong cái bữa tiệc linh đình của muôn loài hoang dã. Thanh âm như xé cả một vùng đêm tối tả tơi. Thế rồi cái bản năng sinh tồn lại lần nữa cứu con Mực thoát khỏi những hàm nanh sắc lạnh của bầy sói cùng loài. Với thân hình tơi tả, cứ thế nó chạy như ma đuổi. Trước cái chết loài vật bao giờ cũng trở nên nhanh nhẹn, và lúc tàn hơi mọi sinh vật đều muốn tìm trở lại cội nguồn! Nó gục xuống bên bờ rào trang trại, như một đám bầy nhầy vấy máu. Khi ánh bình minh cất lên, những tia nắng đầu tiên ngời lên pha sắc máu, những vết thương trên cơ thể nó chừng như bén lửa, chỉ còn lại sự run rẩy trong đau đớn và đói khát. Phía bên kia hàng rào, những tiếng chó cùng bầy ư ử vang lên cái điệp âm như muốn chia sẻ cùng nó bao đau đớn. Cả bầy con nọ lách con kia chen nhau như muốn sát lại gần nó hơn. Trong không gian buổi sáng dưới ánh mặt trời, một bản tình ca đồng loại vang lên với bao tiết tấu trầm buồn vô vọng, nó như bản nhạc muôn đời khổ đau dành cho loài chó! Những ánh mắt bấn loạn thẫn thờ, những móng vuốt vật vờ, vô vọng. Một bờ rào đã tạo cho cuộc đời chúng những cung bậc thăng trầm muôn thuở, bao tiếng rên rỉ đè nén như bay lên và khỏa lấp trong cõi trời bao la. Nó lặng lẽ nhìn bầy rồi đau đớn liếm những vết thương trên bộ lông đen sẫm bê bết máu. Những cái mũi hít gió, những bàn chân quờ quạng trong cái không gian hạn hẹp tường rào như muốn chia sẻ cùng nó bao đau đớn lạc loài đói khát. Thời gian của một ngày như trả lại cho nó cái bóng chiều thoáng dịu, như muốn ru đi hai cõi sống dưới một bầu trời! Bên kia là miếng ăn cực nhục! Bên này là đói khát, tự do!
Có lẽ thượng đế ban cho cõi đời một màn đêm để mà suy ngẫm. Khi bóng tối đã che phủ khắp nơi cũng là lúc trang trại vang lên tiếng gõ nồi gọi chó. Cái thứ âm thanh khô khốc như tiếng vỡ đổ trong chiều. Con Mực xù bờm, rùng mình nghe tiếng gọi! Đàn chó ăng ẳng trở về nơi máng ăn! Chỉ còn lại mình nó trong bóng tối bên bờ rào trang trại. Nó nghển đầu hít một hơi dài cái dư vị bầy đàn xa dần trong bóng tối. Xa xa chỉ còn những tiếng sủa ăng ẳng và tiếng nguyền rủa vọng về. Nó rùng mình loạng choạng quay về con đường cũ – Con đường mà đêm qua nó trở lại. Có lẽ những giọt máu vương vãi trên đường đã khô, nhưng còn nóng trong ánh nắng ngày ảm đạm. Đêm đã về, cỏ cây như cựa mình thức dậy. Sự sống như tràn ngập cõi trời, nó đắm mình trong đêm tối. Ở đâu đó xa xôi vọng về tiếng gọi! Bóng nó nhạt nhòa rồi chìm hẳn trong đêm.
 
2002

vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Một suy ngẫm - 15.08.2009 18:38:17
Một suy ngẫm


 Người rách việc là người hay nghĩ, mà cũng phải thôi, kẻ khó thường hay ngẫm ngợi, so sánh! Sự đời mỗi ngày mở ra như một trang vở mới, có kẻ nhìn vào đó tối sẫm như bức vách, có người như buổi sáng tinh mơ, nhưng chung quy tất cả chúng ta đều suy ngẫm. Một ngày mới thì chưa tới, chưa qua, song chúng ta đều bắt đầu đặt vào đó biết bao nhiêu hoài niệm, trái phải và tất cả chúng ta đều phải bước tới một ngày. Chỉ có vậy, một ngày là 24 giờ chẳng kém, nó cứ lững thững đi qua đời kẻ khó và chạy biến qua mọi cuộc vui.
Người ta so sánh thời gian của nhau để tìm ra khác biệt vui buồn, sướng khổ nên thời gian nhiều khi cứ như kẻ vô loài ác độc, nó như cái thước, như quan tòa cho mọi suy ngẫm trên đời! Người ta mầy mò, dòm dõi nó cứ như là của lạ mà thực sự thì có gì là lạ lắm đâu, thật giản dị, buổi sáng có ánh mặt trời, về chiều có bóng đêm đó là hai cực của một ngày trôi nổi, song con người ta vẫn cứ là suy ngẫm mà tất cả có ai bỏ một giờ nào trong ngày đâu, họ tận dụng thời gian như ăn quả dừa: nước uống, cùi ăn, vỏ làm gáo, có lẽ cõi đời thật tuyệt diệu nên loài người thường hay kêu ca về nó! Có thể chúng ta là thành tinh của loài khỉ nên hay thường tò mò tinh quái như vậy, chúng ta cứ sống mà dày vò, dằn vặt nhau cho đủ hai bốn giờ trong ngày, chẳng sót phút nào mà ngơi, mà nghỉ, mà suy, mà ngẫm.
Thời gian cứ căng thẳng như sợi dây đàn, mà tiếng kêu là loài người tri kỷ. Họ sống trong thời gian và kêu ca về nó, có lẽ loài người khổ hơn cây cỏ vì thiên nhiên có than vãn gì đâu, người ta chiêm ngưỡng nó, song không học được điều gì ở nó, có lẽ chỉ có Lão Tử là người duy nhất thoát khỏi muộn phiền, tự hòa mình vào thiên nhiên không thiệt hơn, đừng phải trái. Mà ngẫm cho cùng, chúng ta có làm được điều gì hơn đâu! Tất cả có lẽ đều chỉ là vớ vẩn.
2002


vuthi
  • Số bài : 139
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.02.2009
Ngôi thứ ba - 15.08.2009 18:43:25
Ngôi thứ ba
Cái động trong cái bất động nhiều khi biến cõi đời trở thành ảo! Giữa cái thật và cái không thật khi ta không còn nhận ra nữa thì đó là mù quáng - mà mù quáng thì có lẽ là không tồn tại! Một thứ cửu chương hai lần hai là bốn mà lại không phải là bốn! Nó như một anh chàng nhà quê khẳng định mình là nhà quê bên một nhà trí thức khẳng định ta là nhà trí thức, song hai kiếp người này chẳng khẳng định được gì cho nhau cả! Họ là hai thứ nghịch lý trái chiều! Có lẽ đó là cái bất động trong cái động! Và ở đây sinh ra một chàng thứ ba! Nông dân thì cũng chẳng mà trí thức thì cũng không, hắn ta xuất hiện giữa cái nghịch lý vô cùng! Mà cái giống đời, khi hai người cãi nhau chẳng đã thì họ hay tìm đến một người thứ ba, nông dân cũng chẳng, trí thức cũng không, có lẽ con người này sẽ chẳng thiên vị cho ai được. Mà đã là người hòa giải phải như vậy mới phải lẽ! Mà cái giống đã len ở giữa thì bao giờ cũng có sức mạnh – Mà sức mạnh ghê người cơ chứ! Thế là hắn cứ lấy thừng sỏ mũi chú nông dân và lấy dây trói cổ chàng trí thức kia lại, cột chặt họ lại với nhau, kẻ áo nâu sồng bên anh chàng đeo calavat. Và mặc cho họ trong cuộc hôn phối bẽ bàng. “Cứ mặc cha chúng!” cái giống đời lửa gần rơm lâu ngày thì bén, mà rõ chuyện đời bao giờ cũng thú vị! Thuận hay nghịch cứ như đàn ông với đàn bà, họ cứ ẩn nhau ra mà lại là xích lại. Nên ngẫm cho cùng cái anh chàng vô dụng thứ ba đâm ra đắc lợi! Mà cái nghề của hắn tôi tra trong từ điển bách khoa thì chẳng nói tới, thế mới là bỏ mẹ! Nghề mà lại không là nghề, ngỗng mà lại không là ngỗng, nó cứ như là ma, là quái ẩn hiện trên cõi đời mà len vào mọi chuyện! Mà có hắn nhiều khi cũng hay, bác trí thức và cậu nông dân kia trói gần nhau lâu ngày đâm bén mùi, nhớ vị và rồi đủ tháng đủ ngày họ sinh, họ nở cũng như ai! Mà đứa trẻ trông mới thật là vui cơ chứ! Vừa có máu nhà quê vừa mang hồn thành thị! Có lẽ sau này chắc nó vừa cưỡi trâu giải toán vi phân là cái chắc. Mà dứt khoát phải là như thế. Mẹ kiếp cái sáng kiến cứ trói cổ chúng lại với nhau mà được việc thật, cũng bõ cho một cái nghề còn cao hơn cả từ điển, mà từ điển thì đã là cái gì? Hắn đẻ nốt cả ra từ điển nữa ấy chứ! Có lẽ phải thế thì câu chuyện mới tuyệt mà tuyệt thật sự chứ chẳng đùa.
Tháng 3/2002