HÀNHTRÌNH... ,T.V.,HỌ ĐI QUA VƯỜN L.,NỤ HÔN MUỘN
Khải Nguyên HT 15.03.2009 12:24:18 (permalink)
Hành trình đêm giaothừa
 -truyện ngắn-
 
      Còn cách bến phà vài chục mét. Yến thôi đạp để cho chiếc xe tự dừng khi hết đà. Dùng phanh hãm xe đột ngột sợ làm kinh động đứa con đang ngủ. Thằng bé được bọc và đệm kĩ trong chiếc ghế con buộc chặt trên cái đèo hàng. Đầu nó trùm một cái mũ len kín xuống tận vai chỉ chừa một cái khe hẹp ngang mắt, lại được giữ trong một cái chụp gồm có gối, khăn bông, khăn len, níu giữ cẩn thận cho khỏi gà gật. Bến phà vắng và lạnh. Đêm mù mịt. Ánh sáng vàng mờ từ cái "đèn pha" tự tạo - một cái đèn dầu hỏa giấu trong một đoạn ống tre có trổ một lỗ vuông lắp kính và một lỗ thông khói - hắt ra một khoảng nhỏ nhoi trên mặt đường càng làm cho bóng tối xung quanh thêm đặc. Chỉ có thể đoán nhận dòng sông trước mặt qua những cảm giác rất mơ hồ. Chiếc phà có lẽ đang ở bờ bên kia. Vinh nó nói đúng. Mình những tưởng… "Chán cái bà Yến! Bà cứ nghĩ theo nhu cầu của mình. Ngày thường người ta tranh thủ vận chuyển suốt đêm thật, để tránh thằng Giôn-xơn; nhưng đêm ba mươi Tết thì người ta cũng phải thư thư một chút chứ". Bây giờ là mấy giờ nhỉ? Biết thế mang theo cái đồng hồ Vinh nó cho mượn. Mà cái Vinh dở quá. Sắp làm cái gì mà có người gàn quải thì thế nào cũng xúi quẩy, y như rằng! Vào lúc khác, chắc Yến thấy ngay được là mình lẩm cẩm và đã trách bạn một cách bất công. Vinh biết làm sao được vì lẽ gì mà Yến nhất quyết về nội thành lúc này. Từ ngày bệnh viện sơ tán về nông thôn, Tết nào Yến cũng xung phong trực thay cho bạn bè cùng khoa cần nghỉ. Mọi năm thường thường một phần ba cán bộ, nhân viên được đi phép. Năm nay, bệnh viện trưởng ra lệnh trăm phần trăm ăn Tết tại chỗ. Trên đã báo rằng mồng một Tết sẽ có đoàn đại biểu cấp trên về. Và oái oăm thay! Yến lại nằm trong số được phân công trực chính vào sáng ngày mai. Không thể viện lí do gì để xin đổi ngày. Càng không thể nói ra cái duyên cớ thực sự. Chuyện dở hơi! Đêm hôm kia, Yến nằm mơ thấy chồng về đúng giao thừa. "Anh ghé qua rồi phải đi ngay". Anh đưa tay đón con, nhưng thằng bé rụt lại. Anh thổi cái bóng bay căng phồng trao cho nó. Bé Tâm để cho anh bế. Anh bồng con đi nhong nhong trong sân. Thằng bé toe toét cười. Bỗng anh run cầm cập, hai hàm răng đánh vào nhau. Điệu sốt rét rồi - Yến lo sợ nghĩ. Tay anh run lẩy bẩy. Anh đánh rơi thằng bé mất! Yến muốn đến đỡ mà không sao nhấc nổi chân. Chị la hoảng lên. Nghe tiếng ú ớ kéo dài, Vinh ở phòng bên đập mạnh vào vách. Yến tỉnh dậy thao thức cho đến sáng. Hôm sau, chị định đăng kí xin nghỉ Tết thì đã có lệnh "cấm trại". Mẹ con mình phải về nhà! Chị cố dẹp cái ý nghĩ kia nhưng khó quá. Có khi nghe tim bệnh nhân mà tưởng đâu nghe chính tim mình. Hôm nay khi hoàng hôn xuống, Yến thấy lòng nôn nao. Chị cứ đi ra đi vào, chẳng làm sao khuây khỏa được. Có người bạn thân nhất là Vinh có thể tâm sự cho vợi bớt xốn xang thì "hắn" ta có chồng về ăn Tết. Yến quyết định đến nhà bệnh viện trưởng. Bác sĩ bệnh viện trưởng có dáng nho nhã nhưng cặp mắt sắc và lạnh. Ông ta tiếp Yến có vẻ niềm nở như thường vẫn vậy, nhất là khi ở nhà riêng ông ta. Nhưng... - Cô điên à? Bây giờ là mấy giờ? Và đây về nội thành bao nhiêu cây số? (Ông ta cố đùa) Giao thừa mà bắt gặp cô đang rong xe trên đường thì cô sẽ rông cả năm đấy nhé. - Báo cáo anh, em có việc rất cần. - Việc gì cần? Chú ấy về thăm à? - Vâng. - Thế thì chú ấy phải ra đây chứ. - Em đoán thế. Mà anh ấy không biết em sơ tán về đây. Anh cho em vắng mặt một ngày thôi. - Không được! Các Tết trước cô tự nguyện ở lại rất đáng hoan nghênh. Còn Tết này, tôi đã nói rồi. Sáng mồng một, có các đồng chí lãnh đạo thành phố và có thể có cả đại diện bộ nữa. Cấm bệnh nhân về ăn Tết trong nội thành mà bác sĩ lại về thì coi ra làm sao? Giữ các cô lại cũng chỉ vì muốn tốt cho các cô thôi. - Anh chuyển cho em trực vào chiều mồng một vậy. - Không được là không được! Sáng mai, mọi cán bộ, nhân viên bệnh viện đều phải có mặt, có lệnh gọi là tập hợp ngay. - Được rồi! Sáng ngày mai tôi sẽ có mặt.
     Yến về phòng mình thu xếp mấy thứ, nhất là... Bánh chưng em tự gói đấy nhé. Ngày anh còn ở nhà, anh mà dỗi thì em chỉ việc... chờ. Thứ mứt gừng anh thích này, hành quân đêm lạnh anh là dễ bị ho khan lắm. Em chọn toàn loại củ bánh tẻ. Thằng Tâm đang ngủ, Yến cũng quyết mang theo. Chị công phu chuẩn bị cái ghế ngồi cho thằng bé. Vinh can thế nào cũng không được. - Thôi "mụ" hấp thì cho "mụ" chết rét dọc đường. Đừng làm tội thằng bé. Để lại tôi trông cho. Mà "mụ" định đi thế nào để sáng mai kịp có mặt ở đây? - Tớ đi được. - "Mụ" định để thằng bé sụn lưng, vẹo cổ à? - Không sợ. Tớ chèn đệm đâu vào đấy cả rồi. Các cậu đón giao thừa vui vẻ nhé!
     Khu nhà tập thể tạm bợ của nhân viên bệnh viện đã bắt đầu lắng tiềng ồn. Các công việc sửa soạn tết nhất thu vào sau các cửa liếp khép kín. Nào! Mẹ con ta làm cuộc hành trình đêm giao thừa nào! Cô Vinh biết thế nào được vì sao mẹ con ta phải về con nhỉ. May đường sá không đến nỗi quá xấu.
     Yến tìm chỗ chắc chắn dựa xe, rồi ngồi xổm xuống bên cạnh. Vắng vẻ quá. Chị đã toan đánh thức con dậy để chuyện trò cho đỡ sốt ruột, nhưng đã kịp nghĩ lại. Mình đạp thong thả thì hai giờ nữa cũng đến nơi. Chắc là còn lâu mới giao thừa. Cái bến phà này người ta thường nhắc đến như nhắc một thứ của nợ. Riêng Yến, những ngày này xa anh, mỗi khi nghĩ đến lại tủm tỉm một mình. Lần ấy, chuyến phà đã chậm rời bến lại còn bị trôi. Yến đang đứng tựa vào xe đạp nhìn xuôi dòng sông thì một mẩu thuốc lá rơi ngay nơi ngực áo. Yến quay ngoắt lại quắc mắt nhìn kẻ "phạm tội":
     - Chỗ anh ném rác đấy à?
     Người kia chừng chưa đến ba mươi tuổi, ăn mặc xuềnh xoàng, cười ngượng nghịu:
     - Xin lỗi. Tôi không định… tại gió…
     Quả thật anh ta không như những người khác quẳng bừa xuống chân hoặc xuống bất cứ nơi nào tiện tay, mà đã cẩn thận ném ra sông. Song Yến vẫn chưa thôi:
     - Anh không có mắt nhìn chiều gió à?
     Một hành khách đứng gần đấy bất bình nói đổng:
     - Con gái gì mà chua thế! Người ta đã nhận lỗi rồi mà còn…
     "Thủ phạm" cười xòa:
     - Chắc cô ấy đang có chuyện bực mình.
     Người ta bảo: "Có những câu nói đáng giá ngàn vàng", chẳng biết có ngoa không, nhưng đối với Yến thì câu nói của anh chàng quả đáng giá.  Trước hết, nó gỡ thế khó xử cho cả Yến, cả anh ta. Quan trọng hơn, nó quá đúng. Yến đang bực mình thật. Bực mình từ trước lúc lên xe đạp cho đến tận bây giờ. Bà chị ruột của Yến công tác ở một huyện lị ngoại thành nhắn em khẩn cấp: "Chủ nhật đến nhà chị có việc rất cần". Tưởng gì, té ra bà chị giới thiệu cho một "đám". Đám ấy là một anh chàng kĩ sư xây dựng khá bảnh trai, ăn mặc rất mốt, nói năng bặt thiệp, nhưng mà… "thanh liên nhà quê chúa hay phạm nuật nệ giao thông". Đã thế lại nói nhiều. Yến mới đưa nhẹ một "bài": "Lếu thanh liên ló chỉ no nấu cám nợn rồi ló nại no nàm cỏ núa thì chẳng biết nuật nệ giao thông nà gì đâu, anh ạ". Chàng kĩ sư đang cười tươi, từ từ khép môi lại ngỡ ngàng nhìn người đối thoại, từ từ đỏ mặt lên, rồi từ từ rút lui một cách lịch sự. Bà chị bèn nổi đóa lên: "Nó đẹp trai. Nó có bằng cấp cao. Nó sắp được đề bạt trưởng phòng. Mày còn kén chọn cái gì nữa nào? Nó lại rất tốt. Nó đang lo chạy vật liệu theo giá cung cấp cho tao lên cái nhà mái bằng (của hiếm trước thời chiến tranh phá hoại của Mĩ) mà chẳng hề đòi hỏi gì cả. Mày tìm được ai hơn nào? Mà không ưng thì cũng phải ăn nói cho có ý tứ chứ. Con gái, con lứa mà ăn nói chỏng lỏn thì chỉ có ế. Cầu cho mày đi đường gặp phải một thằng chẳng ra gì nó gây gổ cho trắng mắt ra".  Xem chừng người này chẳng phải là một "thằng chẳng ra gì" như bà chị đã cầu. Nếu câu chuyện chỉ vậy thì chằng có gì để nhớ. Nửa tháng sau, lớp bổ túc văn hóa cấp ba khai giảng. Yến đang là y sĩ; cô muốn được học chuyên tu bác sĩ. Đến giờ toán, nào ngờ người bước lên bục giảng lại là người gặp gỡ trên chuyến phà ngày nọ.
     Quái! Những người chở phà về nhà hết cả rồi hay sao ấy. Chẳng thấy le lói tí ánh lửa nào. Phải quay lại thì thật là nhục. Bệnh viện trưởng biết là mình đi chắc là cáu lắm. Tất nhiên là biết, mình có đi lén đâu. Yến thoáng rùng mình. Ông ta là người biết cầm cương và biết chịu đeo cương. Chẳng hạn, ông ta theo rất chặt nguyên tắc: những thuốc quí và hiếm thì tùy người mà cho. "Tùy bệnh chứ ạ"? - Trong một lần giao ban, một bác sĩ còn măng tơ buột miệng hỏi vậy. Rất lâu về sau, anh ta còn thấm thía cái bạo miệng đó, nhất là những khi xét lương và bình thi đua. Yến cũng đã từng được biết mùi hai "vũ khí" ấy của ông ta - mà không chỉ hai ngón đó. Ông ta lại hay thích nắn gân cấp dưới, mặc dù gân ông ta khá nhũn trước cấp trên. Nhưng Yến là một thầy thuốc có lương tâm và tự trọng.
     Có tiếng ầm ì. Chẳng lẽ thằng Giôn-xơn nó mò vào? Tiếng ôtô. Hay quá! Nhưng ô tô ở phía bên kia sông. Cũng được! Tiếng còi gọi phà. Một vệt trắng đục lia trên mặt sông rồi biến đi. Có lẽ ôtô đang xuống bến đấy! Đang lên phà đấy! Có lẽ phà đã rời bến và đang sang ngang. Sao mà lâu vậy? Khéo con phà bị trôi. Sao tiếng máy bỗng dưng tắt? Đột ngột tiếng cầu treo đầu mũi phà xiết vào mặt bê tông ràn rạt cùng lúc với ánh đèn ôtô bật sáng. Hai chiếc xe tải quân sự, vải bạt trùm kín thùng xe, nối nhau bò lên. Tiếng máy hụ hụ không làm cu Tâm thức giấc. Nó cũng đã quen với tiếng kẻng báo động, tiếng súng nổ, tiếng máy bay gầm gào. Chờ cho hai chiếc ôtô vượt khỏi bến, Yến mới thận trọng dắt xe xuống phà. Nhiều tiếng nói lao nhao cất lên.
     - Ơ! Cái chị này ở đâu ra thế này? Đêm hôm thân gái dặm trường…
     - Hay là giận chồng, đêm ba mươi Tết bỏ đi cho biết mặt.
     Yến lấy giọng từ tốn:
     - Các bác, các anh giúp cho mẹ con tôi qua phà.
     - Xăng dầu đâu sẵn để phục vụ mỗi mẹ con nhà chị riêng một chuyến phà. - Một giọng trẻ, không ra chọc, không ra bực. - Chịu khó chờ nhá!
     - Trời đất! Đi vào giờ này lại còn đèo thêm con nhỏ. Một giọng đã có tuổi ôn tồn - Chị về đâu bây giờ?
     - Dạ cháu chỉ sang bên kia sông thôi ạ. - Để ngừa bất trắc, Yến đành nói dối.
     - Thôi, chúng mình cho chị ta sang ngay, kẻo lạnh cháu bé. - Tiếng người có tuổi - Chắc người ta có việc cần không dừng được.
     - Không có việc cần thì họa là điên. - Tiếng thanh niên lầu bầu.
     Ca-nô mở máy. Chiếc phà như miễn cưỡng rời bến. Tiếng máy trầm đục bị đêm dày hoang lạnh làm nghẹn lại không rền vang, đáng lẽ là ngược lại. Hay chỉ là cảm giác của riêng Yến? Mình có điên không nhỉ? Thư chồng đến tay Yến vào ngày 28 Tết. Thư anh kèm một đoạn nhật kí: "… Trùng sốt rét chộp mình đúng lúc giao thừa. Kể cũng lạ! Lúc ấy mình chỉ nhớ bát nước chè xanh nóng pha đường Yến thường ép mình uống mỗi khi mình kêu mệt. Giá đúng giao thừa mình bay về nhà nhỉ! Mẹ con cô ấy bỗng nhiên thấy mình lù lù hiện ra thì mừng hay hoảng? Mình không hình dung được rõ nét khuôn mặt cu Tâm. Nó cứ mờ mờ ảo ảo. Chẳng biết con giống tính bố hay giống tính mẹ?..." Thế rồi có giấc mơ kia. Chẳng phải chuyện dở hơi đâu. Nhất định là thần giao cách cảm. Anh bị sốt rét nặng. Anh được đưa ra Bắc an dưỡng. Anh ghé về nhà. Linh tính của mình ít khi bị sai. Ngày ấy, mấy con bạn học viên biết chuyện mình "va" với thầy giáo trên một chuyến phà đã dọa: "Mày xin chuyển lớp đi thôi. Ông ấy thì cho mày lưu ban đến hai năm". Sau mãi chẳng thấy "ông ấy" gọi cô học trò nào lên kiểm tra bài, chúng nó lại phán: "Thầy giáo này bộ nhát gái chúng mày ạ". Không hẳn! Linh tính bảo mình thế. Và linh tính cũng báo cho mình là sắp bị gọi lên. Quả nhiên thật. Mình làm ra bộ đàng hoàng đi lên bảng mà trong bụng run ghê quá. Mình chuẩn bị đã khá kĩ, phải cái bài hình học chết tiệt! Tan buổi học, con bé "thương nghiệp" vênh váo bình: - Điểm hai ấy là để trả nợ cái câu "anh không có mắt" đấy em ạ. Thế quái nào mà chính con bé cũng cảm "chàng" mới chết chứ! Nhưng linh tính mách mình… Yến chợt bật cười. Chị nhớ lại lần hai đứa rủ nhau đến thăm thầy giáo. Yến bàn với cô bạn mua một bó hoa. Nhà thầy giáo là một gian nhỏ trong khu tập thể. Gian phòng gần như trống trơ. Đào đâu ra bình hoa mà cắm. Điều đó thì Yến đã biết thừa. Nhưng cô giả vờ cũng ngơ ngác khó xử như cô bạn, rồi nảy ra "sáng kiến" - Nhà cậu có lọ hoa đẹp đang bỏ không phải không? Cô bạn sốt sắng: - ừ nhỉ! Để mình… Xin phép thầy, em chỉ đi một nhoáng thôi. Một nhoáng của cô ta là quá đủ. Khi cô ta mang lọ hoa đến thì "thủ tục" khó khăn nhất trong những chuyện tương tự - những thủ tục chẳng có qui định chung, chẳng có mẫu sẵn, rất "tùy nghi" từng đối tượng cụ thể trong từng hoàn cảnh cụ thể, nhưng mà nhất thiết phải trải qua để có được "tuyên bố chung" - đã xong xuôi.
     Con đường nhựa trôi chậm dưới bánh xe. Thỉnh thoảng người mẹ quài tay ra sau sờ nhẹ đứa con, trong khi tâm tưởng không thôi hướng về người chồng. Tội nghiệp anh! Từ lúc cưới vợ không ngơi vất vả. Yến còn phải học hơn năm nữa mới xong chương trình bổ túc văn hóa. Đến khi được học đại học, cô đã toan thôi, vì thương anh cũng có mà ngại học cũng có. Anh đã phải khi thì thuyết phục, động viên, khi thì làm mặt giận. Yến học chuyên tu được hai năm và cu Tâm được mười tháng thì có đợt tuyển giáo viên nhập ngũ. Kể ra anh có thể xin ho•n một năm chờ vợ học xong và con cứng cáp hơn. Được tin báo, Yến tức tốc xin phép về thăm nhà. - Anh đi, e em phải xin nghỉ học mất. - Đừng! Ai lại thế? Trèo cau sắp chạm buồng rồi, em! - Anh chỉ biết xung phong cho thỏa chí, chẳng nghĩ gì đến mẹ con em cả. - Anh không xung phong, nhưng anh cũng không thoái thác. Em nghĩ kĩ mà xem, anh phải xử sự thế nào cho đúng?  Anh đi rồi, Yến ân hận mãi về câu nói dằn dỗi mình trót thốt ra. Chẳng qua mình muốn làm nũng một tí, chứ thực ra nếu anh hỏi ý kiến trước hẳn mình chẳng ngăn cản. Nhưng mà giá lùi lại một năm thì khi ấy đã có chủ trương tạm hoãn nghĩa vụ cho các giáo viên cấp ba. Thôi, lại nghĩ lẩn thẩn rồi!
     Đi quá một ngã ba, Yến thấy một quầng sáng lờ mờ di động phía trước. Chị dấn lên. Đó là một phụ nữ đi xe đạp một mình. Nơi ghi-đông phải chiếc xe có buộc một cái đèn pin. Có lẽ nguồn điện pin gần cạn nên ánh đèn phát sáng ra vàng vọt, lòa nhòa. 
     - Chị về đâu? - Giọng còn rất trẻ.
     - Tôi về nội thành. Còn chị?
     - Tôi cũng về nội thành đây. - Tiếng nói như reo - Hay quá! Cầu được, ước thấy. Đang lo đi một mình thì đường sẽ xa thêm. Trời lạnh thế mà chị cũng đem cháu theo à?
     Người bạn đồng hành tình cờ là một công nhân cảng. Cô ra ăn cỗ trừ tịch với mẹ và em sơ tán gần chỗ ngã ba rẽ vào, bây giờ về trực tự vệ. Biết cô có người yêu đi công tác B, Yến thấy gần gũi và tin cậy. Rồi không định, thậm chí cố tránh nữa, thế quái nào chị lại nói ra lí do thầm kín khiến mình xông pha thế này. Thổ lộ xong, chị tự thấy mình hố. Rõ vớ vẩn! Cô ta cười cho thối mũi. Không ngờ cô bạn cùng đi lại sẽ sàng nói.
     - Nếu là em, em cũng đi. Đi mà không được gặp còn hơn cứ thấp thỏm.   Chẳng gặp nhưng yên tâm, không thì cứ ân hận mãi cho đến khi biết chắc người ta không ghé về.
     - "Người ta" của cô đi xa lâu chưa?
     - Mới hơn một năm, chị ạ. Hai bên cha mẹ đều muốn chúng em "tổ chức" trước khi "lão" đi, nhưng "lão" khăng khăng "không muốn buộc cẳng" em. Em mới giận cho mấy giận. Lão xin lỗi rối rít và thuyết: Hồng mới mười tám, anh mới hai mươi. Cưới sớm, đoàn phê bình chết. Em mới "mắng" cho: Gớm! cứ làm như người ta nôn cưới lắm ấy. Đừng hòng! Lão lười viết thư lắm cơ. Có người để mà nhớ kể cũng hay đấy chứ chị nhỉ. Lắm khi cứ thấy lâng lâng, muốn sống tốt hơn, làm việc tốt hơn; cứ cảm thấy có cái gì đẹp đẽ đang chờ mình phía trước. Như mà… chị đừng cười em đấy nhé. Chị thì qua khúc này rồi. Cũng có khi em nôn nao nhớ. (Cô bé tưởng thế chứ…, Yến nghĩ). Họ nói nhớ ngẩn ngơ, em chẳng thấy thế. Em nhớ thì em tìm việc em làm. Làm cứ làm mà nhớ cứ nhớ. Đêm nay họ định miễn cho bọn con gái khỏi trực. Em với một con bạn xung phong cho cánh con trai biết. Đừng có mà ra vẻ chiếu cố nữ!
     Hai người đang ở đoạn đường giữa đồng trống. Trời hình như đỡ tối hơn. Trong một cái quán vắng bên đường thoáng tiếng động cựa. Yến lạnh người, muốn phóng ào qua. Nhưng Hồng đã hãm xe lại, nói to:
     - Chẳng hiểu sao mà ba ông mãnh mãi không đuổi kịp chị em mình nhỉ? Hay là họ đã vượt qua khi hai đứa mình tạt vào trận địa pháo rồi?
Suýt nữa thì Yến đã hỏi lại: Ba ông mãnh nào? Hồng hướng về cái quán lớn tiếng hỏi:
     - Ai ở trong lều kia cho hỏi tí: có thấy ba người đàn ông đạp xe qua đây không?
     Không có tiếng đáp. - Thế nào? - Hồng nói như quát và quay đầu xe cho đèn pin chiếu thẳng vào quán. Quả nhiên, trong góc khuất đằng sau cái bục đất đắp cao làm quầy bán hàng thấp thoáng bóng người. Từ phía đó phát ra tiếng nói chủng chẳng:
     - Có ma!
     Hồng lại cao giọng:
     - Thôi ta cứ đi tà tà, họ đuổi kịp mình ngay đấy mà.
     Cô từ từ đạp xe đi. Yến bám theo mà cứ rờn rợn sau gáy. Chị chờ nghe tiếng chân chạy đuổi. Muốn ngoảnh lại xem chừng mà không dám. Khi đã khá xa, chị quay nhìn khoảng không im lìm và tối thui phía sau rồi nói với Hồng:
     - Cô nhanh trí thật đấy. Kẻ gian hay người ngay nhỉ?
     - Chẳng biết đâu ổ con chuồn chuồn. Phải nẹt phủ đầu, chứ nếu quả là quân gian thì mình chạy cũng chẳng thoát. Xe mình không hôn cây, tắm ruộng, hắn chạy chân không vẫn thừa sức vồ được mình.
     Sắp đến cầu phao cách chiếc cầu bê-tông cốt thép bị bom Mĩ phá sập không xa. Chắn ngang đường là một băng trắng nhờ nhờ cao khoảng tầm người đứng. Khi tới gần, hai người soi thấy một tấm cót quét vôi trắng trên đó viết nguệch ngoạc hai hàng chữ đen đậm nét: "Còn bom nổ chậm. Cấm qua lối cầu phao. Đi đò Đẩu", và một cái hình nom như một củ khoai tây thủng ba lỗ gác trên hai que củi bắt chéo. Yến tần ngần:
     - Chết thôi! Đò Đẩu cách đây năm ki-lô-mét. Đường đê lổn nhổn đất cục dắt xe ban ngày còn không nổi nữa là. Vả lại, giờ này ai chở!
     - Hồi sáng em đi vòng đường khác, có biết đâu cái thằng Mĩ nó còn rình ở đây. Muốn qua đò Đẩu phải quành lại đi đường trong làng mới dắt xe được. Đến sáng chưa chắc sang được bên kia, - Hồng tặc lưỡi - Ta liều thôi, chị ạ. Số em còn thọ lắm. Em có chết thì cũng chờ "lão" ấy về đã rồi mới chết. Chị đi trước, em bám sát xe chị làm thần hộ mệnh cho chị.
     - Hay là ta quay lại theo đường Hồng đi sáng nay ấy.
     - Ôi, chị ơi! Phải đi gần hai mươi ki-lô-mét, qua hai bến đò xa làng, giờ này chẳng ma nào trực đò đợi chị em mình đâu. ở đây, thằng Mĩ thả bom hôm kia. Chậm lắm, hôm qua họ đã phải phá rồi chứ. Chắc các bố sợ còn sót nên trương biển phòng hờ thôi. Nếu không thì nối cầu phao làm gì? Đi, chị nhá!
     Chẳng chờ Yến gật, Hồng nhảy lên xe đạp đi luôn. Yến đành nối sau. Gần đến vùng bom. Hồng chậm lại:
     - Chị vượt lên đi! Cứ nghĩ "sắp đến nhà rồi" là sẽ đạp thoải mái.
     Nói vậy, chứ chính cô cũng chẳng thể thoải mái. Đoạn đường đã được những người phá bom gạt bớt đất đá vung vãi, nhưng mặt đường nhựa đã bị ngoạm vẹt đi từng mảng lớn, nên xe phải lượn tránh ngoằn ngoèo, muốn đạp nhanh cũng không được. "Nó" ở phía trước? đằng sau? bên phải? hay mé trái? Yến thấy người gai gai và như tê đi, mất cả ý niệm về thời gian và không gian, chỉ còn cảm giác một cái gì dằng dặc và mông lung. Toàn bộ ý thức hầu như tập trung vào một điểm duy nhất: đứa con đang ngồi sát ngay sau mình. Nỗi hiểm nguy dường như chẳng dính dáng mấy đến chị mà đang uy hiếp đứa con. Chung quanh là cái im lặng phản trắc và bóng đêm đồng loã. Bỗng một tiếng hát cất lên: "Từng đôi chim bay đi tiếng ca rộn ràng...". Yến chưa nhận ra ngay là Hồng hát. Tiếng hát vào lúc này, ở một nơi như thế này! Hát để che cái sợ hay để thách thức cái sợ?
     - "Đường ta đi xây đời..." Thoát rồi chị ơi!
Tiếng reo lảnh lót của Hồng dội vào cái căng thẳng của Yến khiến tay lái của chị loạng choạng. Chị bóp nhẹ phanh và xuống xe. Bấy giờ chị mới nhận thấy người mình đầm đìa mồ hôi.
     - Có dễ đến mấy trăm mét đấy em nhỉ. Khéo chị em mình bạc hết tóc rồi.
     - Độ năm mươi mét thôi, chị ạ. Để em dựng xe em, rồi em cùng chị đẩy xe chị lên cầu phao. Cẩn thận kẻo thằng bé giật thột. Chỗ này mấp mô nhiều đấy, chị ạ.
     Cầu phao bập bềnh, hơi chao đảo. Tiếng nước vỗ khẽ róc rách. Tiếng tre gỗ ồm ộp va nhau dưới bước chân. Chợt Hồng bật cười:
     - Chị có biết khi đang đạp xe qua "cửa tử" ấy em nghĩ gì không? Em nghĩ bom mà nổ thì chẳng biết lão ấy sẽ nói sao. Có khi mình chết rồi lão ấy còn mắng cho ấy chứ.
     - Cô không sợ à?
     - Không sợ, chỉ thon thót thôi. - Hồng cười hi hí - khi giương súng nhằm vào thằng Mĩ trên trời đang lao xuống thì lại không thế.
     Bên kia cầu phao đã thuộc nội thành. Con đường chạy kề một bệnh viện bị bom huỷ hoàn toàn. Trong đêm tối, vài bức tường lởm chởm còn sót lại làm nặng nề thêm không khí hoang phế. Đã có những lời đồn đại về những con ma (!) khoác áo choàng trắng lởn vởn những lúc khuya khoắt. Yến không tin có ma, tuy vậy chưa lần nào chị dám qua đây trong đêm vắng. Lần này chị đã quên khi "hạ quyết tâm" ra đi. May mà gặp Hồng.
     Họ lên xe đi mới được khoảng hai trăm mét thì phía cầu phao đưa tới một tiếng nổ "ục". Tiếng nổ không rền, và không thấy chớp loé. Có lẽ quả bom bị vùi sâu trong đất. Hồng, giọng ân hận:
     - Em bậy thật, xui chị liều. Chết dại! Nhất là lại có cả cháu bé. Đáng lẽ em nên khuyên chị quay lại. Nếu xảy ra chuyện gì thì tội em để đâu cho hết.
     Yến an ủi:
     - Tại chị nóng về nhà, chứ em các vàng chị cũng chẳng liều, nói gì em xui được chị. Thôi, chị em ta thế là may rồi. Bây giờ em đến thẳng cảng chứ?
     - Vâng. Sáng mai mấy giờ chị đi?
     - Chị phải có mặt tại nơi làm việc trước bảy giờ rưỡi. Có lẽ bốn rưỡi đã phải đi rồi.
     - Vào giờ ấy em cũng đã xong phiên trực. Em sẽ đến đón chị cùng đi cho vui. Em về xông nhà để còn vòi mẹ em quà mừng tuổi chứ. Chắc cụ sẽ mắng: "Con gái to như cái bồ rồi còn tị quà với em. Đừng để thằng ấy dắt mũi thì có phải bây giờ tao có cháu bế rồi không". Các cụ cứ nghĩ con người như con gà ấy, chỉ biết đẻ.
     Chia tay cô bạn gái mới quen mà đã thân thiết, Yến thấy vui vui. Chị như gặp lại thời hoa niên của mình. Mình cũng hơi "ngổ" như cô bé này, nhưng không hồn nhiên và vô tư bằng. Mình con may hơn Hồng: mình có đứa con và công việc để lấp bớt khoảng trống của nỗi đợi chờ. Cô ta thì chỉ có công việc thôi. Tất nhiên cô ta không cô độc. Nhưng sự trống vắng vẫn là sự trống vắng.
     Phố xá im lìm, hiu quạnh. Người sơ tán rất ít nhà về ăn Tết trong thành phố. Một số nơi có đèn đường thưa thớt, ánh sáng yếu ớt. Đó đây, vài nhà có ánh đèn lọt qua khe cửa. Đầu một ngã tư, cánh cửa trông ra ban công của một căn phòng trên gác mở rộng. Những nén nhang đang toả khói trên bàn thờ. Khói hương như quyện lấy bình hoa và đĩa ngũ quả. Một cảnh ấm cúng và yên bình lẻ loi, nhưng sao không có vẻ lạc lõng! Thoảng đâu đây mùi hương trầm...
     Căn hộ của Yến nằm trong một khu nhà tập thể ba tầng. Chỉ một đường phố ngắn nữa thôi là mẹ con mình đã về tới nhà. Yến thầm nói với đứa con vẫn đang ngủ say, mà cũng là nói với chính mình: Có khi bố con đã ở nhà rồi. Bố có chìa khoá riêng, bố chỉ việc mở cửa phòng vào nằm khoèo chờ mẹ con mình. Chắc là đói meo, đang gặm lương khô.
     Đã đến ngõ vào. Từ đây có thể nhìn thấy căn phòng của vợ chồng Yến. Chỗ đó tối đen. "Có khi khu mình mất điện". Chiếc xe đạp bon nhẹ trên con đường đất pha sỏi trờ tới trước thềm nhà. Cửa phòng đóng im ỉm. Chẳng cần rọi đèn, linh tính cho Yến biết chiếc khóa vẫn y nguyên. Chị dồn sự bình tĩnh vào động tác dựng xe áp tường, rồi ngồi xuống bậc thềm. Mệt rã rời. Thôi thế cũng yên trí, đỡ canh cánh, ít ra là trong mấy ngày Tết. Hẳn là lúc này đây anh không thể biết đến nỗi gian truân mà mẹ con chị vừa trải qua. Còn mai ngày? Có thể mai ngày cũng vậy, chẳng hề biết. Nhưng chị đã đi và chị đã đến. Bây giờ phải dọn phòng. Để thằng bé ngủ ngồi mãi thế nó khọm lưng mất. Mình cũng phải nghỉ một tí, mai còn đi. À, phải dậy sớm hơn, nấu chút gì nong nóng để cái Hồng cùng lót dạ…
     Yến giật mình ngừng đầu lên. Một bóng đen đang lừ lừ đi tới. Chị ngồi chết trân mấy giây, rồi đứng bật giật quát hỏi:
     - Ai?
     Bóng đen chừng chợt hiểu, dừng lại, ôn tồn:
     - Tôi. Chị có phải là chị Yến không?
     Yến ngạc nhiên nhưng nhẹ người:
     - Anh hỏi gì?
     Người lạ rút bật lửa bật lên, ý tứ giơ cao trước mặt. Yến nhìn thấy một người trang phục bộ đội nhưng không gắn cấp hiệu, phù hiệu, không mang ba lô, một bên vai đeo một cái xắc-cốt vải bạt to. Anh ta khoảng ba mươi lăm, mặt xương xương, ánh mắt tươi tỉnh, đứng đắn:
     - Thế này chị ạ. Tôi cùng đơn vị với anh Thảo... - Tim Yến lặng đi, tay chị muốn đưa ra tìm một chỗ vịn - Không! Không có chuyện gì đâu, chị ạ. - Anh ta vội lần túi ngực - Thư anh ấy đây.
     Yến luýnh quýnh mở tờ thư. Anh bộ đội ghé bật lửa soi cho chị đọc. ánh sáng nhập nhoạng nhưng Yến nhận ngay ra nét chữ thân thương: "Em yêu…" Chị thở ra nhè nhẹ và sực nhớ:
     - Chết thôi! Để mời anh vào nhà đã.
     Chị vội mở khóa cửa, nhưng chị tra lẫn chìa, loay hoay mất một lúc. Chị bật công-tắc. A! Có điện. May quá! Anh bộ đội giúp chị đưa xe vào nhà và giục chị soạn chỗ cho cháu bé nằm. Chị định nấu nước nhưng người khách ngăn lại:
     - Thế này chị ạ - anh ta xem đồng hồ tay - tôi chỉ được ghé lại đây hai mươi phút thôi. Tôi đã đứng chờ trước nhà này có đến năm phút. Đã tưởng sẽ chẳng gặp được ai. Tôi đi loanh quanh, rồi quay lại đây một cách hú dọa. Cũng thật là may. Tình hình anh ấy không có gì đặc biệt, chắc anh ấy đã viết trong thư. Chúng tôi ra ngoài này công tác đột xuất. Lẽ ra anh ấy cũng cùng đi. Anh ấy đang được an dưỡng tại chỗ, sau khi ở bệnh viện dã chiến về, không phải do bị thương đâu, mà do sốt rét ác tính. Nhưng rồi có công tác khẩn, thiếu người, anh ấy xung phong nhận phụ trách. Anh ấy nhờ tôi nếu có dịp thì trao thư và món quà này cho chị và cháu. - Anh lục xắc cốt lấy ra một cái nhẫn và một mô hình máy bay màu đuya-ra sáng lên dưới ánh điện - Anh ấy làm lấy bằng mảnh xác trực thăng Mĩ đấy chị ạ. Chị có tấm ảnh nào của chị và cháu ở đây không? Ông Thảo khẩn khoản tôi cố mang vào cho ông ấy.
     Yến đang mân mê hai kỉ vật, nghe hỏi sững người bối rối:
     - Ôi! Thế mà tôi không nghĩ ra. Tôi để cả ở nơi sơ tán mất rồi. - Chị tự giận mình quá, mặt lộ rõ sự tiếc hối gần như là một nỗi đau khổ.
     Anh bộ đội miệng chúm chím, hình như đang ngầm thích thú:
     - Có thì càng tốt, không có thì cũng chẳng sao đâu chị ạ. Tôi đã dự tính một "kế hoạch" dành cho ông ấy một sự bất ngờ lớn nhất. Được gặp cả chị và cháu thế này là hay quá rồi.
     Yến trố mắt nhìn anh ta, chẳng hiểu ra làm sao cả. Phái viên của chồng chị lôi từ trong chiếc xắc-cốt ra một cái hộp da khá vuông vắn và mở nắp. Đó là một thứ máy mà Yến chưa thấy bao giờ.
     - Thế này chị ạ - Câu mở đầu cửa miệng của ông này, Yến hơi buồn cười nghĩ - trên đường ra ngoài này, tôi có ghé mấy cậu bạn thân ở phòng chính trị sư đoàn. ở đấy, họ mới có một cái máy ghi âm chạy pin chiến lợi phẩm. Họ định dùng cái đó thu các bài hát qua đài phát thanh. Tôi mới tán họ là ra đây tôi sẽ tìm cách ghi âm trực tiếp một số danh ca. Tôi có một băng trắng riêng, sẽ dành một đoạn cho tiếng nói của chị và cháu. Ông Thảo chỉ có sướng mê đi thôi.
     Yến mừng đến bàng hoàng, song chị hơi ngần ngừ:
     - Máy của cơ quan mà anh?
     - Không sao. Mượn họ chút xíu, nghe xong trả lại. Chừng nào cần, mượn nữa. Bây giờ chị đánh thức cháu dậy đi, nhanh nhanh lên một chút. - Không cho chị biết, anh ta mở máy.
     Yến đến bên giường khẽ lay đứa con:
     - Tâm ơi! Dậy đi con! - Thằng bé oằn mình một cái, rồi quay nghiêng ngủ tiếp. - Nào! Dậy đi con! Có quà của bố Thảo đây này.
     Chẳng biết có phải vì thường ngày, những lúc mẹ con thủ thỉ, người mẹ đã truyền nỗi mong nhớ sang đứa con hay không mà vừa nghe vậy, bé Tâm đã choàng mở mắt. Và khi Yến giơ cho nó xem chiếc máy bay đồ chơi, nó tỉnh hẳn và lồm cồm bò dậy:
     - Cái gì đây? Con có thích không?
     - Cái chàu bay. Con xích bố Xảo cũng về cơ.
     - Bố Thảo làm gì ở đâu nhỉ?
     - Bố đi đắn chặc.
       - Con có nhớ bố không?
     - Có.
     - Nhớ như thế nào nào?
     - Như hôm mẹ ọc xư bố mẹ hóc ấy.
     - Bậy nào!
     Người mẹ nóng bừng mặt, liếc nhanh người khách. Nhưng người bạn chồng đã ý nhị quay mặt đi, môi chúm lại một cách không tự nhiên đến thành khó coi. Anh tắt máy, bảo Yến:
     - Giờ chị nghĩ một câu gì nhắn anh ấy đi.
     Yến nhắm mắt: nhắn gì đây? Biết bao nhiêu điều muốn nói, gói trọn sao được trong một câu! Có tiếng còi ôtô. Anh bộ đội nói nhanh:
     - Họ đến đón tôi đấy. Chị nói đi! Tôi lại mở máy rồi đấy.
     Thật khó hơn cả phát biểu trên diễn đàn hội trường lớn. Yến bặm môi, rồi "liều" một câu mà ngay sau đó chị chẳng vừa ý chút nào.
     - Tuyệt lắm! Xong rồi. - Anh bộ đội thu dọn đồ lề đứng lên - bây giờ xin phép chị tôi đi đây. Chúc chị và cháu xuân mới vui, khỏe.
     Còi ôtô giục. Yến nói vội:
     - Anh ăn chút gì đã. Để tôi ra mời anh lái xe vào đây.
     - Thôi chị ạ. Cảm ơn chị. Chúng tôi phải đi ngay. Giờ giấc quân sự mà. Bắt tay cháu Tâm cái nào!
     - Thế thì anh cầm mấy cái bánh này đi ăn đường. Còn đây là mứt gừng, tôi đã bọc gói kĩ lưỡng.
     - Hay quá! Tết đến ông Thảo nhớ nhất món này. Nhưng mà phải là mứt nhà cơ.
     Yến bế con đứng cạnh chiếc com-măng-ca còn phảng phất hơi hướng khói bụi chiến trường. Dường như anh cũng có mặt đâu đây. Điệu nhạc quen thuộc từ chiếc đài bán dẫn người lái xe đeo bên mình chợt ngừng, rồi những âm thanh tròn, ngọt và ấm thánh thót buông từng giọt, từng giọt ngân nga. Bỗng tạch, tạch, tạch, đoàng, tạch tạch… tiếng pháo dậy lên ròn rã. Giao thừa! Chiếc xe từ từ lăn bánh và lao đi, đem rắc tiếng nổ vui tai và ấm lòng trên đường phố vắng lặng. Trong cái thành phố im lim này, trên cả nước Việt Nam này, vào giờ khắc này, đây là những tiếng nổ duy nhất được người ta đón đợi. Yến nhìn theo ánh đèn ôtô xa dần rồi khuất hẳn. Tâm tưởng chị trải dài theo bánh xe lăn. Chị bỗng ớn lạnh ôm chặt lấy con, nước mắt tự nhiên ứa ra. Vậy là anh không về… Trời loáng thoáng mưa phùn, gió mùa đông - bắc đang tràn về. Chị khẽ rùng vai nghĩ tới chặng đường mẹ con chị vừa đi. Đầu kia chặng đường lấp ló cặp mắt sắc và lạnh của bệnh viện trưởng. Chị hôn đằm lên má con. Ngày mai, không chính là hôm nay, chị phải có thêm sức lực để lên đường.
     Trời lạnh hơn, song khí vị thanh tân nhẹ lâng của năm sớm đang dâng lên, tin rằng sẽ mơn giấc ngủ của mẹ con chị.
    
     *   *   *
     Tiếng pháo dồn dập, râm ran, gọi nhau, ganh nhau, nối nhau, vượt nhau; chớp lửa và tiếng nổ thi nhau xô toác màn đêm. Không gian như dãn ra mà thời gian dường như bạt đi. Sự náo động ấy dần dần lắng. Yến với tay lên chiếc bàn thờ nhỏ bật công-tắc chiếc cát-xét. Một tiếng nói đàn ông gọn và vang phát ra:
     - Em và con yêu dấu! Vậy là mùa xuân này anh đã gặp em và con, không phải chỉ trong tâm tưởng nữa, mà có bằng chứng vật chất hẳn hoi, không chỉ là vật chất, vì tiếng nói mang theo nó những dạng thức tâm hồn. Sau khi điều dưỡng tại chỗ anh đã khỏe lên, bây giờ càng khỏe thêm nhiều.
       Tôi vừa lắng nghe, vừa ngước nhìn lên tấm hình một anh bộ đội trên bàn thờ. Một khuôn mặt xương xương, ánh mắt điềm tĩnh hướng thẳng tới bất cứ ai nhìn vào. Khó mà hình dung được rằng những tiếng nói này được phát ra từ cặp môi đang mím lại kia cách đây mười mấy năm trời.
     Tôi quen Yến sau khi Thảo đã vào chiến trường. Yến có kể tôi nghe hành trình đêm giao thừa năm ấy của chị. Tôi rất thú cái sáng kiến của bạn chồng Yến; -ngày ấy chẳng dễ nghĩ ra mà cũng chẳng dễ thực hiện. Không ai có thể ngờ đó là những tiếng nói cuối cùng của vợ con mà Thảo được nghe. Sau ngày toàn thắng, cũng chính anh bạn ấy mang ra cho Yến đoạn băng từ ghi tiếng nói của chồng chị cùng cái tin mà chẳng người trong cuộc nào muốn đón nhận: Thảo không còn nữa. Như có linh tính báo trước, khi anh sắp lĩnh một nhiệm vụ đặc biệt, ngay sau lúc được nghe tiếng nói của Yến và bé Tâm, Thảo đã đề nghị anh bạn dành cho mình một đoạn băng từ. Yến đã giữ gìn đoạn băng ấy từ bấy đến nay. Mỗi lần Tết đến, đón giao thừa xong, chị lại mở nghe tiếng nói của anh từ quá khứ xa xôi như từ một mảnh đất phương nam anh đã chiến đấu và ngã xuống - mảnh đất mà dù đã tốn bao công sức chị vẫn chưa lần ra - vọng về.
     - Ngoài ấy rồi sẽ còn ác liệt hơn đấy em ạ. Không có bom đạn kẻ thù thì em cũng đã phải chịu đựng nhiều rồi. Nếu anh không về nữa…
       Giao thừa năm ấy, giá như Yến không dám đi, hoặc đi không trọn hành trình thì những năm tháng sau đó sẽ nặng nề đối với chị biết bao nhiêu!
     - Nhớ thương anh, em hãy mường tượng rằng anh đang ở đâu đó mỉm cười dõi theo mỗi bước đi tới của những người thân.
     Tôi trở về nhà ngồi trước trang viết của mình: "Đừng để cho những kẻ phản bội lại những người đã ngã xuống, những kẻ phè phỡn trên những kỉ niệm máu xương của cả một dân tộc chặn bước đi tới của mình và con cái chúng ta, nghe em!" Hừm! Những người dám hi sinh chẳng ai đã nghĩ thế. Tôi cầm bút. Nhưng đáng lẽ gạch bỏ, tôi chỉ khoanh lại. Phải có ai đó nghĩ như thế chứ! Song le, trong phác thảo truyện của tôi, chưa có nhân vật nào đủ tư cách nói lên câu ấy. Tôi cắn đầu bút nhìn ra trời đêm. Những ai làm cuộc hành trình đêm nay? Ngoài kia không gian lạnh. Đêm trở giấc. Khói pháo còn vương vất. Khói pháo thơm và ấm, không như khói súng và khói bom.

Hải Phòng, XII/1985 - VIII 1986

<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.04.2009 17:19:55 bởi Khải Nguyên HT >
#1
    Khải Nguyên HT 20.03.2009 11:45:52 (permalink)
    TĨNH VẬT
    -truyện ngắn-
     
     
           Tôi lần mò khá lâu trong một cái ngõ ở phố Cát Dài. Ngõ gì mà sâu dễ sợ, lại ngoắt ngoéo, hai bên nhà cửa lô nhô, thòi ra thụt vào, những cái biển số nhà hoen rỉ mờ cả nét sơn; có nhà chẳng gắn biển nữa, số nhà cứ ghi tuỳ tiện lên tường, lên cửa. Bà cụ tôi mất chỉ để lại một tấm ảnh nhỏ cỡ 2 x 3. Tôi định thuê chụp lại phóng to lên để thờ, nhưng một anh bạn khuyên nên thuê vẽ, đẹp hơn và bền hơn. Anh còn mách tôi một nơi làm việc đó có thể tin cậy được, tuy hiện nay còn ít người biết đến. Do vậy, sáng chủ nhật này tôi cất công đi tìm cái "phòng vẽ khiêm tốn" - theo cách gọi của anh bạn. Có lẽ đây rồi chăng? Ừ, đúng  số nhà! Nhưng sao chẳng có vẻ gì là một xưởng vẽ như tôi đã hình dung? Nó chỉ là một gian nhà cũ kĩ, thấp và cửa ra vào đang đóng kín. Nhưng tôi đã kịp nhìn thấy một hàng chữ màu xanh trên tường cạnh cửa: "Nhận vẽ truyền thần và truyền ảnh". Tôi gõ cửa không lấy gì làm sốt sắng lắm. Một cháu bé chừng tám tuổi hé cửa ngó ra. Cháu mở to mắt rồi mau miệng:
           - Cháu chào bác ạ. Bác hỏi mẹ cháu phải không ạ?
           Cháu mở rộng cửa. Tôi bước vào nhà, hơi lấy làm lạ vì cái vẻ thân tình của chú chủ nhà tí hon. Cháu bé quay về phía cửa sau có lẽ thông với bếp gọi to:
           - Mẹ ơi, bác gì đến mẹ ạ.
           Cháu có vẻ biết tôi. Tôi nhìn kĩ cháu hơn. Cháu cũng đang ngước nhìn tôi hơi mủm mỉm cười. Đôi mắt to đen láy và đặc biệt cái lúm đồng tiền bên má gợi một khuôn mặt thân quen mà tôi chưa nhớ ra. Căn phòng nhỏ nhưng gọn và sạch. Một chiếc bàn con gỗ tạp và mấy chiếc ghế đẩu gỗ không sơn; một chiếc giường thông thường, một người nằm thì rộng, hai người thì chật; một chiếc tủ đứng gỗ thông sơn màu nâu sẫm, thoạt nhìn tôi tưởng bằng gỗ gụ. Trên tường là một số tranh tả thực để trần, một tranh áp phích cổ động sản xuất còn tươi màu vẽ. Và trên bàn là một chân dung vẽ dở. Một tay họa sĩ vườn, tôi nghĩ bụng. Nhưng là ai nhỉ? Mình có quen họa sĩ nào đâu. Chắc anh ta đi vắng, chỉ có vợ con ở nhà thôi. Mình không gặp may rồi. Có tiếng guốc đi vào cửa sau. Tôi chưa kịp nhìn rõ người, đã nghe tiếng nói trong trẻo, có pha âm vui thảng thốt trong đó.
           - Úi, anh Bát! Thế mà em ngỡ là ai. Sao anh biết em ở đây?
           Tôi trố mắt. Thùy! Thùy vợ Giáp, bạn tôi. Vợ chồng nhà này chuyển xuống Hải Phòng bao giờ nhỉ? Lẽ nào Giáp không cho mình biết? Tệ ra thì cũng phải đến thăm mình chứ! Giáp và tôi là bạn học từ cấp hai, đã có thời gian xa nhau lâu, đến khi gặp lại vẫn khá thân nhau. Song, chúng tôi vài năm mới gặp nhau một lần. Ấy là những lúc tôi lên Hà Nội công tác hoặc nghỉ phép, chứ Giáp họa hoằn mới xuống Hải Phòng.
           Giáp là người hơi kì cục. Hồi còn là học sinh phổ thông, cậu là người hoạt bát, dí dỏm, đôi khi nói trạng một chút. Cậu ít khi cười to, nhưng hay tủm tỉm; những lúc ấy một bên má bầu bĩnh của cậu hiện lên một lúm đồng tiền nom có duyên như con gái. Đến năm Giáp vào đại học, gia đình anh có sự biến và sa sút hẳn đi. Giáp trở nên trầm lặng, hay bẳn gắt vô cớ. Để có thể tiếp tục theo học, Giáp nhận kèm cặp một số học sinh phổ thông, trong đó có hai cô gái là Thùy và Ninh. Thùy vốn là người Hải Phòng; mẹ mất sớm; bố là một công chức loại vừa. Năm 1955, Thùy lên chín. Trước ngày gia đình di cư vào Nam hai hôm, bà mẹ kế cho Thùy đi cùng một người quen lên Hà Nội thăm ông chú ruột để từ biệt. Tới thủ đô mới được giải phóng, Thùy vừa bỡ ngỡ, vừa vui thích. Thùy nghe lời các em con chú muốn ở lại miền Bắc. Chú Thùy đánh điện cho bố Thùy khuyên hãy nán lại. Nhưng có lẽ vì vé đã mua rồi và mọi đồ lề đã đóng hòm chuyển trước lên tàu, nên gia đình Thùy đành ra đi không có Thùy. Sau đó, bố Thùy, qua ủy ban quốc tế xin cho Thùy vào Nam. Chính phủ ta đã đồng ý, nhưng lúc ấy Thùy đang ốm, trận ốm kéo khá dài. Rồi chuyện cũng qua đi. Thế là Thùy sống với chú ở Hà Nội và học dần lên đến cấp 3 phổ thông. Thùy và Ninh đều học làng nhàng, tuy chịu khó học. Cả hai cô đều có tâm hồn nghệ sĩ. Ninh thích làm thơ và sau này đã trở thành nhà thơ. Còn Thùy thì ham vẽ. Một anh chàng cựu học sinh mĩ thuật giúp cô tập vẽ. Anh chàng này có vẻ thích tán tỉnh Thùy. Nhưng Thùy lại đang yêu một tay bác sĩ tập sự.   Khi tôi hỏi chuyện đó, Giáp tặc lưỡi: "Thằng ấy cũng được. Miễn là không phải Thùy yêu hơi vội". Còn Ninh thì yêu Giáp, nói là mê thì đúng hơn. Thú thật, hồi ấy nếu tôi được Ninh để mắt tới thì hẳn tôi đã "mở rộng cửa lòng" ngay.  Nhưng Giáp ta thì lừng khừng thế nào ấy. Tết năm đó, Giáp đã nhận lời Ninh sẽ cùng đi đón giao thừa ở Hồ Gươm rồi về nhà Ninh xông đất. Đùng một cái, chiều ba mươi, anh ta nhảy tàu về Vinh. Tôi nhắc Giáp lời hẹn thì anh thản nhiên bảo: "Cậu dẫn Ninh đi hộ mình tí". Tôi thật chẳng bụng dạ nào để mừng đón cái cơ hội bất ngờ ấy nữa. Phòng nội trú sinh viên đêm 30 tết đó chỉ còn mỗi mình tôi. Tôi những muốn ra phố để "lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang", nhưng sự ủy thác oái oăm của bạn buộc tôi phải nằm khàn để đợi. Khoảng mười giờ khuya thì Ninh đến. Tôi quýnh lên trước sắc đẹp lồ lộ của Ninh, chẳng biết do tình yêu, do khí xuân, hay do bộ cánh rất Hà Nội làm tôn thêm lên. Cũng may, vừa nghe tôi nói Giáp có việc gấp phải về quê, Ninh đã quay ngoắt đi ngay, - có lẽ là để khỏi khóc trước mặt tôi. - Nếu không, e tôi phải đóng vai một chàng hiệp sĩ thộn hoặc một anh dại gái lố bịch. Tôi quả không hiểu nổi Giáp. Tôi ngờ anh yêu Thùy. Đoán phỏng thế thôi, căn cứ vào thái độ dè dặt của anh mỗi khi nói đến Thùy.
           Tốt nghiệp đại học xong, tôi về thành phố cảng công tác. Giáp thì dạy học ở thủ đô. Ít lâu sau, tôi được tin anh xung phong vào bộ đội. Cũng là do bạn bè nói lại, chứ anh chẳng báo cho tôi biết. Còn Thùy nghe đâu đã về ở với tay bác sĩ.
           Bẵng đi sáu năm. Tôi về Hà Nội có công việc. Buổi chiều ngày họp cuối cùng, tôi di tản bộ trên những con đường phố đã có thời rất quen thuộc với tôi trong một tâm trạng vui vui pha chút hoài cổ. Chợt tôi nghe gọi: "Bát! bát đấy phỏng?" Một người mặc quần áo bộ đội cũ, tay ôm cặp, bước nhanh tới. Tôi nhận ra ngay là Giáp. Hai chúng tôi gần như là ôm chầm lấy nhau. Giáp không già đi mấy nhưng nom khắc khổ.
           - Mình chuyển ngành rồi. - Giáp nói nhỏ nhẹ - Bị thương mất sức chiến đấu và mất luôn khả năng đứng lâu trên bục giảng. Bây giờ mình làm công việc nghiên cứu. Về chỗ mình đi! Mình ở ngay gần đây. Ông dạo này thế nào?
           Tôi trả lời vắn tắt câu Giáp hỏi vừa xong thì cũng vừa đến nhà bạn. Đó là một gian phòng xây phụ vào một tòa nhà kiểu cũ hai tầng. Kiếm được chỗ ở này hẳn anh bạn tôi khá là vất vả. Giáp nói, trong khi loay hoay mở khóa cửa:
           - Mình vừa đi khảo sát thực địa mấy tuần, về đến đây thì gặp ông. - Giọng anh điềm đạm nhưng ẩn một niềm náo nức không phô trương. - Mình phải chuyển công tác cũng có cái hay. Trước đây, mình cảm thấy mắc nợ những miền đất mình đã từng đi qua trong đời lính. Nay thì mình cảm thấy có thể làm được một cái gì đó.
           Trong phòng hơi tối. Vừa bước vào, điều đập ngay vào mắt tôi là một bình hoa trên chiếc tủ đứng chếch góc tường phía trong. Tất cả các cánh hoa như bừng dậy đón luồng ánh sáng vừa ùa vào. Tôi trỏ bình hoa bảo Giáp:
           - Lạ nhỉ! Ông giam lọ hoa kia mấy tuần, thiếu ánh sáng và có thể là thiếu nước nữa, thế mà nó không lụi tàn, còn đợi ông về đón chào nữa kìa!
           Giáp cười tủm tỉm, - đã lâu, tôi mới lại được nhìn thấy lúm đồng tiền trên má anh - không nói gì, đến mở rộng hai cánh cửa sổ xế bên chiếc tủ. Tôi "ồ" lên một tiếng: Bình hoa chỉ là một bức tranh màu nước. Sắc màu xung quanh lọ hoa, kể cả cái khung tranh, lẫn vào màu tường. Tôi chăm chú nhìn bức tranh, mặc dù tôi chẳng phải là người thích tranh, sành tranh lại càng không. Luồng ánh sáng mà tôi tưởng là từ cửa dọi vào những đóa hoa chính là toát ra từ ngay trong bức tranh đó. Mường tượng như những bông hoa sắp héo rũ vì bóng tối, bỗng ánh mặt trời ùa tới như có ai vừa mở một cái cửa đâu đó, và một sự bừng tỉnh, không! Một sự hồi sinh… Tôi hỏi:
           - Họa sĩ nào đấy? Hay chính ông?
           - Ông đã thấy tôi cầm bút vẽ bao giờ chưa? Còn người vẽ tranh này thì chưa thể gọi là họa sĩ. 
           Gian phòng của Giáp khá ngăn nắp. Đã từng phải hứng chịu cái tính luộm thuộm của Giáp hồi còn ở kí túc xá sinh viên, thoạt tiên tôi cười thầm: "Chà! Đời bộ đội rèn anh chàng cũng ra trò đấy chứ". Nhưng ngắm kĩ, tôi cảm thấy ở đây có bàn tay phụ nữ. Giáp xách phích đi mua nước sôi về pha chè mời tôi, rồi thủng thẳng nói:
           - Ông đang ngạc nhiên phải không? Mình lấy vợ rồi.
           Tôi rướn lông mày lên thay cho câu hỏi, và chờ đợi. Giáp nhắc chén nước nhưng không uống mà ấp trong lòng bàn tay:
           - Mình lấy Thùy. Thằng cha bác sĩ bỏ rơi Thùy khi họ ở với nhau chưa đầy năm. Nếu hắn không bỏ thì Thùy cũng khó mà kham được hắn lâu. Hai bên đều vỡ mộng về nhau: Thùy quá nhiều chất "mơ" còn tay bác sĩ thì quá nhiều chất thực dụng. Nếu mỗi bên đều chừng mực thì có khi họ hợp nhau cũng nên. Qui luật bù trừ mà.
           Thùy xin đi thanh niên xung phong, bị sốt rét ác tính suýt chết. Giáp rời quân đội về lại Hà Nội thì gặp Thùy đang ngồi vẽ tranh thuê và bán tranh bên hồ Gươm, loại tranh phong cảnh vẽ trên bìa cho những người chơi tranh dễ tính. Cô chưa từ bỏ giấc mơ nghệ thuật. Những kí họa tuyến lửa mà cô đang gìn giữ luôn luôn nhắc nhở và thôi thúc cô. Tôi hỏi hơi bỗ bã:
           - Ông định làm như một nhân vật của Nam Cao ra tay tế độ chăng?
           Giáp nín lặng giây lâu rồi nói khẽ:
           - Mình yêu Thùy từ hồi kèm cô ta học.
           Tôi suýt "à" lên. Có thế chứ! Mình quả đã nhận xét không tồi. Nhưng …     Giáp nhìn tôi:
           - Tôi biết ông đang nghĩ gì. Không đơn giản đâu.
           Thùy không còn chú thím. Giáp cậy cục thuê được gian nhà này cho Thùy, còn thì vẫn ở một phòng gầm cầu thang của cơ quan. Anh cố lo cho Thùy vào trường mĩ thuật. Mười ba tháng sau họ cưới nhau.
           - Ông biết không? Thùy cứ giục mình lấy vợ, và cô ấy đã làm mối cho mình mấy đám, đều còn rất trẻ, thợ có, trí thức có, cả một cô mậu dịch viên rất xinh và khá giàu. Nhưng hễ cô dàn dựng gần đâu vào đấy là mình lại nhỡ hẹn -  Giọng Giáp như đang kể chuyện ai. Tôi nhớ lại lần anh "nhỡ hẹn" với Ninh đêm giao thừa năm ấy. Mắt Giáp dừng nơi bức tranh "Bình hoa". Anh nói, đón trước câu hỏi của tôi - Tranh kia là một trong những bài thi của Thùy.
           Tôi ngắm kĩ lại bức tranh. Chẳng phải là đề tài ngẫu nhiên, mình đã ngờ ngợ. Một chút tự hào trẻ con trỗi dậy: Vậy mà mình cứ buồn vì nỗi dốt hội họa!
        
             *   *   *
           Tôi hỏi Thùy:
           - Các bạn chuyển công tác về Hải Phòng từ bao giờ thế? Vậy mà lại lờ bạn bè.
           Một thoáng tối trên gương mặt Thùy:
           - Chỉ hai mẹ con em thôi, anh ạ.
           Tôi sửng sốt:
           - Sao?
           - Chẳng biết nói với anh thế nào. Anh còn nhớ cái hôm anh ngồi uống rượu với anh Giáp và anh Quĩ không?
           Sao tôi lại chẳng nhớ! Có thể nói đó là một buổi tối "rùng rợn" sẽ còn ám ảnh tôi lâu. Ngày ấy cách đây đã gần hai năm…
           Nhân dịp về thủ đô, tôi đến tìm Giáp, thấy cửa phòng khóa ngoài. Tôi ghé vào một quán nước gần kề hỏi thăm bà hàng chừng nào Giáp về. Một người đàn ông đang ngồi trong quán trả lời thay:
           - Ông bạn đến ông Giáp đấy à? Chẳng hiểu sao hôm nay tay này về muộn. Tôi cũng đang chờ hắn đây.
           Tôi nhìn người nọ. Một người chẳng rõ là đã đến độ trung niên chưa. Tóc anh ta lút gáy, chờm ra ngoài cổ áo; râu lâu ngày chưa cạo; quần "bò" áo "bay" vẻ phong trần cường điệu. "Loại người thích làm nghệ sĩ đây. Chỉ còn thiếu hơi rượu". Anh ta rõ ràng là kém tuổi Giáp nhưng cứ xưng hô văng mạng khi "ông", khi "hắn", "khi thằng", khi "tay ấy"… bất kể trước mặt bà quán, bất chấp tôi là người lạ.
           - Ông là bạn Giáp phải không? Tôi cũng là bạn hắn ta. Tôi là Quĩ.
           Cái tên nghe quen quen. Để trôi thì giờ, tôi hỏi thăm anh ta về vợ chồng Giáp. Anh ta tặc lưỡi:
           - Thằng Giáp mang cái chất "đồ Nghệ" điển hình, lại pha cái chất lính chiến nên cứ va côm cốp. Hắn mấy lần sắp được đi Tây làm thực tập sinh hay nghiên cứu sinh quái quỉ gì đấy mà cứ hụt hoài.
           Các bạn tôi có kể cho tôi nghe ít nhiều về Giáp. Đề tài nghiên cứu đầu tiên của anh đang có triển vọng thì cấp trên của anh gạ anh cho cộng tác. Giáp sẵn sàng ngay vì tính anh không hay ki cóp một mình. Nhưng vị cấp trên sau khi tham gia "điều chỉnh đề cương" và "bổ sung chủ đề tư tưởng", thường tạ cớ bận họp nên chỉ "góp ý" vào các phác thảo của Giáp thôi. Song đến khi công trình hoàn thành và được chấp nhận nhanh chóng thì tên vị ấy lại gắn với từ "chủ biên". Từ đó, Giáp cạch chuyện cộng tác. Và cũng từ đó, các công trình nghiên cứu của anh khó được ra mắt, cứ đầy dần trong ngăn kéo. Biết vậy, tôi vẫn cảm thấy khó chịu trước lời bình phẩm của cái người tên là Quĩ kia.
           Lát sau, Thùy lai con về trên chiếc xe đạp Thống Nhất đã cũ. Cháu Trung đã lên sáu, và cũng có một lúm đồng tiền bên má mỗi khi cười như bố. Thùy giới thiệu Quĩ là cán bộ giáo vụ ở trường Mĩ thuật "vẫn giúp em thực hành vẽ". Tôi chợt nhớ ra anh chàng cựu học sinh mĩ thuật ngày xưa từng giúp Thùy tập vẽ và cũng đã từng theo đuổi Thùy. Lạ thật! Quĩ trở thành bạn của Giáp rồi ư?  Ngày trước Giáp khinh Quĩ "một thằng cha lêu têu, nghệ sĩ gì nó!". Chẳng bao giờ Giáp nói chuyện với Quĩ, dẫu có dàn mặt nhau. Thùy mời hai chúng tôi vào nhà, nhưng khi sờ túi xách mới biết là lúc đi đã quên mang chìa khóa theo. Đành lại phải ngồi ghé chờ quán nước. Tôi vừa nói chuyện với Thùy được đôi câu thì Quĩ đã bô bô:
           - Nào! Trung lại đây với bố nào!
           Thằng bé cứ đứng ngó Quĩ trân trân chẳng tỏ thái độ gì cả. Quĩ giở lọ kẹo của bà quán lấy ra một cái kẹo Hải Châu chìa cho Trung. Cháu bé đưa tay ra đón nhưng Quĩ đã nhấc cao chiếc kẹo:
           - Nói đi đã: "Bố cho con xin". Nói đi!
           Cháu bé mím môi, nắm chặt bàn tay và rụt lại. Quĩ lúc lắc đầu ra vẻ buồn phiền:
           - Con cái thế đấy! Mày là con tao chứ có phải con lão Giáp đâu.
           Nói rồi anh ta lại moi ra một thanh kẹo lạc bọc giấy bóng giơ ra trước mặt đứa bé:
           - Thôi được. Cái này ngon hơn. Nào, cầm lấy!
           Đứa bé không nhúc nhích. Người mẹ thấy cần phải lên tiếng:
           - Con cầm lấy đi kẻo mỏi tay bác.
           Cháu bé không đưa tay ra, chỉ mở bàn tay, mắt không nhìn cái kẹo mà nhìn vào mặt người cho kẹo. Quĩ đặt cái kẹo vào tay nó, nó chỉ cầm bằng ngón tay cái và ngón tay trỏ. Quĩ cười đắc chí:
           - Có thế chứ! Con của bố ngoan lắm.
           Đứa bé đặt nhanh chiếc kẹo xuống chõng hàng, rồi vẫn đứng nguyên như cũ. Quĩ cười to hơn:
           - Còn chê hở? Được rồi! Bà hàng bán cho tôi cái trong hộp kính kia!
           Anh ta đón cái bánh nướng khá to, quay lại đứa bé, lần này nâng trên bàn tay chứ không dứ dứ như lúc nãy.
           - Bánh nướng này thì cực kì. Nhân trứng, thịt, dừa đủ cả, phải không bà hàng? Nào!
           Thắng bé nhìn cái bánh một giây hơi chớp mắt, rồi lại nhìn thẳng vào mặt Quĩ. Anh ta ra vẻ dễ dãi:
           - Được rồi! Cứ cầm lấy ăn đi, rồi lúc nào thích gọi "bố" thì gọi cũng được.
           Cháu bé vụt quay đi. Thùy mắng con, nhưng không nghiêm giọng:
           - Trung! Không được hỗn! Bác đùa đấy. Con cảm ơn bác đi!
           Cháu Trung làm như không nghe mẹ nói gì. Cơn "đùa" đã đến lúc không chịu nổi, ngay với kẻ xướng xuất ra. May sao, vừa lúc Giáp về. Quĩ reo to biểu lộ sự mừng quá mức cần thiết:
           - A! Gớm! Chờ ông anh mãi. Có chất cay không bà quán?
           Giáp chào tôi rồi vội xua tay:
           - Khỏi cần! Mình có chai rượu chanh chưa bóc tem. Mà ngồi đây uống thì ô trọc quá.
           Quĩ đứng ngay dậy, quên phứt những chiếc kẹo và cái bánh nướng.
           - Ấy, định mua đưa vào nhà ông anh đấy chứ.
           Lúc này tôi mới biết nãy giờ Quĩ ôm khư khư một cái túi hơi phồng phồng. Mọi người vừa vào nhà. Quĩ đã lôi từ chiếc túi ra một gói to bọc giấy báo đặt lên bàn, rồi kéo cái đĩa sắt tráng men đựng chén uống nước lại gần, xếp chén ra bàn, lấy mùi xoa lau qua cái đĩa, và dốc từ trong cái gói ra những con tôm he cỡ ngón chân cái đã chiên mỡ chu tất. Trong khi Giáp loay hoay mở nút chai rượu thì Quĩ đi đóng các cửa lại. Tôi hơi khó chịu: làm gì như ăn vụng thế này? Nhưng vợ chồng Giáp chẳng nói gì. Thùy lẳng lặng bật đèn lên. Quĩ vẫn chưa chịu ngồi xuống. Anh ta lại lôi từ trong cái túi ra bốn cây nến trắng và một bao diêm. Anh ta xòe diêm châm nến rồi cắm ra bốn góc bàn. Xong xuôi, anh ta sốt sắng mời: "Nào! Các vị ngồi vào cho!". Cứ như thể anh ta là chủ nhà vậy. Chưa hết. Anh ta còn xếp chỗ cho từng người. Thùy đối diện Quĩ. Cháu Trung được đặt ngồi vào chiếc ghế đẩu đầu bàn, giữa hai người. Cháu muốn cưỡng lại nhưng thấy bố nhìn mình hơi gật đầu, cháu đành ghé ngồi lên ghế. Hai chỗ còn lại dành cho tôi và Giáp, tôi cạnh Thuỳ, đối diện với Giáp, tất nhiên. Khi bốn chúng tôi đã yên vị, Quĩ bèn tắt ngọn đèn điện. Gian phòng trở nên chập chờn theo ánh nến. Quĩ ngồi vào chỗ của mình đưa tay trỏ đĩa tôm, trịnh trọng:
           - Thứ này thì phải ăn dưới ánh nến. Mùi nến làm dậy mùi tôm chiên, làm cho vị giác cảm nhận được cái ngon nguyên sơ. Ánh nến khiến con tôm trở nên sống động và khiến ta thấy hình như nó trong mờ tựa khi còn bơi dưới nước.
           Tôi suýt phì cười, nhưng nhìn lại con tôm quả thấy có gì khác với những con tôm he chiên mà tôi đã ăn. Do vậy, cái ác cảm dồn nén từ nãy cũng qua đi. Vả chăng, các chủ nhà vẫn thản nhiên như không.
           Bữa rượu thế là bắt đầu vui vẻ và không ồn ào. Thuỳ không uống được rượu, bị ép, mới nhấp một tí mặt đã đỏ dậy lên. Còn tôi thì chỉ dám hớp từng ngụm nhỏ, kéo lai rai mãi vẫn không hết chén rượu. Quĩ rót đưa cháu Trung một ít. Thuỳ chau mày, nhưng Giáp lại cười khà khà. Cháu mạnh dạn dốc cạn cốc. Vì thế, chưa ăn hết con tôm cháu đã phải đi nằm. Còn lại bốn người lớn. Thật ra, chỉ có  Quĩ và Giáp đọ chén với nhau.
           Cuộc rượu kéo dài, trời tối lúc nào không biết. Câu chuyện ban đầu cũng phải chăng, và cả tôi, cả Thuỳ đều có thể góp lời. Dần dần chỉ hai người nói, mà người giữ vai chính là Quĩ. Giáp thì rõ là đã ngật ngưỡng. Còn Quĩ thì chẳng rõ là còn tỉnh hay đã say. Duy, giọng anh ta lè nhè thật:
           - Cậu là người có tài, Giáp ạ. - Anh ta đã quẳng cái từ khách khí "ông anh" tự bao giờ - Nhưng mà cậu gàn. Ngày xưa anh gàn cũng có bị chế giễu, nhưng còn được khen. Ai không khen công khai thì cũng phục ngầm. Còn ngày nay ấy à, gàn là dại, là thiệt. Vạ gì cậu bỏ công, bỏ sức ra mà nghiên cứu! Để làm gì và cho ai? Chẳng ai cần cái nghiên cứu của cậu. Vạ gì mà cậu hay đấu tranh với góp ý! Kệ xác chúng nó! Chúng nó cần sự tâng bốc và dối trá. Thì cứ việc! Trước đây, lương tháng cậu mấy chục đồng cậu vẫn sống ung dung. Bây giờ, cả hai vợ chồng kiếm được ngót nghìn, kể cả làm thêm, mà các cậu "rách" quá. Vợ cậu thế kia đáng được sống lươm tươm một chút chứ. Nếu chưa muốn về mất sức hoặc hưu non thì làm cầm chừng công việc cơ quan thôi. Bôi bác được thì cứ bôi bác. Lỉnh được thì cứ lỉnh. Còn thì dành sức lực và trí tuệ đi với tớ. Cam đoan là sẽ sống đàng hoàng mà vẫn sạch sẽ trước pháp luật. Lúc bấy giờ, cậu có muốn đi Tây thì sẽ có khối thằng sẵn sàng "lo giúp", chỉ cần cậu nhẹn mấy động tác ngón tay. - Anh ta đưa tay làm hiệu đếm tiền - Bây giờ thì hãy chịu khó quị lụy một để rồi bắt thiên hạ quị lụy mười. Tội gì không tự tạo thời cơ?
           Giáp khi thì ậm ừ, khi thì hăng lên cũng hùa theo Quĩ mà chửi bới những chuyện tiêu cực, có lúc quá lời. Vẻ mặt anh lầm lì; khi thì cười to và dừng đột ngột. Từ lúc gặp lại anh, tôi chưa thấy Giáp cười tủm lần nào, cả khi tôi cố nói một câu ba lơn chọc anh. Nể lắm thì anh cười ruồi.
           Dưới ánh nến lắt lay, khuôn mặt đỏ gắt hơn cả vỏ tôm, cái thì lừ lừ, cái thì ngất ngư. Tưởng đâu vũ trụ chỉ có hai người; ngồi kề nhau đấy, song mỗi người vẫn ôm riêng một thế giới.
           Cuộc nhậu gần tàn, chợt Quĩ bảo Thuỳ:
           - Cô cho tôi một tờ giấy vẽ và cái bút chì than. - Anh ta ngoảnh sang Giáp: - Tớ phải vẽ tặng cậu bức chân dung cậu mới được. Cả thế giới thì không nói chứ cả nước Việt Nam này ngoài tớ ra chẳng mặt nào họa nổi cái thần thái cậu. Bật đèn lên! - Anh ta ra lệnh, sau khi nhận giấy và bút vẽ. - Giáp! Cậu cứ nhậu, đớp, hít tự nhiên, cười nói tuỳ thích, nhưng ngồi tại chỗ.
           Tôi bị hút vào cái trò của Quĩ, chẳng kịp bực mình, dù là trong ý nghĩ. Quĩ vẽ rất nhanh, tay lia bút cứ như người vẽ bùa phù chú. Độ năm phút, mà cũng có thể là nửa giờ, Quĩ quẳng bút vẽ xuống đứng dậy nhìn quanh, một tay cầm sấp tờ vẽ. Tôi đưa tay ngỏ ý muốn xem, anh ta ra dấu ngăn lại:"- Thong thả!"-Anh ta bước rảo tới chỗ treo tấm ảnh phóng to ba vợ chồng con cái chủ nhà, hạ xuống:
           - Mai tớ sẽ mang đến một cái khung ảnh "hết ý". Còn bây giờ thì hãy mượn tạm cái này.
           Anh ta lúi húi một chốc trong chỗ khuất rồi quay lại với tấm chân dung vừa vẽ, bấy giờ đã lồng kính, đặt nó lên bàn, dựa vào tường, rồi lùi xa khoanh tay trước ngực đứng ngắm. Gọi là bức chân dung nhưng chỉ có cái mặt. Một cái gì ớn lạnh lướt nhanh dọc sống lưng tôi. Mặt người trong bức vẽ đúng là của bạn tôi, nhưng sao tôi như mới thấy lần đầu? Đôi mắt, vành mi trên uốn cong quá mức bình thường, giương lên có vẻ ngơ ngác phảng phất cái nhìn của con nai, song ngắm kĩ lại thấy hình như có ẩn giấu những tham vọng nén lại. Những chỗ đậm nhạt trên má làm cho nét mặt vừa thách thức, vừa đau khổ. Vầng trán một bên bóng, một bên hằn những vết nhăn mờ mang dấu những suy tư giằng xé bên trong. Đôi môi hơi hé, nhìn thẳng thì ngờ nghệch, nhìn chếch lại chua chát và mỉa mai. Hoặc thằng cha này đã nghiền ngẫm đến mức nắm được gan ruột Giáp, hoặc là hắn ta có một dụng ý bí hiểm nào đó. Tôi tự nhủ và chờ xem phản ứng của vợ chồng bạn,  Thuỳ áp hai tay vào má nhìn sâu vào bức vẽ rồi liếc nhìn tác giả với ánh mắt trách móc khó nhận thấy. Còn Giáp thì miệng cười cười mà mắt trân trối như bị hút vào cái chân dung người ta vẽ mình. Nhưng chỉ mấy giây, anh bình thản hoặc làm ra vẻ bình thản ngồi quay nghiêng châm thuốc hút. Quĩ tới bên bàn, dốc nốt chỗ rượu còn lại trong chai vào chén của mình và tợp thẳng một hơi, đưa mu bàn tay chùi mép:
           - Thôi, tôi về đây.
           Anh ta đã ra đến cửa, chợt quay lại chỉ vào bức tranh vẽ bình hoa trên nóc tủ bảo Thuỳ:
           - Cô Thuỳ biếu tôi cái kia nhé.
           Thuỳ lúng túng - vì bất ngờ hay vì một lẽ gì khác? - mãi mới trả lời:
           - Bức tranh ấy, em... - Cô cố chuyển giọng nói vui - Học trò chẳng dám tặng bài tập cho thầy đâu.
           - Tôi muốn có một kỉ vật thời gian Thuỳ ở trường mĩ thuật.
           Thuỳ nhìn lướt các bức tranh bày trong phòng.
           - Nếu vậy, để em đem tất cả những bức em vẽ ở trường ra để anh chọn. Còn bức tranh kia, em vẽ vụng lắm. Vả lại, bức ấy... Em đã không nộp nó cho nhà trường như các bài thi khác...
           Quĩ lắc đầu làm mặt buồn và nghiêm nghị:
           - Lần đầu tôi phiền Thuỳ. Tôi chỉ muốn bức tranh ấy.
           Thuỳ nhìn Giáp cầu cứu. Khi nãy, vừa nghe Quĩ hỏi xin, tôi đã rất mong Thuỳ từ chối thẳng thừng. Đến đây, tôi mong Giáp giúp vợ gỡ thế khó xử. Nhưng Giáp cứ ngồi rít thuốc. Thuỳ đành nói:
           - Em giữ lại, một phần cũng vì anh Giáp thích.
           Quĩ ngoảnh sang Giáp:
           - Ông anh nhường tôi nhá!
           Giáp điềm nhiên:
           - Tác phẩm của cô ấy, tuỳ cô ấy chứ.
           Tôi ghét Giáp quá. Không khí trong phòng nặng nề, không chỉ vì khói thuốc và hơi rượu. Quĩ nhìn Thuỳ gặng:
           - Thế nào? Đồng ý chứ?
           - Vâng, tuỳ anh. - Thuỳ nói, như thở hắt ra và vẫn đứng nguyên.
           Có cái gì hẫng đi trong tôi. Quĩ đã rướn người đưa tay định hạ bức tranh xuống, bỗng thay đổi ý định:
           - Hãy cứ gửi lại đây đã. Phòng tôi còn luộm thuộm quá.
           Nói xong, anh ta đi ra chẳng chào ai. Giáp ném điếu thuốc hút dở xuống đất, vươn vai đứng dậy:
           - Phải đi kiếm bát phở thôi. Nếu không, đêm cái bụng nó réo thì khó mà ngủ yên. Thuỳ mang cặp lồng theo, em ạ. Ta mang về cho cu Trung. Bây giờ cứ để nó ngủ.
           Đi ăn về, để vợ chồng Giáp đi trước, tôi ghé quán nước mua cho cháu Trung cái bánh nướng. Trở lại nhà bạn, tôi thấy ai đã xoay bức vẽ Giáp úp vào tường.
      
             *    *    *
           Thuỳ rầu rầu nói:
           - Trước đó khá lâu em đã linh cảm thấy điều ấy. Thế mà anh Giáp cứ thản nhiên như không.
           - ...?
           - Em rất khó nói. Một đằng, em rất quí và thương anh Giáp. Một đằng thì dù sao anh Quĩ cũng là thầy, tuy không lên lớp; và đã giúp em được vào học khỏi phải qua các thủ tục phiền hà.
           - Tôi chưa hiểu đã có chuyện gì?
           - Anh có biết anh Quĩ làm gì không? Em không nói nghề hiện nay của anh ấy trong biên chế Bộ Văn hoá - Thông tin. Anh ấy làm "tham mưu" cho bọn buôn lậu đồ cổ, tranh cổ. Không! Không phải chỉ là "hoa tiêu" đâu anh ạ - Anh ấy sục tìm, mách mối, đánh giá, cả mồi chài nữa cho bọn họ. Họ mà "trúng quả" lớn thì anh ấy chỉ việc chìa tay ra. Anh cũng biết công việc của anh Giáp liên quan ít nhiều đến những tác phẩm văn hoá cổ kim. Anh Giáp lại hay đi khảo sát nhiều nơi. Anh Quĩ bảo anh Giáp: "Ừ, thì cứ coi như bán chất xám cho chúng nó. Chất xám lúc này chẳng được giá lắm đâu. Thế mà chúng nó "có cửa", chúng nó chi mạnh tay lắm. Còn nếu chúng nó "bể mánh" thì chỉ chúng nó hứng". Anh Giáp đáp lửng lơ: "Đồ cổ là tài sản quốc gia đấy. Cả những thứ không hẳn là cổ". Anh Quĩ hạ luôn một câu: "Đúng là ông đồ Nghệ".
           - Đến vậy mà Giáp vẫn giao du với hắn ta?
           Thuỳ thở dài:
           - Lạ thế đấy, anh ạ. Em chẳng rõ anh Quĩ có thuật gì lôi kéo anh Giáp không, hay là anh ta gãi đúng nỗi niềm tâm sự nào đó của anh ấy. Em biết chắc anh ấy không ưa anh Quĩ.
           Thuỳ vào bếp lấy thêm nước nóng. Tôi thấy câu chuyện không chỉ có vậy, cũng không chỉ vì những mối quan hệ rối rắm, nhưng tôi ngại nghĩ lôi thôi. Tôi đứng dậy đi thơ thẩn ngắm các bức tranh. Đằng sau một tấm áp-phích có cái gì cồm cộm, tôi lật xem và hơi sững người: bức tranh lọ hoa ngày nào! Có cái hơi khác là mặt kính bị nứt vỡ một đường xéo ở một góc dưới. Thuỳ đã trở lại. Tôi lựa lời:
           - Bức tranh này lại "châu về Hợp Phố"?
           Thuỳ cười nhẹ:
           - Dạo ấy, mãi anh Quĩ cũng không lấy về.
           Tôi quyết định hỏi thẳng:
           - Chị và Giáp cắt nhau rồi à?
           Thùy ngồi cúi đầu giây lâu rồi ngửng lên trầm giọng:
           - Anh là bạn thân của anh Giáp, em xin nói thật, nói hết. Em nghĩ anh Giáp chỉ thương hại em. Nếu không, sao lại...
           Tôi vội ngắt lời:
           - Không đúng!
           Rồi tôi vắn tắt kể cho Thuỳ nghe chuyện Ninh ngày xưa, những gì tôi cảm thấy ngày ấy và câu thổ lộ của Giáp với tôi ngày tôi mới gặp lại anh. Thuỳ ngồi lặng đi nhìn mông qua cửa sổ, giọng xa xăm:
           - Tiếc rằng ngày ấy em chẳng biết gì cả. Song dẫu có biết thì cũng chẳng hơn gì, bởi vì dạo ấy em còn khờ lắm, tự hiểu mình chưa xong, còn nói gì hiểu người, hiểu đời. - Giọng chị trở nên tỉnh hơn - Nhưng nếu vậy thì anh Giáp càng đáng trách. Anh Quĩ muốn mê hoặc anh Giáp không chỉ vì công việc làm ăn... Ngày trước, anh ta đã từng ... rất chu đáo với em. Có thể là em lầm. Mà cũng có thể còn có cái gì đó sâu xa hơn. Nhưng thôi, mặc anh ta. Em chỉ giận anh Giáp. Chẳng phải là anh ấy vô tâm.
           Vẻ mặt Thuỳ không giấu được cơn giận và nỗi đau. Tôi cố nói một câu gì đó:
           - Chẳng lẽ chỉ vì nghĩ vậy mà chị bỏ xuống đây?
           Mấy nếp nhăn hiện rõ hai bên mép Thuỳ:
           - Có những sự ngẫu nhiên dồn đến anh ạ. Vào lúc ở Bộ người ta cho biết một xí nghiệp ở Hải Phòng cần một họa sĩ...
           Tôi tò mò hỏi luôn:
           - Các xí nghiệp thì có việc gì cần đến họa sĩ nhỉ?
           Thuỳ hơi cười, hẳn là vì sự mù mờ của tôi:
           - Thiếu gì việc, anh? Chẳng qua ở ta chưa coi trọng đấy thôi - Giọng Thuỳ đượm buồn - Anh Giáp thật lạ. Anh Quĩ tán anh ấy giao cháu Trung cho anh ta dìu dắt, anh ấy cũng gật. Em nhất định không nghe, anh ấy cáu với em. Tối hôm ấy, anh Quĩ lại đến chén chú, chén anh với anh Giáp tới khuya. Lúc Quĩ về rồi, em mới khuyên anh ấy nên thôi những cuộc chén như vậy. Em nói khá găng. Em nén quá lâu rồi, không chỉ vì chuyện nhậu nhẹt. Em nói: "Anh đừng làm hỏng anh và làm hỏng cả con". Em không để ý là anh Giáp có vẻ say hơn và bực bội hơi mọi lần. Hình như lúc em có việc đi ra ngoài, anh Giáp và anh Quĩ nói chuyện gì đó không vui. Thế rồi nẩy ra một cuộc cãi nhau to. Có lẽ hàng xóm cũng phải thức giấc. Anh ấy quát em: "Cô đi đâu thì đi!" Rồi anh ấy quẳng cả bức tranh kia - Thuỳ trỏ vào bức tranh bình hoa - Hôm sau, em đến ban tổ chức xung phong đi Hải Phòng. Các thủ tục được giải quyết rất chóng. Em xuống đây vừa may. Một người anh họ em chuyển công tác vào Nam đưa cả nhà đi. Anh chị muốn giữ chỗ ở này cho một đứa con hiện đang được nhà máy của thành phố này cử đi thực tập ở nước ngoài. Em ở đây đã gần một tháng rồi.
           Tôi dè dặt hỏi:
           - Chị ra đi, Giáp không ý kiến gì cả ư?
           - Mẹ con em đi lúc anh ấy còn ở cơ quan. Em để lại một lá thư nói là đừng tìm, lúc nào em thấy nên về, em sẽ về.
           Tôi như nói với mình: "Có nên vậy chăng?" Trong bụng thì nghĩ: "Chẳng lẽ Thuỳ phải trốn cái gì đó, Quĩ và cái không khí hắn tạo ra, hay cái gì khác nữa?".
           Thùy hơi đăm chiêu, nói như lạc đề:
           - Chỗ em làm trước đây nhiều việc sự vụ quá. Lắm khi không có việc gì cho ra việc nữa. Cứ ngồi chơi tràn cũng được hoặc làm việc riêng cũng được. Em những loay hoay mà hết buổi. Còn vẽ thì từ lâu ở nhà em chẳng vẽ được gì ra hồn. Việc công, việc riêng đều cảm thấy trì trệ.
           Tôi cứ nói theo đà suy nghĩ:
           - Không nên chấp người đang say rượu.
           Mắt Thuỳ tối lại:
           - Có phải chỉ là chuyện say không anh?
           - Tôi chưa thật rõ nội tình các bạn. Nhưng có nên quyết liệt vậy không?
           Thùy nói nhỏ:
           - Dĩ nhiên anh ấy có thể tìm đến nơi em hiện đang công tác không khó mấy - Ngừng một chút, chị đổi giọng - Về đây, môi trường mới, công việc mới, em khá vất vả. Thì giờ rỗi để làm kiếm thêm không nhiều lắm, nhưng lại thấy ham làm việc.
           Tôi nghĩ thầm: Mình đã nói vậy mà Thuỳ vẫn ngờ Giáp không thật yêu cô khi họ lấy nhau, hoặc không còn nguyên vẹn mối tình xưa kia nữa. Cũng có thể là như thế. Song Thuỳ có yêu Giáp không? Nhưng nói "yêu" theo nghĩa nào mới được chứ? Vả chăng điều đó đặt ra kể như thừa khi họ đã có mấy năm dài sống êm ấm với nhau. Còn kẻ kia? Hắn và những con tôm thoa mỡ dưới ánh nến của hắn. Có lẽ đáp số của bài toán cũ về Thuỳ đối với hắn nay chẳng còn mấy ý nghĩa. Nhưng hắn cần tự khẳng định mình theo cái cách của hắn chăng? Hay là hắn muốn chứng minh ở đời này khó có sự ngay thẳng, khó có hạnh phúc ngay thẳng? Hay là... Nhưng mà hắn là ai? Có những kẻ tồi hạ đẳng; có những kẻ tồi siêu cấp. Hắn chẳng phải là loại thứ nhất, mà có lẽ chưa đạt trình độ loại thứ hai - loại này thường có bộ mặt khả ái hoặc oai nghiêm kia. - Hừm! Thuộc loại nào thì hắn vẫn là hắn. Cũng như tôm vẫn cứ là tôm, vẫn cứ là "đội phẩn lên đầu", và cứ co vào, chết càng co vào. Dù là dưới ánh nến, ánh đèn điện hay ánh mặt trời. Dù sao hắn vẫn đang tồn tại. Ờ, mà không có hắn thì sao nhỉ? Hắn là nguyên nhân hay chỉ là tác nhân?
           - Em chẳng còn ai khác. - Thuỳ chuyển giọng tâm tình - Bố và dì em đã mất trước ngày giải phóng miền Nam. Anh chị em di tản sang Mĩ. Em đã tập cách sống tự lập. Nhưng rời nơi công tác quen thuộc không phải em không ngại ngần.
           - Còn với Giáp thì sao? Chị để Giáp lại cho tay Quĩ xô đẩy...
           - Chẳng ai xô đẩy anh ấy được, nếu anh ấy không tự xô đẩy mình. Em cho rằng còn ở với mẹ con em thì anh ấy còn tự buông trôi. E rồi bỏ bê cả việc nghiên cứu mà anh ấy từng coi như một lẽ sống. Có lẽ anh ấy khổ vì đã nhầm tình thương với tình yêu. Chuyện ngày xưa là chuyện cũ càng.
           Khổ thật! - Tôi than thầm - Chẳng qua Giáp còn mang nặng một mặc cảm. Mặc cảm gì nhỉ? Mặc cảm của một người đã từng không may trong tình yêu và trong sự nghiệp chăng? Cái sau làm nặng nề thêm cái trước. Có phải trong tâm trạng ấy mà anh chấp nhận "tình bạn" của Quĩ? Có lẽ không phải là chấp nhận mà là một sự mặc kệ, một sự coi thường mọi sự đời. Mà nếu vậy thì có thể dẫn tới xoá nhà ranh giới giữa cái tốt và cái xấu, không còn tởm lợm cái xấu. Và thế là... tôi không tin bạn tôi đã đến cái mức ấy. Tuy nhiên, cuộc sống bây giờ đang giương ra những cái bẫy, hay ít nhất cũng đề ra những thử thách phức tạp.
           Tôi định khuyên Thuỳ đôi câu, song nhận thấy chưa cần và chưa nên. Tôi đành chỉ nói mấy lời dè chừng. Tiễn tôi ra đến đầu ngõ, Thuỳ bảo tôi:
           - Anh đừng nói gì với anh Giáp và đừng cho anh ấy biết nơi này vội nhé.
           Sắp chia tay, chị nói thêm:
           - Cũng chẳng thể kéo dài tình trạng này đâu. Cháu Trung nó nhớ bố nó ghê lắm.
           Tôi thử đùa:
           - Còn mẹ cháu thì không à?
           Thuỳ cười, gò má ửng lên, quay vội người tránh ánh mắt tôi. Tôi như thấy lại cô Thuỳ hồn nhiên, nhiều mơ ước.
     
             *     *     *
           Tôi chỉ theo đúng lời giao hẹn của Thuỳ được một nửa. Có nghĩa là tôi đã viết thư ngay cho Giáp, không tiết lộ nơi mẹ con Thuỳ ở,  nhưng kịch liệt "phê".
           “... Ông bây giờ rộng cẳng, sướng nhỉ! Cho nên ông cứ ung dung chẳng cần biết vợ con phiêu bạt đi đâu. Trước đây tôi lấy làm rầu lòng thấy ông như định chơi trò "bộ ba". Hay ông muốn tạo ra một tấn bi hài kịch để trút vợi nỗi tức đời của mình? Nhưng ông chỉ là một thằng ngốc. Có vẻ như ông lí tưởng hoá Thuỳ, nhưng thực tế, ông chỉ coi Thuỳ như một bức tĩnh vật - Chính ông mới là tĩnh vật - Chẳng lẽ ông nghĩ luồng ánh sáng trong bức tranh của Thuỳ là do cô ấy nghĩ đến ông? Ông coi chừng đó! Thuỳ là người có bản lĩnh và vị tha. Nhưng không phải bản lĩnh nào cũng cố chịu đựng những trò thách đố nhẫn tâm hoặc vô duyên. Khéo mà ông trắng tay đó! - Trắng tay theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng, diện hẹp và diện rộng. Cứ phó mặc sự đời đưa đẩy là chẳng xong đâu. Đánh rơi mình lúc nào không biết đấy. Suýt nữa thì tôi đặt cho ông câu hỏi: "Ông chọn Thuỳ hay chọn Quĩ?" Một câu hỏi tàn tệ và tồi tệ, vô nghĩa lí nữa...”.
           Một tuần sau, Giáp mới trả lời tôi. Anh chẳng kể lể, chẳng phân trần. Thư bắt đầu bằng chuyện về chuyến đi khảo sát vừa đây của anh, một chuyến đi "có quá nhiều tình huống đáng bực mình" nhưng rồi cũng trót lọt. Đột ngột, anh đổi mạch thư:
           "Ông bạn cứ phán tùm lum. Ông đã hiểu gì về tôi nào? Xem bộ ông chỉ mới nhìn cái khía cạnh mùi mẫn. Dù sao tôi cũng rất cảm ơn ông, vì hình như ông cũng có lí phần nào. Vừa qua, tôi đã có dịp để suy ngẫm. Một thời gian không ngắn, tôi đã định làm một phép thử với cả chính tôi. (Ông bạn ơi! - Tôi nghĩ thành tiếng - Ông định thử cái gì? Lòng tin? Tình yêu? Cách sống? Khá đắt đấy! Mỗi cuộc đời bình thường như của chúng ta chỉ có một cái "vốn" khiêm tốn mà thôi). Thư ông gay gắt trong cái lối suy tư hạn hẹp của ông, song cũng khơi gợi những điều ngoài cả những gì ông định nói. Ông chỉ quan tâm đến chuyện nhà của tôi thôi. Giá tôi đủ nguội lạnh hoặc vô lương để coi gia đình là một môi trường khép kín, mặc sức thu vén! Tôi sẽ về thăm ông đấy. Ông là láu lắm nhé! Chắc hẳn Thuỳ đã dặn ông giấu chỗ ở của mẹ con cô ấy chứ gì? Thì ra bệnh nữ khuynh của ông hãy còn khá nặng..."
           Phảng phất cái cười tủm có lúm đồng tiền bên má bạn tôi ngày  nào.
     
    Hải Phòng, XI - 1984
     
     
     

    <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.03.2009 12:10:37 bởi Khải Nguyên HT >
    #2
      Khải Nguyên HT 25.03.2009 15:46:14 (permalink)
      HỌ ĐI QUA VƯỜN LUÝCH XĂM BUA 
      -truyện ngắn- 
       
             Pa-ri, mùa hạ năm 198...
             Vườn Bách thảo giữa thành phố kề sông Xen phía tả ngạn. Ông đến đây như một kẻ lánh đời, sợ nơi đông người. Thật ra, phần lớn đường phố Pari trong giờ làm việc không ồn, không thừa thãi người đi nhong như ở Việt Nam. Em ông ở quê ra Hà Nội chơi đứng ngắm dòng người và xe nườm nượp qua lại cứ tự hỏi: những con người này đi đâu, về đâu mà tuôn mãi như là chẳng ai về nhà cả, như là cái "nghiệp" trời đày phải đi. Ở Pa-ri có nhiều nơi rất vắng, rất tĩnh, nhưng theo lời một Việt kiều mách, ông đã đến đây. Ông đang đứng trước tượng Béc-na-đanh đơ Xanh Pi-e cạnh tượng Pôn và Viếc-gi-ni cùng con chó dưới tán những cây platan-cây tiêu huyền như có người đã dịch, loại cây thường được trồng dọc các đường phố ở Pháp, và những cây chuối.
             - Tiếc rằng đây chẳng phải là đảo Mô-ri-xơ.
             Ông quay nhìn. Một bà già Pháp nhỏ người đi qua thân thiện nói, muốn bắt chuyện. Những người già cả ở phương Tây thường sống cô độc nên mong có người để chuyện trò. Ông chẳng phải đang lúc hứng trò chuyện song phần vì phép lịch sự, phần cũng thấy không nên bỏ qua dịp tìm hiểu nơi đất khách. Giữa những người xa lạ lại chẳng cần phải giữ kẽ.
             - Tôi sinh ra tại Sài Gòn, sống ở Việt Nam lâu, cả ở Trung Quốc. Tôi làm thầy thuốc. Việt Nam nóng, tôi cũng quen được. Tôi không thích Đà Lạt, đẹp đấy nhưng không có màu sắc Việt Nam. Tôi thích Nha Trang. Nghe nói thành phố này bị người Mĩ san bằng phải không? Không à, may quá! Ông thấy Pa-ri thế nào? Cảm ơn. Không, người Pháp chúng tôi chẳng ai nghĩ như vậy cả, chẳng một ai nói biết ơn Pê-tanh đã đầu hàng bọn Đức để giữ cho Pa-ri nguyên vẹn cả. Người Việt Nam các ông hỏi chúng tôi câu ấy thì quả là lạ. Các ông có chịu cúi đầu trước bọn Mĩ để giữ nguyên Hà Nội không? Hồ Chí Minh có nói một câu nổi tiếng về chuyện này mà. Tôi ngưỡng mộ ông Hồ, song... Chốn này vắng lắm, du khách ít ai đến đây. Ông đến vườn Luých-xăm-bua chưa?
             Cái vườn trong những trang văn tuyệt diệu của A-na-tôn Phơ-răng-xơ từng nằm trong trí tưởng tượng của mình suốt thời học trò. Mình bước vào cổng vườn hồi hộp cái cảm xúc của kẻ hành hương lần đầu đặt chân vào cổng thánh địa hằng mơ ước. Vườn kiểu Pháp, bãi cỏ kiểu Anh, nhiều pho tượng giữa các rặng cây, một cái hồ nhỏ chính giữa viền lối đi rải sỏi khá rộng. Đâu là con đường đi học của cậu bé của A-na-tôn Phơ-răng-xơ, hai tay đút túi, cặp sách đeo sau lưng, băng qua vườn nhảy nhót như con chim sẻ? Ở đâu những chiếc lá vàng run rẩy trên cây và rụng từng chiếc từng chiếc trên vai trắng của các pho tượng? Tiếc rằng không phải mùa tựu học dưới "bầu trời xao xuyến mùa thu", không phải "những ngày tháng Mười đượm buồn mà đẹp hơn bao giờ hết".
             Đang là mùa hạ Pa-ri. Nắng chiều hôm ấy không rực rỡ, không oi, hơi nồng. Có nhiều người ngồi chơi hoặc đi dạo, đông khách du ngoại quốc. Dân Pa-ri, không chỉ dân Pa-ri, hè đến thường ra nhà nghỉ riêng của họ ở ngoại thành, ở các vùng quê, nếu không đi nghỉ mát nơi vùng núi hay bờ biển; chỉ những người bận công chuyện hay túi tiền eo hẹp mới ở lại.
             Chân ông đang đặt bước trong vườn Luých-xăm-bua đích thực mà tâm trí ông lại về một vườn Luých-xăm-bua khác.
             Chàng từng "dạo trong vườn Luých-xăm-bua" mấy chục năm về trước cùng nàng trong vườn cây một trường trung học ở Việt Nam. Cả hai đều học giỏi, chàng thiên về toán, nàng thiên về văn. Cả hai đều thích A-na-tôn Phơ-răng-xơ, đều có thể đọc thuộc lòng đoạn văn nhớ ngày khai trường nguyên văn Pháp ngữ của ông. Vậy mà có lần họ đã giận nhau vì chính cái ông nhà văn này. Bữa nọ, nàng bảo: “Các thế hệ học sinh cảm ơn A-na-tôn Phơ-răng-xơ đã gợi cho họ mang những kỉ niệm hè kì diệu đến với ngày khai trường”. Hẳn nàng muốn nói tới những trò nghỉ hè thú vị chẳng kém các trò cưỡi ngựa dạo núi miền Ô-véc-nhơ hoặc đi săn trong rừng E-glơ mà nhà văn Pháp đã nhắc đến. Chàng nói lững lờ: "Kỉ niệm hè của anh là lớp dạy tư". Chàng phải dạy tư trong hè để có tiền ăn học. Nàng cười, bảo rằng chàng nói vậy là ném đá vào trang văn tuyệt bút của A-na-tôn Phơ-răng-xơ. Chàng đáp lại: vâng, chỉ dân thượng lưu mới biết nâng niu chúng thôi. Phải hai tuần sau, nàng mới chịu gặp lại chàng. Nàng dịu dàng nhưng đôi khi cũng lí sự ra trò...
             - Người ta bảo ai cũng có thể có Pôn hoặc Viếc-gi-ni của mình. Xưa, tôi từng có một Pôn, ông có Viếc-gi-ni của ông không?
             Người ấy đúng là Viếc-gi-ni của mình, dẫu cảnh ngộ hai đứa không như trong truyện của Béc-na-đanh đơ Xanh Pi-e.
             - Chúng tôi theo gia đình rời Việt Nam về Pháp chưa lâu, đại chiến thế giới nổ ra. "Pôn" của tôi theo du kích kháng chiến chống Đức và chính quyền tay sai Pê-tanh. Tôi kịp lánh sang Thụy Sĩ.
             Bà này chủ động lánh đi, còn người ấy thì khác. Người ấy chẳng muốn theo gia đình "dinh tê"(1).
             Nhà nàng vốn phong lưu, cha công chức bậc cao thời Pháp, mẹ có cửa hàng to ở thành phố. Nàng nổi tiếng hoa khôi. Ngày nào em nổi tiếng hoa khôi / Môi chẳng thêm son đỏ thắm hoài / Chiếc nhạn đầu thu sa cánh bạt / Ngang mùa tựu học gọi chơi vơi. Nổi tiếng không chỉ ở trường. Một lần, giặc Pháp cho một toán quân đổ bộ lên mấy làng ven biển nơi cả nhà nàng tản cư về. Dân quân chỉ mới quấy rối tí chút, bộ đội chưa tới kịp, chúng đã rút. Chốn này thuộc vùng tự do của ta từ đầu kháng chiến nên người ta có phần chủ quan, canh gác trễ tràng, bố phòng lơi lỏng. Bọn giặc bất ngờ đổ quân, dân chỉ kịp chạy lấy người. Vậy mà sau khi giặc tháo lui, của nả các nhà gần như còn nguyên vẹn, trừ số gà, lợn; nhà cửa không bị đốt, đồ đạc không bị cướp phá. Trái hẳn với những nơi khác khi giặc mò đến. Trong nhà nàng ở, tấm ảnh phóng to của nàng, vốn treo tường, thấy dựng nghiêm chỉnh trên bàn, dưới chân là tấm ảnh nhỏ của một viên sĩ quan Pháp mang lon quan ba khá điển trai. Đằng sau tấm ảnh nàng có mấy dòng chữ Pháp, nét chữ cố ý tỏ ra tài hoa: “Anh đến, tiếc không được gặp em. Lần sau, em đừng lánh đi nữa nhé! Tạm biệt. Đại úy Rô-be L.”.  Có những lời đồn đoán, hiểu là đùa vui hay châm chọc cũng được, rằng: Thằng quan ba chỉ huy mê cô gái trong ảnh nên ra nghiêm lệnh cho lính không được phá phách. Sau đó không lâu, cả nhà nàng lén xuống thuyền dong ra biển để "về thành". Nàng không muốn đi. Cha nạt, mẹ khóc...
             - Tôi ngụ bên hồ Giơ-ne-vơ, một cái hồ lớn tuyệt đẹp. Bình yên nơi đất khách, nghĩ về đồng bào mình đang đối đầu với quân giặc nước tự cảm thấy có tội. Đôi khi tôi cũng muốn về nước góp phần, cứ lần chần mãi. Thú thật với ông, tôi có ngại...
             Cha mẹ nàng đưa nàng vào Sài Gòn, nàng trốn bay ra Hà Nội tính liên lạc với người của kháng chiến tìm cách về lại vùng tự do. Nhưng mẹ nàng có những người bạn, cánh tay họ rất dài... Cha nàng bảo cuộc chiến chẳng mấy nữa mà nguội, sức mấy mà chống lại người Pháp, chớ xốc nổi, phiêu lưu.
             - Nước Pháp được giải phóng, tôi nhắn tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng tìm Pôn của tôi. Bặt vô âm tín.
             Cả nhà người ấy xuất ngoại mấy năm trước ngày miền Nam được giải phóng. Đi đâu? Không ai cho mình biết. Mình những muốn vào Sài Gòn ngay để dò tin, nhưng lại không muốn nhập vào cái dòng người kiểu đi hôi của, "miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng". Rồi một ngày mình nhận được một phong thư lạ...
             - Bên cạnh nỗi đau mất người thương, tôi còn nổi khổ tâm gần như là một sự mặc cảm, chắc ông không hiểu được đâu, trước những hi sinh của người trong nước. Cũng may, hình ảnh những người kháng chiến mất dần vẻ thần tượng, họ hoàn nguyên con người thường với những khuyết, nhược điểm thường tình, có khi họ tự đánh mất ánh hào quang. Tôi nguôi dần nỗi niềm về Pôn của tôi.
             Phong thư xa như vang bóng mối tình xưa, như hương vương hình cũ, không gây đau, không gợi buồn, chỉ đưa chút ngậm ngùi, nhưng làm bải hoải thần trí, tản mạn tâm tư. Một thời gian, mình làm gì cũng đoảng.
       
             *   *   *
             - Chiều nay con sẽ dẫn cha đi xem nhà thờ Đức Bà và gặp anh ấy.
             Từ hôm đến Pa-ri, ông thường đi thăm thú một mình. Với bản đồ du lịch thành phố trong tay đi đâu mà chả được. Ông thích thế mà cô con gái cũng bận học - đang kì ôn thi học phần.
             Nhà thờ Đức Bà Pa-ri mà ông hình dung qua các trang sách của Vích-to Uy-gô hùng vĩ hơn nhiều với tường bao dày và cổng ngoài đồ sộ, không gian bí hiểm. Trước mắt là một nhà thờ khác chăng? "Xin lỗi, đây có phải là nhà thờ Đức Bà Pa-ri", ông hỏi một người đàn ông đứng tuổi. "Phải, đây chính là nhà thờ Đức Bà Pa-ri", lời đáp có âm hưởng tự hào, nhấn mạnh de Paris.  Ông muốn nhìn thấy cái lầu chuông nơi Qua-di-mô-đô giấu nàng Mi-ran-đa và cầu thang lên đó. Chẳng có cái cổng mà lũ ăn mày công phá. Từ quảng trường có thể bước thẳng vào cửa nhà thờ. Ông cố mường tượng cái hành lang trên cổng, chỗ thằng gù đứng ném các thanh gỗ và đổ nước hắc ín sôi xuống đám người tấn công. Tất nhiên, đó chỉ là hư cấu của nhà văn. Vả, sinh thời Uy-gô tường bao và cổng đã không còn.
             Người đông chật ngôi nhà vòm cao và rộng thênh thang, khách du nhiều hơn dân đi lễ. Ông đi trước con vào sâu phía trong nơi trưng kho báu của nhà thờ, những đồ thờ và đồ lễ bằng vàng bạc, châu ngọc, cho khách tham quan chiêm ngưỡng. Một chàng trai tóc đen, da vàng đang hướng dẫn người xem. Vừa trông thấy cậu ta, ông như chạm phải một luồng điện nhẹ, rất nhẹ mà làm xao động tâm can phần sâu kín nhất. Chẳng phải vì vẻ đẹp trai và nét dễ thương ở chàng trai ấy. Một cái gì rất mơ hồ lướt qua như là tiềm thức toan trỗi dậy song đã lại chìm đi. Chàng trai ngửng lên, ông định cất tiếng thì cậu đã hỏi: "Việt Nam?" và khi thấy ông gật, cậu tiếp: "Bác mới đến xin định cư đấy à?". Bấy giờ cậu mới nhìn thấy cô gái. Cô nhún vai. "Con bé học điệu nhún vai rất đầm này bao giờ thế không biết. - Ông nghĩ thầm - Đến đây học cao học chưa đầy một năm mà điệu bộ của nó có nét còn đầm hơn cả đầm chính hiệu. Nó định nhẹm cái đuôi Việt cố hữu vào đâu?". Chẳng phải luồng suy nghĩ khắt khe của người cha mà là sự đánh giá của người thuộc thế hệ mang dép lốp trên các nẻo đường kháng chiến chưa được cuộc sống "văn minh" tẩy não. Chàng trai hẹn gặp lại sau nửa giờ bên cầu sông Xen gần đấy.
             - Cháu ở Ca-na-đa sang đây tu nghiệp. Cháu làm thêm để thỉnh thoảng đi du lịch khỏi lạm vào ngân quĩ của gia đình. Cháu sống với mẹ. Cha cháu mất đã lâu.
             Một câu hỏi lo le đầu miệng ông. Để rồi hỏi con bé. Hừm! bọn trẻ bây giờ chẳng cần "dò cho đến ngọn nguồn lạch sông", ưng nhau, hợp nhau là xong. Nó nói chỉ mới là bạn. Từ "bạn" cũng lôi thôi.
             - Hồi bên nước còn chiến tranh, mẹ cháu hay kể cho cháu nghe về thời trẻ của bà, thời bà ở vùng kháng chiến, như kể chuyện cổ tích. Bà hay hát những bài trước năm 1945, ca khúc lãng mạn lẫn ca khúc cách mạng. Cháu nhớ có bài "Đàn chim Việt" và bài gì: Đêm nay thu sang cùng heo may. Đêm nay sương lam mờ chân mây...
             Bài "Con thuyền không bến". Người ấy rất thích hát cho riêng mình ta nghe, nhất là vào những đêm trăng se lạnh. Câu trong thư vĩnh biệt: "E rằng bài hát ấy vận vào đời em". Có phải người ấy không?
             - Bà thường kể về một bến sông, bờ dốc có bậc lên xuống ghép bằng đá xanh đẽo gọt sơ sài, mặt trên đã được các bàn chân trần mài nhẵn. Một cây phượng bên đầu dốc trùm bóng lá rợp cả bến. Nước sông trong xanh nhìn thấu cát sỏi dưới đáy, chảy xiết...
             Chẳng lẽ là cái bến sông ấy. Cái bến sông, người ấy tiễn mình đi chiến khu Việt Bắc. Hai đứa đứng dưới tán phượng rực đỏ. Người ấy đọc với vẻ đùa đùa, mà nghe ngùi ngùi: "Đưa người, ta không đưa qua sông / Sao có tiếng sóng ở trong lòng?". Mình đã lên đò, nghĩ thế nào người ấy chạy vội xuống đòi cùng qua sông. Mình can không được. Bên kia sông là bãi cát trắng mép lượn cong theo dáng sông. Bãi khá rộng; mùa hè, khách bộ hành chân trần phải mang sẵn cái quạt mo cau, đi chừng vài mươi bước phải đặt quạt trên mặt cát rồi đứng lên nghỉ cho bàn chân dịu bớt mới đi tiếp được. Cô lái đò, một cô gái đậm người, xinh dòn nhưng khá ngoa ngoắt, không chịu cho thuyền ghé sát mép nước. Mình định ghé lưng cõng nhưng người ấy không thuận, chịu ướt đôi ống quần. Tội nghiệp! trầy trật đôi guốc gỗ qua cát bỏng mãi mới tới bờ đê. Trên đê gió lộng bạt đi một ít oi nồng của trưa nắng hạ. Không là chiều tiễn biệt có hoàng hôn trong mắt của  thơ Thâm Tâm*, không là nắng vàng nhớ nhung của thơ Huy Cận**, không là gió heo may hiu hắt của thơ Vũ Đình Liên***. Mình cầm tay người ấy giục quay lại. Mắt rớm ướt, người ấy mỉm cười đọc nhẹ: "Rồi có khi nào ngắm bóng mây / Chiều thu đưa lạnh gió heo may", khẽ rút tay ra, bảo: "Anh đi đi, kẻo nắng!". Người ấy cố ý không đọc hết khổ thơ bốn câu của Thế Lữ. Những tháng năm dài sau đó, không chỉ khi "dừng chân trên bến sông xa vắng" mình mới "chạnh nhớ tình em trong phút giây". - mà chẳng phải chỉ trong phút giây. Có điều là khó tỏ cùng ai, kể cả với bạn thân. Người ấy đang ở phía quân thù. Cứ ngỡ rồi cũng quên đi, quên hẳn. Công việc, thời gian và cuộc sống riêng tư... Lá thư không địa chỉ người gửi sau hơn hai mươi năm là vật rơi không chờ đợi xuống mặt hồ tâm linh của mình vốn chưa bao giờ thật sự lặng sóng. Một đời con người ta thường hay bị xao động bởi đủ loại sóng, sóng nổi và sóng chìm. Song, lần xao động ấy có dạng rất riêng. Chàng trai này mang bóng dáng... Ờ, trong nhà thờ Đức Bà mình như bị "sốc" mà chưa hiểu do đâu.
             - Tên mẹ cháu? - Ông buột hỏi.
             Một cái tên được nói ra. Không phải tên người ấy. Mà mình thật là ngốc, thằng bé biết sao được tên thời con gái của mẹ trong hoàn cảnh của họ. Ánh mắt ông nhìn chàng trai khiến cậu nhớ lại lúc chạm mắt nhau tại nhà thờ. Tuổi trẻ hồn nhiên song cũng rất nhạy cảm.
             - Cháu định mời mẹ cháu sang...
       
             *  *  *
             - Sáng nay, em gọi điện cho anh. Bạn trọ cùng nhà với anh bảo anh ra sân bay. 
             - Tha lỗi cho anh. Mẹ anh sang đây nhưng có công chuyện phải về gấp. Anh đã định để bà gặp em và bác.
             - Anh chẳng phải xin lỗi...
             Im lặng lâu. Họ đang đi dạo trong vườn Luých-xăm-bua. Gần tám giờ tối, trời còn sáng lắm, ánh sáng ban ngày. Không khí dịu mát. Bãi cỏ như tấm thảm xanh mời mọc khách du nằm thư giãn ngắm bầu trời lam nhạt dịu dàng. Nhưng chớ để xiêu lòng, ngay chỉ dẫm lên cỏ một chút cũng sẽ có tiếng còi ré lên ngay. Họ đang trên lối đi giữa các rặng cây. Chàng trai rất phân vân. Hai ngày nay, tâm thức của cậu không yên ổn.
            
             Sân bay Roát-xi (Roissy), phòng chờ. Lọt thỏm giữa đám người phần đông là da trắng, một thanh niên gốc Việt ngồi ngóng chuyến bay từ Ca-na-đa sang. Bắt mẹ đi xa thế này thì khí vất vả và tốn kém. Thôi cũng là dịp để bà đi du lịch vượt Đại-tây dương biết đâu chẳng là lần chót, tuổi tác của bà... Mẹ vẫn muốn có cầu nối với nước cũ. Nước ! cái từ nghe nhẫn tâm nhưng đúng với thực tại. Nếu được một cô con dâu từ "bên nhà", như một số người hay nói cho có vẻ thân tình, chắc bà sẽ vui. Cô ấy từ Việt Nam đi du học, không khó hợp như mình đã ngại. Cô có thể không về nước. Cô bảo cha cô để cho con gái tự quyết định lấy cuộc sống. Mẹ không ưng thì mình không nỡ để bà phải tủi lúc về già. Dẫu là sống trong xã hội phương Tây, nếu mình vuột khỏi tổ ấm của hai mẹ con thì bà sẽ đau lòng lắm. Tiếng cô phát thanh viên báo chuyến bay anh mong đợi đã đến. Dòng người tuôn ra cửa lúc nhặt, lúc thưa. Một bà già Á đông ăn mặc giản dị, bước chân nhẹ nhõm tuy lưng không được thẳng đi hơi chúi về phía trước. "Mẹ". "Con! Bạn gái của con đâu?". "Hôm nay cô ấy phải qua kiểm tra sơ bộ trước kì thi". "Con bảo cha cô ta cũng sang ở bên này rồi mà". "Bác ấy sang thăm con gái. Ở lại định cư hay không, con nghĩ còn là chuyện khác". "Tùy thuộc vào cô con gái?". "Không hẳn vậy đâu. Con chưa cho bác ấy biết mẹ sang đây. Bác ấy có gì kín đáo và ưu tư". Trong xe taxi, cậu con đưa cho mẹ xem tấm ảnh mới chụp chung dưới chân tháp Ep-phen: "Cô người Pháp này là mời ghép vào cho khỏi xui. Cô bạn con ngại chụp ba người. Dị đoan kiểu phương Đông". Bà già ngắm tấm ảnh rất lâu, dáng bất động mà mắt săm soi. "Ông ấy tên gì?" Giọng hỏi y hệt giọng cha cô gái hôm trước. Người con trai nói ra cái tên cậu biết. Người mẹ thả tay cầm ảnh xuống đùi, ngồi thẫn ra. "Mẹ! Mẹ làm sao vậy?". "Không có gì đâu, con". Bà ngả người nhắm mắt lâu, như ngủ. Xe chạy trên đại lộ Xanh Mi-sen ngang vườn Luých-xăm-bua. "Mẹ con ta vào đây nghỉ một chút. Về chỗ con đi bộ cũng được".
            
             - Anh sao đăm chiêu vậy?
             - Có lúc anh không hiểu được mẹ mình. Xa Việt Nam, bà hay tìm đọc sách báo tiếng Việt, thường theo dõi tình hình chiến sự, hứng lên còn tường thuật cho anh nghe làm như anh không còn là chú nhóc. Có lần anh hỏi: "Con là người nước nào?". Bà bảo: "Việt Nam chứ nước nào". Anh hỏi tiếp: "Vậy sao không về thăm?" Bà nói: "Sẽ có lúc". Năm 1975, thay đổi lớn ở Việt Nam, mẹ anh hay giở những bộ trang phục dân tộc ra mặc, chỉ mặc vậy thôi, mặc ngồi xem truyền hình, dạo đàn hay đọc sách một lúc thôi. Lần lần, có cái gì đó đổi khác, nhất là những năm sau này bà dường như mãi lo chuyện làm ăn. Anh nhắc chuyện về thăm quê hương, bà lảng đi.
             - Có lẽ bà mặc cảm chi đó.
             - Trước đây thì có lẽ có. Dường như bà muốn níu giữ cái gì, song lại muốn tránh né cái gì đó nữa.
             
             Ngồi trong vườn Luých-xăm-bua, bà mẹ thăm dò chuyện con. Chưa có gì sâu sắc, thằng bé biết tạm dừng lại ở mức tình cảm mà lí trí còn có cơ tham dự định đoạt. "Cô ta chắc là không thể hoặc không muốn sang Ca-na-đa. Mẹ con ta cũng không có ý định về Việt Nam sống. Con có thể thuyết phục cô ta hoặc cô ta có thể lôi kéo con. Chưa có gì sâu nặng để làm vậy, phải không con?". Chàng trai nghĩ thầm:  Mẹ mà tiếp xúc với cô ấy và người cha, một người hiểu biết và sống nội tâm... "Mai mẹ sẽ về theo chuyến bay đầu tiên trong ngày". Người con bàng hoàng nhưng đủ thông minh và tế nhị để không gặng hỏi lí do. "Đã sang đây, ít ra mẹ cũng làm một cuộc du lịch ngắn chứ?". "Cách đây mấy năm, nhân sang Tây Âu có công chuyện, mẹ đã đi thăm thú nhiều chốn rồi. Kìa! Họ đóng cửa vườn đấy. Con hãy ra nài người phụ trách cho nán lại dăm phút. Con cứ ngồi gần cổng chờ mẹ ra cùng về". Một bà già giữa khu vườn trống vắng. Nghe mơ hồ tiếng lá xào xạc, tiếng chim xao xác. Tiếng ồn ào đường phố thoảng đến, xa xôi. Bà đứng lặng dõi theo bóng dáng vô hình nào. Một lát, bà chầm chậm bước men theo hàng cây, lối cỏ. Bà dừng bước, nhắm mắt thở một hơi sâu, mở mắt ra bơ thờ nhìn quanh, rồi quay gót bước nhanh về phía cổng. Cái nhìn thấy bằng mắt hiện tại không giống những gì bà thấy trong tâm tưởng. Bởi, cái “vườn Luých-xăm-bua” xưa của bà không là cái vườn này.
       

           Vẻ bâng quơ, người con trai hỏi cô gái:
        - Em đưa bác thăm vườn này chưa?
        - Vừa đến Pa-ri, cụ đã tự tìm đến đây, và…
       

           Sau khi hỏi chuyện cậu bạn trai của con bên nhà thờ Đức Bà, ông kéo con gái thăm lại vườn Luých-xăm-bua. Cho đến hết buổi, ông ít nói, nghe chuyện con một cách lơ đãng. Sáng nay, ông ngồi trầm ngâm lâu rồi một mình đi dạo. Ông lên xe buýt làm một chuyến vòng quanh nội thành Pa-ri bắt đầu từ cửa I-ta-li, qua hơn hai mươi cửa có tên gọi theo các cửa ô xưa, hết một giờ ba mươi phút. Cuối cùng, ông lại tìm đến vườn Luých-xăm-bua. Trong bữa cơm, cô con thỉnh thoảng lại nghi ngại nhìn cha, một câu hỏi trong ánh mắt. Người cha bỗng cười khà kể: "Cha đang đi trên hè phố thì một thằng Tây ngồi trong xe con của nó vẫy cha lại hỏi thăm đường ra sân bay. Cha lắc đầu. Nó tự giới thiệu là ở Mĩ qua đây du lịch rồi hỏi quốc tịch của cha. Nó nói rất tôn trọng Việt Nam, muốn tặng cha hai chiếc áo lông đang để trong xe chỉ xin 1500 phơ-răng để mua vé máy bay. Cha cảm ơn và từ chối nhận áo. Nó xuống giá: Thôi thì 600 phơ-răng cũng được. Thằng này thì phải gọi bọn đại bịp ở Việt Nam bằng cụ". Hai cha con cùng cười đến chảy nước mắt. Cười xong, mắt người cha vẫn không xóa hết nét đăm chiêu, và dấu hỏi vẫn còn vương trong mắt con.
       

          - Anh có điều muốn nghe cha em. Anh định chủ nhật tới mời bác và em, ba người chúng ta đi pic-nic.
        - Thứ bảy này cụ về nước rồi.
        - Vậy sao? - Hai tiếng thốt lên không chỉ là câu hỏi - Bác không lưu lại mấy ngày chờ xem người Pháp mừng 200 năm ngày Quốc Khánh của họ ư?
        - Cụ đã định vậy, hôm nay cụ đột ngột đổi ý.
        Hai người lẳng lặng ngồi xuống một chiếc ghế đá. Họ tránh nói ra điều họ đang nghĩ. Chàng trai chợt lên tiếng như nói với riêng mình:
        - Thời các cụ chuyện tình cảm vậy mà không đơn giản. Dường như giữ một miền thương đau sâu kín trong tâm khảm cũng là một thứ hạnh phúc.
        Cô gái định bảo: Nói triết lí không hợp với anh nhưng chợt nhận ra chính mình cũng đang muốn tìm đến một câu triết lí, đại loại như: "Cõi tâm linh là không biên giới mà nhiều khi chính tâm linh con người tự tạo ra biên giới tâm linh".

         *   *   *
        Truyền rằng: Ngày xưa….
        Nàng và chàng cùng học một trường Cao đẳng tiểu học. Họ yêu nhau, rồi cùng học lên trung học - gọi là ban tú tài. Ngày ấy, con gái học như vậy có thể đếm trên đầu ngón tay. Họ không lấy được nhau. Cha mẹ nàng không chịu gả, hoặc vì nhà nàng có vai vế xã hội và tiền tài, mà nhà chàng lại loàng xoàng, hoặc vì chàng có tư tưởng bài Pháp. Cách mạng và chiến tranh đẩy dần hai người ngày càng xa nhau. Nàng phiêu bạt, chàng ruổi rong. Một ngày, chẳng rõ là đẹp trời hay u ám, sau cái mốc 30-4-1975 chưa lâu, chàng - bây giờ nên gọi bằng ông - ông nhận được một phong thư mang con tem lạ, dấu bưu điện càng lạ từ một phương trời trái nẻo tâm tưởng ông. Ông mân mê cái bì thư cố đoán mà chịu không hiểu vì sao nó tìm đến tay mình. Ông về phòng riêng, một phòng con con trong khu tập thể cơ quan dành cho những người xa gia đình. Chậm rãi mà nôn nóng, ông bóc phong thư. Một tờ giấy mỏng phơn phớt xanh, loại giấy thư của ngày nào, đã lâu lắm ông không còn nghĩ tới nữa. Nét chữ chân phương mềm mà già dặn làm thức dậy trong ông một cái gì vừa thân thương, vừa quá xa xôi. Vỏn vẹn một bài thơ Đường luật:
           Trái duyên chi nỡ phụ phàng nhau
           Li loạn chia phôi trắng mái đầu
           Nương gió tây nồng treo hẹn ước
            Lạc trời thu lạnh nín thương đau
            Quê nhà khói lấp vườn trường cũ
            Đất khách ai về giấc mộng thâu
            Thơ một lần trao chiều lỡ bước
            Niết bàn xa khuất bóng trăng xao.

          Sao tôi lại nhớ chuyện kia vào lúc này và ở đây? Chuyện trái duyên ấy! Lời thơ ấy! Chẳng có gì đặc biệt, chẳng hay ho gì mấy, mà sao vẫn vương chút gì u uẩn. Tôi ghé Pa-ri một buổi chớm đông đầy tâm sự. Tôi ngồi trong phòng trọ nhìn qua lớp kính cửa sổ nghĩ lan man lạc nẻo tâm tư, trộn dĩ vãng vào hiện tại. Ngoài trời lạnh giá. Phía vườn Luých-xăm-bua những cây trụi lá chĩa cành và nhánh đen thui lên trời. Đó đây điểm xuyết những cây họ thông vẫn giữ nguyên màu xanh như những nốt nhạc vui lạc lõng trên cái nền thê lương.
      Câu chuyện tình ấy quả là ngộ! Vừa nên thơ, vừa cố chấp, vừa giống hư cấu trong tiểu thuyết. "Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng". Hình như không phải vậy, hoặc không phải chỉ có vậy.
             Tình yêu thời xưa hay thật! Thời xưa rồi ư? Ờ, đã là thời xưa. Thời nay người ta không yêu như thế nữa. Phải vậy không?

      Hải Phòng, 3-1999
      ---------------------------------------------- 

      (1)Tiếng lóng chỉ hành động rời vùng kháng chiến vào vùng quân Pháp chiếm đóng, do từ entrer tiếng Pháp mà ra.
      (*)Đưa người, ta không đưa qua sông/Sao có tiếng sóng ở trong lòng?/Nắng chiều không thắm không vàng vọt/Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
      (**)Ôi! nắng vàng sao mà nhớ nhung!/Có ai đàn lẻ để tơ chùng?/Có ai tiễn biệt nơi xa ấy/Xui bước chân đây cũng ngại ngùng...
      (***)Làn gió heo may xa hiu hắt / Lạnh lùng chẳng biết tiễn đưa ai!
       
       
       
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.04.2009 17:18:16 bởi Khải Nguyên HT >
      #3
        Ct.Ly 02.04.2009 06:43:07 (permalink)
        #4
          Khải Nguyên HT 02.04.2009 17:46:05 (permalink)
          Ct.Ly thân mến,
          Cảm ơn VNTQ và Ct.Ly đã đưa mấy tác phẩm của tôi vào thư viện.
          Cảm ơn đã gợi ý nên để nguyên văn tên riêng tiếng nước ngoài. Về chuyện này, những người cầm bút trong nước cũng có những ý kiến khác nhau. Đáng lẽ nên và cần có sự qui định thống nhất của cơ quan có thẩm quyền (về chuyên môn), nhưng rất tiếc là dường như chưa có ai nghĩ tới cả!
          Trong các tác phẩm đã đưa vào rất tiếc vẫn sót một số lỗi do đánh máy (Tôi đã soát trước khi đăng nhưng vẫn sót). Có cách gì để cho tác giả tự sửa được không? (như với các bài đăng trên Diễn đàn ấy).
          Truyện "Họ đi qua vườn L.", tôi để "qua" , Ct.Ly biên tập lại thành "vào" là có dụng ý gì không? (Tôi chẳng bảo thủ ý kiến đâu, nếu quả sửa lại hay hơn, hợp hơn thì chẳng sao, tán thành thôi).
          Chúc khỏe và vui.
          K.N.
          #5
            Ct.Ly 02.04.2009 19:48:29 (permalink)
            #6
              Khải Nguyên HT 05.04.2009 11:03:49 (permalink)
              Ct.Ly thân mến,
              Phiền bạn sửa giùm cho mấy chỗ nhé.
              *Xóa tên bài "Họ đi vào vườn L..." ở thư viện, trong danh mục chung giới thiệu tên các tác phẩm, trong danh mục tác phẩm của tác giả, và trong danh mục tác phẩm kề bên trái đầu mỗi bài đăng tác phẩm (của K.N.).
              *Trong bài "Họ đi qua vườn L..." ,
              -Chỗ gần cuối: "... chĩa cành và nhánh đen thui trên trời" xin chữa thành: "... ... đen thui lên trời ".
              -Chỗ khoảng giữa: "Bài Con thuyền không bến... thư vĩnh biệt: "E rằng bài hát ấy vận vào đời em" có phải người ấy không?"  xin chữa thành: "... ...  ... "... vào đời em". Có phải người ấy không?" (thêm dấu chấm. -Trích lê thê như thế để bạn dễ tìm)
              Cảm ơn trước.
              K.N.
              #7
                Khải Nguyên HT 16.04.2009 21:12:56 (permalink)
                NỤ HÔN MUỘN
                -truyện ngắn-
                 

                       - Cha cháu mắng oan cháu, lại còn dọa sẽ nhốt trong phòng, mà bà chẳng nói đỡ…
                       - Cháu hay đi chơi muộn với bạn trai buổi tối, bà biết nói đỡ thế nào?
                       - Sao bà vẫn bảo: làm hoa cho người ta hái, làm con gái cho ngườì ta ve?
                       - Ờ, đã là con gái thì con trai họ nhìn, họ theo, thậm chí họ có chòng tí ít cũng là chuyện bình thường. Mình cứ giữ nết thì họ phải nể, phải trọng, họ mới mến, mới thương. Chứ các cháu bây giờ, con gái mà cứ bám lấy con trai thì khác nào "cọc đi tìm trâu".
                       -Bà lại nói chuyện đời xưa rồi. Đúng là bà không biết yêu nên mới thế.
                       - Bà mà không biết yêu thì làm sao chăm bẵm mày từ lúc lọt lòng, hả cháu!
                       - Là cháu nói "yêu" kia cơ, yêu… tình yêu lứa đôi ấy. Hồi trẻ, bà có hò hẹn, nhớ nhung ai không?
                       - Mồ tổ chị… Mười lăm tuổi, bà được gả chồng, còn hò với hẹn ai nữa.
                       - Eo ơi! Đến nửa thế kỉ phẳng lặng…
                       - Chẳng phẳng lặng đâu cháu ạ, cũng rắc rối tơ lắm.
                       - Vậy ư? Bà kể cho cháu nghe được không bà?
                       - Chuyện bà, bà chẳng kể lại với ai, kể cả với cha cháu. Từ ngày ông cháu mất đi… Dạo này, thỉnh thoảng bà lại thấy ông cháu về trong giấc ngủ. Có khi ông sắp đón bà đi.
                       - Tại bà quá nhớ ông đấy thôi. A! Vậy là bà rất yêu ông. Thế mà cháu cứ tưởng các cụ ngày trước chẳng biết yêu là gì cả. Hẳn là ông cũng yêu bà lắm đấy nhỉ. Ông bà cưới nhau đang tuổi nhí mà yêu "kĩ " vậy, siêu cực!
                       - Yêu với đương gì! Ông mày cũng oái ăm lắm.
                       - Thế nào cơ? Hoan hô! Bà kể đi bà!
                       - Cháu tò mò quá đấy.
                       - Cháu mà không thấu chuyện ông bà là cháu hư chứ bà?
                        - Cháu chỉ nên biết rằng, tình yêu cũng như hạnh phúc chẳng tự đến, và phải từ hai phía.

                        *     *     *
                        Chuyện bà nội có thể chia làm hai hồi, mà có dễ đến ba hồi. Không phải! Phải bốn hồi cơ. Nhưng tới hồi bốn thì tương đối suôn sẻ rồi, bà có thể kể thoải mái, và hầu như ai cũng đã biết. Ba hồi đầu, mãi bà mới quyết định kể, mà cũng "trích" thôi, còn "toàn cảnh" thì "đại khái" như sau:
                        Hồi một. Cô Na làng Trung gả cho cậu Lương làng Đông, cái tin ấy làm xôn xao đám trai mấy làng trong vùng. Cô gái có nét mặt ưa nhìn, dáng người nhẹ nhõm, tính nết dịu dàng, con nhà gia giáo, có một ít chữ nghĩa,… Các chàng chép miệng tiếc rẻ. Có chàng dè bỉu chú rể tương lai, nhưng xem ra chẳng có cớ gì đắt. Lương hơn Na hai tuổi, đang đi học trường sư phạm tỉnh, chẳng có điều tiếng gì ở làng, nhà vào loại trung lưu được nể vì. Có chăng cái lí này nghe được: "Sao mà nóng lấy chồng vậy?". Nhưng lỗi đâu tự cô Na. Cha mẹ đặt đâu thì cô ngồi đấy (!). Nói cho đúng tình thực, cô hơi thinh thích cái anh chàng học trò - thầy giáo "sắp sửa", biết tiếng hơn là tỏ mặt nhau; tuy cô cũng hơi ngại cái chuyện lấy chồng, làm dâu. Tự dưng đến sống ở một nhà lạ, eo ôi! Ngượng ngượng là, và cũng đáng run nữa. Dưng mà… con gái ai chẳng phải trải qua một lần. Còn chú rể "hậu bổ" thì sao? Dứt khoát là cậu không ưng. Cậu chưa ưng lấy vợ, bọn bạn học chúng mà chế thì chỉ có mà chui vào hộc bàn. Thêm nữa, lớp cậu có mấy cô "thị thành" duyên dáng chứ có đâu… Chẳng mấy ai có được biệt nhỡn đối với các cô gái nông thôn. Các chàng trai "chân quê" khi đã bén mùi phố xá thường lại nhìn khắt khe hơn trai gốc hàng phố chính cống. Bọn này có khi còn biết chuộng hương đồng nội.
                       Chưa ưng lấy vợ, Lương vẫn phải lấy vợ. Không ưng Na, cậu vẫn phải cưới Na. Tối tân hôn, cậu lánh sang nhà bạn. Ở ta, chuyện "động phòng" tối hôm cưới chưa bao giờ là một "thủ tục" bắt buộc, nhất là ở nơi thôn quê. Song, ông bố Lương muốn tác thành cho con theo phương châm "lửa gần rơm…" nên ép cậu từ tối hôm sau phải vào buồng riêng dành cho hai vợ chồng. Ông chỉ "hội ý" riêng với cu cậu thôi. Tối đó, Lương những mong có khách đến chơi thật khuya, thâu đêm càng tốt. Những mong mỏi kiểu ấy bao giờ cũng bị nhỡ. Khi không thể nán hơn nữa, anh chàng mới lê bước vào buồng "hạnh phúc". Nàng dâu mới đắp chăn nằm thu mình sát vách, ngoảnh mặt vào trong thấp thỏm chờ cái đụng chạm đầu tiên, sau tiếng cửa phòng đóng và tiếng giường cót két khẽ. Chú rể trèo lên giường ngồi thu lu một góc, gục đầu vào hai cánh tay khoanh trên đầu gối. Đêm về khuya, lạnh. Mỏi mệt, cậu nằm ghé mé giường phía ngoài, co người như con tôm luộc. Trong ánh đèn dầu mờ tỏ, nom tội nghiệp và kì khôi. Cô vợ sẽ sàng cất đầu, lé mắt nhìn, thấy vậy, bỏ chăn đẩy ra khoảng trống giữa hai người cho chăn áp vào lưng người con trai. Anh chàng không cụ cựa, chừng như đã ngủ. Na thao thức gần trắng đêm. Vừa chợp mắt, gà đã gáy sáng. Nhớ lời mẹ dặn, cô gượng tỉnh ngủ bò dậy, rón rén bước xuống giường để khỏi kinh động giấc ngủ của "người ta".
                       Hàng đêm, Lương vẫn chung giường với vợ song "chẳng có chuyện gì xảy ra". Một tuần sau, cậu vù về trường để "ôn tập chuẩn bị cho năm học mới". Từ đó, chỉ khi cần xin tiền cha mẹ cậu mới mò về. "Thằng này khá, không đắm đuối vì vợ", người cha hởi lòng khoe với mọi người. Chồng về thì về, với vợ vẫn "chiến tranh lạnh". Họ khéo giữ, nói đúng hơn, họ vẫn "như thường" với nhau, nghĩa là chẳng hề mặt nặng, mày nhẹ, hai bên cha mẹ vẫn tưởng là cặp vợ chồng này khăng khít lắm. Thật tình, Na chưa thấy "tầm quan trọng" của chuyện "chăn gối".
                       Hồi hai.  Thời gian cứ kéo lê cảnh vợ hờ của Na. Hẳn là cô cũng nghĩ ngợi; hẳn là cô cũng buồn, cũng tủi. Song cô còn nhỏ quá nên sự buồn tủi đang dừng ở mức mưa bay gió nhẹ chăng? Rồi một hôm, Lương về nhà tỉ tê xin cha mẹ cho vợ chồng mình ra "ăn riêng". Ăn riêng có nghĩa là được giao hẳn cho gian nhà ngang cùng một ít vật dụng, thổi nấu bếp riêng. Ăn riêng cũng có nghĩa là nhận một ít đất, ít vốn, tự làm tự lo.Chuyện này quá là nặng đối với đôi vai một cô gái chưa đến mười sáu tuổi. Nhưng cô le lói mừng là hẳn chồng đã biết nghĩ. Cô đã nhầm.
                       Ở trường Sư phạm, Lương được một thầy giáo đứng tuổi, có uy tín quí. Biết nỗi "khổ tâm và khó xử" của Lương, thầy khuyên nên cố mà gắn bó với vợ, khỏi làm nhỡ nhàng người ta. Mãi mà Lương chẳng "cố" được. Trong một lần nghe cậu học trò "ruột" tâm sự bằng giọng khổ não, thầy ngẫm ngợi một lát rồi bảo: "Con gái có thì, giam hãm mãi người ta trong cảnh vợ chồng hờ, rất không nên. Mà bỏ thì chắc cha mẹ trò chẳng thuận. Thôi thì cậu về xin ra ở riêng. Cô ta không chịu nổi thử thách hẳn sẽ tự bỏ đi. Tôi bày cho trò mẹo này thì thất đức đây, nhưng đã không thắt được thì nên sớm cởi đi thôi".
                       Na đâu biết mẹo thầy gà cho trò, yên phận làm theo. Chẳng biết cô lấy đâu ra sức vóc và nghị lực để "đứng" được. Người chồng đã học xong, và đã "xung phong" đi dạy học ở nơi xa. Cha chồng sau một lần bị ngã, ốm nằm một nơi. Bà chị chồng làm y sĩ quân đội lấy bạn đồng ngũ chẳng mấy khi về quê mẹ. Na phải một mình giúp mẹ chồng chăm nom người bệnh.
                        Thế rồi cải cách ruộng đất,  nhà chồng bị qui là địa chủ. Ngôi nhà lớn bị trưng mua. Vợ chồng già được để lại cho căn bếp làm chỗ trú ngụ. Ông mất vào dịp đó. Trước lúc nhắm mắt mãi mãi, ông cầm tay bà dồn sức nói lời cuối cùng: "Tôi sống làm khổ bà và con dâu. Tôi những muốn chờ cho yên hàn, các con về được đủ mặt; trời không cho thì thôi, thì thôi…". Đám ma chỉ do hai mẹ con lo liệu, và vài ba người cùng cảnh ngộ đào giúp huyệt và đưa người chết đi. Na ăn riêng nên được cho giữ cái nhà ngang để ở. Hai người, mẹ chồng và nàng dâu, "ngự" hai nơi cách nhau một khoảng sân sau, dựa vào nhau để sống những ngày khó khăn nhất.
                       Hồi ba.  Sẩm tối ngày ba mươi Tết, Lương mới về đến trước nhà. Anh được nghỉ Tết một tuần, nhờ sự thông cảm của các đồng nghiệp. Ngày Tết, việc đi lại khỏi nói sự gian truân. Người ta phải điều cả xe tải. Hành khách chỉ có ngồi bệt xuống sàn xe. (Vậy nên mới có câu: "Nhớ em, đánh nước mã hồi/Lên xe chở lợn anh ngồi anh mơ"). Anh lên xe từ chiều hôm trước, mãi quá trưa hôm sau mới về tới bến xe tỉnh nhà. Tiếp đó là chặng đường cuốc bộ. Về tới làng còn phải trình giấy tờ. Nông thôn ngày Tết có cái không khí linh thiêng riêng khác với thị thành. Hồi đó, rất hiếm nhà đốt pháo. Đường làng vắng ngắt. Song, trong nhiều nhà bếp đỏ lửa, phần để nấu cỗ cúng đêm, phần để cho ấm nhà. Vùng này người ta đun nấu bằng củi. Trong sân nhiều nhà, leo lét đèn và nhang trên bàn thờ lộ thiên làm bằng một tấm ván con hình chữ nhật được một cái cột đỡ, gọi là "thiên đài". Lương đã đến trước cổng nhà mình xưa. Trống hoác, nhìn vào tối mờ. Anh lần qua sân. Ngôi nhà chính bằng gỗ lợp tranh nhưng khá bề thế nay trơ nền. Nó đã bị trưng mua, có giấy tờ hẳn hoi nhưng không bao gìờ được trả tiền, và chia cho hai hộ nông dân; họ đã bán cho người làng bên để tiện chia nhau. Người ta đã dỡ nhà mang đi. Vườn trước nhà cũng đã thay chủ mới nhưng chưa chuyển nhà đến. Trong ánh sáng nhập nhoạng và không khí rét ngọt, túp nhà ngang và gian bếp im thui như nhà hoang. Lương đẩy cánh liếp. Mắt anh đã quen bóng tối nhìn thấy ngay mẹ và vợ ngồi hai bên chiếc chõng tre trong ánh đèn lù mù. Trước mặt hai người là chiếc mâm gỗ loáng thoáng bát đĩa. Hai người đàn bà giật mình nhìn ra. Bà mẹ đờ mặt như không nhận ra ai. Người vợ mấp máy môi: "Anh đã về", tiếng lào thào như thảng thốt buột ra, rồi cúi mặt. Bà mẹ đặt cái bát trên tay xuống mâm nghẹn ngào: "Con về chẳng còn cha, cũng chẳng còn nhà". Lương chú mục nhìn mâm "cỗ tất niên". Một bát canh khoai, một đĩa rau luộc, một đĩa cà muối, một đĩa lổn nhổn hình như là cua rang. Anh nghĩ tới câu ca giễu thầy bói nói mò: "Số cô chẳng giầu thì nghèo / Đêm ba mươi Tết có thịt treo trong nhà". Anh đứng sững, ngực nghẹn, sống mũi cay cay. Đến một mẩu thịt cũng không! Anh nhìn đến cái kệ kê sát vách dùng làm bàn thờ. Trên cái mâm bồng gỗ mất chân, xếp gọn nải chuối xanh, quả bưởi và mấy quả cam. Mấy que nhang nhả những sợi khói mơ hồ. Lương mở ba lô lấy hai cái bánh chưng và gọi kẹo mua ở bến xe đặt lên, thắp thêm nén hương...
                       Tối đó, Lương đi viếng mộ cha. Đường đất chẳng gần, bà mẹ bảo để đến hôm sau, nhưng anh cảm thấy bức bối muốn được đứng trước nơi cha mình yên nghỉ.
                       Khi Lương trở về thì Na đã trùm chiếu nằm im trên chiếc chõng tre. Chiếc giường gỗ để trống, trải chiếu tươm tất cùng chiếc chăn chiên Nam Định, dẫu chiếu sờn, chăn xác. Bà mẹ đã về gian bếp của cụ. Lương đến ngồi ghé mép chõng đặt tay lên mặt chiếu lùm lùm. Im thít. Anh khẽ lay. Không động cựa. "Na ngủ đấy à?". Không có tiếng trả lời, nhưng người nằm dưới chiếu khẽ cựa mình. Lương lật hé một mé chiếu ghé đầu lại gần:
                       - Trên đường về, tôi đã nghĩ là Na không còn ở đây nữa.
                       Biết bao cô vợ nhân cơ biến động lớn đã bỏ nhà chồng để thoát thân hoặc lo thân, cũng như biết bao anh chồng đã nhân cơ hội này để ruồng rẫy người vợ quê.
                       - Tôi chờ anh về lo cho bà, đưa bà đi cùng, để tôi lo phận tôi.
                       Tiếng nói đều đều một vẻ cam chịu nhưng hàm chút chua chát, chẳng ngái ngủ tí nào.
                       - Thôi, tôi xin. Tôi biết ở nhà khổ, song không ngờ đến nước này. Cảm ơn Na đã không bỏ mẹ tôi một mình. - Giọng Lương âm thầm.
                       Na bật khóc. Bao nhiêu đêm dài chịu đựng cảnh giường không chăn chiếu lạnh; bao nhiêu ngày tháng chịu đựng nỗi khốn khó nhiều khi cơ cực, chị cắn răng không khóc. Bây giờ, một câu nói mủi lòng của chồng làm bục cái màng che chắn, nỗi đắng cay, tủi cực bị dồn nén ùa ra không kìm nổi. Chiếc chõng tre rung lên. Lương ngồi lặng, mắt cũng nhoà lệ. Anh cảm thấy xót xa cho vợ, cho mẹ, cho chính mình. Một lúc lâu chờ cho vợ dịu bớt, Lương rút khăn tay lau mặt cho Na. Chị cầm lấy khăn ngồi dậy tự lau.
                       Na đã thôi thổn thức. Lương ngồi gần lại cầm tay vợ. Na toan rụt tay lại nhưng cảm nhận mấy giọt nước nong nóng vừa rơi xuống bàn tay chị. Bàn tay con gái mềm mại song sự lam lũ đã in dấu ấn nơi những vết chai sần, sờ vào cồm cộm, xốn xang. Phải thật đồng cảm và nhiều yêu thương mới biết ấp iu bàn tay này. Na nửa muốn gỡ ra, nửa ngồi im "chịu trận". Ngày nào, chị từng chờ đợi những cử chỉ âu yếm. Hồi ức thẹn duyên, tủi phận dâng lên trong lòng, chị kéo tay về, ngồi dịch ra. Anh chồng như không còn biết đặt đôi bàn tay mình vào đâu. Tiếng muỗi vo ve nghe thật rõ. Giây lâu, Lương bảo: "Na lên giường mà nằm. Trên ấy có chăn". "Tôi nằm đây được rồi" - giọng Na hơi ngàn ngạt. "Đã vậy thì để mình tôi nằm đây cho", nói rồi anh chồng nằm luôn xuống chõng, kéo chiếu đắp kín đầu. Tần ngần một chút, người vợ đứng lên ra thềm ngồi. Khuya lắm. Làng mạc chìm trong giấc ngủ sâu. Cũng chẳng biết giao thừa qua lúc nào. Chị rón chân đến gần chõng xem chừng. Ánh đèn dầu soi lờ mờ dáng người nằm nghiêng, tay và chân quắp vào trước bụng. Lương thiếp đi trong giấc ngủ nặng nề, anh vừa phải đi nhiều vừa phải nghĩ nhiều, cơ thể và tinh thần đều mệt rã rời. Chiếc chiếu đắp tụt xuống đất. Na lại giường lấy chăn đắp cho người đàn ông dường như xa lạ mà thật ra chưa bao gìờ ra khỏi tâm trí chị, dẫu khó gọi là nhớ thương. Chị lên giường nằm chong mắt vào đêm, rồi cũng thiếp đi.
                       Những ngày Lương được nghỉ Tết chóng qua. Quan hệ vợ chồng anh chưa "cải thiện" được bao nhiêu. Hồi này, chủ động "cách li" lại là người vợ. Từ tối sau, Na nhanh chân chiếm lĩnh cái chõng trước. Lương biết ý, không "tranh".  Anh cũng đang có những câu hỏi cho mình, tự vấn và tự trách. Anh lo dọi lại mái nhà dột cho mẹ, cho vợ, đào cái giếng ngay trong vườn để vợ đỡ đi lấy nước xa. (Hai người đàn bà được chừa lại cho một mảnh vườn con sau nhà).
                       Ngày mai, Lương đã phải ra đi. Bữa tối, Na sửa một mâm cơm để thắp hương nơi ban thờ, một cỗ cúng thật đơn sơ. Một ít tiền và tem gạo Lương mang về, buổi mò đồng của Na, nhờ vậy mâm "cỗ" cũng coi là tươm tất trong hoàn cảnh ấy. Người ta vãn Tết rồi, nhà này coi như ăn Tết muộn. Mùi khói nhang bữa nay dường như nhen lại chút không khí sum vầy đã lâu lắm xa lánh hai căn nhà rách của hai người đàn bà. Trong bữa ăn sau đó, những nét nhăn sạm trên gương mặt bà mẹ có vẻ hơi sáng ra, và gương mặt u trầm của người con dâu chừng dịu đi.
                       Lương ngồi trước thềm nhà cuốn thuốc lá hút hầu như liên tục. Như mọi đêm trước, Na đã đi nằm. Gian nhà nhỏ đêm nay cô tịch hơn. Ngọn đèn dầu hoả vặn nhỏ đặt bên vách toả ánh sáng nhạt nhoà, hắt hiu. Đêm dần vào khuya. Trời đầy sao, long lanh lạnh. Lương khẽ rùng mình, dí tắt điếu thuốc vừa châm, đứng lên đi tới chỗ vợ nằm gọi khe khẽ: "Na ơi!". Im lặng. Lương ngồi xuống chõng. "Na ơi! Anh muốn nói chuyện với em". Lần đầu tiên từ miệng người chồng thốt ra hai tiếng "anh, em". Người vợ mở chiếu đắp, sẽ sàng ngồi dậy, quơ tay cặp lại tóc, xong ngồi yên chờ. Trong ánh sáng tù mù, Lương nhìn dáng vợ ngồi nghiêng, hai tay thu vào giữa hai đùi khép lại - dáng ngồi của người ẩn nhẫn luôn luôn muốn thu gọn mình lại như e ngại choán mất nhiều không gian, anh cảm thấy tái tê trong lòng. "Anh định bảo gì?" - người vợ nhỏ giọng hỏi, không ngửng lên. Sự nín lặng lâu của người chồng khiến chị bối rối. Từ hôm chồng về, chị không muốn nghĩ ngợi gì nhiều. Sự ơ hờ của anh trước đây... Chê hay ngượng chuyện gối chăn? Hay một sự ngại ngùng, ám ảnh nào đó? Ai mà biết được. Nhà chồng thương quí chị. Chị âm thầm chịu đựng. Khó mà nói chị luyến người chồng chưa một lần bén hơi nhau. Có lẽ chị chờ "một lời dứt khoát" từ phía anh. Chị được cưới hỏi đàng hoàng thì ra đi cũng phải đàng hoàng. Đoán vậy thôi, gán cho chị những suy tư này có quá không, chị vẫn còn quá trẻ! Dù sao trong tâm trí chị chưa lọt vào bóng dáng người đàn ông nào khác, nhất là trong hoàn cảnh chị gồng mình gánh cơn gieo neo với gia đình chồng. Chị chưa tiên liệu cuộc đời chị rồi sẽ ra sao nếu anh mãi mãi cứ là như vậy. Bởi, chị và mẹ chồng chị những ngày vừa qua không sống mà là tồn tại, với chút hi vọng mơ hồ vào ngày mai. Chồng về, chị chia sẻ chút an ủi nhen lên trong lòng bà mẹ. Song, nỗi riêng của chị thì bà mẹ chồng khó mà chia sẻ được. Có thể anh chỉ về để đưa bà mẹ đi. Thế cũng là xong, cũng là đành, chị không còn muốn mang thân phận vợ hờ nữa. Thôi, chẳng nghĩ ngợi làm gì. Nhưng thái độ của anh đã khác nhiều. Chỉ mấy ngày về nhà mà nom anh sọm hẳn đi.
                       Lương choàng tay ôm vai vợ nhẹ kéo vào mình. Như có một luồng điện giật, Na bủn rủn người thoắt lạnh đi rồi nóng bừng lên. Chị đổ nghiêng người mặt úp vào người đàn ông mấy hôm nay gần đấy mà cách biệt đấy, tự nhiên mắt ứa lệ. Lương khẽ vuốt tóc vợ, nâng mặt chị lên, đưa môi chạm vào mi mắt ướt rồi lần tìm đôi môi. Một làn sóng đê mê làm tê liệt ý thức người con gái lần đầu biết thế nào là cảm xúc lứa đôi.

                       * * *
                       - Bà ơi! Ông về tí rồi đi không đem bà đi ạ?
                       - Nhiêu khê là chuyện phải giải quyết mới đi được chứ cháu!
                       - Bà và cụ nội cứ sống khổ vậy ư?
                       - Qua cái đận ấy, gặp hồi được mùa, bà và cụ đi mót, kiếm thêm cũng không còn quá khó khăn. Ông nội cháu cũng tìm cách gửi tiền và tem phiếu về. Ông cháu phải sống tùng tiệm, cả kham khổ nữa mới lo được thế, chứ đồng lương... chẳng mấy.
                       - Vậy là ông thương bà lắm đấy, bà nhỉ? Bà ở nhà cui cút, bà có nhớ ông không bà?
                       Nhớ ư? Người chồng từ biệt ra đi, hẹn sẽ thu xếp để đem mẹ và vợ đến với mình. Cảnh nhà đỡ cơ cực. Nhưng cảm giác trống vắng, thiếu người đàn ông đậm hơn. Những lá thư người chồng hàng tháng gửi về được đón đợi như một thứ tín sứ mang lại sự động viên và niềm an ủi cho cuộc sống đơn điệu và vất vả. Lâu lâu thư chậm về, người vợ canh cánh, thấp thỏm lo xẩy chuyện không may cho chồng... Nhưng bà chỉ bảo cháu:
                       - Bà bận tối ngày, có nhiều thì giờ như các cô bây giờ đâu mà nhớ với nhung.
                       Cô bé ghé tai bà hỏi nhỏ:
                       - Bà ơi bà! Ông có hôn bà lần nào không?
                       Hỏi xong, cô rụt người lại để thủ thân, vừa cố nhịn cười. Bà dở cười, dở cáu, cốc đầu cô cháu cưng:
                       - Con bé này hư thật! - Bà ngồi lặng, mắt xa xăm - Bà ngần này tuổi rồi mà nhớ lại chiếc hôn đầu vẫn còn ớn lạnh. Các cháu bây giờ học theo phim phung phí các nụ hôn quá.
                       Những lời bà cụ vừa thốt ra quả là bất ngờ đối với cô cháu gái.
                 
                10-1999.

                <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.04.2009 21:30:53 bởi Khải Nguyên HT >
                #8
                  Khải Nguyên HT 23.04.2009 12:58:47 (permalink)
                  HOÀNG HÔN PHA LÊ


                         “Giữa ban ngày, sầm tối như đêm không trăng. Sao hiện ra đầy trời. Chim xao xác về tổ. Sau mấy phút, bình minh ló dạng. Ngày nối tiếp ngày trong một ngày”. Anh hào hứng tả như chính anh đã từng chứng kiến nhật-thực-toàn-phần, như không phải anh chỉ đọc và nghe. "Có cả một đoạn văn xưa trên một trang sách nước ngoài", anh dùng ngôn phong quảng cáo, nói thêm. Tôi ngồi trên đồi Lầu-Ông-Hoàng, tựa lưng vào tường ngoài cái tháp Chàm còn gần nguyên vẹn nhất trong số ba cái trên đồi. Tôi giữ vẻ mặt kín và lạnh. Như mặt tượng người vũ nữ đắp nổi trong tháp. Tượng vũ nữ hay tượng một vị thần? Tượng thờ. Người ta thờ cái linh thiêng hay cái đẹp? Hay sự linh thiêng nằm trong điệu múa? Cách nay gần bốn trăm năm từng có nhật-thực-toàn-phần đúng nơi đây. Ngày ấy, hẳn là người vũ nữ kia đã đứng đây rồi với y điệu múa ấy, song chưa nhuốm màu thời gian. Người ta chắc phải hãi lắm: Mặt trời bị ăn mất! Kêu la, cuống cuồng. Chen nhau vào tháp cầu khấn thần hay tìm nơi trú ẩn? Cũng có thể người ta làm lễ mừng cuộc hội ngộ vĩ đại Mặt Trời-Mặt Trăng thì sao? Người vũ nữ của thời quá vãng phức tạp trong điệu múa nhưng chắc chắn không hề biết đến những loại tình cảm rắc rối, nhiêu khê của lũ con gái chúng tôi thời nay, ngay lúc đang hóng nhật-thực-toàn-phần này. Anh cố nèo tôi đến đây. Anh muốn xoa dịu niềm cay đắng trong tôi. Tôi là kẻ đến sau. "Hãy tin anh! Tình anh vẫn vẹn nguyên như lần yêu đầu". Mỗi đời người có mấy lần yêu đầu? Người ta nói tình yêu đầu đẹp như buổi bình minh. Lẽ nào một ngày lại có quá một bình minh?
                         Mặt trời đã bị che khuất quá nửa. Không khí oi nồng dịu đi. Đám đông rõi rãi trong chờ đợi. Anh cũng vậy. Anh nén cái háo hức ở đâu?
                         - Người ta bảo lần này chàng mặt trời và nàng mặt trăng mới được ấp nhau, những lần khác chỉ được hôn nhau thôi - Anh muốn đánh thức cái hồn nhiên vốn có của tôi.
                         - Đó chỉ là những lời mơ của bọn làm thơ các anh. Cách nhau hàng trăm triệu ki-lô-mét mà ấp với ôm! - Tôi nghiêm nghị nhiếc.
                         - Nói như em thì hết cả mộng mơ.
                         - Nên mộng mơ in ít thôi. Nếu không, phỉnh người chưa đã, còn tự dối mình - Tôi muốn tỏ ra cay độc. Hẳn anh chàng ngạc nhiên sao tôi trở nên khó tính cách lạ.
                         - Thôi mà! Chúng ta sắp thấy điều kì diệu. Một bình minh thứ hai trong ngày - Anh muốn tháo ngòi nổ. Tranh luận, anh chàng thiệt là cầm chắc.
                         Tối qua, tối 23-10-1995, anh cùng các bạn thơ làm một đêm thơ "chào đón nhật-thực-toàn-phần, một cuộc hẹn hò vũ trụ". Những tứ thơ lạ đua nhau nở rộ nâng sự kiện đang được đón đợi lên mức diệu kì pha màu lãng mạn siêu phàm.  Anh ứng tác hay làm sẵn chẳng biết, bài thơ “Đêm giao thừa trong hai  phút” với tâm niệm của một con chiên ngóng phép lạ sắp rọi tới nguyện ước của mình: ... Đêm/ dài/ hai phút/ đủ giao thừa/ một bình minh kì diệu/ như/lời yêu/ ngỏ/ sau hai phút/ lặng thinh...
                         Ngồi dựa tường tháp cổ, tôi tự hỏi sao mình đến đây. Mình muốn thấy "bình minh thứ hai" hay không muốn? Như là bói nghiệm? Như là một góc tâm linh muốn níu một chỗ dựa huyền bí? Có hay không có? Nếu có, chẳng qua là một sự tình cờ, đúng hơn, chỉ là qui luật vũ trụ. Nhưng mà, may lắm một đời người mới thấy một lần. Còn tình yêu thì một đời người có thể gặp nhiều lần, phải vậy không?
                         Đám con trai gồm mấy nhóm táp nham tự nhiên tụ lại theo qui luật của sự rỗi hơi, có anh trong đó, đứng phơi dưới nắng đang bốc lời. Một chàng cao giọng đọc thơ - lại thơ! - Đại ý nói rằng: lão Mặt Trời quyền uy và kiêu hãnh sắp bị nàng Mặt Trăng bé nhỏ và khiêm nhường lấp mặt. Như mọi quyền uy đều có thể bị hạ bệ. Nhưng ngày nay, quyền uy đồng hành với tiền tài, phải rành mua và bán theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nhan sắc cũng là quyền uy hay chỉ là con mồi sộp của quyền uy? Chàng khác, một họa sĩ-thi sĩ, hăng hái đáp lại, cũng bằng thơ. Tôi chỉ nhớ theo cách diễn xuôi: Thế giới sắc màu có ra chi nếu thiếu ánh mặt trời. Ôi! Vầng dương rạng rỡ sắp thôi tỏa sáng ư? Không! Đêm đen trong mấy phút mà huy hoàng là vĩnh viễn. Chẳng gì che nổi mặt trời. Như chân lí vẫn cứ là chân lí. Tôi lúc này tỉnh táo quá, "lí sự" quá để có thể nghe thơ. Những ý và tình thơ kia, tôi thấy cũng buồn cười tựa như chuyện lo Mặt Trăng bị gấu ăn của người xưa, cả những người chưa xưa. Có lẽ vì tôi "khoa học" quá không đúng lúc. Mà tôi đã biết gì khoa học! Chỉ có tâm hồn bỗng dưng lí trí quá.
                         Mặt Trăng sắp "nuốt" hết Mặt Trời. Dưới các tàng cây rải những hình trăng lưỡi liềm. "Giao thừa ngay bây giờ!". Anh chàng của tôi phấn chấn kêu lên.
                         Đã bàng bạc màu hoàng hôn. Chỉ ít nữa... nếu sẽ là đêm tối, rồi bình minh xuất hiện? Tôi nhìn những tảng mây trắng lởn vởn khắp trời, tự nhiên thấp thỏm. Lúc nãy "vô tư" và "bất cần" là thế, lúc này tôi ghét những mớ mây kia.
                         Chưa bao giờ ở nước ta lại có hàng vạn người nườm nượp tuôn đến tụ tập chỉ để xem và chỉ xem một mục tiêu duy nhất như thế này. Cả những du khách "ba lô" người nước ngoài đang chen chúc giữa các bụi cây dại kia. Thiên hạ nô nức như trẩy hội nhưng không mang tâm trạng tín đồ. Hiếm người đến các lễ hội chỉ để xem, chỉ để chiêm ngưỡng và  tưởng niệm càng ít hơn. Tôi đã từng theo lũ bạn đi lễ hội  vài phen. Đi để lễ.  Rồi thôi. Tôi vẫn có lúc đi hội nhưng không lễ nữa. Cha tôi kể hồi ông còn trai trẻ đi hội chùa Hương, thấy một cô rất xinh, ăn mặc rất "diện", ông bám theo, nhưng khi thấy cô ta xì xụp khấn vái thì ông ngán ngẩm quá, rút êm. Chuyện của cha tôi là chuyện "đời xưa". Đời xưa ấy - chỉ mới hơn ba mươi năm - rất ít thanh niên đi lễ tại các đền, chùa. Đời nay thì… có khi lại là "nom em lễ càng đáng yêu". Nhưng quả thật lễ như người ta vẫn lễ bây giờ thì khó mà có sự thông linh, khó mà giao hòa với các đấng siêu hình. Khó mà Chân, Thiện, mà cũng khó gọi là Mĩ. Các vị Phật, Thần, Thánh cứ phải nghe những lời khấn, những lời kêu cầu cũng đã đủ mệt, nói chi ban phát những ân sủng mà họ van xin. Khói đốt vàng mã có thể làm ô nhiễm nơi các ngài ngự. Và chắc hẳn các ngài chẳng dám động đến các mâm lễ đầy bụi và ruồi nhặng. Tin nhảm cũng dễ lây như sợ bóng. Cái nhảm thường "ăn theo" cái nghiêm túc, lắm khi nhân danh cái thiêng liêng. Nhật-thực-toàn-phần cũng bị "ăn theo" đấy: Cái thị xã này được chỉ đạo tăng giá một số mặt hàng và dịch vụ, nhất là phòng trọ. Còn các kính đen rất được giá nữa, hàng vạn chiếc, có khi nhân danh hội khoa học này nọ. Tôi cũng theo mọi người mua một chiếc, sực nhớ hồi nào, khi tôi còn bé lắm, có nhật-thực-một-phần, anh tôi đem một miếng kính vỡ hơ muội đèn cho đen kịt đi, giơ lên ngắm mặt trời rất đàng hoàng, xem sướng hơn cái kính tôi mua dùng lúc này. Tôi ngán những trò "dịch vụ", như cái mạng nhện đụng đâu cũng dính, mà lại hay mượn tiếng "phục vụ". Có lẽ tôi, đúng như mẹ tôi thường mắng, là đứa con gái có tâm hồn hoang vu khó gieo gì vào đấy. Hoang vu! Núi đồi quanh tôi hiện đang đông đặc những người mà như đang chìm dần vào hoang vu. Tiếng người lắng đi trong sự ngóng đợi không sốt ruột, một sự ngóng đợi bình thản và không vụ lợi, thật hiếm hoi! Và một sự tin tuyệt đối, dẫu vừa nãy có người lên tiếng lo "ngộ nhỡ không xảy ra thì sao nhỉ?". Kim đồng hồ nhích tới "giờ hẹn", mọi khuôn mặt đều ngửa lên dán cái nhìn vào mặt trời qua cặp kính đen.
                         Trên nền trời chỉ còn một "lưỡi trai" chói lói mỏng dính ngoảnh về phía đông. Nó co dần… rồi một điểm sáng lóe lên và phụt tắt. Hiện ra một đĩa đen viền một vành sáng hẹp lờ mờ với những cái tai to nhỏ, cao thấp không đều. Gần đó, một ngôi sao như một cái chấm lạc, lẻ loi… Mây trời vẫn trắng trên nền thiên thanh nhạt. Mặt đất chẳng tối thui. Mọi vật vẫn tỏ. Không có bóng sáng. Một thứ hoàng hôn trong trẻo lạ kì. Biển dưới kia nhạt đi, không sầm tối như tôi đã tưởng. Mấy con thuyền ngoài xa nhìn vẫn rõ, nom đơn côi và phiêu diêu hơn. Phía chân trời, biển hình như sáng lên, hay chỉ là vì tôi ngỡ thế, muốn thế? Tôi cảm thấy mình nhẹ đi, thân thể nhẹ đi mà đầu óc cũng nhẹ đi. Anh ngơ ngác nhìn trời, nhìn biển, nhìn mặt đất, nhìn tôi. Mặt tôi đắm trong trường không-sáng-không-tối, chẳng phải mờ ảo, như qua một lớp pha lê màu hoàng hôn, anh chẳng đọc được gì đâu! Nếu cõi nhân gian cứ mãi như vầy thì đáng mừng hay đáng lo? Hạnh phúc hay bất hạnh? Tôi cẩn thận nhìn lại anh. Cái dáng vẻ ngơ ngác nổi rõ. Chỉ có nỗi thất vọng mới có dáng vẻ ngơ ngác ấy. Những mảng mây trắng tản mạn trên trời là thủ phạm của sự thất vọng của anh chăng? Thất vọng và bẻ bai. Khi bước lên đồi, anh nhắc tôi cẩn thận cái túi xách và đôi hoa tai; lúc đất trời tối đen, kẻ gian dễ hoành hành. Chẳng lẽ có những kẻ lên bãi ngóng nhật-thực-toàn-phần này để rình "hành sự"? Đến đây với những ý tưởng khá lãng mạn trong đầu mà còn nhớ đến chuyện ấy, nhà thơ của tôi chẳng phải bao giờ cũng "ru với gió, mơ theo trăng…". Ý nghĩ ấy cũng chẳng kì khôi lắm. Phố xá những nơi kia đã được lệnh bật mọi loại đèn bảo vệ, đèn đường đề phòng xộn rộn. Cảnh giác cũng phải. Tiếc là vào lúc như thế này! Cái tật liên tưởng lan man của mình chẳng ra làm sao. Mình cũng thất vọng chứ? Đúng là những đám mây trắng lang thang đầy trời kia ngoài tầm che của Nàng Trăng và từ đó ánh sáng tán xạ… Làm hỏng cả một nguồn thơ và những gì gì nữa. Thôi! Chẳng can gì đến mình. Anh chàng họa sĩ trẻ bỗng nói: "Cảnh sắc này chưa từng có trong hội họa".
                         Gần hai phút trôi qua. Một điểm rìa phía tây đĩa đen bật lóa lên như pháo sáng, chói gắt. Một vành cong sáng mảnh như sợi tóc hé ra, lớn lên rất nhanh theo hình lưỡi liềm. Lại bắt đầu có bóng nắng, đậm dần lên. Tôi thở một hơi dài nhè nhẹ. Có thể là tôi luyến tiếc những giây phút mà vạn vật dường như nín thở. Chờ thì lâu mà qua thì chóng vậy! Có tiếng ai đó, giọng của kẻ sung mãn: "Chẳng có gì!". Sao lại chẳng có gì? Cái "gì" của quí vị là cái gì vậy? Nhưng đúng ra, có lẽ mọi người đều ít nhiều hẫng hụt. Như lần đầu tôi đến chùa Hương. Tôi đã tìm đọc rất nhiều thơ và văn cổ kim viết về chùa Hương. Đã tưởng tượng bao nhiêu thứ về cảnh và tình chùa Hương. Lại thấy một chùa Hương khác! Khi ta kì vọng quá nhiều thì dễ bất như ý, ai cũng nói vậy mà.  Tôi bỗng cảm thấy mình thật là ngố. Trong thâm tâm, mình cũng đã đinh ninh sẽ được thấy bình minh giữa trưa. Nhưng chẳng có bình minh, dù là bình minh gượng. Còn hoàng hôn? Ngày có tắt đâu! Song, đã có hai phút tuyệt vời khó gọi tên. À, mình đã thoáng nghĩ đến. Đúng rồi! Hoàng hôn pha lê. Hình như tôi đã thốt thành lời. Chàng họa sĩ quay nhìn tôi: "Ồ!".

                  1995 - 1996
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 23.04.2009 13:13:06 bởi Khải Nguyên HT >
                  #9
                    Chuyển nhanh đến:

                    Thống kê hiện tại

                    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                    Kiểu:
                    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9