Bây giờ chị ở đâu?
Chị cũng từngcó một thời thanh xuân như thế... (Ảnh trong bài này chỉ có tính chất minh họa)
TTCN - 30 năm về trước, chúng tôi - những sĩ quan và chiến sĩ cảm tử của Z28 (mật danh một đơn vị thuộc lữ đoàn đặc công - biệt động 316) - được lệnh luồn sâu vào tận Sài Gòn để thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt là phải bảo vệ bằng được cây cầu An Phú Đông không cho đối phương phá sập.
Vào thời điểm đó những cây cầu ở cửa ngõ thành phố được đối phương bảo vệ rất cẩn mật bằng những đơn vị mạnh nhất và với nhiều tấn thuốc nổ bọc quanh các mố cầu. Cây cầu này chỉ dài 25m nhưng cực kỳ quan trọng vì nằm trên xa lộ Đại Hàn (nay thuộc phường An Phú Đông, Q.12, quốc lộ 1A) ở ngay cửa ngõ nối vào trục đường Võ Di Nguy (nay là trục đường Hà Huy Giáp - Nguyễn Oanh - Nguyễn Kiệm, Gò Vấp) chạy thẳng vào cổng Phi Long của Bộ tổng tham mưu quân đội Sài Gòn với khoảng cách chừng 6km đường chim bay.
Buổi chiều ngày 28-4-1975, chúng tôi ngồi rải rác lẫn trong những đám cây dừa nước ở một cánh đồng bưng ngoài rìa của xã An Phú Đông sát nách Sài Gòn để đợi lệnh xuất kích. Đơn vị chúng tôi đã ém ở đây rất lâu từ ngày 12-4 trước khi chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Mọi chiều, pháo địch vẫn bắn về phía Củ Chi và Tây Ninh để thị uy và máy bay trinh sát quần đảo thăm dò dọc sông rạch, nhưng không hiểu sao buổi chiều đó im ắng đến lạ thường, có lẽ giống như biển lặng trước cơn giông bão lớn, thời gian ngưng đọng báo trước một trận đánh sinh tử sắp diễn ra.
Có một lúc chừng 15 phút khung cảnh yên tĩnh đó bị phá vỡ: đó là khoảng 4 giờ chiều, khi những chiếc máy bay A.37 ném bom vào sân bay Tân Sơn Nhất mà sau này chúng tôi mới biết đó là trận oanh kích của phi đội anh hùng Nguyễn Thành Trung. Chúng tôi nhìn về phía Sài Gòn trong một tâm trạng ngổn ngang thật khó tả. Dường như ai cũng hiểu đây là trận đánh cuối cùng, nếu sau trận đánh này còn sống thì có nghĩa là những ngày hòa bình tiếp theo. Tôi ngồi trên bờ thả chân xuống con rạch nhỏ nghĩ mông lung về cha mẹ, anh em và bè bạn, có những lúc dường như chẳng nghĩ gì cả. Chợt có một người ngồi xuống bên cạnh tôi, im lặng.
Nhìn nghiêng, tôi nhận ra một phụ nữ Nam bộ, còn trẻ. Như tôi, chị cũng nhìn về phía Sài Gòn, mãi một hồi lâu sau chị mới khẽ hỏi: “Em người Bắc phải không?”, “Dạ”. Tôi biết chị hỏi cho có vậy thôi, bởi trong đơn vị chỉ có duy nhất mình tôi là người miền Bắc rất dễ nhận ra, còn anh em khác là người miền Nam, người Hoa, Khơme. Họ là những người lính thiện chiến, ra vào Sài Gòn như cơm bữa để bắt bọn thám báo, chiêu hồi, và đưa đón các cán bộ tình báo nội thành ra vào căn cứ, không ít người đã từng là tù binh bị cầm tù ở Phú Quốc.
Chúng tôi ngồi cạnh bên nhau rất lâu mà không nói thêm gì nữa. Tôi đoán chừng chị là cán bộ tình báo nội thành hoặc an ninh T4, hơn tôi độ 3-4 tuổi gì đó.
Chị nhỏ nhắn, mình dây, mũi cao, trắng, tóc dài và trông rất trí thức. Như mọi nữ giải phóng quân khác lúc đó, chị bận bộ đồ bà ba đen, dây lưng có máng võng dù, biđông nước, cây đèn pin của Mỹ. Cho đến hơn 7 giờ tối, chúng tôi được lệnh chuẩn bị xuất phát. Phía sau chúng tôi là một vài cán bộ ra tiễn mà chúng tôi không được biết họ là ai, chỉ biết là họ cũng “xuống đường” như chúng tôi nhưng với một nhiệm vụ khác. Ngay từ chiều mọi người đã nhìn chúng tôi với một tình cảm thật đặc biệt và đầy thương cảm.
Chúng tôi đọc được suy nghĩ ái ngại của họ và cũng hiểu được tình thế của mình, chỉ với 22 con người trang bị vũ khí rất nhẹ, vẻn vẹn hai cây B41, hai B40, còn lại là M79, AK và lựu đạn. Thế mà chúng tôi sẽ đi vào giữa vòng vây trùng điệp của kẻ thù, sự hi sinh là cầm chắc trong tay. Chúng tôi cũng xác định trước như vậy và nếu hi sinh sẽ là vô danh bởi tất cả giấy tờ tùy thân đã đốt bỏ hết ở căn cứ Bời Lời, Tây Ninh trước khi xuống đường, và trước khi xuất kích lại một lần nữa kiểm tra để đảm bảo bí mật tuyệt đối.
Sau này có nhiều nhà văn, nhà báo viết rằng những người lính chúng tôi không hề biết sợ trước mỗi trận đánh, điều đó không hẳn đúng, nhất là trước trận đánh cuối cùng này, bởi chúng tôi cũng là con người, cũng có những người thân, cũng có rất nhiều điều để nuối tiếc nếu phải ra đi khi còn quá trẻ, và thực tế đã có người trong đơn vị tôi bảo toàn tính mạng chỉ bằng một cú tự ngã xuống kênh, mà hành động đó với chúng tôi trong đêm tối thật đơn giản.
Đúng lúc chúng tôi đang siết chặt lại dây lưng, kiểm tra súng đạn để chuẩn bị thả người xuống dòng kênh lạnh giá tiến vào cái quầng sáng rực rỡ, cái quầng sáng mà bất kỳ ai nhìn vào cũng thấy nôn nao đến khó tả, thì chị bước đến sát bên tôi sửa lại chiếc quai bồng và lấy chiếc khăn rằn trên cổ chị choàng qua cổ tôi, rồi nhìn tôi thật lâu và sau đó thật bất ngờ chị áp hai tay vào hai bên má tôi một lúc, khẽ nói: “Đi mạnh giỏi nghe” - một câu nói quen thuộc mà bất cứ người chiến sĩ miền Đông nào khi chia tay đều nói như vậy. Trời tối, tôi không nhìn rõ mắt chị nhưng nghe tiếng nấc nhẹ. Tôi hiểu chị và mọi người đang khóc thầm vĩnh biệt chúng tôi, tất cả mọi người tin chắc chúng tôi sẽ không thể nào trở về được nữa…
Công việc của một thành phố mới giải phóng thật ngổn ngang trăm bề cứ cuốn hút chúng tôi, khiến tôi không thể nào dứt ra được để đi tìm chị. Tôi có hỏi thăm mấy lần nhưng không tìm được chị. Chiếc khăn rằn chị tặng tôi ngày ấy cũng không còn nữa, tôi đã dùng nó để cột vào cổ chân người đồng đội quê ở xã Xuân Thới Thượng tên Nguyễn Chí Thiện hi sinh vào 8 giờ sáng 29-4. Để đề phòng kẻ địch gài trái nổ dưới lưng tử thi, chúng tôi buộc phải kéo đồng chí của mình dọc con mương nhỏ trong khu vườn đầy hoa nhài thơm ngát lẫn mùi thuốc súng khét lẹt của nhà ông Mười ngay bên cạnh bót Nhà Làng ở đầu cây cầu từ phía sông Sài Gòn tới.
30 năm trôi qua tôi không biết chị còn hay mất, còn công tác hay đã nghỉ hưu. Tôi chỉ biết chị quê ở Bến Tre, chị đẹp lắm và cứ đến ngày 28-4 hằng năm là tôi lại có cảm giác hai má mình nóng lên từ hơi ấm của đôi bàn tay chị. Một cảm giác thật kỳ lạ, giống như một người mẹ, người chị và người bạn gái đã truyền cho tôi sự ấm áp, lòng tự tin để bước vào trận tử chiến.
Ai đó sẽ ngạc nhiên khi tôi nói đấy là lần đầu tiên một người phụ nữ nựng khuôn mặt tôi, ngoài người mẹ yêu dấu của tôi. Chị ở đâu nếu còn sống hãy cho tôi một lời nhắn. Tôi chắc là chị không bao giờ quên địa danh An Phú Đông và anh lính trẻ “Bắc kỳ” duy nhất của đội quân cảm tử trong cái đêm đáng nhớ ấy.
PGS.TS NGUYỄN MINH HÒA
(Trường ĐH KHXH&NV TP. HCM)