Bài Ca Sát Thát _ Vũ Hoàng Chương
Trương Củng 21.03.2005 07:20:06 (permalink)
      Bài Ca Sát Thát
      Vũ Hoàng Chương

      Đoàn người ấy mọc lên trong sa mạc,
      Cả một rừng gươm trên lưng ngựa trường thành
      Đoàn quân ấy từ phương Đông xuất phát,
      Lũ con hoang bất trị của trời xanh
      Chỉ nhắp có hơi men sung sát,
      Chỉ say sưa bằng những miếng giao tranh,
      Nhằm hướng Phi châu
      Ngựa vọt tới đâu là đời sống tan tành,
      Biển ngập máu còn mang tên Hồng Hải
      Cờ phất Âu châu,
      Ngựa giẫm tới đâu là xương phơi thịt vãi
      Biển đeo tang còn Hắc Hải ghi danh...

      Như ngọn cuồng lưu, như cơn bão cát
      Từ Mông Cổ, Tân Cương đến Ba Tư Bạch Đát,
      Trở về Hoa Hạ, Yên kinh
      Lũ Thiên triều từng Bắc chiến, Tây chinh
      Lẽ nào để một phương không xéo nát!
      Trời Nam riêng cõi thanh bình
      Lẽ nào để chiếc ngai vàng Thát Đát
      Ba chân trời Đại Lục đứng chêng vênh!

      Hay đâu: Bắc phương vừa quẫy đuôi kình
      Rồng thiên sớm đã cựa mình Nam phương
      Trần triều hai Thánh Đế
      Hương Đạo một Đại Vương
      Hội mở Diên Hồng, đất nước vang rền khí thế,
      Hịch truyền Vạn Kiếp, trời mây sáng rực văn chương.
      Ý gửi tự muôn dân, lệnh trao từ chín bệ
      Thì nắm đầu giặc như chơi, cướp giáo giặc cũng dễ.
      Đây cửa sông Hàm Tử, bến đò Chương Dương!
      “Nuốt sao Ngưu” chẳng phải việc hoang đường
      Nam phương cường, Bắc phương cường!
      Máu đào loang sóng Phú Lương mấy lần...

      Sét nổ trăm hai ngọn ải Tần,
      Giang hoài biên tỉnh lại ra quân
      Năm mươi vạn tinh binh ruổi ngựa
      Tràn xuống Thăng Long như một khu rừng bốc lửa.
      Những “Cây Sắt” con nòi Thiết Mộc Chân!

      Giống Hồng Lạc giữa hai đường sanh tử
      Trông lên sợi tóc buộc ngàn cân
      Chợt đâu đó xé rèm mây quá khứ,
      Xa thăm thẳm mấy ngàn năm Việt sử
      Rọi về tia mắt tiền nhân:
      Thiêu tàn khoảnh khắc bao do dự
      Cả thép vô danh cũng rực ánh gươm thần...

      Sát cánh vua cùng dân
      Chung lòng với tướng quân
      “Phá cường địch” cờ ai sáu chữ
      Báo hoàng ân là báo quốc ân
      Trăm họ chẳng ai còn lưỡng lự
      Sông núi nào riêng một họ Trần.
      Bình Than lạ nổi phong vân
      Một gươm Tiết chế hai lần trao tay.

      Lời Đại Vương truyền nín cỏ cây
      Ba quân hào khí ngất tầng mây
      Vụt nghe tướng lệnh, vươn mình thét:
      -Sông Bạch Đằng tôi có mặt đây!
      Hán hồ cũng đến chôn thây
      Trước sau một khúc sông này mà thôi...

      Triều non bạc lên ngôi, giờ lịch sử
      Và xuống ngôi, theo lệnh Đại Vương truyền.
      Nước rút đi, như ngàn vạn mũi tên
      Lấy Đông Hải làm bia nhằm bắn tới
      Một ám hiệu Kình nghê vừa mắc lưới,
      Thuyền Vương Sư liền quật khởi tranh phong
      Tay chèo nổi ngược cơn dông
      Tiêng hò “Sát Thát” vang sông ngập bờ.

      Duyên Giang một giải,
      Lau cũng phất cờ
      Mùa xuân gần cuối
      Vẫn sóng bay hoa
      Ngang trời động sấm tháng ba,
      Dọc sông chớp giật, sáng loà gươm đao...

      Cũng nơi đây Bạch Đằng Giang một khúc,
      Ngô Vương từng chém Hoằng Thao
      Gió mây thôi thúc
      Quằn quại ba đào
      Chợt tưởng niệm máu càng sôi sục,
      Tinh thần quyết thắng bốc lên cao.

      Thế phản công làm giặc dữ nôn nao
      Chúng hoảng hốt vội thu quân về thượng lưu sông Bạch,
      Nhưng số phận Hung nô, người phương Nam đã vạch,
      Hỡi ơi, bằng giáo sắt cắm ngang sông
      Đáy trường giang là cả một bàn chông
      Nằm đợi sẵn khi thuỷ triều xuống thấp
      Đoàn thuyền giặc lui qua bị xô nghiêng, lật sấp
      Bị xé ra từng mảng vở tan thây...

      Giữa lúc rồng thiêng mở vuốt tung mây
      Quân tiếp ứng của Vương Sư ào xuất trận
      Và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
      Hiện ra như một vị thần linh
      Chớp mắt trên sông bặt sóng kình
      Thế là đã nơi này bỏ xác
      Lũ con hoang của trời sa mạc
      Khắp Á, Âu từng vạn lý trường chinh
      Bọn chúng ngờ đâu một sớm cõi Lý Minh
      Thân bách chiến bỗng quay về hột cát
      Trôi theo sóng cả tiếng tăm nòi Thát Đát
      Cả giấc mơ xâm lược chúa Hồ Nguyên...

      Ấy ai qua chốn giang biên
      Khói đầy khoang giấc sầu miên lạnh lùng
      Tiếng kình vang đợt sóng rung
      Có nghe chăng có thẹn thùng người xưa?
      Riêng ai nước cũ mây mờ
      “Thái Bình Diên Yến” câu thơ lệ nhoà
      Tháng Giêng kỷ niệm Đống Đa
      Sông Đằng kỷ niệm tháng ba mấy lần?

      Đầu mùa xuân, cuối mùa xuân
      Cánh tay Đế Nguyễn, Vương Trần nào ai?

      1962
      (trích báo xuân Ất Dậu Sài Gòn Nhỏ)
#1
    Trương Củng 22.03.2005 00:24:49 (permalink)
    Đọc đến câu thơ:
    "Chỉ nhắp có hơi men sung sát"
    Có điểm lý thú để bàn, vì thường chữ viết là xung sát, nhưng trong bản in, in là sung sát. VHC thường ít khi chế chữ mới như Nguyễn Tuân mà chỉ hay dùng chữ cũ với nghĩa mới. Như mấy chữ " Nam phương cường, Bắc phương cường! " là chữ trong Luận Ngữ: "Bắc phương cường dư! Nam phương cường dư!" được VHC dùng với nghĩa mới. Xét trong câu có mấy chữ "nhắp có hơi men" đi với chữ "sung sát"; dùng "sung sát" tức là đầy lòng sát thù để bổ nghĩa cho hơi men cũng được nghĩa nên giữ theo Sài gòn Nhỏ.
    TC
    #2
      phuchoang221184 13.05.2005 23:00:53 (permalink)
      Trời! Một bài thơ quá hay nhưng rất tiếc là đến bây giờ tôi mới được đọc. Cám ơn Trương Củng nhiều nha.
      #3
        Chuyển nhanh đến:

        Thống kê hiện tại

        Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
        Kiểu:
        2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9