Khải Nguyên HT
-
Số bài
:
270
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 28.01.2009
- Nơi: Hải Phòng - Việt Nam
|
RE: GHI DƯỚI BẦU TRỜI VIỄN XỨ.-bút kí (tiếp, từ phần 10)
-
17.03.2009 13:27:12
11.Một cuộc phiêu lưu văn chương (hay là chuyện“điếc không sợ súng”) Tháng ngày hầu như đọng lại tại thủ đô nước bạn trong khi chờ về nước. Y đã đi gần khắp thành phố Brazavil (Brazzaville). Bằng xe buýt, bằng tacxi, đi bộ và có một lần đi thuyền độc mộc trên sông Công-gô. Một hôm nhìn bản đồ nước bạn, y chợt nhận ra nó giống một khẩu súng luc có đầy đủ kẹp đạn. điều mà trước đó y chẳng để ý. Một tứ thơ loé ra bằng... tiếng Pháp. Cần phải nói ngay rằng trình độ tiếng Pháp của y rất xoàng chỉ đủ giao tiếp thông thường ở mức khiêm tốn nhất; đọc sách báo muốn lĩnh hội một chút phải kè kè quyển từ điển . Vậy mà nảy ra ngay mấy câu mở đầu: Un pays en forme d’un revolver Avec son chargeur qui ne vise presque rien que la misère et le sous-développement (Một xứ sở có dạng một khẩu súng tay/ cùng với kẹp đạn / chẳng nhằm vào gì khác / ngoài sự khốn cùng / và sự kém phát triển). Y hoàn thành khá nhanh so với viết bằng tiếng Việt, nhờ người thầy duy nhất là cuốn từ điển. Làm xong mới nghĩ đến đầu đề. Cũng nảy nhanh: Chanson terrestre (Tiếng hát đất đai). Chẳng dám đưa ai trong đám chuyên gia Việt Nam xem. Các vị đều là giáo sư, kĩ sư, bác sĩ, dầu gì cũng là dân trí thức, song lúc đang rỗi hơi này, chuyện thơ thẩn dớ dẩn sẽ là đề tài đàm tiếu cho họ là cái chắc. Sực nhớ tới Alombé, người bản xứ. Hôm y ra ga bay Maya-maya để nhờ gửi thư qua đường Liên xô cho nhanh và rẻ gặp anh ta cũng ra đấy tiễn bạn đi Matxcơva, anh ta đưa danh thiếp và mời đến chơi nhà. Y tìm đến khách sạn, nơi Alombé được phân một phòng ở tạm. Y gõ cửa . Tiếng đàn bà nói ra bằng tiếng Pháp: “Tôi không có chìa khoá“, tự giới thiệu là vợ Al., lên tiếng phân trần và tỏ ra thích được nói chuyện tuy cách bức. Chị là người Nga,vốn làm ở một hiệu ăn tại Lêningrat, theo chồng sang đây đã hai năm. Chồng đi chơi đâu đó, khoá cửa nhốt người vợ đang bị sốt rét trong nhà. Hôm sau, y lại đến, đúng lúc Al. vừa đi về, tay xách một cái bị tướng. “Tôi vừa đi chợ trung tâm về,-anh ta nói-cố cho kịp, vợ tôi bảo ông hẹn mười giờ”-. Đúng hẹn chẳng phải đức tính của hầu hết những người bản xứ mà y đã gặp. Al. bảo vợ mình đang ốm, mời y vào ngồi trong một cái “lều”. Trong khuôn viên khách sạn có nhiều lều như thế rải ra giữa các cây xanh, bồn hoa và lối đi dành cho các nhóm khách nhỏ hoặc các cặp cần tình tự. Hôm ấy, chủ nhật mà vắng teo. Xứ nầy, khách ăn, chơi chỉ đông vào buổi tối . Alombé từng học ở Liên xô từ 1973 đến 1980 và từ 1985 đến 1987, có bằng tiến sĩ ngôn ngữ, lại từng tu nghiệp tại Pháp, về nước làm tại báo “Ngôi sao” của chính phủ, tờ báo hàng ngày duy nhất ở nước này, và dạy ở trường chính trị cao cấp. Al. kể nhiều chuyện hồi còn ở Liên xô. Anh bảo Liên xô đông người nhưng không ồn như Pháp. Người Nga không ích kỉ như người Pháp (?). “Không thể gõ cửa một nhà người Pháp xin miếng bánh”. Y đưa bài thơ “Bài ca đất đai”. Al. đọc rồi thốt lên: Formidable (tuyệt vời). Y ngỡ ngàng thật sự, bởi y thấy xoàng thôi. Y hỏi lại một câu đến là ngớ ngẩn: “Ông nói với nghĩa tốt hay nghĩa xấu?”; đáp “Formidable bao giờ cũng có nghĩa tốt”. Al. bỗng đứng lên bảo y chờ rồi đi về phía toà nhà khách sạn, chỉ chốc lát, anh trở lại mời y đi theo. Vợ chồng Al. và một bé gái con vợ trước người bản xứ của anh ta, ở trong một căn hộ một phòng không rộng lắm tương tự các căn hộ trong chung cư tại nước ta phân cho cán bộ, công nhân viên thời bao cấp. Người bản xứ không tiếp khách trong phòng ở, ít ra là với người nước ngoài. Không có phòng riêng thì họ tiếp khách trong hiên hoặc sân trước nhà. Nay y được mời vào nhà. Y cho là do bài thơ, một bài thơ nói về đất nước anh ta, không tâng bốc suông. Al. giới thiệu khách với vợ và đưa bài thơ cho chị xem. Người đàn bà Nga cũng khen. Y nghĩ chị khen xã giao. Chồng chị thì khen thành thực song chưa chắc đã vì nghệ thuật bài thơ. Bà vợ đưa ra thết khách nước chè đường vắt chanh và một thứ bánh ngọt cắt hình thoi gồm 2 lớp bằng bột mì đường. Không thật hợp khẩu vị, y vẫn cảm ơn: “Tác phẩm của chị? Theo kiểu Nga? Ngon lắm!”. Al. nói sẽ đưa bài thơ cho một người bạn, tổng biên tập tờ Maintenant (Ngày nay), tờ báo hàng tháng của trí thức thủ đô. Người này làm ở bộ ngoại giao. Như được khích lệ, y lại “ không sợ súng”, đẻ ra bài thơ tiếng Pháp thứ hai: Équateur (Xích đạo) dài tới hơn ba chục câu: On me trace définitivement en ligne nette Sur les cartes d’autant plus qu’invíible je suis Je ne partage ni continent, ni océan Ni êtres inanimés, ni êtres vivants (Họ vạch tôi nên đường nét rạch ròi/ trên các bản đồ / nhất là vì tôi vốn vô hình / Tôi chẳng phân chia / lục địa, đại dương / vật sống, vật vô tri/...). Hôm sau, y rủ C., một kĩ sư nông nghiệp từng làm Chánh văn phòng Hội đồng bộ trưởng, theo lời ông ta, hiện cũng là chuyên gia, đến toà soạn báo La semaine africaine (Tuần Phi châu), một tờ báo tiếng Pháp của giáo hội Gia tô La mã phát hành ở các nước Phi châu nói tiếng Pháp, cả ở châu Âu. C. đang bận tiêu thụ hàng họ song cũng muốn thăm dò báo với một ý định mà về sau y mới hiểu. C. rất khá tiếng Pháp, ai hỏi sẵn sàng chỉ vẽ. Nhưng nếu là việc viết bài đăng báo thì không. Tháng trước, y viết một bài ngắn nói về cây đỗ đen, mặc dù y mù tịt về nông nghiệp. Ở xứ này cây đỗ đen mọc hoang, người dân không trồng đã đành mà cũng không biết dùng, bỏ phí một thứ thực phẩm ngon và bổ. Y đưa bài cho C. nhờ góp ý. Anh ta xem xong chẳng nói gì. Sau đó y xem lại phát hiện ra một chỗ đánh máy sai và bảo cho C. biết. Anh ta nói: “Tôi cũng có thấy”. Y nghĩ thầm: ”Vậy mà hắn lờ đi, chẳng bảo gì mình”. Ở toà soạn báo La semaine africaine sáng hôm ấy, bọn y gặp phó tổng biên tập, một nguời Phi, và một uỷ viên ban biên tập, một linh mục da trắng người Pháp rậm râu. C. quen lối ngoại giao xuề xoà với người sở tại gặp ngoài đường, trên xe buýt, nói nhiều và hơi quá thân mật. Hai người kia ngồi nghe với vẻ nghi hoặc, nhất là ông thầy tu. Trả lời đề nghị cộng tác viết bài, ông cố đạo nói: “Chúng tôi rất ít khi đăng bài của người ngoài. Lúc cần, chúng tôi lấy cộng tác viên tại chỗ”. C. thất vọng, toan đứng lên. Y hỏi người của toà báo: “Vậy các ông có đăng thơ của người ngoài không? “. C. ngạc nhiên liếc y. Anh ta không ngờ y mà lại làm thơ bằng tiếng Pháp. Người phó tổng biên tập nói: “Có”. Y bèn đưa bài thơ Équateur chép tay cho ông ta. Đọc xong, ông ta ngần ngừ: “Chúng tôi chỉ sử dụng bản thảo đánh máy”. Chắc là tạ cớ, y nghĩ bụng. Ông rậm râu cầm lấy bài thơ từ tay người cộng sự cấp trên, về danh nghĩa. Ông ta đọc rất nhanh và quyết định luôn : “Publier” (đăng). Ông ta đã trao tờ giấy cho phó tổng biên tập lại lấy về: “À, để tôi chữa một chữ đã”. Có một động từ chia sai nhóm. Y phục sát đất: Lão ta chỉ liếc qua mà… Ông linh mục vừa chữa vào bản thảo của y, vừa hỏi tác giả: “Ông có tấm ảnh nào không? Ảnh ông có liên quan đến phong cảnh châu Phi càng tốt”. Nhân không khí cởi mở, C. bèn ngỏ lời viết một bài về chế biến bột sắn thành đường mạch nha và được chấp thuận chẳng khó khăn. Trước khi từ biệt, y hỏi bao giờ bài thơ được đăng, phó tổng biên tập trả lời: "Trong vòng hai tuần”. Chao ôi, nếu biết cái hai tuần ấy rồi ra sẽ như thế nào thì nhà-thơ-bất-đắc-dĩ chẳng khoái đến như thế. Người y lâng lâng. Không muốn hưởng cái sướng một mình, y giục vị “nông học” viết gấp bài. C. cũng không không bỏ lỡ dịp, chỉ sau năm ngày đã thân chinh đưa bài và ảnh mình đến toà soạn; vừa may gặp ngay ông thầy tu người Pháp đang trực tại đó. Hai tháng sau, bài viết về chế biến bột sắn được đăng. Còn bài thơ của y thì chẳng thấy đâu. Bọn y vẫn trong cảnh chờ đợi dài dài để hồi hương.. “Buồn tình”, y làm tiếp một bài thơ nữa: “À toi, ma soeur africainne” (Gửi em, người em gái Phi châu). Bài này xem ra có vẻ “dễ chịu” hơn hai bài trước, y tự ngẫm, có những câu: De la peau ne te soucie pas! La beauté noire a tout droit à la diversité des fleurs parlantes d’être fière prendre part! (Đừng bận tâm về màu da! /Giai nhân đen có mọi quyền / về sự đa dạng của những bông hoa biết nói / được hãnh diện góp phần. ) Hay là: Si on l’avait vraiment peu estimée Par qui Auraient surgi les métis? (Nếu người ta thưc sự chẳng ưa/ ở đâu ra những đứa con lai? . ) Mãi chẳng có tin gì từ hai tờ báo đã hẹn đăng hai bài thơ. Khỏi nói y nóng lòng chờ đợi đứa con tinh thần của mình ra đời trên xứ lạ. Cùng với sự nóng lòng đợi phía nước bạn giải quyết mọi “tồn tại” để về nước. Ngộ nhỡ mình đi rồi… Y tìm gặp tổng biên tập tờ Ngày Nay. Ông ta nói: “Bài Chanson terresstre có tứ nhưng không hay đến mức như Alombé đánh giá. Mỗi người một ý kiến, chẳng sao. Tôi đã đưa vào số 5. Báo in ở Kin- sa-xa, chắc là xong rồi. Tôi đã định đi lấy nhưng chính trị nước tôi có cơ biến động, e có bãi công hoặc lộn xộn gì đó người ta có cớ đóng cửa biên giới, mình sang K. sẽ bị kẹt không về được”. Kin-sa-xa là thủ đô nước láng giềng cách một con sông rộng.(Bấy giờ ở các nước Đông Âu đang rục rịch biến đổi chính trị; Nước CHND Cônggô không phải là nước XHCN nhưng cũng bị ảnh hưởng). Thế là chờ. Nhiều người bảo ở xứ này mà đã phải chờ thì cứ dài cổ ra mà chờ. Y đến toà soạn tờ Tuần Phi châu. Tổng biên tập, một người Phi tốt nghiệp đại học tại Pháp, ra tiếp, xin lỗi: “Họ quên”. Y nói: ”Ông đã quyết định và đã vào chương trình. Quên thì làm sao có sẵn bài để thay thế?”. Ông ta lúng túng: “Chúng tôi… sẽ có giải pháp. Ông có bài nào nữa cứ đưa cho tôi” . Ông ta bảo y nên đưa ảnh đen trắng để in cho rõ, báo ông ta không in màu, và đích thân đưa y đến bộ phận chuyên môn để lấy lại tấm ảnh đưa trước. Dọc đường, chủ và khách trò chuyện cởi mở. Tổng biên tập rủ rỉ kể rằng: ông ta đang chuẩn bị luận án tiến sĩ, đề tài chính trị: vấn đề nhất thống châu Phi, sẽ bảo vệ tại Pháp. Y nói đưa đà, đáng lẽ nói sujet (đề tài) subtil (tế nhị) thì lại lỡ lời là stérile (nhạt, khô khan). Có vẻ như người đối thoại hơi ngớ ra một chút, y nói thêm: (và) fatigant (nhọc sức, cũng có thể hiểu là ngấy, chán). Ông ta gật đầu: “Très, très fatigant”. Y ra khỏi toà báo, lòng tràn phấn khởi vì những lời hứa hẹn. Ba tuần lễ trôi qua, ngày nào y cũng ra quầy báo. Chẳng có tăm hơi gì.Y lại đến toà soạn. Tổng biên tập tiếp y với vẻ mặt của người sắp phải hầu kiện. Mới gặp vài ba lần, y cũng nhận thấy ông ta là ngưòi chân thật, nhũn nhặn, xử sự ra người có học. Loanh quanh một lúc, tổng biên tập nói: “Người phụ trách mục thơ không chịu vì xưa nay báo này chỉ đăng thơ của người thuộc giáo hội. Anh ta bảo: hoặc là đăng chùm thơ kia hoặc là tôi, ông hãy chọn một”. Y hỏi: “Anh ta đưa tối hậu thư và dọa từ chức?”. “Vâng”, Tổng biên tập gật, vẻ chịu đựng. Y nói lời cảm thông và rút các bản thảo về. Ra tới sân, y gặp ông linh mục người Pháp. Ông này thân mật bắt tay: “Bài thơ đã được đăng rồi chứ?”. Y hơi lạ là không lẽ ông ta chẳng theo dõi các số báo đã in ra, nhưng cũng nói qua sự tình. Ông cố đạo đề nghị y đưa lại mấy bài thơ, ông ta xem qua rồi chọn bài “Gửi em, người em gái Phi Châu” chứ không phải bài “Xich đạo” mà ông ta đã chấp thuận trước đấy. Ông ta hẹn tuần sau. Đúng hẹn trở lại, y được tổng biên tập trao cho bài thơ đã biên tập kèm thư của người phụ trách mục thơ nói rằng anh ta đã sửa bài thơ cho thích hợp và nếu tác giả đồng ý thì sẽ đăng ngay vào số tới. Thì ra ông thầy-tu-biên-tập-viên lại “thiêng” hơn chánh, phó tổng biên tập nhiều. Tay phụ trách mục thơ buộc phải đăng nhưng hắn ta “cưỡng hiếp” bài thơ đến mức y phải khước từ. “...Tôi không còn nhận ra đứa con tinh thần của mình nữa. Nếu tôi cứ bằng lòng cho nó chào đời dưới cái tên tôi thì tôi sẽ thành kẻ bất lương”. Anh ta, trong thư phúc đáp, phân trần rằng: mục thơ của báo Tuần Phi châu mang tựa đề chung “Atelier des poètes” (Xưởng(!) các nhà thơ) nên tất có sự cùng gia công sửa chữa như mọi “atelier” khác(!). Chẳng thể hiểu người ta quan niệm “xưởng” trong chuyện làm thơ như thế nào nữa! Vậy là chấm dứt một “màn” phiêu lưu. Một hôm, trong một hiệu sách gần trung tâm thành phố, y gặp một thanh niên người Sát (Tchad), một nước Trung Phi, cử nhân Pháp văn, biên tập viên văn nghệ của tờ Le Fanion (Cờ hiệu), một tạp chí hàng tháng nhưng không ra đều kì lắm của nhà đại tư bản anh ruột đương kim tổng thống. Tạp chí có cả một bộ phận toà soạn ở Pari, và được in cũng ở đấy. Tờ báo được in và trình bày đẹp không thua tờ Paris Match, tờ tạp chí hàng đầu của Pháp. Quen nhau, Neato, chàng nhà báo người S. mời y đến nhà chơi. Y đưa cho N. xem ba bài thơ. Anh ta chăm chú đọc rồi kêu lên: “Vous êtes un grand écrivain!” (ông là một nhà văn lớn). Đáng lẽ phổng mũi thì y lại tự cười thầm. Nếu là những danh hiệu “rẻ tiền” ! N. nhận đăng cả chùm ba bài trong số Cờ hiệu tới dưới cái tên chung Méditations d’un voyage en Afrique (những suy tưởng trong một chuyến đi tới châu Phi), cùng với ảnh và ít lời về tác giả. Ít hôm sau, anh ta cho biết cả toà soạn ngạc nhiên “không ngờ một người Việt Nam lại làm được những bài thơ như thế về châu Phi”. Ngồi trên xe buýt trở về nơi ở, y nảy ra ý định làm bài thơ nữa Mélodie pénible (Giai điệu nhọc nhằn). Đầu đề bài thơ bật ra bất ngờ khi ý và tứ mới chớm hiện ra. Bài thơ được hoàn thành về cơ bản trong hai hôm. Viết tiếng Việt chưa bao giờ y làm nhanh được như vậy. Y cảm thấy có bài này nữa thì mới coi là tạm “lấp đầy” Những suy tưởng... Y muốn thêm vào chùm thơ đã trao cho Le Panion nhưng N. nói toà soạn đã duyệt và đã gửi sang Pari để in. Lại những ngày ngong ngóng. Mãi rồi số báo cũng ra. Nhưng... phèo! Neato xin lỗi và phân trần: “Vì số báo này ra chậm, lùi lại đúng vào dịp giải vô địch bóng đá thế giới nên tổng biên tập ra lệnh gác lại một số bài để đăng bài về cuộc chơi này”. Y chán quá, ngỏ ý đòi lại bài và ảnh về. N. nói: “Hiện đang ở Pari cả. Ông cứ yên tâm. Chúng tôi nhất định đăng vào số sau. Nếu ông về nước, cứ để địa chỉ lại, khi nào in xong chúng tôi sẽ gửi sang”. Lại hứa! Nhà thơ hụt, nhà thơ “trái mùa” là y không muốn cho ai biết mình làm thơ và đang chờ đăng. Một hôm, y nôn nóng nên gọi điện cho Neato. Cả khu chuyên gia Việt Nam chỉ có mỗi máy điện thoại đặt tại phòng của ông T., người được bên nước cử sang phụ trách chuyên gia. Mỗi khi có ai đến gọi nhờ điện thoại, T. đều ra ngồi bàn nước mé bên pha trà hay “bận” làm gì đấy. Hôm đó, y gọi xong vừa toan đi ra thì T. giữ lại. Anh ta pha nước mời uống, rồi cười rất tươi, dịu dàng nói: “Bác K. ạ (trước nay anh ta vẫn gọi y là “anh”, y còn kém tuổi anh ta), giao thiệp với người nước ngoài là lôi thôi lắm. Tôi có ông thày ở Cộng hòa dân chủ Đức, từng hướng dẫn tôi làm luận án tiến sĩ, viết cho tôi năm, sáu lá thư mà tôi không dám trả lời. Mà với nước xã hội chủ nghĩa hẳn hoi đấy nhé. Sơ sẩy là bị để ý ngay. Phiền lắm. Họ nắm sự việc để đấy, đến lúc cần mới đem ra xét, có khi mình đã quên rồi”. - Rồi ảnh hưởng việc lên lương, lên chức... -y không nín được, thản nhiên nói với vẻ đùa đùa. - Chuyện ấy còn chưa là vấn đề –T. cười vô tư- Có khi tôi không được có mặt ở đây. Rồi còn tiền đồ con cái nữa. Bác uống nước đi! Chờ y nâng chén uống xong, vị phụ trách tiếp: - Anh em với nhau, tôi xin nói thật: Cán bộ mình muốn gửi bài cho báo nước ngoài phải được phép đấy - Lần trước, theo gợi ý của anh, tôi nói với anh Th., đại sứ, là tôi định gửi bài cho báo “Đoàn kết” của Việt kiều ở Pari về chuyện... Anh Th. không ngăn, chỉ nói vấn đề ấy hình như có nhà văn trong nước đã đề cập. Do vậy, tôi cứ gửi. - Nhưng chuyện thơ này, anh nên đưa tôi xem. Có gì, tôi góp ý sửa. Chỉ có lợi cho anh; có sơ suất, tôi chịu trách nhiệm anh cũng đỡ đi. Hẳn anh ta phải biết bài đã nằm ở tòa báo rồi chứ qua cuộc điện đàm vừa rồi của mình, y thầm nghĩ. Vừa lúc, V., giáo sư vật lí đi vào. V. vẫn có lệ sáng và chiều đến hầu trà thuốc thủ trưởng. Chẳng biết anh này nghe thủng chuyện ra sao, vừa ngồi xuống đã nói chen: - Anh T. nói “đưa xem” là nói nhẹ, nói lịch sự. Theo em phải nói trắng ra là đưa duyệt. - Anh T. ạ, - y làm như không nghe V. nói gì- chuyện sửa chẳng cần đâu. Sao lại bắt anh gánh trách nhiệm cho tôi. - Nhưng nếu có chuyện gì thì về nước tôi phải hứng chịu. - Được rồi! Lúc đó, tôi sẽ nói anh T. đã có khuyên can song tôi vẫn gửi đi. T. chìa tay cho y bắt, vừa lắc lắc, vừa bảo y, tươi tỉnh: “Cảm ơn anh”. Chuyện này, có phải y cũng “điếc không sợ súng”? Y vẫn nghĩ tới “đầu ra” cho mấy “đứa con tinh thần” hẩm hiu của mình. Mang về nước, chúng sẽ chỉ còn là những thứ “lưu niệm” khá vô duyên ngay cả trong mắt những người thân. Ở các quán báo, y thấy tờ báo tiếng Pháp Ngouvou, tờ tuần báo dành cho học sinh trung học, cả cho sinh viên. Ngouvou, tiếng thổ ngữ nghĩa là Con hà mã. Theo chỗ ghi giá bán ngoài bìa thì báo phát hành cả ở Pháp, Bỉ và Canada. Tìm mãi địa chỉ tòa soạn trên tờ báo chẳng thấy, y bèn đến bưu điện trung ương hỏi, dựa vào số điện thoại ghi trên báo. Sau hai ngày, họ cho biết một nơi ở. Y tìm đến mới hay nơi đó dành cho tổng biên tập cũ của tờ báo; ông ta đã về Pháp năm trước. Y đang ngán ngẩm thì một bà đầm Pháp chính cống lái xe đến định tìm ai đó. Bà này bảo cho y biết rằng tổng biên tập hiện tại của tờ Ngouvou là Nadette Richard, một chuyên gia Pháp tại “Trung tâm bồi dưỡng giáo sư trung học”. Bà ta ân cần mời y lên xe thân đưa đến gặp N.R. ở một nơi cách vài ki-lô-mét. Nadette Richard ở chung với một người đàn ông tên là Yvon, cũng là chuyên gia Pháp, trong một biệt thự bề ngoài cũng xoàng. Họ tiếp y lịch sự nhưng dè dặt. Y tự giới thiệu rồi vào ngay việc: đưa chùm thơ bốn bài. Nadette đọc chăm chú rồi nói (chẳng hiểu có phải là do lối lịch sự Pháp không): - Những bài thơ tuyệt diệu (merveilleux poèmes), nhất là bài “À toi, ma soeur africaine”, tôi rất xúc động về bài này. Vậy mà ông nói ông không thạo tiếng Pháp. - Đúng là tôi rất kém tiếng Pháp như bà đang nghe tôi nói đây. Tôi ngẫu hứng làm kiểu tài tử (amateur), phải dựa vào từ điển. - Bel amateur! (Hảo tài tử! – tôi chưa tìm ra từ ngữ tiếng Việt thích hợp hơn-K.N.). Ông dùng cà phê nhé! Y nói mấy lâu nay tim y hơi “nặng”. Người chồng đưa ra mấy chai bia. Y vốn tửu lượng kém lắm, chỉ một cốc bia nhỏ mà mặt bừng bừng, cảm thấy ngượng: - Thứ lỗi cho tôi, tôi không quen uống những thứ có cồn. - Chúng tôi cũng vậy thôi -Hẳn Nadette có ý nói đỡ cho khách. Bà tổng biên tập hứa sẽ đăng cả chùm bốn bài thơ vào hai số từ tháng Chín tới, bởi lúc này đang nghỉ hè. Bà ta bảo y đưa ảnh và viết mấy dòng vắn tắt về tác giả. Yvon đưa tặng y tám số Ngouvou. Ông ta là quản lí của tờ báo. Trong hội đồng biên tập cũng có nhiều giáo sư người Phi châu. Nadette ghi lời đề tặng vào trang bìa của một trong những tờ báo đưa tặng: “Với những tình thân ái và những lời cảm ơn của tôi về những bài thơ tuyệt vời mà Ngouvou sẽ đăng trong những số tới. Toàn ban báo chúc ông, thưa ông Nguyễn Nguyên Khải, một chuyến hồi hương tốt đẹp. Chúng tôi cũng mong tiếp tục liên hệ với ông” (*). (Về tới nơi ở đọc những dòng này, y cảm kích song lại nghĩ bụng: “Trên thế gian này, dùng mĩ từ có lẽ người Pháp là nhất”). Lúc chia tay, Nadette hỏi y về tiền nhuận bút. Y nói: “Không sao”. Trong xe, lúc đưa y đi, bà bạn của Nadette đã nói cho y biết người ta làm báo Ngouvou không có thù lao. Chắc Nadette và Yvon chẳng thể ngờ rằng với một chuyên gia Việt, trả lời như vậy là “dũng cảm” lắm. Hai người tiễn chân y ra tới cổng. (Về sau, khi biết mối quan hệ này, C. chê y không biết tận dụng khi qua Paris). Ít lâu sau, trước ngày rời Bra-da-vin, y đến thăm Nadette. Bà ta đã về Pháp nghỉ hè từ đầu tuần, Yvon cũng một giờ nữa ra sân bay. Ông ta cho biết chùm thơ của y đã được hội đồng biên tập thông qua, có sửa một đôi từ cho phù hợp với trình độ học sinh. Ông ta hứa sẽ gửi cho y mỗi số báo có đăng thơ y năm bản. Y không rành ngôn ngữ xã giao của người Pháp lắm, song vẫn nghĩ họ không “đãi bôi”. Người bản xứ thì hay sai hẹn, ý kiến chung của các chuyên gia nước ngoài tại đấy, kể cả chính người Phi. Người thuộc các xứ văn minh ắt khác chứ, y tin vậy. Hỡi ơi! Về nước, y chờ hoài mà chẳng thấy tăm hơi. Le Fanion đã đành, Ngouvou mà cũng bặt. May y còn vớt vát được tí tẹo từ phía ít ngờ. Người ta gửi cho y, qua P.H.Bằng, tùy viên sứ quán Việt Nam, ba bản Maintenant số 6 đăng bài thơ Mélodie pénible, bài thơ y đưa cho tổng biên tập tờ báo trước ngày y lên máy bay. Bài thơ được đăng bốn tháng sau khi y đã rời đi. Số có đăng bài Chason terrestre, người tổng biên tập đã quên (?) gửi như đã hứa. Dẫu sao, ông ta cũng còn ít nhiều giữ lời. Y hơi tiếc: giá đưa luôn cả chùm bốn bài thơ cho Maintenant! Y còn quá hi vọng ở các báo kia. Có thể họ đã đăng mà quên gửi báo biếu. Về nước rồi, một lần y đưa chùm bốn bài thơ cho người thường trực tờ “Le Courrier du Việt Nam”. Ông ta chẳng mấy mặn mà, nói: “Đã đăng ở nước ngoài rồi thì không dùng được” ( thật ra chỉ mới đăng hai bài). Chấm dứt vĩnh viễn một chuyện “phiêu lưu văn chương”. ----------------------------------- (*) Avec mes amitié et mes remerciements pour ces poèmes que Ngouvou sera heureux de publỉer dans de prochains numéros. Toute l’équipe du journal vous souhaite, monsieur Nguyen Nguyen Khai, un excellent retour dans votre pays. Nous espérions aussi continuer à correspondre avec vous. Nadette Richard
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.03.2009 12:13:49 bởi Khải Nguyên HT >
|