Cũng trong bài “Nguồn gốc Thơ Mới”, tôi mở đầu:
“Khi một quốc gia nhược tiểu bị một quốc gia hùng cường từ vật chất (kinh tế, quân sự…) đến tinh thần (văn hoá) xâm lăng thì cái hậu quả đầu tiên mà quốc gia nhược tiểu phải hứng chịu là sự xáo trộn trong nền văn hoá của họ. Và trong cơn xáo trộn văn hoá đó, thi ca thường bị ảnh hưởng rõ rệt nhất. Ấy vì thi ca, một hình thức cao nhất của văn học, là tấm gương phản chiếu đầy đủ và đứng đắn nếp sinh hoạt tinh thần lẫn vật chất của dân tộc.”
Trong tinh thần lời trích dẫn trên thì ở Việt Nam thống nhất, vấn đề xáo trộn trong tiếng Việt – đối với đồng bào Miền Nam, là chuyện đương nhiên. Lãnh thổ Việt Nam dài 2.000 cây số, trước 1975 đã có tình trạng đại đồng, tiểu dị về ngôn ngữ ; sau 1954 lại bị chia cách những 21 năm, với hai nền chính trị đối lập nước lửa, do vậy phần tiểu dị càng lộ rõ hơn kể từ sau 1975.
Tôi có đọc kỹ "Nỗi Buồn Tiếng Việt" của Chu Đậu, "Tiếng Việt Kỳ Cục" của Diệu Tần, “Cái Chết Của Một Ngôn Ngữ: Tiếng Việt Sài Gòn Cũ” của Trịnh Thanh Thủy, loạt bài "Giữ gìn tiếng Việt" của Cao Xuân Hạo, "Có Nên Dùng Ngôn Ngữ của VC?" của Đào Văn Bình…và mới tuần qua, bài "Nỗi Buồn Tiếng Việt" của Phạm Xuân Dũng trên trang Vietnamnet. Tôi chia sẻ tâm trạng không vui của các tác giả đó. Có điều, tôi xin thêm rằng nếu đi sâu vào vấn đề này hơn chút nữa, có thể chúng ta sẽ tự xoa dịu được rất nhiều điều bực mình mà mỉm cười trước cuộc bể dâu dâu bể trong ngôn ngữ nói riêng ở nước ta từ 34 năm qua.
http://vietnamnet.vn/bandocviet/2008/08/797554/
Một ngôn ngữ sinh động là một ngôn ngữ biết thích ứng theo đà phát triển của thời đại, theo biến thiên của xã hội. Xã hội Việt Nam đã thay đổi thì ngôn ngữ Việt vốn không phải loại bất di bất dịch, tất nhiên phải đổi thay, nhất là sự đổi thay kỳ này không từ ngoài đâm vô mà là từ trên thọc xuống, lại được mưỡu bằng hai chữ "cách mạng" với khối điều cục mịch, ngô nghê đôi khi đến rũ cười ra nước mắt, nhưng đó lại là thuận lý, thuận tai, hay ho đối với kẻ mạnh nói chung, của Viện Ngôn Ngữ Học và Hội Đồng Quốc Gia Chỉ Đạo Biên Soạn Từ Điển Bách Khoa Việt Nam (XHCN) nói riêng. Nói thế là vì trong ngôn ngữ, việc du nhập, chế biến ra những tiếng mới, những từ mới thường được đại để chia ra làm hai loại: Dân hoá và Nho hoá. Những tiếng mới "dân hoá" là do quần chúng bình dân tạo ra, thường là thuần Nôm (ví dụ: máy bay lên thẳng, nhà xí, chị nuôi…) ; những từ "Nho hoá" là do người "có học – Nho (儒)" phiên dịch hay chế tác, thường là Hán-Việt (ví dụ: ác liệu, đài bán dẫn, chuyên cơ…). Nhưng, xét ra, khiá cạnh "dân hoá" hay "nho hoá" hoặc việc đồng tình hay không đồng tình đối với những chữ mới, theo tôi, ở mọi thời mọi nơi, đều có tính cách tương đối, ấy vì dù thế nào rốt cuộc mọi người vẫn phải đầu hàng hai chữ thông dụng (được nhiều người thường dùng): Chỉ thông dụng, theo thời gian, mới là quyết định sau cùng của sự sống còn, sự tồn tại của từng tiếng mới – trong đó có thứ tiếng cũ Bắc, mới Nam ; buồn cười ở Nam, bình thường ở Bắc ; tương tự trường hợp một bề trên nổi tiếng "khiêm cung, không thích nói về mình" tạo thêm bút danh để tự nâng bề dưới của chính mình là điều dị hợm chưa từng xảy ra trên thế giới, nhưng lại là chuyện "vô tư" ở một góc nào đó tận quê cha đất mẹ tôi.
Trong tiếng Pháp, từ ngữ mượn từ tiếng La-Hy, trong tiếng Anh từ tiếng Saxon-Germanique (Đức xưa) phải kể là như rươi. Trong tiếng Lào, tiếng Thái Lan có vô số từ ngữ mượn từ tiếng Pali-Sanscrit… Ở nước ta, chưa ai làm thống kê về số lượng tiếng Hán-Việt chiếm mấy chục phần trăm trong tiếng Việt hiện hành, nhưng theo tôi chắc chắn là phải nhiều lắm, nhiều đến mức tôi e không nhà văn, học giả nào soạn nổi một tác phẩm thuần Việt / Nôm dài độ hai trang A4.
Ngược dòng thời gian, riêng trong việc "nho hoá" những từ mới, đã có biết bao điều đáng suy gẫm. Xin cử ra đây ít thí dụ:
Lịch sự (历 事) = gốc tiếng Hán hàm nghĩa là Lịch lãm, Trải đời tương đương với nghĩa Lịch thiệp, Lịch duyệt. Người Việt ta dùng Lịch sự thành Lễ độ, Nhã nhặn nhưng vẫn dùng Lịch thiệp, Lịch duyệt để chỉ định sự từng trải.
Tiểu tâm (小 心) = gốc tiếng Hán hàm nghĩa Cẩn trọng, Kỹ lưỡng. Người Việt ta ứng dụng ra Nhỏ nhen, Hẹp hòi.
Tử tế (仔 细) = gốc tiếng Hán hàm nghĩa Tỉ mỉ, Cặn kẽ. Người Việt ta hiểu thành Đàng hoàng, Tốt bụng (Ăn ở tử tế với nhau, phim Chuyện Tử Tế của Trần Văn Thủy).
Tồi tàn (摧 残) = gốc tiếng Hán hàm nghĩa Làm hư, Làm hỏng đi. Người Việt ta hiểu ra thảm bại: Căn nhà tồi tàn rách nát, miếng ăn là miếng tồi tàn.
Tuần (旬) = gốc tiếng Hán ấn định là 10 ngày: Thượng tuần, Trung Tuần, Hạ tuần trong một tháng. Nhưng người Việt ta lại có thêm nghĩa thứ hai, qui định thành 7 ngày, ví dụ Tuần san (tạp chí hoặc tập san ra hàng tuần) mà người Tàu gọi là Chu san (周 刊). Trường hợp này tương tự chữ Lố (tá) = 12 đơn vị, trong Nam 1 lố có thể lên tới 15 đơn vị.
Bạch (白) = gốc tiếng Hán nghĩa là sắc Trắng, như Bạch mã = Con ngựa trắng. Người Việt tạo ra nhiều nghĩa Nôm: Tóc bạc, Vàng bạc, Bạc màu… Chữ bạch còn được đọc trại thành bệch (trắng bệch), thành phếch (bạc phếch).
Đương nhiên chữ Bạch còn hàm vài nghĩa khác: Bạch thầy (thưa thầy), bạch nhật (khoảng thời gian trời đã sáng tỏ… Chính phủ CHXHCN-VN dịch thẳng “Bạch thư” thành “Sách trắng” là không chính xác, vì bạch trong Bạch thư còn ngụ ý rành mạch, rõ ràng, minh bạch. Trường hợp này tính từ Trắng không có mấy nghĩa này. Còn nếu "kiên định" cưỡng lý rằng chữ trắng hàm ý Trắng-trong, Trong-trắng lại sinh sự sự sinh khác.
Tiện thể nói thêm luôn: Dịch The White House thành Nhà Trắng cũng bất ổn vì trước White House còn có mạo từ The – lại được viết hoa (le, la trong tiếng Pháp ; cái, con trong tiếng Việt), vậy The White House ở thủ đô Washington DC là một hợp danh hay một tổ hợp không thể tách rời, đáng lẽ không nên dịch bởi hợp danh này chỉ định rõ ràng một địa điểm duy nhất là Dinh Tổng Thống của nước Mỹ. Trước kia, Miền Nam dịch The White House thành Toà Bạch Ốc, tuy chưa hoàn toàn chính xác nhưng, so với Nhà Trắng, cách diễn dịch nào tương đối hợp tình hợp lý và trang nhã hơn ?
Liệu hồn (料 魂) = Gốc tiếng Hán gồm hai chữ: Liệu là tính toán, sắp đặt (Tiên liệu) ; Hồn là ngược với Xác (Vong hồn, Tâm hồn). Người Việt ta dùng với nghĩa Coi chừng, hàm ý đe doạ.
Quá giang (过 江) = Gốc tiếng Hán chỉ có 1 nghĩa là Qua Sông bằng thuyền, đò, ghe. Người Việt bồi thêm nghĩa khác: Đi nhờ xe bò, xe đạp, xe ôm cũng gọi là Quá giang.
An trí (安 置) = Người Việt ta dùng với nghĩa bị đày đi một nơi nào đó nhưng được tự do sinh nhai, không bị giam tù (ví dụ Vua Duy Tân bị thực dân Pháp an trí tại đảo Réunion). Tình cảnh này người Tàu dùng hai chữ Câu cấm (拘 禁).
Mâu thuẫn (矛 楯) = Mâu gốc Hán là cái giáo, Thuẫn là cái mộc. Người Việt dùng với nghĩa bóng để chỉ sự trái ngược nhau, diễn nôm là cái Sống tố cáo cái Biết, chẳng hạn: Lời thuyết giáo thì mênh mông tình dân, cuộc sống hàng ngày thì mênh mông tiền dân ; Chủ nhân phải khúm núm trước đầy tớ ; Đầy tớ toàn quyền tùy tiện trù dập chủ nhân.
v.v.
Do đó mới có chuyện một nhà cách mạng người Hoa "chê cụ Phan Bội Châu viết chữ Hán không thuần”. Họ chê thì nhất định là phải đúng. Nhưng tại sao lại như vậy ? Tại sao một người như cụ, nổi tiếng hay chữ bực nhất trong nước có văn tài mà viết tiếng Hán không thuần ? - Tại vì cụ học ở Việt Nam, sống ở Việt Nam cho nên có lối suy nghĩ, phô diễn của Việt Nam, đó là một lẽ. Còn lẽ này nữa: tổ tiên chúng ta học tiếng Hán và dùng tiếng Hán để tạo ra nhiều chữ mới không có trong từ điển Trung Hoa hoặc có mà dùng theo một nghĩa khác". (7)
Nếu trong văn tự chữ Nôm là loại chữ "Việt" được biến chế từ một, hai chữ Hán mà ra, nhìn vào người Hoa chẳng hiểu mô tê thì trong quốc ngữ chẳng thiếu gì những tiếng kép được ghép từ tiếng Hán và tiếng Pháp, tiếng Pháp và tiếng Việt, tiếng Việt và tiếng Hán, tiếng Việt và tiếng Anh. Dưới đây là một ít thí dụ:
Phim trường / Phim ảnh = Phim là phiên âm của Film (Pháp), Trường (Hán, sân khấu để quay phim), Ảnh (Hán, hình).
Mét hệ = Mét là phiên âm của Mètre (Pháp, dụng cụ để đo đạc) + Hệ (Hán, như hệ thống, hệ vận hành).
Mét khối: Nửa tây, nửa tàu ; Mét vuông: Nửa tây, nửa ta.
Ba dơ hoá = Ba-dơ là phiên âm của Base (Pháp, căn bản) + Hoá (Hán, biến đổi)
Bố ráp = Bố là tiếng Việt + Ráp là phiên âm của Râfle (Pháp).
Bồi bếp = Bồi là do Boy (Anh, con trai), Bếp là tiếng thuần Việt.
Canh gác = Canh (Hán, xem chừng, đề phòng) + Gác (Pháp, Garde)
Xu-hào = Xu – bạc cắc, bạc lẻ (Pháp, sou: 1/20 franc, cũ ), Hào (Hán, đơn vị tiền tệ cũ bằng 1/10 đồng) ; khác với Xu-hào có gốc từ chữ Pháp Chourave: củ xu-hào…
rồi nào Ô-tô thiết giáp, Ô tô hòm, Xăng nhớt, cây cổ Thụ, Nhập vào, Xuất ra, bốn Phương, tàu Chiến, nào Tài giỏi, Thì giờ, Mưu mẹo, Nghi ngờ… và Bố Cái Đại Vương: Bố là cha, Cái là mẹ (hai chữ thuần Việt) + Đại Vương (Hán) là tôn hiệu dành cho Phùng Hưng, người đã có công đánh đuổi được quân Tàu ra khỏi bờ cõi nước ta trong một thời gian (thế kỷ VIII).
Thứ đến, những từ ghép đề huề Hán-Pháp-Việt như A-xít hoá, Ôxy hoá, vuông hoá, tròn hoá, lành mạnh hoá, vôi hoá… và trùng trùng những tiếng Việt có gốc Hán mà nếu không tầm nguyên thì ít ai ngờ:
Bủn xỉn < bần tiện, Sẵn sàng < hiện thành, Xuềnh xoàng < tầm thường, Thì thầm < đê thanh, Lang chạ < lân cư, Bảnh choẹ < bình toạ, Mực < mặc, tim < Tâm, tìm < Tầm, chìm < Trầm … (8)
*
* *
Bây giờ thử bàn qua một phần nhỏ trong lượng chữ mới đã theo bước chân "giải phóng" lan toả khắp Miền Nam, coi như sự đã rồi. Tôi đã rà đọc lại một số sách tiêu biểu được xuất bản tại Hà Nội trước 1954 và nhận thấy ngoại ngữ "Việt hoá" ở Bắc, trên tổng thể, không khác ngoại ngữ "Việt hoá" trong Nam, vị chi những chữ mới và cách dùng chữ hiện hành ở nước ta đã do vô tình chế ra sau 20-7-1954 hay quả có chủ tâm xáo trộn tiếng nước ta giữa hai miền qua phân ? Chúng ta thử so sánh một số trường hợp từ ngữ dùng trước và sau 1975 (tôi sắp xếp trước và sau một vạch nghiêng [/], và một số có thể chỉ còn là văn nói:
- Ăn cướp / Trấn lột (“Ăn cướp” là bất ngờ giật đồ rồi bỏ chạy. Trấn lột là hù doạ nạn nhân để đòi của một cách bình tĩnh)
- Ba lê / Pa ri (Paris)
- Bạch thư / Sách trắng
- Băng tần / Kênh sóng
- Bảo đảm / Đảm bảo
- Bổ túc / Bổ sung
- Bùng binh / Vòng xoay ( “Bùng binh” thường có kiến trúc hình tròn cố định, là trục giao điểm của ít nhất 4 con đường, xe phải chạy vòng để bắt qua 1 con đường khác hay đoạn đường bị bùng binh chắn ngang rồi chạy tiếp. Ở giữa bùng binh thường có một vườn hoa hay/và một tượng đài danh nhân hoặc một tác phẩm điêu khắc, ví dụ Vòng xoay Ngã Năm Hiệp Thành - Bình Dương. Bùng binh còn được gọi là quảng trường như đại quảng trường Etoile-Charles de Gaulle (Khải hoàn môn Arc de Triomphe) tại Paris Q.8 gồm 12 con đường trong đó có đại lộ Champs Elysées. Hai chữ “Vòng xoay” khó làm cho người ta hình dung ra đó là “Bùng binh” nhưng lại dễ gây hiểu lầm là chính nó…xoay vòng).
- Buôn bán, làm thương mại, kinh doanh / Làm kinh tế
- Căn bản / Cơ bản
- Căn nhà / Căn hộ
- Cao cấp / Cấp cao
- Chứng minh / Minh chứng (nhưng sao lại dùng Chứng minh thư (nhân dân) để chỉ Thẻ/Giấy căn cước?)
- Cố gắng / Tranh thủ
- Có thể / Có nguy cơ, có khả năng ("Thưa mẹ, tối nay anh Vũ có thể đến nhà mình ăn cơm không?" và "Thưa mẹ, tối nay anh Vũ có nguy cơ đến nhà mình ăn cơm không?". Hai câu này hẳn không cùng một ý, chứ nếu cùng một ý thì cách nào nhẹ nhàng, chính xác hơn ? Vả lại nếu "có nguy cơ" thì mẹ con nhà này mời người ta đến làm gì ? "Thưa mẹ, tối nay anh Vũ có thể đến nhà mình ăn cơm không?" và "Thưa mẹ, tối nay anh Vũ có khả năng đến nhà mình ăn cơm không?". Hai câu này có cùng một ý: Câu nào gọn, nhẹ hơn ?
"Anh ấy có thể gặp nguy hiểm" và " Anh ấy có nguy cơ gặp nguy hiểm". Hai câu này cũng vậy, chắc chắn có cùng một ý nhưng câu nào gọn nhẹ hơn?)
Từ Điển Tiếng Việt (Viện Ngôn Ngữ Học, nxb Đà Nẵng 2002) ghi: Nguy cơ= Cái có thể gây ra tai hoạ lớn ; mối nguy cơ. Nguy cơ chiến tranh. Đứng trước nguy cơ phá sản, trang 692. Từ Điển Bách Khoa VN 2003, tập 3 không có hai chữ này và chỉ có 1 nhóm chữ Nguy cơ cao (nói về bệnh nguy hiểm như AIDS), trang 151.)
- Côte d'Ivoire, Ivory coast (nước) / Bờ biển ngà (Tên đất nước người ta mà cứ dịch bừa, vậy nếu người ta cũng mang tên nước, tên thành phố mang tên "người" của mình ra dịch tả thì sao, mình có khó chịu không ?)
- Cửa sông, cửa vịnh, hải cảng... / Cửa khẩu
- Di chuyển / Di dời
- Diễn hành / Diễu hành
- Du đãng, côn đồ / Đầu gấu
- Đại học hàm thụ / Đại học tại chức (Hỏi: Người không tại chức hoặc không có chức có theo học đại học tại chức được không ? Đáp: - Bất kỳ ai có tú tài đều có thể theo học đại học hàm thụ!)
- Đề nghị / Đề xuất
- Đĩ điếm / Gái gọi (Vậy khi tìm và đi tại chỗ phải gọi là gái gì?)
- Điều tra / Làm việc
- Đồng ý / Thống nhất, nhất trí
- Đơn giản / giản đơn
- E ngại / Quan ngại
- Gan dạ, kiên cường / Ngoan cường
- Gấp rút / Khẩn trương
- Ghi danh / Đăng ký
- Gia nã đại / Ca-na-đa
- Hải phận / Vùng biển
- Hân hoan, hoan hỉ, vui mừng, vui sướng / phấn khởi, hồ hởi, hưng phấn
- Hàng không mẫu hạm / Tầu sân bay
- Hiểu / Nắm bắt
- Hiểu rõ / Quán triệt
- Hoà Lan / Hà lan
- Hoa Thịnh Đốn / Oa-sing-tơn
- Hoả tiễn / Tên lửa
- Học hàm thụ / Học từ xa
- Hư hỏng / Hủ hoá
- Kẹt xe / Ùn tắc
- Khai triển / Triển khai
- Khiêu vũ, nhảy đầm / Múa đôi (Vậy khi 99 người cùng túa ra sắp hàng ngang nhảy theo điệu Madison phải gọi là gì ?)
- Khuyến khích, an ủi / động viên
- Ký giả / Nhà báo (Một ký giả có thể đồng thời là nhà báo hay ngược lại nhưng hai nghiệp vụ không hoàn toàn giống nhau. Ký giả là phải đi săn tin khắp nơi ; nhà báo có thể nằm hay ngồi trong nhà đọc hàng lô sách báo khác rồi soạn bài, soạn tin cho báo, cho các báo mà mình cộng tác.)
- Lạc hậu / Tụt hậu
- Lâm nghiệp / Nghề rừng (nên đọc thêm bài của Phạm Xuân Dũng)
http://vietnamnet.vn/bandocviet/2008/08/797554/
- Liên gia trưởng / Tổ trưởng dân phố
- Liên lạc / Liên hệ
- Liên lạc mật thiết / Quan hệ
- Lợi tức / Thu nhập
- Máy bay hạ cánh / Tiếp đất
- Máy thu thanh / Đài bán dẫn
- Mối tương quan / Trục quan hệ
- Một cặp, một đôi / Cặp đôi (Một cặp = Một đôi = 2 người, 2 cái, 2 con, 2 thứ. Vậy cặp đôi tức 4 người, 4 cái, 4 con, 4 thứ…chứ ! Đọc thêm: “10 cặp đôi gợi cảm nhất trên màn ảnh” để biết qua nội dung của từ mới được sáng tạo: 10 cặp đôi nhưng chỉ có 10 nam, 10 nữ.)
http://www.vtv.vn/VN/TrangChu/TinTuc/GiaiTri/2009/2/20/212805/
- Nam Hàn / Đại Hàn Dân Quốc, Hàn Quốc
- Bắc Hàn / CHDCND Triều Tiên, Bắc Triều Tiên (Cùng một nước tạm bị chia đôi, có lẽ sẽ đơn giản hơn nhiều nếu gọi là Nam Hàn, Bắc Hàn như Việt Nam trước 1975: Bắc Việt và Nam Việt / Miền Bắc và Miền Nam hoặc Đông Đức và Tây Đức trước 1990.
- Nghệ sĩ / nghệ nhân
- Nghi vấn / Có vấn đề (!)
- Ngoại tình / Quan hệ trên mức tình cảm
- Ngũ Giác Đài (Pentagon) / Lầu năm góc
- Ngư phủ / Ngư dân
- Nhà hàng / Cửa hàng ăn uống
- Nhóm chữ / Cụm từ
- Nón, mũ an toàn / Mũ bảo hiểm (Đội nón hay đội mũ an toàn là 1 trong các quy định của chính phủ và hãng bảo hiểm bắt buộc người lái xe phải tuân theo để giữ an toàn cho chính đương sự. Dùng Mũ bảo hiểm thay vì Mũ an toàn, kể cũng lạ.
- Nữ quân nhân / Chiến sĩ gái, lính gái
- Ở tù / Học tập cải tạo
- Phác giác / Phát hiện
- Phẩm chất / chất lượng
- Phát ngôn viên / Người phát ngôn (Nhưng sao lại Diễn viên điện ảnh, diễn viên múa, diễn viên tuồng, diễn viên xiếc…và phát thanh viên?)
- Phi cảng / Cảng hàng không
- Phi công / Chiến sĩ lái (!)
- Phi công trưởng / Cơ trưởng
- Phi thuyền / Con tàu vũ trụ
- Phổ biến / Phát tán
- Quan thuế / Hải quan
- Rạp hát / Nhà hát
- Sổ thông hành / Hộ chiếu
- Tài liệu / Tư liệu
- Tài tử / Nghiệp dư
- Tẩm bổ, bồi bổ / Bồi dưỡng
- Tăng gia / Gia tăng
- Thăm viếng, du ngoạn / Tham quan
- Thẻ căn cước / Chứng minh thư (nhân dân)
- Thịt kho Tàu / Thịt kho Trung Quốc
- Thủy quân lục chiến / Lính thủy đánh bộ, Hải quân đánh bộ
- Thuyết phục / Đả thông tư tưởng
- Tiền mặt / Tiền tươi
- Tiệp Khắc / Cộng hoà Séc
- Tiếp nhận ý kiến / Tiếp thu ý kiến
- Tiêu thụ / Tiêu dùng
- Tờ khai gia đình / Hộ khẩu
- Toà Bách ốc (The White House) / Nhà Trắng
- Trở ngại, trục trặc / Sự cố
- Trực thăng / Máy bay lên thẳng
- Tường trình / Báo cáo
- Viện (nhà) bảo sanh / Xưởng đẻ
- Viên chức / Quan chức
- Vũ nữ / Ca-ve (!)
- Vùng hẻo lánh / Vùng sâu, vùng xa
- Xấu / Xuống cấp
- Xe cút kít / Xe cải tiến
- Xe gắn máy / Xe máy
- Xe hơi, xe du lịch / Xe con, Ô tô con
- Xe lửa tốc hành / Tàu hoả cao tốc
- Xuất cảng / Xuất khẩu
V.v.
Trong số những tiếng đôi hay từ kép đứng sau [/] như Bảo đảm/Đảm bảo, Đơn giản/Giản đơn, Tăng gia/Gia tăng…vừa sơ lược trên, có nhiều tác giả trên mạng cho là "chướng", là lối của…VC, theo tôi e hơi câu nệ, hơi khe khắt. Tôi cho là hơi khắt khe vì thật ra đâu có gì "chướng", đâu phải là đặc cách của họ: Trường hợp này trong ngôn ngữ học Việt Nam – tùy tác giả, đã đặt tên là phép phục đảo (Đào Trọng Đủ, 1950), đảo-nghịch (Bùi Đức Tịnh, 1962) … Và trước nay người mình hằng ngày vẫn sử dụng, nhất là trong Văn-Thơ-Nhạc: Mỉa mai/mai mỉa, tối tăm/tăm tối, lơ lửng/lửng lơ, ước ao/ao ước, khao khát/khát khao, nhớ nhung/nhung nhớ, non nước/nước non, ngẩn ngơ/ngơ ngẩn, kỳ lạ/lạ kỳ, vẩn vơ/vơ vẩn, ngần ngại/ngại ngần, vững bền/bền vững, v.v. Tóm lại, những tiếng đôi này có thể nói/viết ngược lại song phải có cùng một ý nghĩa, cùng một giá trị tức miễn sao thuận miệng khi nói ; du dương câu văn, câu thơ, lời nhạc khi hạ bút. Nhưng có rất nhiều trường hợp, do thói quen, không thể nói/viết ngược: non sông, đất nước, cha con, đạo đức, bánh trái, bàn ghế… Hơn nữa, có nhiều tiếng đôi khi nói/viết xuôi mang một nghĩa khác, khi đảo ngược lại có nghĩa khác: chuyên chính / chính chuyên, hại người / người hại, tình người / người tình, ong mật / mật ong, tham quan / quan tham…Còn nói lái lại là chuyện khác.
Nhìn chung những gì vừa ghi sau [/] trên kia, cá nhân tôi cảm nhận được tính lập dị mà không sợ bị nhầm lẫn: Những từ kép nào xưa có gốc thuần Hán-Việt thì họ đảo qua hoặc thành thuần Nôm, hoặc là nửa Hán nửa Nôm và ngược lại ; những địa danh ngoại quốc nào đã được phiên âm theo lối Hán-Việt, họ đảo qua cách phiên âm theo nguyên ngữ và ngược lại.
Tôi sinh nhai bằng nghề vi tính từ năm 1983. Năm 1988, để ôn lại vốn liếng tiếng Việt, tôi đã bạo gan một mình biên dịch nguyên hệ vận hành Apple-MacIntosh đến ấn bản 7.0, đặt tên là Mac-VN-ThinArt ; đến năm 1992 tôi soạn ra bộ gõ Chữ Việt cho hệ Windows từ ấn bản 3.1 trở đi đặt tên là Win-VN-ThinArt (9), cùng lúc "ứng tấu ứng tác" được 99 kiểu chữ Việt dùng cho cả hai hệ, dùng câu "Chữ là Xác, Dấu là Hồn" làm biểu ngữ. Khi biên dịch hệ MacIntosh, tôi sử dụng các từ Hán-Việt là chính – có tham khảo ý kiến anh Đỗ Thông Minh bên Nhật, hoặc dựa theo Hán-Việt mà biến chế ra các dụng ngữ mới, ví dụ: Hardware / Marériel = Cương kiện, Software / Logiciel = Nhu liệu, Program / Programme = Chỉ trình, Floppy disk / Disquette = Đĩa mềm, Hard disk / Disque dur = Đĩa cố định, Memory / Mémoire = Điện não, Rom / Mémoire morte = Định não, Ram / Mémoire vive = Hoạt não, v.v… Cho nên, đến gần cuối thập niên 1990, khi đọc nào “Ổ cứng, Phần mềm, Ổ mềm, Phần cứng, Bộ nhớ”… xuất phát từ Việt Nam, tôi thấy kỳ kỳ và thú thật đã trộm nghĩ dường như mấy người đưa ra các từ kép này chưa nằm trong ngành vi tính, nên còn mù mờ ý nghĩa đặc thù của từng thuật ngữ gốc: họ dịch "à la lettre" (dịch theo con chữ, dịch theo nghĩa đen) hoặc biết đâu chẳng cố tình bình dân hoá dụng ngữ khoa học kỹ thuật như đã từng hiện thực hoá Nhà vệ sinh thành Nhà ỉa, Viện bảo sanh thành Xưởng đẻ…mà đến nay tôi vẫn chưa thông suốt?
Xong việc biên dịch hệ vận hành Mac kèm cả phụ liệu tự động sắp xếp thứ tự các mẫu tự (Sort utility / Utilitaire de trie) và đặc biệt sáu dấu giọng trong Việt ngữ mà tôi vốn đã nằm lòng từ xửa từ xưa: Không dấu-Sắc-Huyền-Hỏi-Ngã-Nặng. Tôi đã lắm. Nhưng khi coi trong cuốn:
1/ Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Paulus Huình Tịnh Của (SG, 1895) thì khác:
- Không dấu-Nặng-Sắc-Huyền-Hỏi-Ngã ;
2/ Dictionnaire Annamite-Français của JFM Génibrel (Tân Định,1898):
- Không dấu-Huyền-Ngã-Hỏi-Sắc-Nặng ;
3/ Việt-Pháp Từ Điển của Đào Đăng Vỹ (SG, 1970):
- Không dấu-Huyền-Sắc-Nặng-Hỏi-Ngã.
4/ Từ Điển Tiếng Việt (HN, 1977):
- Không Dấu-Huyền-Sắc-Hỏi-Ngã-Nặng.
Tôi bèn sửa lại theo quy tắc trong Từ Điển Tiếng Việt -1977. Nhưng than ôi, chưa kịp tự liên hoan thì một số khách hàng đã yêu cầu tôi làm lại theo quy tắc mới của Viện Ngôn Ngữ Học CHXHCN VN, ấn bản HN 1992:
- Không dấu-Huyền-Hỏi-Ngã-Sắc-Nặng !
Tôi không soạn lại theo quy định sắp xếp mới, mặt nổi tôi viện cớ không có thời giờ, mặt chìm là do tôi đã "quán triệt" chân lý Việt là cái chân của cái lý, là cái lý có chân: "Sửa thì cứ sửa, sai thì cứ sai". Rốt cuộc tôi quay lại quy tắc mà tôi đã nằm lòng. Đến nay tôi có thêm Từ Điển Tiếng Việt ấn bản 1994, 2002 và Từ Điển Bách Khoa VN 2005 có cùng trật tự trên (1977) nhưng khổ nỗi tôi đã hết hứng lập trình rồi, vả lại đã có Unicode.
Tiện thể nói thêm lần nữa, cách chấm câu lại "dức" đầu thêm chút: Tôi đã kiểm tra, so sánh giữa cả trăm cuốn sách được in trước và sau 1975 trên cả nước: Trước 1954 ta theo lối của Pháp, nay theo lối Anh-Mỹ, đặc biệt dấu chấm phẩy [;], hai chấm [:], chấm than [!], chấm hỏi [?]: Trước các dấu chấm câu này nên có hay không một khoảng cách ? Tôi sống ở Pháp nên khi chấm câu đều theo lối cũ tức có 1 khoảng cách trước và sau các dấu này. Khi gửi bài lên Mỹ, qua tay một ôông, một mệ biên tập viên nào đó là cứ như rằng các khoảng cách "sáng sủa" trong bài đều bị / được cho "mò tôm" ráo trọi !
Nếu xét trên phương diện trực nghĩa của nguyên ngữ Hán-Việt, phải thừa nhận rằng một số từ kép từ Miền Bắc toả xuống khắp nước sau 30-4-1975 là bất ổn. Xin nêu một ít thí dụ:
1/ Chất lượng (質 量) = gồm hai chữ, chất và lượng. Chất là yếu tố cấu tạo của sự vật. Lượng là đồ đong mức độ ít nhiều, có thể xác định bằng con số cụ thể. Vậy khi dùng Chất lượng với nghĩa duy nhất của Chất (Quality / Qualité) là không đúng. Trong Từ Điển Tiếng Việt do Trung Tâm Từ Điển Học biên soạn, xb & ph tại Hà Nội năm 1994 vẫn có từ kép Phẩm chất = Cái làm nên giá trị của người hay vật. Hàng kém phẩm chất (trang 744) ; nxb Đà Nẵng tái bản năm 2002, trang 770. Tại sao lại dùng sai Chất lượng thay vì dùng cho đúng là Phẩm chất ?
2/ Hải quan (海 關) = gồm hai chữ, hải và quan. Hải là Bể/Biển, chỗ trăm sông đều đổ nước vào. Gần đất thì gọi là Hải, xa đất thì gọi là Dương, như trong đại dương (Thiều Chửu, Hán Việt Tự Điển - Hà Nội 1942). Quan là cái cổng (như Ải Nam Quan), vả trong chữ Quan có chữ Môn (門 = Cái cửa, như trong Khải hoàn môn). Vậy dùng hai chữ Hải Quan cho mọi địa điểm kiểm thâu thuế xuất nhập cảng là không đúng, ví dụ: Giữa Việt Nam và Lào đâu đã…có biển ! Dùng hai chữ Quan Thuế như xưa vẫn dùng là chính xác.
3/ Chuyên cơ (专 机) = gồm hai chữ, chuyên và cơ. Chuyên là chuyên môn, chuyên nhất (trong một lãnh vực nào đó). Cơ là máy móc nói chung chứ không chỉ rõ là máy gì. Chuyên cơ theo nguyên nghĩa chẳng hề hàm ý là "máy bay chuyên dùng cho những chuyến đi đặc biệt hoặc chở nhân vật quan trọng đặc biệt" (trích nguyên văn từ Từ Điển Tiếng Việt do Viện Ngôn Ngữ Học và Trung Tâm Từ Điển Học biên soạn, trang 187 - Nxb Đà Nẵng, 2002).
4/ Vô tư (無 私) = gồm hai chữ vô và tư. Vô là không. Tư là riêng. Vô tư theo nguyên nghĩa là không tư lợi, không thiên vị, không có lòng riêng. Ở Việt Nam hiện nay dùng hai chữ Vô tư theo nghĩa Tự nhiên, Không cần áy náy…là hoàn toàn nghịch lại 8 chữ vàng cửa miệng của Đảng và Nhà nước: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Ví dụ, nếu tôi nói "ông Huỳnh Ngọc Sĩ là một cán bộ vô tư nhưng cứ vô tư nhận hối lộ", bạn đọc không tủm tỉm sao?
5/ Doanh nhân (贏 人) = gồm hai chữ doanh và nhân (người). Doanh nghĩa là thừa thãi: kiếm được lời nhiều ; Được: đánh bạc được gọi là Doanh, thua gọi là Thâu. Dùng chữ Nhà doanh thương hay Nhà doanh nhiệp còn tương đối hợp lý, chứ dùng Doanh nhân với nghĩa của Thương gia là bất cập.
6/ Động viên (动 員) = Theo nguyên nghĩa là Động binh, điều động binh lính: Động viên mọi lực lượng quân đội, động viên chiến tranh. Ngày nay Việt Nam dùng với nhiều nghĩa hơi kỳ khôi: Kêu gọi cũng dùng động viên ; khuyến khích, khích lệ cũng dùng động viên, mà an ủi cũng dùng động viên luôn…
7/ Thiết bị (設 備) = Gồm hai chữ thiết và bị. Thiết có nghĩa là sắp đặt, bày sẵn. Bị là dự bị, dự sẵn. Việt Nam ngày nay dùng Thiết bị như đồ dùng, dụng cụ thì thật tình không hiểu nổi.
8/ Nội thất (內 室) xe = Nhóm chữ này có hai chữ Hán-Việt, nội và thất. Nội là ở trong, Thất là cái nhà. Nội thất nghĩa là ở trong nhà. Nhưng dùng Nội Thất xe với nghĩa Bên trong xe thì quả là "kách mệnh": Ví dụ, xử lý nội thất xe hơi ngập nước, đại lý nội thất xe hơi, hộp khử mùi nội thất xe hơi!
v.v.
Tôi vẫn chưa tự khẳng định được rằng bản thân do may hay rủi khi biết thêm vài ngoại ngữ. Lắm khi tôi có cảm tưởng mình như Lệnh Hồ Xung của Kim Dung được hay bị Đào Cốc Lục Quái dồn sáu luồng nội lực khác nhau vào người. Lệnh Hồ Xung nhờ Bất Giới hoà thượng hoá giải 6 nguồn nội lực ngoại lai nên thoát chết và tăng thêm nội công ; phần tôi tuy chưa đến mức tẩu hoả nhập ma nhưng đầu óc thỉnh thoảng cứ gọi là lộn tùng phèo. Nhưng may thay, chính nguồn nội lực cha sanh mẹ đẻ đã điều hoà được hết: Tiếng nước ta hiện nay đã thuộc loại bí pháp cao cường, nếu vượt được quán tính lập dị, tự kiêu rởm, tự ái hão mà bình thản tiếp tục "tá lực đãi lao, ứng tấu ứng tác" kho Hán tự nữa thì thật thụ là bí pháp biến hoá vô hạn, kỳ nhông được trong mọi lãnh vực. Xin thòng thêm rằng Tịch Tà Kiếm Phổ là bí lục ghê gớm lắm nhưng thầy trò, cha vợ con rể Nhạc Bất Quần và Lâm Bình Chi duy ý chí luyện bừa, cái giá phải trả cũng gớm ghê khôn lường.
Tôi nói chúng ta cứ bình thản tiếp tục "tá lực đãi lao, ứng tấu ứng tác" kho chữ Hán là nói có sách, mách có chứng hẳn hoi:
1/ Những từ ngữ ông cha ta đã không tốn công dịch mà mượn thẳng từ người Hoa (tương tự người Wallon – Bỉ, nói tiếp Pháp, người Thụy sĩ nói tiếng Pháp, cả vùng Phi châu nói tiếng Pháp mượn thuật ngữ tin học do người Pháp dịch từ tiếng Anh), ví dụ:
Animal-Animal / động vật ; Instinct-Instinct / bản năng ; Absolu-Absolute / tuyệt đối ; Relatif-relative / tương đối ; International-International / quốc tế ; circonstance-circumstance / hoàn cảnh ; mobiliser-mobilize / động viên…v.v.
2/ Những từ ngữ do người Nhật dịch trước, người Hoa và người mình dùng theo, ví dụ:
Banque-bank / ngân hàng ; Economie-economy / kinh tế ; Affirmation-affirmation / khẳng định ; Négation-negation / phủ định ; Négatif-negative / tiêu cực ; Positif-positive / tích cực…v.v.(10)
Và ngày nay chán vạn gì những tiếng chỉ còn là "vang bóng một thời" hoặc rất ít được dùng: Mựa (= đừng), nỏ (= không), lọ (= cần, lọ là = đâu cần), đòi ( = nhiều, đòi phen), nua (= già, già nua), no đôi (= đủ đôi), chưng (= bởi chưng = tại vì), khứng (= chịu, bằng lòng), min (= mình), chung chinh (= cùng chung), mỡ (mựa) ểu (= chớ kêu ca, than phiền), Dướng (= Dướng con: dung dưỡng nuông chiều con cái quá), Thìn (= giữ, giữ gìn: thìn nết na)… Đọc lại thơ Nguyễn Trãi, Lục Vân Tiên, Kiều, Cung Oán, Trinh Thử… chúng ta dễ dàng ghi ra vài trăm từ đơn, từ kép có cùng số phận với những tiếng nêu trên. Cũng như có những từ đơn, từ kép khi đứng một mình thì có nghĩa, có giá trị nhưng khi gom thành câu, thành cú lại không có hay không còn gì cả hoặc chỉ còn nghĩa, còn giá trị trong sách (từ điển cũng là sách), ví dụ: "cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư", "tư tưởng X là đỉnh cao trí tuệ của loài người", " đảng ta là đảng từ dân, do dân, vì dân"… v.v. Mà những tiếng này, những câu này bị mai một, bị ngao ngán đâu do quyết định của chính quyền này, hội đồng kia, bộ-viện nọ mà là do quần chúng: Quần chúng là vua không ngai nhưng lại độc quyền trong vấn đề Sống hay Chết này, nói cách khác "tập tục là chủ nhân ông của ngôn ngữ".
Cho nên tôi tin rằng những tiếng "chướng tai", những câu "bất cập", kinh qua thí nghiệm xương máu, chóng chầy sẽ tự động chui vô nằm trong kho đồ…cũ.
Tác giả Cao Xuân Hạo, trong bài "Giữ gìn tiếng Việt" có ý phiền lòng trước hiện tượng mất dần của mấy tiếng "ảnh (anh + ấy), chỉ (chị + ấy), bển (bên + ấy)", xin thêm: ngoải (ngoài + ấy), trỏng (trong + ấy), hổi giờ (hồi nãy + đến giờ), bây dai (dài + bao nhiêu)… Tôi xin góp ý như sau:
Trường hợp này, trong các sách nghiên cứu về tiếng nước ta mà tôi đã đọc qua – tùy tác giả, gọi là cách nói trại, nói ríu, nói rút hay thúc vần, tụ nghĩa. Khi vay mượn từ tiếng nước ngoài đã có hiện tượng đặc Việt này:
- Từ tiếng Pháp: Casserole > Xoong ; Galon > lon ; Essence > xăng ; Adjudant > ách ; Enveloppe > lốp…
- Từ tiếng Hoa: Long nhãn > nhãn (quả, trái nhãn) ; Thục địa > thục (củ thục) ; Tiểu đồng > tiểu (chú tiểu), Tiểu tiện > tiểu (đi tiểu) ; Tuần phủ > tuần (ông tuần) ; Tri huyện > huyện (ông huyện) ; lương y > lang (ông lang)… (11)
Từ đó suy ra, tôi tin quyết mối lo của tác giả Cao Xuân Hạo sẽ chẳng bao giờ xảy ra và ý tưởng "lấy cách phát âm Hà Nội (thanh lịch…xưa) làm chuẩn cho cả nước" mãi mãi chỉ là dự phóng!
Đã bàn qua cái "chướng tai", điều "bất cập" trên đó thì dưới này xin cân bằng tí tí bằng một ví dụ "nghịch lý":
1/ Đồng hồ (銅 湖): Xưa, đồng hồ là cái chậu hay cái lu nước hay cát làm bằng đồng dùng để ấn định mốc thời gian trong một ngày. Nay, một đời ai cũng có tối thiểu mươi "cái chậu, cái lu…dăm cửa sổ" bé tẹo, mỏng dính chạy bằng giây thiều hay bằng Quartz nhưng hai chữ Đồng hồ vẫn sống và sẽ sống ức ức năm, chứ "sống muôn năm" chỉ là chuyện nhỏ !
2/ Đã lỡ nói tới Đồng hồ tức không thể tự bịt mồm vì lý do "bí mật, an ninh" hay gì gì đó hầu né nói đến cách sử dụng Đồng hồ: Có phải xưa nay chúng ta vẫn Hỏi: "bây giờ là mấy giờ ?", Đáp: "17 giờ hay 5 giờ chiều". Lý ra phải Hỏi "bây giờ là giờ mấy?" và phải Đáp "bây giờ là giờ 17 hay giờ 5 buổi chiều", ấy vì chúng ta đã, đang và mãi mãi Hỏi "hôm nay ngày mấy, tháng mấy…?" và vẫn trường kỳ Đáp "hôm nay là ngày X, tháng Y" kia mà !
Việt mà tao lao chuyện Việt hoài e không đắt, léng phéng còn bị chụp cho cái râu, cái tai bèo…quá khứ hay "điếc không sợ súng, múa rìu qua mắt thợ", vậy xin móc một hai chuyện Âu-Mỹ ra tán tiếp. Như đã nói qua, trong ngôn ngữ nói chung, thói quen của quần chúng là vô địch vì nó có cái lý của nó mà các học giả, học thật đều phải bó tay quy hàng:
1/ Không cách chi sửa được:
Trong tiếng Pháp có chữ Gens, vừa giống đực vừa giống cái, tiếng chữ hiện đại gọi là nhị hệ: a/ Tous les gens querelleurs (giống đực) ; b/ Tous les vieilles gens (giống cái) ; c/ Tous les vieilles gens sont soupconneux ; ils sont toujours sur leurs gardes (vừa giống đực, vừa giống cái = lưỡng hệ). Rồi câu "Préjuger de quelques chose (thay vì préjuger quelque chose) ; Dans le but de (thay vì pour le but de) ; Aller en bicyclette (thay vì aller à bicyclette)
2/ Không cách chi cản hay xoá bỏ được:
Tiếng Anh là mẹ của tiếng Mỹ. Và người Mỹ đã tạo ra chữ Elevator (= thang máy, mượn từ chữ Pháp élévateur, élévatrice tức Lift trong tiếng Anh), Intermission (= giải lao hay tạm nghỉ giữa hai màn kịch chẳng hạn, tức Interval trong tiếng Anh), Flashlight (= đèn pin, tức Torch trong tiếng Anh), Gazoline (= dầu xăng, tức Petrol trong tiếng Anh) v.v… Do đó mới có chuyện cố thủ tướng Churchill, trong hội nghị Yalta-1945, đã chê tiếng Anh của Mỹ là không chính thống và đòi bỏ chữ Joint (Joint-communiqué) trong bản thông cáo chung do người Mỹ thảo vì người Anh dùng chữ đó để chỉ món thịt cừu quay ăn trong ngày chủ nhật ! (7)
Trở lại chuyện chúng mình, muốn tạo ra tiếng mới, theo lẽ, phải hiểu rõ tiếng cũ và phải biết nguồn gốc ra sao. Tiếng mới có chính xác, gọn, nhã hơn tiếng cũ không, nếu không, hà tất phải "sáng tạo" thêm chi thứ dụng ngữ "phe giăng-đờ-rờ". Còn khi dịch từ ngoại ngữ, đặc biệt trong lãnh vực khoa học kỹ thuật, tôi nghĩ, tiêu chuẩn "chuyên" là điều quan trọng nhất, chứ cứ tưởng ta đã vừa là Phó Tiến $ĩ văn chương, vừa "hồng" lại vừa nằm trong Viện này, Bộ nọ rồi dịch phứa thì chỉ tủi cho tiếng nước nhà, đắc tội với quốc dân…trẻ.
Nếu ở Bắc phương có hiện tượng Mãn nuốt Hán rồi biến thành Hán thì ở Nam phương cũng có trường hợp đuổi giặc Ân rồi biến thành giặc Ân. Nói cụ thể, 34 năm sau ngày đất nước thống nhất, riêng trên phương diện nhân văn-xã hội, không biết "Miền Bắc đã bớt được bao nhiêu phần trăm tâm ý tự tôn chứ Miền Nam đã xoá sạch tâm ý tự ti".
Tôi được sinh ra, lớn lên và sắp tròn một vòng hoa giáp ở hải ngoại. Đối với nguồn tiếng mẹ đẻ bao la, tôi tự biết mình là đứa trẻ "đẻ ít tiền", là đứa con ít vốn. Bởi biết phận nên tôi nâng niu từng tiếng, từng chữ lượm được như chim kết tổ, như kiến gom mồi, chẳng hề có cảm giác ngạc nhiên trước các phương ngữ như "chén / đọi / bát", "đạp thắng / hãm phanh", "từ từ / gượm lại"…, nào sinh = sanh, bệnh = bịnh, ốm = gầy, hãi quá = sợ ghê, bắp = ngô, chính = chánh, cách mệnh = cách mạng, giỏi mắng = chửi hay... Khi tập đòi viết này viết nọ thì tự buộc mình suy đi gẫm lại tối thiểu đôi ba lần, đặt chữ sao cho khỏi hớ, khỏi lỗ vốn – được thế đã là may, chứ dám đâu mơ chuyện lãi lời. Song song, riêng trên Net từ non mười năm qua, tôi thấy một số không ít anh chị em đồng bào "đẻ nhiều tiền, chính thống bọc điều" – do vô tâm hay bất cẩn – tung hê gia tài của ông bà, mẹ cha đến là xót xa. Đôi khi một máy, một đèn, một bóng, tôi chán nản lấp la lấp liếng khe khẻ ngâm:
Chẳng thà không biết cho xong,
Biết bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu ! (Ca dao)
Nhưng:
Biết dại nhưng đã lỡ yêu,
Đắng cay đành chịu, quyết theo suốt đời.
Và cũng để sơ kết dăm nét đặc trưng trong việt ngữ đã lận lưng, tôi từng ép tiền bối người Tàu tên Lý Ngư nói tiếng ta:
[- Ăn chơi, có qua có lại. Lại bằng hữu, đãi ngộ, ngộ đãi lại. Ngày xưa ngộ ngộ lắm, cả tin lắm, cả quyết cả tin văn, cả tin thơ là cao cả. Ngộ cả gan chơi văn là nhờ có cả thảy hai vợ: Vợ cả vợ hai thương ngộ cả, vì ngộ cả nễ cả hai, thương đều cả hai ; coi cả hai đều là vợ cả. Cả ba ra đường gặp ông cả bà cả, cả tiếng mời đi đây đi đó là cả cười đi cả thể ; thù tạc chén cô chén bác cả đêm. Cả huyện không ai như cả nhà ngộ cả. Chứ chơi văn kiểu nị tổ phí thời giờ, hao bạc mà cao lắm cũng chỉ là con mẽ trong cái chén mẽ, khoe mẽ gì. Cả nị cả ngộ cũng hiểu, chơi văn như chơi Anh túc. Mê, mệt lắm. Nhưng thời ngộ khác, thời nị khác. Thời nị tất cả đã khác cả rồi, thời nị là thời cả trăm facture (bill) đua nở. Thời nị là thời đôđô, mêtrô, bulô để cả ăn cả nhảy, cướp lại cả thời gian đã mất thuở chưa đổi đời. Ngay cả chung quanh nị hầu như đều thế cả. Còn nị, xin lỗi bá ngọ cả quỷnh. Làm lụng về chỉ cú rú ở nhà, cả ngày thả sách, với bút, ôm máy ; buông máy cầm bút với sách. Xách cả đống tiền đốt thành cả rừng giấy cháo lòng. Nị mà là chắt chút chít rể ngộ, ngộ chút chít chắt chút chít ngộ từ từ từ bỏ nị từ tám hoánh. Ngộ mà là vợ nị, ngộ phết nị theo Khổng Tử từ canh năm phết. Tao ngộ nị cả tháng nay, Hàn điệt à, ngộ biết nị cả thẹn, cả quẫy song ngộ cả nghĩ ngộ cảm thương Hàn điệt nên cả lời khuyên hoãn hoãn mê sách say văn đi. Đừng nghĩ ngộ già cả rồi ta đây kẻ cả nhưng cả vóc cả keo, hiền điệt ạ.
- Dạ, đa tạ tiên sinh đã cả lo mà dạy bảo. Tôi biết cả đấy, nhưng tiên sinh ơi:
Những lúc say sưa cũng muốn chừa
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa
Hay ưa nên nỗi không chừa được
Chừa được thì…tôi cũng…đếch chừa !
(Nguyễn Khuyến)]
(trích HLN: Miệng lưỡi đa sự ký 2. Riêng chữ Cả trong nguyên tác, cụ Lý chấm câu không nổi)
Thật là thú vị khi được nghe đủ kiểu phương âm: giọng Bắc bộ, giọng Trung bộ và giọng Nam bộ với mỗi vùng miền mỗi "thói quen đặc cách", dễ thương chi lạ ! Mà chính sự đa dạng, độc đáo này đã làm phong phú tiếng mẹ đẻ và đã trở thành tiếng-Việt-tình-tôi.
Nhân tham khảo các sách đã ghi trong bài, tôi thấy tên cuốn Ca Dao Toán Học của cụ Đào Trọng Đủ, tôi thử hỏi con trai của cụ là bác T. và bác đã sốt sắng gửi biếu tôi cuốn CDTH, trong đó có bài thơ dưới đây, tôi mượn thay lời kết:
Một Khúc Trường Ca(12)
Đặc sắc tiếng ta
Ai là người biết
Độc âm rõ rệt
Song biến rành rành
Sáu luật ghép thanh
Tiếng đôi nhan nhản
Bốn phần căn bản
Nghĩa, giọng, thanh, âm
Nay tiếng Việt nam
Xưa Giao chỉ ngữ
Mượn kho Hán tự
Từng chữ từng câu
Toàn quốc thi nhau
Nho dân lưỡng hoá
Ngũ đồng ai lạ
Tứ nghĩa ai ngờ
Cụ thể bao giờ
Cũng nhờ dân chúng
Thanh, âm cung giọng
Đổi hoá sinh đôi
Phục đảo ngược xuôi
Nhập gia thụ hưởng
Đều là khuynh hướng
Tiếng Việt Nam ta
Một khúc trường ca
Khi trầm khi bổng
Véo von sáu giọng
Bốn trắc hai bằng
Tiếng đã gọi rằng
Trắc bằng nhị thể
Lưu truyền hậu thế
Tiếng để nghìn thu
Cho bõ công phu
Tiền nhân kiến thiết.
(Cô Đào-Đào Trọng Đủ, 1897-1995) (12)
Hàn Lệ Nhân
(Lưu ý về Bản chính thức: Tôi viết là để ôn tiếng mẹ đẻ, viết bằng tâm chứ không bằng tài (vì làm gì có tài). Những gì tôi gửi đăng hay tự đăng đều "phi tác quyền", là vì nhân dân…Internet thôi, chỉ yêu cầu một điều là đừng vì lỡ thương bài viết mà phí thời giờ thêm ớt thêm chanh vô hay gọt đầu, tém đuôi ; có thể nhờ đó mà bài tôi "thẳng ruột ngựa ", đọc đã hơn nhưng đó là đặc tánh, khẩu vị của riêng Web đó. Tôi chỉ chịu trách nhiệm 100% đối với những gì do chính tôi đăng cùng một bút danh ghi trong bài hẳn hoi, vậy khi có sự khác biệt trong bài của tôi giữa hai hay nhiều Web thì nên xem sự khác biệt đó là "hoạ hổ" hay "relook". Xin cảm ơn trước, HLN.
(1) HLN: Lạc Hồng, khung trời nỗi nhớ.
(2) Theo Simon Leys ; Nguyễn Hiến Lê: Hồi Ký tập 3, trang 134, nxb Văn Nghệ, USA 1988 ; L. Carrington Goodrich, A Short History of the Chinese People ; Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc. Lời tựa, Nxb SudAsie, Paris 1988.
(3) HLN: Sách cũ tình tôi.
(4) Nguyễn Hưng Quốc, Văn Học VN dưới chế độ Cộng sản, Nxb Văn Nghệ, USA 1991, chương ba, trang 197-228 ;
* Nhiều tác giả, Văn Hoá Văn nghệ MN dưới chế độ Mỹ-Ngụy, 2 tập, Nxb Văn Hoá – Hà Nội 1979. Trong này, bài làm tôi buồn cười nhất là bài của Phan Đắc Lập: "Truyện "chưởng" của Kim Dung, một công cụ nô dịch văn hoá và tư tưởng của chủ nghĩa thực dân mới Mỹ"[/i], trang 306-341, sđd, tập 2. Không hiểu khi đọc lại bài của chính mình, tác giả Phan Đắc Lập đã có cảm giác ra sao trước hiện tượng sách Kim Dung vẫn được tái bản và phát hành vô tội vạ khắp trời Việt Nam XHCN !
(5) Những mẩu chuyện tiếu lâm đỏ này tôi đã lược tuyển một phần trong cuốn Cười XHCN tập 1, Nxb Viet Publications-Làng Văn, phát hành tại Canada 1986. Ngoài ra tôi còn Cười XHCN tập 2, chưa in.
(6) Nghệ sĩ = Người chuyên hoạt động (sáng tác hoặc biểu diễn) trong một bộ môn nghệ thuật. Một nghệ sĩ có tài. Nghệ sĩ múa. Nghệ sĩ ngâm thơ. Tâm hồn nghệ sĩ… Nghệ sĩ ưu tú = Danh hiệu của Nhà nước tặng cho nghệ sĩ có tài năng, có uy tín lớn trong cả nước. Nghệ sĩ nhân dân = Danh hiệu của Nhà nước tặng cho nghệ sĩ có tài năng xuất sắc, tiêu biểu cho một hoặc nhiều môn nghệ thuật trong cả nước. Nghệ nhân = Người chuyên nghề biểu diễn một bộ môn nghệ thuật hoặc chuyên làm một nghề thủ công mĩ nghệ, có tài nghệ cao. Nghệ nhân tuồng. (TĐTV, trang 676, Viện Ngôn Ngữ Học, nxb Đà Nẵng-2002).
(7) Nguyễn Hiến Lê, Tôi tập viết tiếng Việt, Nxb Văn Nghệ – USA 1988, trang 144.
(8) Lược theo Ca Dao Toán Học của Đào Trọng Đủ, Nxb Vĩnh Bảo – Sàigòn 1950.
(9) Win-VN-ThinArt hiện nay nằm chung trong bộ gõ VPS 4.3 của Hội Chuyên Gia Việt Nam, vẫn dùng được với Windows XP hay Vista.
(10) Lược theo Nguyễn Hiến Lê và Trương Văn Chình, Khảo luận về Ngữ pháp VN. Nxb. Đại Học, Huế 1963.
(11) Ai đọc sách đều rõ "Lương y như từ mẫu" là câu thành ngữ của người Tàu từ ngàn xưa, vậy mà, soạn giả Đào Thản lại ghi rành rành là của…bác Hồ ! Có cả chú thích ở số 86: "Tới thăm bệnh xá Vân Đình, tỉnh Hà Tây, Người căn dặn cán bộ bệnh xá thực hiện điều này, 20-4-1963".(Lời non nước – Danh ngôn của chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ tái bản tháng 2 năm 2008, trang 183).
1/ Nguyên văn ông Hồ nói: “Người ta có câu: "Lương y kiêm từ mẫu", nghĩa là một người thầy thuốc đồng thời phải như là một người mẹ hiền” (trích “Thư gửi Hội nghị Quân y”, tháng 3-1948, HCM Toàn Tập, tập 5 trang 64, tập 6 trang 413, tập 7 trang 167 – Nxb Sự Thật, HN 1985, 1986, 1987).
Tội nghiệp ông cụ quá, cứ mắc oan ơi ông địa hoài ! Mấy câu dưới đây vẫn còn giá trị:
Cái ông vốn có người ta bảo không,
Cái ông không có, người ta bảo có.
Ông thấy đó, làm hiền nhân đã khó,
Huống hồ làm thánh khi đã tịt ngôn.
Đời ông hai chữ dại khôn,
Trồng người người lại lẹo luồn hại ông.
2/ Theo link để xem thêm xuất xứ.
http://gs90.photobucket.com/groups/k278/EL75MNBSE5/
(12) Một Khúc Trường Ca đúng ra là một bài kệ vì tác giả đã dùng từng hai câu làm tựa cho một tiêu đề, giải thích rõ ràng, ví dụ "Độc âm rõ rệt, Song biến rành rành" là gì… nhưng không tiện ghi ra đây ; bao giờ nhận được sự đồng ý của hai bác Đào Trọng T. và Đào Trọng Ng. tôi sẽ scan trọn bộ, chia sẻ cùng bạn đọc.