Thai Phụ * Thai Nhi
HongYen 15.03.2005 03:34:50 (permalink)


23 Tháng 2 2005 - Cập nhật 22h04 GMT

Không ăn thịt gây hại cho thai nhi

Thức ăn của trẻ quyết định sự phát triển về thể xác lẫn thần kinh

Giáo sư Lindsay Allen một chuyên gia dinh dưỡng thuộc University of California đọc tham luận tại hội nghị thường niên của Hiệp hội thăng tiến khoa học Mỹ, AAAS, nói rằng nếu người mẹ không ăn thịt, đứa bé sẽ không có đủ chất dinh dưỡng cần thiết để phát triển.
"Trong 25 năm qua chúng ta đã biết quá rõ: vấn đề lớn nhất của tình trạng thiếu hụt lương thực ở các nước đang phát triển không phải là vì thiếu chất đạm, không phải vì thiếu năng lượng ngoại trừ là bị đói trầm trọng, mà vấn đề là vì trong thức ăn thiếu những chất dinh dưỡng như vitamin A, chất sắt, chất kẽm, vitamin B12. Đó mới là nguyên nhân làm cho trẻ em không phát triển được."

Nghiên cứu ở Kenya cho thấy chỉ cần cho trẻ em một lượng nhỏ thịt hay lương thực làm từ thịt cũng đủ cải thiện đáng kể sự phát triển về thể xác và thần kinh so với những đứa bé được uống thêm vitamin.

Nghiên cứu ở Ấn Độ cho thấy phụ nữ mang thai mà ăn thịt sinh con to và khỏe hơn. Nhưng Giáo sư Lindsay Allen cũng nói đến những thực phẩm được cho thêm vitamin, và còn một cách nữa là uống thêm vitamin.

"Đây là cách được nhắm cho phụ nữ và trẻ em là cho uống thêm một số vitamin, đặc biệt là vitamin A, chất sắt. Nhưng phụ nữ mang thai nên ăn thịt và các sản phẩm làm từ sữa, mỗi thứ một ít thì rất tốt."

Giáo sư Lindsay Allen còn nói rằng theo bà mang thai mà không ăn thịt là hành động phi đạo đức, "Tôi thực sự tin rằng cha mẹ không được quyền buộc con mình không ăn thịt; hay là phụ nữ mang thai hay đang cho con bú mà không chịu ăn thịt bởi vì, rõ ràng sẽ có những hậu quả không đảo ngược được, và có khả năng gây tác hại vĩnh viễn cho sự phát triển của đứa bé."

"Tôi sẽ nói là phi đạo đức nếu cha mẹ không cung cấp lương thực làm từ thịt cho đứa trẻ phát triển, cho dù còn trong bụng mẹ hay đã sinh ra, bởi vì chúng cần những chất dinh dưỡng đó để phát triển được bình thường."

Những chất dinh dưỡng như vitamin B12 chỉ có trong thịt hay thực phẩm làm từ động vật và nếu thiếu có thể dẫn tới hậu quả nghiêm trọng cho đứa bé thí dụ tổn thương thần kinh và ảnh hưởng đến khả năng ngôn ngữ và khả năng học hỏi.

Tuy nhiên Hiệp hội những người không ăn thịt ở Anh, the UK Vegan Society quả quyết kết quả nghiên cứu của họ cho thấy những người không ăn thịt thường là khỏe mạnh hơn.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/science/story/2005/02/050223_babyanddiet.shtml
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.12.2006 23:41:42 bởi HongYen >
#1
    HongYen 24.03.2005 16:21:25 (permalink)
    Mình ơi, em muốn sanh con trai

    Câu Chuyện Thầy Lang
    Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC

    Mình ơi, em muốn bé trai


    Vân và Minh là cặp vợ chồng mới cưới. Vân sanh trong gia đình với " ngũ long công chúa", nên nàng thấy như thiêu thiếu một cái gì.. Và từ lâu, Vân vẫn mong là khi lập gia đình thì sẽ đẻ hai đứa con trai và một con gái, cho chúng chơi với nhau có nam có nữ. Với Minh thì "Có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ",ï con nào cũng là con.

    Trong lịch sử nhân loại, niềm ước mong có con trai hoặc gái đã xuất hiện từ thuở xa xưa. Đã biết bao nhiêu triều đại vua chúa vì không có hoàng nam nối ngôi mà xáo trộn, bao nhiêu hoàng hậu bị bạc đãi vì không sanh được hoàng tử mà đức vua cũng như thần dân mong muốn. Ngoài thứ dân thì cũng đã nhiều xào xáo trong gia đình vì đứa con sanh ra không phải giới mà cặp vợ chồng mong đợi. Và người đàn bà vẫn là nạn nhân của niềm ước mong rất cá nhân này.

    Các cụ ta khi xưa thì vẫn "nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô ". Một phần vì cần con trai để nối dõi dòng họ, phần khác vì quan niệm "Con gái là con người ta". Ngoài ra, còn nhu cầu nhân lực cũng như bảo vệ an ninh nên con trai vẫn được ưa thích hơn, nhất là với đứa con đầu lòng.

    Khi được thăm dò ý kiến thì đa số đàn ông, ngay cả các bà me,ï đều muốn có con trai. Các nhà kinh tế lại còn nói rằng nuôi con gái cũng tốn kém hơn là nuôi con trai cơ đấy.
    Trong thực tế, đã có em sanh ra ngoài ước muốn, đều chịu những đối xử không đẹp từ cha mẹ. Lớn lên họ trở thành tiêu cực, cô lập, chống đối hoặc không biết mình phải hành động nam hoặc nữ. Nhiều cha mẹ cho con mặc quần áo, mang trang sức theo giới mà mình ước muốn. Con trai cho đi học vũ ba lê, con gái đi đá banh..
    Ngày xưa, khi chưa có khái niệm gì về sự thụ tinh với tinh trùng, trứng và gene di truyền thì đã có nhiều phương thức, đúng hơn là mẹo, được đưa để lựa trai gái.

    Có nhiều tin tưởng vui vui như: ngọc hoàn bên trái tạo ra tinh trùng nữ, bên phải tinh trùng nam, nên nếu cột một bên thì chỉ sinh con một giới; khi giao hợp nằm nghiêng bên phải sanh trai, nghiêng bên trái thì sanh gái; làm tình hôn cắn tai phải vợ sanh nam, cắn bên trái thì nữ; bà bầu ăn của ngọt sanh trai, ăn nhiều thịt sanh gái. Rồi lại còn giao hợp khi trăng tròn sẽ sanh gái, trăng khuyết sanh trai..

    Một y sĩ Hy Lạp E Rumley Dawson vào đầu thế kỷ trước tuyên bố người đàn bà quyết định sex: noãn sào phải cho trứng sinh trai, bên trái cho trứng sinh gái và mỗi bên thay phiên nhả trứng, một tháng gái một tháng trai. Vậy ta cứ theo đó mà giao hoan là có giống đực giống cái theo ý muốn.

    Các cụ Đại Cồ Việt ta không nghĩ ra mẹo để chọn trai gái, nhưng nghĩ ra cách để đoán thằng cu hay cái đĩ. Trai nằm bên trái bụng mẹ, gái nằm bên phải; gọi đàn bà có thai mà quay lại bên phải là gái, quay trái là trai; thai nhi cựa mạnh là trai, cựa yếu là gái; bụng bà bầu dẹp là trai mà tròn là gái; cột cái nhẫn cưới vào sợi tóc, đu đưa trước bụng bà bầu: nhẫn lắc lư là con trai mà xoay tròn là gái.

    Tới thế kỷ thứ 20 thì khoa học soi sáng hơn về vấn đề thụ tinh.

    tiếp....
    #2
      HongYen 24.03.2005 16:25:56 (permalink)

      Tới thế kỷ thứ 20 thì khoa học soi sáng hơn về vấn đề thụ tinh.


      Người ta đã khám phá ra rằng tinh trùng của người đàn ông quyết định giới tính. Rồi khám phá mới hơn là tinh trùng có hai loại: một loại mang tính đực nhiễm thể Y một loại mang tính cái với nhiễm thể X. Trứng người nữ chỉ có nhiễm thể X. Khi X gặp X thì sanh gái mà khi X kết duyên với Y thì sanh trai.
      Khoa học cũng thấy rằng tinh trùng mang nhiễm thể Y nhỏ, ngắn và di chuyển mau hơn tinh trùng nhiễm thể X nhưng lại dễ bị tiêu hủy vì thay đổi hóa tính của môi trường tử cung. Tinh trùng nhiễm thể X nhỉnh hơn, di chuyển chậm, chịu đựng rủi ro và sống lâu hơn.
      Từ các khám phá đó, khoa học gia tìm kiếm phương thức phân tách hai loại tinh trùng, chọn loại X hay Y để giúp cha mẹ lựa giới cho con. Trong y học, ban đầu việc lựa giống chỉ được áp dụng khi muốn ngăn ngừa một số nan bệnh di truyền theo giống đực hoặc cái. Bây giờ thì người ta lựa giống vì lý do tôn giáo, kinh tế, xã hội hoặc ý thích riêng.
      Các phương pháp sau đây đang được nghiên cứu, áp dụng.
      a-Microsort phân loại tinh trùng nam Y và nữ X bằng cách nhuộm mầu nhiễm thể rồi lựa tinh trùng X hoặc Y tùy theo ý muốn để cho thụ tinh với trứng X.

      b-Để tinh dịch lắng trong một ống nghiệm: tinh trùng Y bơi nhanh hơn X sẽ lắng xuống đáy mau hơn; lấy tinh trùng Y hoặc X cho thụ tinh với trứng.

      c-Cho trứng và tinh trùng thụ tinh trong ống nghiệm thành phôi bào. Từ phôi bào, nhận diện tế bào nào mang nhiễm thể đực Y hoặc nhiễm thể cái X. Lấy tế bào đã lựa và cấy vào dạ con bà mẹ để thành hài nhi. Còn tế bào không cần thì vứt bỏ. Phương pháp này coi như rất hoàn hảo nhưng khá tốn kém, cả gần hai chục ngàn mỹ kim.


      d-Một bác sĩ khác thì khuyên giao hợp vào ngày rụng trứng nếu muốn con trai hoặc vài ngày trước khi rụng trứng nếu muốn con gái. Họ giải thích là khi trứng vừa rụng, các tinh trùng Y bơi nhanh hơn sẽ tới trứng trước để kết hợp với trứng nữ; giao hợp trước vài ngày thì tinh trùng X sống lâu hơn Y và X sẽ độc diễn giao duyên với trứng. Người phát minh ra phương pháp này giới thiệu thành công với 75% lựa gái và 80% lựa trai.
      Nhận xét chung, các phương pháp hiện nay cũng không phải hoàn toàn công hiệu, không áp dụng cho mọi người và cũng không phải an toàn.

      Tuy vậy khoa học đã lấy đi một phần cái quyền năng tạo sinh vật của tạo hóa. Không những giúp người vô sinh có con mà còn giúp con người lựa trai gái theo ý muốn. Ngày xưa, cả dòng họ chờ đợi, cầu nguyện và thích thú khi đứa bé ra đời. Bây giờ chỉ cần bỏ ra vài chục ngàn đồng là không những có con mà còn có giống mình muốn.

      Và từ đó nẩy sinh ra ý kiến thuận và chống của vấn đề.
      Bên Anh, 80% dân chúng không đồng ý việc lựa giới cho con, ngoại trừ vì lý do sức khỏe. Có những bệnh chỉ di truyền cho con trai như loãng máu (hemophilia), bệnh Duchenne Muscular Dystrophy thì lựa có con gái là điều cần thiết. Tổng trưởng Y Tế Anh John Reid nói là ông ta hoàn toàn ủng hộ ý kiến không cho lựa giới chỉ vì ý thích hoặc để cân bằng nam nữ trong gia đình.

      Các nhà lãnh đạo tôn giáo và đạo đức đều phản đối vì trẻ em sẽ được chọn theo những tiêu chuẩn cá nhân, bề ngoài và cho rằng khoa học đã đi quá xa quy luật thiên nhiên.
      Taọ hoá đã sắp đặt để có sự cân bằng nam nữ trên trái đất. Kết quả các nghiên cứu cho biết tỷ lệ nam nữ hiện nay là 105-107 nam cho 100 nữ.

      Như vậy là thiên nhiên đã cho nam nhiều hơn nữ một chút để các cô có thêm mấy đối tượng để lựa chọn. Cũng như thêm vài nhân lực để phục vụ lao động cho quý bà. Cái tỷ lệ này như vậy tưởng như cũng tạm ổn thỏa. Với quan niệm trọng nam khinh nữ thì khi tự do lựa chọn, chắc nam sẽ quá dư thừa. Tình trạng này hiện đang xẩy ra tại Trung Hoa, nơi mà trong nhiều thập niên, chính quyền chỉ cho phép mỗi gia đình có một con. Khi siêu âm biết là con gái thì nhiều bà mẹ đã phá thai. Con gái trở nên hiếm hoi và đàn ông phải kiếm vợ ở các quốc gia khác. Nhưng các quốc gia như Trung Hoa, Aán Độ, Đại Hàn, Việt Nam đều cấm các phương pháp lựa giới tính, cũng như tại nhiều quốc gia ở Âu châu.

      tiếp...
      #3
        HongYen 24.03.2005 16:28:51 (permalink)

        Nhưng các quốc gia như Trung Hoa, Ấn Độ, Đại Hàn, Việt Nam đều cấm các phương pháp lựa giới tính, cũng như tại nhiều quốc gia ở Âu châu.


        Hiệp hội Y Khoa Anh thì nhất định cho rằng lựa giới để thỏa mãn nhu cầu cá nhân và xã hội là điều không chấp nhận được. Và lựa giới cũng kỳ thị nam nữ nữa. Lựa giới này rồi ghét bỏ giới kia.

        Bên Mỹ thì khuynh hướng chung là muốn giữ việc sanh đẻ ở con người có chút tình người, chứ không máy móc, thử nghiệm. Hiện nay chưa có luật pháp nào cấm lựa trai gái vì đây là chuyện riêng tư được hiến pháp Hoa Kỳ bảo vệ. Nhưng đã có những đề nghị điều hòa, kiểm soát các phương thức chọn giống, chỉ áp dụng khi có nhu cầu y học.
        Những người muốn lựa giới cho con thì nghĩ khác.

        Theo họ:
        -Phương pháp nào cũng có một vài rủi ro cho xã hội, nhưng nếu có sự thỏa mãn của mẹ cha, mà đứa trẻ sanh ra được tiếp đón thật tình thì còn gì đẹp bằng.

        -Cái tình cảm mà cha mẹ có đối với thai nhi trước hoặc sau khi sanh ảnh hưởng rất nhiều đến tính tình, hành động của đứa bé sau này. Khi sanh ra mà biết chắc là được cha mẹ mong đợi thì lớn lên nó sẽ ít bị trầm cảm, bực bội.

        -Nếu vợ chồng có thể lựa giới cho con thì sẽ giải tỏa được nỗi buồn lo của họ, gia đình họ mà cũng có ảnh hưởng tốt cho xã hội. Nhiều người chỉ muốn có hai con, một trai một gái. Nếu được như vậy là họ thỏa mãn, vui lòng. Nếu không thỏa mãn, sẽ có những tác dụng tâm lý xấu

        -Cũng có những cha mẹ chỉ nuôi trai hoặc gái chứ không cả hai. Thành ra lựa chọn giới rất tiện cho trường hợp này để cha mẹ và con cùng vui vẻ với nhau, tránh tổn thương. Đây cũng chỉ là trường hợp ngoại lệ thôi chứ khi mà cha mẹ chỉ nuôi tốt con một giống thì là có vấn đề rồi.

        -Lựa trai gái sẽ tránh được các bệnh di truyền theo giới tính , tránh cho cả dòng họ bị bệnh di truyền như vậy.

        -Vào khoảng 1982, bên Trung Hoa hạn chế mỗi gia đình chỉ có một con nên dân chúng đều phá thai khi biết là thai gái. Khi đó nếu có kỹ thuật lựa giống như bây giờ thì đâu có việc làm mất đạo đức này. Nhưng Trung Hoa là một trong mấy quốc gia ở Á Châu cấm các phương pháp lựa trai gái đang áp dụng ở Aâu Mỹ.

        -Nhà nhân chủng học Margaret Mead hoàn toàn ủng hộ lựa chọn vì đây là lần đầu tiên trong lịch sử loài người mà con gái được lựa chọn như con trai. Theo tác giả này, nếu được cha mẹ chọn thì bé gái sẽ lớn lên trong niềm tin là bố mẹ muốn mình thật mà không phải do muốn trai mà lòi ra gái.

        Tất nhiên là sẽ có người lạm dụng các kỹ thuật để chọn trai gái. Sẽ có nhiều người chỉ thích có con trai và sẽ có sự lạm phát nam giới, đưa đến sự mất thăng bằng âm dương nam nữ, tăng đồng tính luyến ái, mãi dâm, bạo hành chỉ vì dương thịnh âm suy.
        Lựa giống cho con có hợp với đạo đức không? Câu hỏi chưa được đáp ứng trả lời vì còn nhiều tranh cãi. Những người phát minh ra phương thức lựa con thì nói rằng chẳng có gì mà mất đạo đức mà lại còn có lợi. Thỏa mãn được đòi hỏi của con người. Tránh được vài bệnh di truyền theo giống. Cân bằng nhu cầu gia đình, xã hội.

        Tiến bộ của khoa học đã mang lại nhiều lợi ích cho nhân loại. Nhưng dường như nó cũng tạo ra nhiều mối suy tư cho con người khi áp dụng các tiến bộ đó. Nhiều người cứ e ngại rằng "Khoa học mà hiếm lương tâm thì chỉ là sự hủy hoại của linh hồn".
        Sanh con không còn được coi như một quà tặng của tạo hóa mà trở thành một sản phẩm tùy theo ý thích của con người. Đã qua rồi một thời cả dòng họ reo mừng khi bà đỡ báo con trai hoặc con gái.

        Một ngày nào đó, người ta sẽ rắc rối đòi lựa mầu mắt, thương số trí tuệ cho con. Chẳng khác chi khi mua săng, muốn super, premium hoặc regular là có ngay.
        Có lẽ cứ vô tư, sống ít đòi hỏi như người tiền sử lại nhiều tình người.
        Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
        Texas -USA
        #4
          HongYen 25.03.2005 06:46:28 (permalink)
          Sinh Trai Hay Sinh Gái\?

          Sinh trai hay gái là môt vấn đề khó khăn chỉ các bác sĩ chuyên khoa về Hiếm Muộn mơí có thể trả lời dứt khoát\.

          Sau đây là tóm tắt vài kỹ thuật sinh con trai hay gái\. Mặc dầu có phương pháp còn chưa được khoa học công nhâ.n\.

          1) Phương pháp Shettles thiên nhiên sinh trai hay gái\. Sách do Bs Landrum Shettles xuất bản năm 1970\.
          Theo lý thuyết của Shettles thì có 2 thứ tinh trùng: tinh trùng mang nhiễm thể Y, sinh con trai và tinh trùng X, sinh con gái\. Tinh trùng Y đầu nhỏ, chuyển động nhanh, chết sớm và tinh trùng X đầu lớn chuyển động chậm, chết trễ\.
          Trong môi trường thuận lợi, tinh trùng Y chuyển động nhanh dính vào noãn, sinh con trai\. Trong môi trường không thuận lợi, tinh trùng Y chết sớm, tinh trùng X dính vào noãn, sinh con gái\.
          Trước hết là phụ nữ cần biết lúc nào rụng trứng\. Giao hợp (chỉ một lần thôi) trong thời điểm thuận lợi, tức là 12 giờ trước khi trứng rụng\. Thơì điểm này sẽ thuận lợi cho tinh trùng Y, tức là sinh con trai\.
          Sau ngày cuối cùng kinh nguyệt, giao hợp thường xuyên hơn tới 2-4 ngày trước khi trứng rụng\. Sau đó không giao hợp nữa cho tơí thơì điểm 2-3 ngày sau khi rụng trứng\. Xuất tinh nhiều lần thì lượng tinh trùng hay nồng độ tinh trùng sẽ giảm đi và do đó có cơ hội sinh con gái\. Phương pháp này còn gọi là In Vitro Fertilization (IVF)\.

          2) Bs Shettles sau đó đưa ra phương pháp khác còn gọi là gamete intrafallopian transfer (GIFT)\. Phương pháp IVF cũng tương tự như phương pháp GIFT\. Chỉ có điểm khác là trong phương pháp IVF, phôi được ủ trong tử cung phụ nữ, trong khi phương pháp GIFT thì trứng và tinh trùng đặt thẳng vào ống dẫn trứng Fallopian, tức là trong môi trường gần với thiên nhiên hơn\.

          3) Phương pháp PDG (Preamplantation Genetic Diagnosis)\. Khi trứng đã thụ thai ngoài tử cung, giống như phương pháp IVF, nhưng mục đích của phương pháp PDG là các bậc phụ huynh muốn sinh con trong tình trạng ít bị khuyết tật, như bệnh tự kỷ, hội chứng Down, bệnh teo bắp thịt muscular dystrophy, bệnh phổi cystic fibrosis, bệnh thiếu máu sickle cells, và bệnh lãng quên Alzheimer\.

          Áp dụng phương pháp này trong việc lựa chọn sinh trai hay sinh gái dựa theo phân tích 2 nhóm: tinh trùng có nhiễm sắc thể X sinh con gái và tinh trùng có nhiễm sắc thể Y sinh con trai\. Sau khi phân chia tinh trùng thì sẽ áp dụng phương pháp thụ thai IVF hay IUI\.
          Phương pháp IVF đã trình bày ở trên\. Còn phương pháp IUI (intrauterine Insemination) thì rửa tinh trùng, làm tăng nồng độ tinh trùng, rồi chích thẳng vào tử cung\.
          Xin nhắc lại, muốn sinh trai hay gái, nên tham khảo vơí bác sĩ chuyên khoa về hiếm muộn (Infertility)\.

          Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D\.
          #5
            HongYen 28.10.2005 13:51:17 (permalink)


            Phụ nữ có thai nên tránh xa cá ngừ
            23:59:23, 27/10/2005

            Viện nghiên cứu về rủi ro của CHLB Đức (FIRA) đã khuyến cáo phụ nữ có thai và cho con bú không nên ăn cá ngừ và cá bơn vì trong hai loại cá này có chứa chất methyl mercury có thể gây độc hại cho trẻ lúc còn trong bụng mẹ và sau khi chào đời.

            Theo đó, các chất độc hại có thể theo sữa mẹ truyền qua cho bé làm hại đến sức khỏe của chúng. Tuy nhiên, methyl mercury không phải là một độc tố tồn tại lâu dài trong sữa mẹ nên các phụ nữ mới được khuyên không nên ăn cá ngừ và cá bơn trong thời gian mang thai và cho con bú.

            U.P
            (Theo Indiatimes)

            http://www2.thanhnien.com.vn/Suckhoe/2005/10/28/127024.tno
            #6
              HongYen 16.07.2006 23:25:55 (permalink)
              Giáo dục các bà mẹ về chế độ dinh dưỡng giúp cải thiện tình trạng sức khỏe và khả năng học tập của trẻ em

              14 July 2006



              Chương Trình Lương Thực Thế Giới nói phải bảo đảm cho trẻ em ngày từ lúc bắt đầu sự sống phải nhận được một chế độ dinh dưỡng thích hợp và có điều kiện tiếp cận với các chương trình hỗ trợ và phát triển giáo dục.

              Trong phúc trình thường niên đầu tiên về nạn đói, cơ quan lương thực của Liên Hiệp Quốc nói rằng giáo dục các bà mẹ về chế độ dinh dưỡng thích hợp có thể giúp cải thiện rất lớn tình trạng sức khỏe và khả năng học tập cho con cái của họ. Từ Geneva, thông tín viên Lisa Schlein của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ gởi về bài tường trình sau đây.

              Bà Sheila Sisulu, Phó Giám Đốc Chương Trình Lương Thực Thế Giới, cho biết một nghiên cứu của cơ quan này về sự liên quan giữa tình trạng thiếu dinh dưỡng và khả năng học tập đã tìm ra rất nhiều bằng chứng cho thấy khả năng học tập của một đứa trẻ sinh ra từ một phôi thai lớn lên trong môi trường thiếu chất dinh dưỡng vi lượng đã bị kiếm khuyết ngay trong quá trình phát triển đó.

              Bà Sisulu nói rằng điều này sẽ tạo ra một vòng luẩn quẩn tai hại, đó là con cái của những bà mẹ thiếu dinh dưỡng có khả năng học tập kém sẽ tiếp tục truyền hậu quả tại hại đó cho thế hệ kế tiếp.

              Vấn đề này có thể khắc phục được bằng cách giáo dục, và phải bảo đảm rằng các bà mẹ mang thai phải nhận được đủ chất dinh dưỡng, bởi vì trẻ em không bị thiếu dinh dưỡng từ trong phôi thai như vậy sẽ có khả năng học tập tốt hơn, và như vậy các em đó sẽ có nhiều khả năng tiến xa hơn trên con đường học hành. Như vậy cái vòng luẩn quẩn có thể khắc phục được.

              Chương Trình Lương Thực Thế Giới nói rằng khoảng 1/3 trong tổng số 300 triệu trẻ bị nạn đói kém và thường xuyên không được cắp sách đến trường. Số trẻ em này là một vấn nạn thách thức nỗ lực phát triển của một đất nước.

              Bà Sisulu nói rằng chính phủ của các nước phải hiểu rằng đầu tư cho chế độ dinh dưỡng và giáo dục là đầu tư cho sự phát triển lâu dài.

              Bà Sisulu dẫn chứng nhiều trường hợp đã đạt được thành công. Bà kể về một cuộc nghiên cứu được thực hiện tại Jamaica cho thấy các trẻ em bị thiếu dinh dưỡng đã đạt được số điểm cao hơn trong cuộc thi ăn nói lưu loát sau khi những em này được cho ăn sáng đầy đủ. Một trường hợp thành công khác là Chili đã giảm được tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng từ 60% vào năm 1950 xuống còn 2% vào năm 2004 bằng cách áp dụng những chính sách thích hợp.

              Bà Sisulu cho biết Mali cũng đạt được những tiến bộ đáng kể.

              Tại đây người ta đã giảm được tỉ lệ suy dinh dưỡng từ 46% xuống còn 31% bằng cách phổ biến thông tin. Cách làm này nhằm cải thiện thói quen về dinh dưỡng, trong đó có việc nuôi con bằng sữa mẹ, bổ sung nguồn vitamin A bị thiếu v.v. Chương trình này được tuyên truyền đến từng nhà. Kết quả là tại các làng xã mà chương trình này được thực hiện, tỉ lệ suy dinh dưỡng thực sự có giảm xuống.

              Chương Trình Lương Thực Thế Giới có một số chiến lược thực tiễn nhằm xóa đói và cải thiện khả năng học tập. Các chiếc lược này gồm có: chương trình nuôi con bằng sữa mẹ trong vòng 6 tháng; chương trình cung cấp các loại thuốc bổ sung các chất dinh dưỡng vi lượng; chương trình phát triển trẻ em ở tuổi ấu thơ; chương trình thực phẩm và dinh dưỡng trong trường học; và chương trình sức khỏe.

              Chương Trình Lương Thực Thế Giới nói rằng kết quả các cuộc nghiên cứu cho thấy phụ nữ có học thường bảo đảm được chế độ dinh dưỡng thích hợp cho con cái của họ.

              Chương Trình Lương Thực Thế Giới nói rằng đói kém và suy dinh dưỡng cướp đi sinh mạng của con người nhiều hơn cả bệnh AIDS, bệnh lao và bệnh sốt rét cộng lại. Tổ chức này ước tính mỗi ngày có khoảng 25 ngàn người chết vì các lý do liên quan đến đói kém, và số nạn nhân đói kém trên toàn thế giới hiện nay đang tăng lên khoảng từ 4 cho đến 5 triệu người mỗi năm.


              http://www.voanews.com/vietnamese/2006-07-14-voa20.cfm
              #7
                HongYen 24.07.2006 10:15:34 (permalink)
                Sinh thường hay sinh mổ tốt hơn?


                23:05:24, 21/07/2006
                BS Bạch Long


                Việc có phải can thiệp phẫu thuật khi sinh đẻ hay không do bác sĩ điều trị quyết định (ảnh minh họa: gettyimages)

                Hỏi: Hiện nay vợ tôi đang mang thai được 6 tháng rồi, siêu âm và khám định kỳ thì không có gì (bình thường). Nhưng tôi đang lo lắng về việc sinh thường hay sinh mỗ sẽ tốt hơn cho sức khỏe của vợ tôi. Vì vợ tôi lúc nhỏ đã mắc bệnh thiếu máu cơ tim nên tôi rất lo lắng về việc sinh nở. Xin bác sĩ hướng dẫn cụ thể giúp. (Nguyen Xuan Thanh - Tân Phú, TP.HCM)

                Đáp: Trong lúc mang thai và sinh nở, vì một lý do nào đó mà nguyên nhân từ phía người mẹ hay phía thai và phần phụ của thai không cho phép đẻ hoặc lấy thai ra đường dưới vì có thể gây nguy hiểm cho mẹ hoặc cho con hay cho cả mẹ và con thì người thầy thuốc phải can thiệp lấy thai bằng phẫu thuật, tức mở bụng và tử cung để lấy thai.

                Khi nào mổ lấy thai? Trong y học, bất cứ một phẫu thuật nào cũng phải có chỉ định, tuy nhiên trong chỉ định phẫu thuật lấy thai còn phụ thuộc vào hoàn cảnh của địa phương, trang thiết bị cơ sở y tế ở đó. Các chỉ định này phụ thuộc vào 2 đối tượng chính là do mẹ và do thai.

                - Các nguyên nhân do thai và phần phụ của thai như: Rau tiền đạo, rau bong non, dọa vỡ tử cung do thai to hoặc chuyển dạ kéo dài, sa dây rau, các ngôi thai bất thường, thai già tháng, đa thai...

                - Các nguyên nhân từ phía người mẹ: con so mà người mẹ lớn tuổi trên 35, các bệnh lý kết hợp của người mẹ như cao huyết áp đơn thuần không được điều trị và theo dõi đầy đủ, bệnh tim mắc phải hay bẩm sinh mà đã có suy tim, thiếu máu nặng, lao phổi, hen phế quản, đái tháo đường, nhiễm độc thai nghén nặng...

                - Ngoài ra còn có những chỉ định khác do nguyên nhân từ tử cung, bất thường khung chậu, tiền sử mổ lấy thai sẹo cũ ở tử cung...

                Do vậy, bạn cần cho vợ khám thai định kỳ, bác sĩ sẽ căn cứ vào tình trạng sức khỏe của sản phụ và thai nhi để quyết định xem có phải can thiệp phẫu thuật hay không. Nên nhớ không nên quá lạm dụng chỉ định mổ lấy thai vì không phải lúc nào mổ cũng đem lại kết quả mĩ mãn nếu không đúng chỉ định đôi khi còn có hại.

                BS Bạch Long

                http://www.thanhnien.com.vn/Suckhoe/2006/7/22/156399.tno
                #8
                  HongYen 23.12.2006 23:44:38 (permalink)



                   
                  Bệnh đường ruột và các nguy cơ ở thai phụ
                   



                  00:06:34, 22/12/2006
                   



                  Những phụ nữ bị yếu về đường ruột có nguy cơ gây các ảnh hưởng không tốt cho thai nhi gấp hai lần các phụ nữ bình thường.
                   


                  Phân tích các kết quả của 12 cuộc nghiên cứu trong vòng 20 năm qua, nhóm chuyên gia ở Bệnh viện St Mary (Anh) cho biết những phụ nữ bị bệnh Crohn (rối loạn đường ruột) và bị viêm ruột kết thường sinh con sớm và đứa trẻ sẽ nhẹ cân hơn mức bình thường.
                   
                  Điều này đe dọa sức khỏe của trẻ. Dựa trên phát hiện này, các nhà nghiên cứu khuyến cáo rằng phụ nữ nên cân nhắc thời điểm mang thai và nên kiểm tra sức khỏe thường xuyên để ngăn ngừa các bệnh về ruột nhằm giảm thiểu nguy cơ cho trẻ sơ sinh. (BBC)
                  A.V

                  http://www.thanhnien.com.vn/Suckhoe/2006/12/22/175008.tno
                  #9
                    HongYen 29.01.2007 22:44:29 (permalink)



                    Lựa chọn giới tính trẻ em

                    Lonny Shavelson
                    22/01/2007



                    Vào đầu thập niên 90, Phương pháp chẩn đoán gen trước khi đặt vào dạ con (PGD) đã trở thành một công cụ hữu hiệu trong việc xác định xem liệu bào thai có mang gene di truyền gây bệnh nguy hiểm chết người hay không. Phương pháp PGD cho phép các bác sĩ chụp tế bào của một trứng được thụ tinh bên ngoài dạ con để tìm dấu tích những bệnh di truyền như u nang hay những bệnh về máu, và cho phép các bậc cha mẹ lựa chọn có đặt trứng đó vào dạ con hay không.

                    Tại các phòng hộ sinh, phương pháp PGD ngày càng được sử dụng rộng rãi để xác định giới tính của trứng và sau đó chỉ có những trứng sẽ sinh bé trai hay bé gái mới được chọn. Những cặp vợ chồng di cư có những lựa chọn về con cái khác với những cặp vợ chồng sinh tại Mỹ. Điều này đã tạo nên một xu hướng mới đối với vấn đề vốn đã gây nhiều tranh cãi về việc liệu có nên cho phép lựa chọn giới tính trẻ em hay không. 
                     






                    80% các cặp vợ chồng sinh ở Mỹ muốn có con gáiTrong phòng mổ của Trung tâm Hộ sinh Huntington ở miền nam California, chuyên gia về sinh sản, bác sĩ Daniel Potter đang chuẩn bị xét nghiệm cho một nữ bệnh nhân 32 tuổi đã bị gây mê.
                    Bác sĩ đưa chiếc kẹp vào bên trong bệnh nhân, và chiếc kẹp này khá ấn tượng, nó dài khoảng 40 centimet.
                    Ông đang lấy trứng của bệnh nhân này để cho thụ tinh bên ngoài, mặc dù cô ta hoàn toàn có khả năng mang thai một cách tự nhiên. Bệnh nhân này đã đề nghị bác sĩ phân tích nhiễm sắc thể trứng của cô và chỉ chọn những trứng sẽ sinh con trai.
                    Hầu như 100% các trường hợp thụ thai này cho kết quả giới tính như mong đợi.
                    Nhiều bác sĩ, các nhà hoạt động vì đạo đức y học và thậm chí cả các nhà hoạt động nhân quyền cho rằng bác sĩ Daniel Potter không nên thực hiện thủ tục mạo hiểm này đối với một người phụ nữ nào và con của cô ta khi cô ta không cần đến thủ thuật y tế như vậy.
                    Hiệp hội Y tế Sinh sản Hoa Kỳ ủng hộ phương pháp PGD khi cần thiết để ngăn chặn việc di truyền của gene bệnh, tuy nhiên phản đối việc sử dụng phuơng pháp này để lựa chọn giới tính. Tuy nhiên, ông Potter cho biết ông chỉ đang thực hiện quyền sinh sản của bệnh nhân mà thôi.
                    Quả là một thái độ tự phụ nếu bất kỳ một tổ chức nào khẳng định là một phụ nữ nên hay không nên xác định số con mà cô ta muốn hay giới tính của những đứa trẻ này.
                    Tôi không nghĩ đây là vấn đề về quyền sinh sản. Y học phải chứng minh lập trường của mình. Nếu phương pháp này chỉ là phương pháp đối với sức khỏe và bệnh tật thì giới tính không nằm trong số này.
                     
                    Vừa rồi là phát biểu của Bác sĩ Arthur Caplan, giám đốc Trung tâm Đạo đức Y học tại Đại học Pennsylvania, nơi ông điều tra các vấn đề về đạo đức đối với công nghệ sinh sản. Ông quan ngại về những kỳ vọng của các bậc cha mẹ đối với những đứa trẻ được lựa chọn giới tính.
                     
                    Nếu quí vị đầu tư và coi con cái như hàng hóa, nếu quí vị nói tôi đã tốn 30 ngàn đô la để có được một cậu con trai để cùng chơi thể thao và bây giờ tôi có một cậu con trai dửng dưng với các môn thể thao. Quí vị có cảm thấy thất vọng không? Quí vị có cảm thấy bị lừa dối không?
                     
                    Các nhà hoạt động đạo đức lo ngại rằng phương pháp PGD nhằm đảm bảo có con trai hay con gái, đã càng làm tăng thêm sự phân biệt giới tính. Bà Sujatha Jesudason, giám đốc chương trình tại Trung tâm Di truyền học và Xã hội tại Oakland, California thậm chí còn dùng những từ ngữ mạnh mẽ hơn. Bà cho rằng việc lựa chọn giới tính là phân biệt đối xử về giới.
                     
                    Khi chúng ta nói lựa chọn giới tính là chấp nhận được, có nghĩa là chúng ta nói rằng việc lựa chọn một trẻ em nào đó là chấp nhận được. Khi quí vị có một người cha nói rằng, tôi muốn có một cậu con trai để kế nghiệp công việc kinh doanh của gia đình, ông ta cho rằng một cô con gái thì không thể làm được điều này.
                     
                    Cô Jesudason, một người được sinh ra ở Ấn Độ, đặc biệt nhạy cảm về sự ưa thích con trai theo văn hóa nước cô.
                     
                    Tiếng nói của cả nền văn hóa cho rằng người ta không mong muốn có con gái.
                    Hôm nay chúng ta sẽ biết thêm cô sẽ có bao nhiêu trứng.
                     
                    Trong một phòng khám bệnh, bác sĩ Potter chào hỏi một cặp vợ chồng gốc Ấn Độ, hai người hiện đang sống ở Canada và họ đã đến bệnh viện của ông để mong có được một cậu con trai.
                    Khi con gái lấy chồng thì nó sẽ tới ở với gia đình khác. Con gái lấy chồng sẽ chuyển đi nơi khác. Với một cậu con trai thì nó sẽ ở với chúng tôi và sẽ là người nối dõi tông đường.
                     
                    Người phụ nữ Nam Á và chồng cô chăm sóc cho cha mẹ chồng tại nhà mình. Còn cha mẹ vợ thì được chăm sóc ở gia đình anh trai người vợ. Mặc dù họ đã có hai cô con gái, nhưng chồng cô noí rằng sẽ không có ai chăm sóc cho họ cho đến khi họ có một cậu con trai, mặc dù con trai họ vẫn chưa được sinh ra đời.
                     
                    Con trai thường chăm sóc cha mẹ lúc tuổi già. Tôi nghĩ thế hệ kế tiếp cũng sẽ chăm sóc chúng tôi như vậy.
                     






                    Các bậc cha mẹ ở nước ngoài như Ấn Ðộ, Nam Triều Tiên, Trung Quốc...đều muốn sinh con trai25% trong số các bệnh nhân lựa chọn giới tính cho con của bác sĩ Potter là những bậc cha mẹ sinh ở nước ngoài, và 90% những bệnh nhân Ấn Độ, Nam Triều Tiên và Trung Quốc đều muốn sinh con trai. Mỗi tháng có khỏang 6 bé trai được sinh ra chỉ tính riêng ở phòng khám của ông. 80% số các cặp vợ chồng sinh ở Mỹ, là bệnh nhân của ông Potter, muốn có con gái. Và Ông Potter cho biết họ đã cho ông biết lý do tại sao:
                     
                    Đó là mong muốn của một người phụ nữ muốn có một mối quan hệ mà cô đã từng có với Mẹ cô – như nhìn thấy cô con gái của mình làm đám cưới trong nhà thờ, hay đi mua sắm cùng cô con gái của mình. Một cô con gái trong tương lai luôn có một chỗ đứng trong tâm thức của người mẹ như một con người sống động. Và nếu bắt họ phải từ bỏ ước muốn đó thì điều này giống như là cái chết.
                     
                    Khi cha mẹ muốn có một cậu con trai hay một cô con gái bởi phân biệt giới tính, bởi truyền thống, hay đơn giản là bởi họ đã có con một bề và giờ đây muốn có cả hai – thì chính những mong muốn mãnh liệt này là động cơ khiến nhiều bác sĩ tại nhiều bệnh viện tư sử dụng phương pháp PGD đã biến phương pháp điều trị được thiết kế để phòng ngừa các gene lỗi, thành một công cụ để xác định và lựa chọn giới tính.

                    http://www.voanews.com/vietnamese/2007-01-22-voa20.cfm
                    #10
                      HongYen 03.05.2007 21:52:13 (permalink)
                      Đẻ mổ gây vấn đề nhau thai?
                      02 Tháng 5 2007 - Cập nhật 14h50 GMT
                       
                       
                      Những vấn đề liên quan đến nhau thai
                       gây chảy máu trong thai kỳ
                       
                      Một nghiên cứu cho biết phụ nữ đẻ mổ trong lần sinh con đầu tiên dễ gặp các rắc rối về nhau thai trong lần mang thai tiếp theo.
                       
                      Thống kê từ 5 triệu phụ nữ mang thai cho thấy nguy cơ nhau thai bị sa xuống phía dưới tử cung hoặc bị sưng tấy tăng lên gần 50%.

                      Cả hai triệu chứng trên đều gây chảy máu trong thời gian mang thai, nghiên cứu cho biết.

                      Các chuyên gia nói rằng phụ nữ nên được thông báo về nguy cơ này nếu họ muốn đẻ mổ.

                      Tạp chí quốc tế về sản phụ khoa BJOG cho biết các nhà nghiên cứu đã phân tích số liệu từ Trung tâm thống kê Y tế quốc gia Hoa Kỳ trong thời gian từ 1995 đến 2000.


                       Nếu thai phụ có nhau thai gần trên vết sẹo thì sẽ rất nguy hiểm và nó là một trong những tình trạng đáng lo ngại nhất 
                      Giáo sư Andrew Shennan

                      Các phụ nữ mổ đẻ trong lần đầu sinh con sẽ gặp nguy cơ nhau thai phủ lên hoặc sa gần cổ tử cung trong lần mang thai thứ hai, nguy cơ này cao hơn 47% so với các phụ nữ sinh thường.

                      Nguy cơ thứ hai là nhau thai bị tách ra khỏi tử cung quá sớm và nguy cơ này cao hơn 40% ở những phụ nữ đẻ mổ.

                      Các nhà nghiên cứu cho biết vết sẹo trong tử cung do mổ đẻ có thể tác động tới vị trí nhau thai ở những lần mang thai kế tiếp.

                      Tình trạng nguy hiểm
                       
                      Hai triệu chứng trên đều rất nguy hiểm đối với cả sản phụ và thai nhi.
                      Người đứng đầu công trình nghiên cứu, Tiến sĩ Qiuying Yang của trường đại học Ottawa nói đây là nghiên cứu lớn nhất cho thấy mối liên hệ quan trọng giữa đẻ mổ và những rắc rối trong lần mang thai tiếp theo.

                      "Nghiên cứu cho ta những hiểu biết quan trọng trong việc sử lý những ca mang thai. Nó cũng cung cấp những bằng chứng mới cho cuộc tranh luận về rủi ro của việc 'đẻ mổ theo yêu cầu'.

                      Giáo sư Andrew Shennan, chuyên gia tư vấn sản khoa của bệnh viện St.Thomas tại London nói những vấn đề gây chảy máu trong thai kỳ là chuyện xảy ra thường ngày đổi với bác sĩ khoa sản.

                      "Tuy chúng ta đã biết về những mối liên quan tới các triệu chứng trên, nhưng điều gây ấn tượng về nghiên cứu này chính là qui mô của nó, và các nhà nghiên cứu đã có những phân tích rất tốt".

                      Nếu thai phụ có nhau thai gần trên vết sẹo thì sẽ rất nguy hiểm và nó là một trong những tình trạng đáng lo ngại nhất"

                      Giáo sư Shennan cũng khuyến cáo nên tư vấn đầy đủ về mổ đẻ cho các thai phụ.

                      Tổng biên tập tạp chí BJOG, giáo sư Phillip Steer nói thêm: "Anh mà một trong các nước có tỉ lệ đẻ mổ cao nhất thế giới".

                      "Thai phụ cần được thông báo về những rủi ro có thể xảy ra trong suốt thai kỳ và họ cần được siêu âm định kỳ để theo dõi sự phát triển của thai nhi".

                      "Nếu thai phụ bị chảy máu bất thường khi mang thai, họ cần tới gặp bác sĩ ngay"

                      http://www.bbc.co.uk/vietnamese/science/story/2007/05/070502_caesareanlinktoplacenta.shtml
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 03.05.2007 21:54:22 bởi HongYen >
                      #11
                        HongYen 19.09.2007 08:57:32 (permalink)







                        Thứ ba, 18/9/2007, 17:46 GMT+7




                        Thai nhi có thể 'tạm trú' nhiều nơi trong ổ bụng
                         
                        Ngoài tử cung, thai có thể tồn tại ở nhiều nơi khác trong ổ bụng sản phụ. Bác sĩ Phạm Viết Thanh, Giám đốc bệnh viện phụ sản Từ Dũ, cho biết, nơi nào có mạch máu thì nơi ấy thai có thể bám vào để tồn tại.

                        >Một sản phụ có thai trong gan
                         
                        "Khoảng 97% thai ngoài tử cung đóng ở ống dẫn trứng, còn lại, thai có thể nương vào mạch máu của gan, ruột để tồn tại", bác sĩ Thanh nói.
                         
                        Bác sĩ Thanh cho biết thêm, thai ngoài tử cung thường do ống dẫn trứng bị viêm nhiễm, lòng ống hẹp khiến trứng không thể chui vào dạ con. Sản phụ dị dạng vòi trứng bẩm sinh, khối u phần phụ hoặc đặt vòng tránh thai, dùng thuốc ngừa thai, thuốc kích thích rụng trứng cũng có nguy cơ thai nằm "nhầm chỗ".
                         
                        "Do không được sự bảo vệ theo đúng chức năng tử cung nên hầu hết các thai nhi đều thoái hóa và tử vong, rất nguy hiểm đối với sản phụ. Các trường hợp thai ngoài tử cung đều phải phẫu thuật lấy khối thai ra", bác sĩ Thanh cho biết...
                         
                        Các bác sĩ chuyên khoa khuyến cáo, sản phụ cần khám phụ khoa định kỳ và ngay khi có dấu hiệu nghi ngờ viêm sinh dục để được điều trị thích hợp, tránh di chứng viêm dính tắc vòi trứng.
                         
                        Ông Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Y khoa Medic, cho biết, các phương pháp siêu âm, nội soi, xét nghiệm máu... có thể giúp bà mẹ phát hiện vị trí của thai. "Nếu phát hiện có dấu hiệu sai vị trí khi thai dưới 10 tuần tuổi, sản phụ sẽ được chữa trị bằng phương pháp nội khoa mà không cần phẫu thuật, nhờ vậy vẫn còn khả năng sinh đẻ cho những lần sau", bác sĩ Hải nói.
                         
                        Theo các nghiên cứu sản khoa, khoảng 30% trường hợp thai ngoài tử cung có thai lại bình thường sau đó. 10% tái phát thai ngoài tử cung lần có thai sau và 50% trường hợp vô sinh.
                         




                        Biểu hiện thai ngoài tử cung:
                         
                        - Triệu chứng thường gặp nhất là trễ kinh, rong huyết, đau âm ỉ vùng dưới rốn, có khi đau nhói, âm đạo có thể có một ít máu đen, nếu không phát hiện sớm lúc thai ngoài tử cung chưa vỡ.
                         
                        - Trường hợp thai ngoài tử cung vỡ, người bệnh cảm thấy đau bụng dữ dội da tái xanh, choáng do mất máu cấp tính, khó thở..., nếu không đến bệnh viện kịp sẽ tử vong.

                         
                         
                        Thiên Chương

                         
                        http://www.vnexpress.net/Vietnam/Doi-song/2007/09/3B9FA5A5/
                        #12
                          HongYen 19.09.2007 09:01:27 (permalink)







                          Thứ ba, 11/9/2007, 17:51 GMT+7




                          Thai suy dinh dưỡng khó chẩn đoán
                           





                          Siêu âm giúp ước đoán trọng lượng thai. Ảnh: Healthcentersonline.
                           
                          Nếu không nhớ chính xác ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng trước khi mang bầu, bạn có thể không biết em bé bị suy dinh dưỡng dù tình trạng này xảy ra đã lâu.
                           
                          Chị Linh (25 tuổi, Hà Nội) sinh em bé chỉ nặng 1,6 kg. Các bác sĩ cho biết em bé bị suy dinh dưỡng ngay từ khi nằm trong bụng mẹ. Trước đó, trong những lần đi khám thai và siêu âm ở phòng khám gần nhà, chị đều có kết luận là thai phát triển bình thường, dựa vào ngày tính tuổi thai mà chị cung cấp.
                           
                          Thực ra, chị không nhớ ngày kinh đầu tiên của kỳ cuối trước khi mang thai, nên đã đọc cho bác sĩ ngày của chu kỳ cách đó 2 tháng. Vòng kinh của chị không đều nên tuổi thai được tính không chính xác. Và tình trạng em bé chậm phát triển đã không được phát hiện sớm.
                           
                          Tình trạng thai suy dinh dưỡng thường xuất hiện từ nửa sau của thai kỳ (khoảng tháng thứ 5 trở đi). Đó là những trường hợp cân nặng của em bé không đạt được mức độ trung bình thấp nhất phù hợp với lứa tuổi. Nếu trẻ sinh đủ tháng mà cân nặng dưới 2,5 kg thì nghĩa là thai đã bị suy dinh dưỡng.
                           
                          Theo tiến sĩ Nguyễn Đức Hinh, Phó giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương, thai suy dinh dưỡng không phải là bệnh lý của riêng nước nghèo hay người nghèo. Có đến 3/4 số trường hợp không tìm được nguyên nhân. Người mẹ vẫn khỏe mạnh, ăn uống tốt, tăng cân đều trong khi thai nhi chậm phát triển.
                           
                          Nguy cơ thai suy dinh dưỡng tăng ở những bà mẹ ăn uống kém, lao động quá vất vả, nhiễm độc thai nghén hay có các bệnh về tim mạch, tiểu đường, nghiện thuốc lá, ma túy, mang đa thai. Tình trạng thai nhiễm khuẩn, có vấn đề ở rau... cũng có thể khiến em bé không phát triển tốt.
                           
                          Thai chậm phát triển có thể chết lưu trong tử cung. Những em bé ra đời do đã yếu sẵn ngay khi còn trong bụng mẹ nên sức khỏe kém, dễ ốm đau bệnh tật.
                           
                          Khó chẩn đoán và can thiệp
                          Theo tiến sĩ Hinh, việc phát hiện thai suy dinh dưỡng không dễ dàng, nhất là ở tuyến tỉnh trở xuống.
                           
                          Trọng lượng thai hiện được chẩn đoán qua siêu âm, tuy nhiên để biết thai có nhỏ hay không thì việc xác định tuổi thai phải chính xác. Trong khi đó, nhiều bà mẹ không nhớ chính xác ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối, vòng kinh lại không đều. Do cơ thể người mẹ không có triệu chứng rõ rệt nên nếu không khám kỹ và bác sĩ không giỏi chuyên môn thì khó phát hiện.
                           
                          Theo tiến sĩ Nguyễn Đức Hinh, ngay cả khi biết thai suy dinh dưỡng, nhiều trường hợp bác sĩ cũng không cải thiện được đáng kể tình trạng này. Nếu thai chậm phát triển do mẹ quá vất vả hay kém ăn thì có thể khắc phục bằng cách nghỉ ngơi và bồi dưỡng. Trường hợp sự trao đổi chất dinh dưỡng giữa mẹ và thai nhi kém hiệu quả thì hiện chưa có cách nào tác động.
                           
                          Do ở trong tử cung, thai nhi lớn chậm nên bác sĩ sẽ cân nhắc thời điểm thích hợp để mổ lấy thai sớm hơn ngày dự sinh. Được nuôi dưỡng hiệu quả ở bên ngoài, bé sẽ chóng bắt kịp đà tăng trưởng bình thường hơn là kéo dài tình trạng đói ăn trong bụng mẹ. 
                           
                          Để phát hiện thai suy dinh dưỡng, các bà mẹ cần đi khám thai đúng định kỳ. Cần nhớ đúng ngày có kinh lần cuối trước khi mang thai để xác định chính xác tuổi thai. Trường hợp không nhớ, bác sĩ có thể xác định được tuổi thai qua siêu âm nếu chưa quá 12 tuần. Nếu người mẹ có bệnh lý, cần theo dõi thai kỹ hơn và kiểm soát bệnh tật theo đúng hướng dẫn của thày thuốc.
                          Hải Hà

                           
                          http://www.vnexpress.net/Vietnam/Doi-song/2007/09/3B9FA1D0/
                          #13
                            HongYen 15.10.2007 00:48:12 (permalink)
                            Thứ Tư, 10/10/2007, 03:51 (GMT+7)

                             
                            Chăm sóc thai phụ tại nhà
                             
                            TT - Bệnh viện Phụ sản T.Ư đã xin phép Bộ Y tế triển khai trong năm nay dịch vụ chăm sóc, quản lý thai, chăm sóc bệnh nhân sau mổ tại nhà nhằm giảm tải bệnh viện và giảm thời gian chờ đợi của sản phụ, người bệnh và người nhà.
                             
                            Theo ông Nguyễn Viết Tiến, giám đốc bệnh viện, dịch vụ kể trên sẽ được áp dụng cho các thai phụ có nhu cầu chăm sóc - quản lý thai tại nhà, thăm khám và điều trị bệnh phụ khoa thông thường, người bệnh hoặc sản phụ sau mổ...
                             
                            Với nhóm sản phụ, người bệnh sau mổ, trước họ phải ở lại bệnh viện 5-7 ngày sau mổ, nếu sử dụng dịch vụ kể trên có thể về nhà sau mổ hai ngày. Bệnh viện sẽ thu phí “dịch vụ theo yêu cầu” cộng với phí đi lại nhưng mức phí này sẽ dễ chấp nhận. Dịch vụ này có thể chỉ áp dụng với cự ly tối đa là vài chục kilômet.
                             
                            L.ANH
                             
                            http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=223555&ChannelID=12
                            #14
                              Chuyển nhanh đến:

                              Thống kê hiện tại

                              Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                              Kiểu:
                              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9