TRĂNG NGUYÊN SƠ - NAM DAO
lyenson 30.03.2009 16:51:07 (permalink)


Lời phi lộ:
Cấu trúc tiểu thuyết này kết hợp với thể
cổ điển
nào là phóng sự, rồi cả chưởng Kim Dung,
tức một món lẩu đủ yếu tố "hậu hiện đại"
có thể gây sốc cho người đọc.
Nay cẩn cáo.
NAM DAO
14-11-2007

MỘT

Nghiêng mắt nhìn xuống, nghe
người bên cạnh bảo đê sông Hồng
đấy, năm nay lại phải đắp đê chống lũ.
Con nước mầu nâu đục ánh sắc đỏ lững
lờ, xung quanh ruộng đồng sau vụ gặt
nằm dài trơ trẽn. Lẳng lặng, tôi bấm
chiếc Palm, tìm địa chỉ ghi trong bộ
nhớ.
Cách đây hai tháng, hắn chắc cũng
như tôi, cũng nhìn xuống sông khi
máy bay lượn vòng trước khi đáp
xuống. Khi đó, mùa gặt, ruộng chưa
hoang vu. Cứ theo trí nhớ những đoạn
văn học thuở vỡ lòng, thế nào mà
chẳng có đàn cò trắng phau bay về
đậu trên những mô đất đợi dăm hạt
lúa rơi. Hẳn là thế, khác thế nào được.
Hắn xuống máy bay. Rồi hắn về một
khách sạn nào đó, đưa hộ chiếu. Lên
phòng, hắn viết nhật ký như một thói
nghiện ngập. Ở đấy, hắn khôn ngoan
chuyển qua e-mail ngay về cho tôi,
dặn giữ hộ, đất này lắm kẻ rình mò
trấn lột, kể cả nhật ký. Hắn viết:
11-03
"... chiếc xe Toyota của Vietnam
Airlines chạy chậm dần, chậm dần. Có
người hô, xuống xe, sửa soạn qua cầu
vào Kinh. Thế là nhốn nháo lên, xô đẩy
nhau. Đặt chân xuống đất, tôi chao
người suýt ngã. Đất bùn trơn như mỡ,
mầu đỏ như mầu tiết lợn nhầy nhụa.
Ngước lên, ô kìa, sao lại chỉ thấy toàn
xe trâu kéo. Xe thồ đủ thứ. Giường
chõng, bàn ghế, nồi niêu, chăn màn...
Nhìn quanh, thật lạ lùng. Mới đây là cô
tiếp viên thơm mùi nước hoa Gucci. Bây
giờ? Tôi hỏi đi đâu thế này? Có tiếng
véo von khúc khích:
"... anh giai ơi, ta di đô từ Hoa Lư về
Thăng Long mà".
Tôi quay lại. Cô bé gái vừa cất tiếng
nói mở miệng cười, vết quết trầu đỏ
thắm, hàm răng nhuộm đen tuyền như
những hạt na ánh lên dưới nắng trưa
ngột ngạt. Mùi cứt trâu bốc lên thối
hoắc.
Tôi đành bịt mũi. Mắt liếc như dao bổ
cau, cô bé trêu "... chưa về đến Kinh
mà anh giai đã văn minh ngay rồi à?".
Thế là các cô đi xung quanh cùng ré
lên cười lăn cười lóc.
Chúng tôi nối đuôi nhau, chân bám
vào bùn, tay xách nách mang trong
tiếng cười nói tưng bừng. Nhìn cô bé, tôi
ngập ngừng:
"... lối này đi đến cầu Long Biên,
phải không?".
Cô ấy ngạc nhiên:
"Cầu gì thì em không biết, nhưng từ
Hoa Lư, trai tráng đã đến bến sông
đóng bè ghép lại tháng trước".
Tôi buột miệng: "Cầu Long Biên do
Tây nó xây, xưa gọi là cầu Đuy-me..."
Cô bé lại ngặt nghẽo:
"Thôi đừng lỡm em, anh giai... Anh
người trại nào?".
Ngây người, tôi không biết trả lời làm
sao. Cô bé thấy tôi im lặng, nguýt dài,
lại trêu "Chẳng phải ngô, chẳng phải
khoai... Chàng đi em biết nhớ ai, em
chờ". Nói xong, cô chạy ra sau, miệng
hát:
Yêu nhau, cởi yếm, í à, cho
nhau
Về nhà, dối rằng, cha với mẹ
Rằng a ối a qua cầu
Tình tình tình gió bay.
Đám chị em vây quanh nàng đồng
thanh "tình tình tình gió bay" rồi phá
lên cười nắc nẻ, tiếng hát tiếng cười vút
lên đậu trên mây chín tầng chót vót.
Tiếp tục dấn bước, tôi ngoái nhìn phía
sau, nhưng chỉ thấy đôi mắt tinh nghịch
xanh mầu cốm non nheo lại chọc ghẹo.
Đến gần bờ sông, đám con gái rẽ lên
phía thượng lưu. Người con gái hát lúc
nãy bấy giờ mới chạy ra sau, nói với lại:
"Chúng em đến hồ Dâm Đàm định cư.
Có hỏi thì hỏi họ Đào, tên Hạ Trang,
quê ở Đông Hải nhé..."
Xe trâu phải vòng xuống hạ lưu, nơi
nước cạn ngang lưng để sang sông.
Đoàn người khoác gùi trên vai trèo lên
những mảng bè cột chặt bằng những
sợi chão làm từ vỏ cây sồi bện lại. Sang
đến bờ bên kia, lại phải chờ xe trâu.
Trời sẫm xuống. Mặt trời tím lịm phớt
lên mặt nước mầu hoa cà se sẽ chao
trong gió chiều. Một kỵ sĩ cưỡi con
ngựa ô ở đâu xồ tới, nhẩy xuống, đến
thì thào vào tai cụ già râu trắng như
cước. Ông cụ nói lớn cho mọi người
nghe, "Qua đêm ở đây, mai tốt ngày
mới được phép vào Kinh, nghe chưa!".
Đoàn người ồ lên, rồi chia nhau tìm
những gò đất khô ráo. Họ túm năm
tụm ba thổi lửa, nấu cơm, thỉnh thoảng
có kẻ cất tiếng hò lên gọi nhau. Tìm
một gốc cây, tôi ngả lưng, nhắm mắt
nhưng chẳng sao ngủ được. Chẳng lẽ
thoắt một cái tôi từ đầu kỷ XXI lộn
ngược gần 1000 năm quay về thời nhà
Lý đang dời đô đến Thăng Long. Thật
hay mơ? Không, mùi cứt trâu thối
hoăng lên có thật. Tôi đưa tay sờ mặt
đất ẩm bùn, bốc một bốc, bóp vụn ra.
Đất rơi tơi tả. Đất có thật. Tôi xuống bờ
sông rửa tay. Bùn đất trôi đi, tay tôi
sạch, và thế là nước có thật. Đất nước
có thật, nhưng còn cô bé Hạ Trang họ
Đào? Tôi đứng lên, tản bộ đi tìm. Đêm
len vào bịt mắt cản đường. Cứ thế, tôi
bước, tôi chong mắt nghển cổ ra nhìn.
Không thấy Hạ Trang đâu. Có thể Hạ
Trang không có thật. Hoặc là tôi đã
quay về kỷ XXI, thời điểm cách lúc này
chưa hơn vài giờ trước khi tôi lên máy
bay? Hay là , hay là…hoặc giả chính tôi
không có thật?
*
* *
Đúng như hắn dặn dò, tôi hỏi lấy
phòng 403 hoặc 503 tại khách sạn BK.
Cô bé tiếp viên lật hộ chiếu, ghi chép,
nheo mắt hỏi: "Anh về nước lần đầu?".
Tôi lắc. "Ai bảo mà anh biết phòng 403
để đòi ở đó?". Tôi đáp: "Ông anh tôi về
ở đây độ hai tháng trước bảo tôi thế!".
Nhân dịp, tôi hỏi:
"Anh ấy thấp người, đeo kính trắng,
cũng đến từ Canada... Em có gặp anh
ấy không?"
Cô bé lắc đầu, mời tôi xuống Bar ở
tầng dưới uống nước, đợi cô làm thủ
tục nhận phòng. Trưa, trời hầm hập, mồ
hôi đổ ra như tắm hơi. Đợi đâu mươi
lăm phút, điện thoại từ tiếp tân gọi
xuống. Tôi lên. Bà quản lý khách sạn,
tuổi sồn sồn, tươi cười "... Chúng tôi
tiếp thu nhu cầu của khách, nhưng
phải tính tiền dịch vụ, chỉ năm đô thôi".
Ngạc nhiên, tôi hỏi: "Phòng trống thì để
tôi ở, còn dịch vụ gì?".
"Dạ, khách thích mà được chúng tôi
thỏa mãn thì trả phí, ở đây như thế.
Thoả mãn được, là ở quyền hạn quản lý
của chúng tôi mà... Năm đô là lần này
thôi, giá phòng thì vẫn 20 đô một ngày,
như mọi phòng khác! Phòng 403 là
phòng tốt nhất đấy, vừa yên, lại nhìn
được ra hồ...".
Cố lấy vẻ thản nhiên như không có
chuyện gì lạ, tôi lẳng lặng thò tay móc
túi.
Nhoài người nằm thườn ra, tôi nhắm
mắt lấy lại sức. Ngồi trên máy bay gần
hai mươi giờ, không kể thời gian đợi
chuyển máy bay ở Tokyo, những bắp
thịt trong người nhừ ra như bị dần, đầu
không còn sức đề kháng, tôi gần như
mê mụ. Nửa thức nửa tỉnh, tôi chợp đi,
tai nghe loáng thoáng tiếng hắn
nghiêm trọng "Sắp tìm thấy nó rồi, hãy
về giúp một tay, cần lắm!", hệt như
trong cái e-mail cuối cùng tôi nhận
được cách đây vài tuần.
Người ngoài tưởng tôi và hắn là anh
em ruột, nhưng không phải vậy. Tôi vốn
là một đứa con rơi, bố mẹ nuôi tôi nhặt
về trong vụ đói năm Ất Dậu. Khi đó,
hắn mới lên hai. Mẹ nuôi tôi nựng hắn,
chỉ tôi, bảo... cho con có bạn. Còn bé,
tôi nào hiểu tôi là một thứ đồ chơi. Đến
năm lên sáu, tôi mới biết. Phận tôi, nó
thế. Bài học đầu tiên là phải biết cam
phận. Khi nó cắn cấu, chỉ được khóc. Và
chạy. Khi ăn, nhận phần ít. Và có thèm
chút âu yếm thì lần xuống nơi U già,
một người đàn bà lớn tuổi mắt đã lòa
thường ngồi ở góc bếp chẻ rau, vo
gạo... Thỉnh thoảng U giấu được cái
bánh, cái kẹo, giấm giúi vào tay, giục:
"Ăn đi, cho U xem!". Mắt lòa, U nào
thấy gì! Nói thế nhưng tôi chẳng oán
trách gì bố mẹ nuôi. Không chết đói, đã
là may lắm, U thỉnh thoảng dặn tôi
đừng quên. Chẳng qua phận tôi nó thế!
Nhưng cũng vì thế mà tôi thực tế. Từ
năm lên mười, tôi hiểu để tồn tại, tôi
phải mở mắt ra nhìn những người
chung quanh. Họ thế nào? Ai thương
ai, ai ghét ai? Và nhất là đối với chính
mình thì họ ra sao? Tôi không tranh ăn,
tranh chơi, lỉnh đi khi bố mẹ nuôi tôi
phát thuốc tễ, thuốc bổ... cho đám bốn
đứa con đẻ. Tôi biết nhanh nhẩu góp
tay vào bất cứ chuyện gì làm được,
nhất là khi bố mẹ nuôi tôi có mặt. Tôi
cố gắng nói thật ít, không bao giờ tỏ ra
ranh mãnh, che giấu tất cả bằng thứ
cung cách ngu ngơ hiền lành. Được đi
học, lại học cùng lớp, tôi làm sao cho
điểm của hắn lúc nào cũng nhỉnh hơn
điểm của tôi, tránh thành đối tượng
của so đo ganh tị... Tóm lại, tôi không
còn tuổi thơ, sống hai mặt, một là cho
riêng tôi. Mặt kia là tôi dưới mắt người
khác, nhợt nhạt, không cá tính và đôi
khi ngu ngu dở dở nhưng hiền lành.
Nhưng khi chỉ có tôi đối mặt với tôi, tôi
giữ một góc mơ mộng tư riêng. Tôi
tưởng tượng gốc gác tôi là con một vị
quan lang Mường ở chân núi Tản. Cha
đẻ tôi cầm đầu dân quân chống Pháp,
tử thương trong một trận giáp chiến.
Mẹ tôi bế tôi chạy đến một ngôi chùa,
bỏ tôi đấy rồi nhảy xuống giếng tự vận.
Sư ông ngôi chùa tôi đặt tên là chùa
Thiên Phương ở Lạng Sơn nhặt tôi, rồi
vì nhà chùa nghèo không đủ ăn nên
phải tìm người khá giả nhờ nuôi. Thế là
cái duyên đến buộc tôi vào gia đình bố
mẹ nuôi, lúc ấy tản cư từ Hải Phòng.
Họ Nguyễn là họ của bố nuôi. Tôi họ gì?
Tìm đọc sách nói về dân tộc Mường, tôi
tự gán cho tôi họ Bạch. Vâng, tôi họ
Bạch, một dòng quan lang xưa oanh
liệt nhưng nay thất cơ lỡ vận. Và để tạo
cho thiếu niên họ Bạch này sinh khí, tôi
cho mình đóng vai một điệp viên nhị
trùng, xông vào cuộc đời với nhiệm vụ
còn nằm trong bí mật. Trong khi chờ
đợi, tôi nhận lệnh phải học hành thế
nào cho giỏi, đợi ngày thoát ly. Và động
cơ ấy khiến tôi chong đèn, học, nhưng
học kín, không để ai dòm ngó.
*
* *
Ngủ mê mệt, khi tôi thức thì trời đã
chập choạng tối. Với tay rót một cốc
nước, tôi uống, đầu óc tỉnh táo dần. Tôi
lên sân thượng khách sạn, ngồi hóng
gió, gọi một chai Ashahi, đưa mắt nhìn
về phía Bờ Hồ. Những trụ đèn đã mọc
lên, khác thời tôi về Hà Nội mười năm
trước. Uống xong cốc bia, tôi mở Palm
xem tin nhắn. Không có gì. Tôi lại tìm
đọc những bức e-mail lưu trữ:
20-02
"... Chúng nó báo - về sẽ gặp nhau ở
Huế nhưng chẳng hiểu sao tôi tìm mãi
không được. Lần đó, dân đồn "Ông về",
nô nức trả tiền vé vào để chiêm ngưỡng
"Ông", đấng sẽ thế thiên hành đạo. Báo
chí có loan tin (dĩ nhiên với hoài nghi
của những kẻ thực dụng làm báo phải
đạo chính thống), và mặc dầu hy vọng
là thật, tôi vẫn giữ vẻ e dè, cùng đám
nghệ sĩ thuộc ty văn hóa đất Thần Kinh
lên đò sông Hương, đi nghe hò Huế
trong một đêm tối trời có đủ mưa, đủ
gió, và những người đàn bà giọng mặn
mà nữ tính của đế đô xưa.
"Thuyền từ Đông Ba thuyền qua Đập
Đá. Thuyền rời Vĩ Dạ tới ngã ba Sình...
Lờ đờ bóng ngả trăng chênh... Điệu hò
xa vắng đượm tình nước non". Giọng
ngân dài như không dứt được trong khi
chúng tôi đợi người đi dò tin "Ông" vẫn
chưa về. Mưa vẫn mưa rơi, tiếng tí tách
buồn bã. Mặt sông lấp loáng ánh dao
liếc lạnh rùng rợn. Người đàn bà vừa dứt
câu hò nhìn tôi, lo lắng:
"Ông về thiệt hỉ, anh?".
Ôi, đôi quầng mắt thẫm bóng những
đêm dài ngước đợi. Tôi nhỏ giọng "Về...
"Ông" sẽ về, nhất định thế!". Bàn tay
nào mượt mà nắm lấy tay tôi, mơn
man, như đòi vỗ về, như nhắc chút ân
tình đến từ một mối duyên chẳng ai
chờ ai đợi. Nhắm mắt, tôi khẽ nắm lấy
bàn tay ấy thay lời cảm ơn, giật mình
khi người đi kiểm tin "Ông về" đột ngột
xuất hiện, miệng cười hô hố, nói lớn:
"Không có "Ông" nào đâu. Một đồn
mười, mười đồn trăm, dân xếp hàng
mua vé năm ngàn đồng vô xem ông
cầm kiếm, miệng giáng những câu tiên
tri. Nhưng tui chỉ thấy hình ảnh phập
phồng một cái mang cua sống, khá lớn,
nhìn có thể tưởng tượng là người cầm
gươm, nhưng đâu có nghe thấy chi!
Một con nhỏ xưng là cô đồng thì nghe
thấy hết, nói lại cho người vô xem.
Nhưng công an Thừa Thiên bắt nó tội
dùng mê tín dị đoan làm loạn lòng
người, và bắt cả chủ nhà tội lừa đảo,
buộc hoàn lại tiền vé...".
Tôi nghe một tiếng thở dài bên cạnh.
Bàn tay đó buông tay tôi ra. Tôi với
chụp. Vô vọng. Gió lên. Tiếng chèo
khua nước nhịp thời gian. Trời chợt trở
lạnh hơn bao giờ. Tôi biết tôi vẫn còn
phải đi tìm... Người đàn bà vừa nắm
tay tôi đứng dậy, bước những bước
chòng chành lên bờ, để lại cho tôi đúng
một cái nhìn ánh màu tuyệt vọng...
Không, tôi ơi, đừng tuyệt vọng. Câu
hát của người bạn rong ca vang lên.
Chết, mới tuyệt vọng. Chúng ta chưa
có niềm ân sủng cho phép phủi tay ra
đi. Và nhất là tôi lại vừa mang ơn một
bàn tay níu vào tay mình trong khoang
con thuyền chòng chành gió. Mới năm
nào tôi viết: “Nhan sắc vẽ vời/ Lý tưởng
viển vông/ Chợt rụng rời giữa có và
không/ Mày xanh mi biếc môi hồng/
Tỉnh ra sóng đã bềnh bồng cuộn trôi/
Tôi ơi hỡi, tôi ơi!”. Mới năm nào tôi đã
định tự đi vào miên viễn mà không hỏi
phép bất cứ đấng Cao Xanh nào. Nếu
đến từ một niềm tuyệt vọng thì tôi ơi,
tôi chỉ đáng có đến thế sao. Trong khi
từ đỉnh non đến ven biển đấu trường
với toàn những kẻ trục lợi tranh danh
đang âm thầm tuốt kiếm chém những
nhát không khoan nhượng vào đồng
loại? Trong khi những người nắm thế
quyền đoạt nhà chiếm đất rồi bắt hằng
hà sa số nạn nhân cùng nhau hát vang
lên bài ca cho ngày mai?
Không thế được, tôi ơi, đừng tuyệt
vọng!
Suốt ba ngày, tôi đợi tin Rậm-ria và
Tiểu-quỷ. Tôi lang thang trên những
con đường của Huế. Qua cầu Tràng
Tiền, ghé chợ Đông Ba, đến Gia Hội...
Vòng lại Bến Ngự, ngơ ngẩn ngắm bức
tượng Phan Sào Nam xếch mắt nhìn
vào tiền đồ. Rồi tôi lại đi. Vào Hoàng
Thành, ngơ ngác giữa đám du khách.
Tôi luẩn quẩn với một quá khứ nặng
như chì buộc vào chân. Tôi lê về phía
trước với những bộc phá bom đạn còn
ghi nguyên vết ghẻ lở đậu mùa chi chít
khoét đục những bức tường cổ đổ nát.
Tôi đến chân Khiêm Cung thì gặp người
đàn bà tối nọ. Đến gần, người đàn bà
ấy làm như không thấy tôi, cúi mặt
nhìn những bó hương, bó nhang để
cạnh chồng giấy vàng, giấy bạc. Nàng
thoa chút phấn hồng trên má, môi
thoáng vết son rất dịu, mắt vẫn đẫm
bóng tối ngay khi nắng lên ngang đầu.
Tôi im lặng. "Ông" không về, tôi biết.
Nàng ngước lên cười, cái cười không
kém thê thảm như lần nàng nhìn tôi
khi lên bờ tối hôm nọ. Thình lình, nàng
bâng quơ:
"Ai tìm được cho em hy vọng, em
nguyện làm vợ, hiến thân này cho, cho
hết..."
Tôi hốt hoảng. Lát sau, tôi nghẹn
ngào, cố nói:
"Tôi về là để tìm điều đó cho em, cho
tôi, cho tất cả chúng ta..."
Nàng khẽ quay người, thì thào:
"Thì anh đi đi, chừ cứ đứng đó làm
sao thấy!"
Từng câu, từng chữ, nàng thuật lại
cho tôi chuyện người ta đổ đi tìm ở
dưới Mỹ Sơn, nơi cách Hội An đâu hơn
hai ba chục cây số. Rồi giục "... Chừ
anh đi nghe anh! Bữa mô tìm thấy thì
về đây với em!".
Sáng sớm hôm sau, tôi bắt xe hàng
xuống Đà Nẵng.
*
* *
Lần theo bản đồ chi chít tên đường,
tôi tìm được phố Lý Quốc Sư. Trước mặt
một quảng trường, Nhà Thờ nghễu
nghện chọc trời, tường xám xịt dấu vết
những tháng năm không chăm sóc tu
bổ. Dưới nắng rừng rực chực bốc lửa,
tôi vội bước, nhìn số nhà rồi rẽ vào một
cái ngách. Chục năm trước, tôi có đến
đây một lần nhưng bây giờ chẳng còn
nhận ra gì nữa. Quán rượu ngày xưa
giờ là căn nhà ba tầng bằng gạch, cửa
sắt khóa bằng một sợi dây xích sắt to
bằng ngón tay cái. Tôi bấm chuông.
Một đứa bé ra bảo: "Ông cháu đau,
không xuống được!". Tôi nhờ cháu lên
gác báo, khẩn khoản dặn: "Cháu cứ nói
thế, chắc ông cho gặp!". Quả vậy. Uốn
người, tôi leo một cái cầu thang hẹp,
bậc không đều, cao thấp khó lường.
Nhà thơ ngước mắt nhìn tôi. Ông ta
đây sao? Mười lăm năm trước, ông đã
đứng tuổi nhưng vẫn cường tráng mặc
dầu khi tôi gặp, ông mới bị quản chế
đâu gần ba năm vì cái tội chính thức là
bán rượu lậu. Tội không chính thức, ai
cũng biết, là tội chuyển thơ của ông ra
ngoại quốc. Chính hắn cũng bị liên
quan. Bị cấm cửa không có nhập cảnh
cho tới thời kỳ Đổi Mới mới lại được về,
hắn nói hắn oan, có tội thì là cái tội gà
chưa sáng đã gáy, kiến nghị chính sách
kinh tế gì đó. Nay, tóc ông bạc phau,
móm mém, mắt lờ đờ, nằm nghiêng phì
phò thở.
"Nhà thơ chắc không nhận ra... tôi!"
Ông lắc. Tôi nhắc lại buổi tôi gặp ông
với hắn cách đây mới thế mà đã mười
lăm năm. Ông mỉm cười:
"Lâu nhỉ! Mình trí nhớ kém rồi... Lại
mới ngã cầu thang, xương chậu bị vỡ,
ngồi lên không được! Xin lỗi phải tiếp
khách trong cái thế khó coi này!", ông
khẽ cười.
Hỏi ông đã gặp hắn chưa, ông nhắm
mắt, đáp:
"Bao giờ về cậu ấy cũng đến thăm
tôi. Sau dịp Tết vừa qua, cậu ấy từ Đà
Nẵng vào..."
"Anh ấy có nhắc sẽ đi tìm chùa Báo
Thiên... Thưa nhà thơ, chùa ấy ở đâu?"
"À... Chùa xây cuối đời Lý, bị phá thế
kỷ trước mất rồi... Người Pháp xây Nhà
Thờ Lớn ngay trên móng nhà chùa, ở
góc phố. Làm gì còn chùa Báo Thiên?
Khi cậu ấy hỏi, tôi đã bảo vậy!"
Tôi cân nhắc, rồi ngập ngừng:
"Nhà thơ có biết anh tôi đi tìm gì
không?"
"Biết..."
"Nhưng đó là một niềm hoang
tưởng..."
Tôi nhẩn nha kể lại cho nhà thơ
nghe nội dung những bức e-mail tôi
nhận được và kết luận:
"Sợ anh ấy hoang tưởng ở mức bệnh
hoạn... Cho nên tôi mới về gấp!"
Nhà thơ mỉm cười, từ tốn:
"Đừng sợ. Một thứ vật quý hiếm như
vậy, có hoang tưởng thì cũng tự nhiên
thôi. Vả lại, người nghệ sĩ nào chẳng
hoang tưởng. Động cơ tái tạo mọi hiện
thực phải giẫy bỏ để giải phóng sáng
tạo... Hoang tưởng càng lớn thì khả
năng nghệ thuật càng cao. Như cái
nghiệp ấy mà!"
Ngưng lại lấy hơi, nhà thơ thều thào
tiếp:
"Lấy cái số phôn của Thụy, gọi hỏi
xem... Tay này giao du rộng, cũng quen
biết anh cậu."
Bấm đốt ngón tay, ông lẩm nhẩm
một mình:
"... Thế là tháng nay không thấy mặt,
chẳng hiểu đã tìm ra chưa, rõ cơ khổ!"
Ra đường, tôi vòng lại Nhà Thờ. Đứng
dưới mái hiên một cửa hàng bán mỹ
nghệ cho khách du lịch, tôi ngước nhìn
cây thập tự cao vút chọc vào nền trời
sáng lóa mắt, tưởng tượng cảnh xe bò
chở tượng Phật đi để lấy tượng Chúa
thay vào thế chân trong một cuộc đuổi
nhà đổi chủ. Thế quyền và tâm linh
phải chăng là hai mặt một đồng xu
trong một thể cân bằng không bao giờ
ổn định. Đồng xu quay sau cái búng tay
của tên làm ảo thuật, quay tít thò lò, và
tiếng hô: "Nào đặt cược nào, sấp hay
ngửa!".
Khát đến khô cổ, tôi vào một quán
giải khát. Chọn một góc trống, ngồi mở
Palm đọc lại những bức mail.
*
* *
21-02
... Từ Lăng Cô nhìn xuống, cây xanh
lấp loáng nắng vạch một vòng chặn
biển sóng uốn lượn cứ như chực tràn
vào đất. Xe khách ngừng nửa giờ. Tâyba
lô xuống xe, tay lắc lắc khi đám trẻ
con bán Postcard chồm đến, mắt
ngước lên nhìn, miệng răng khấp
khểnh nhấp nhô ngọng nghịu "pho tao
dần, bli-bli" (four thousands, please,
please). Đến Đà Nẵng, tôi ghé vào Bảo
tàng Chàm nằm gần bến sông, định
mua một tấm bản đồ Mỹ Sơn, xưa là
thánh địa của dân tộc đã gần như bị
xóa sổ này. Cô bé bán hàng lưu niệm
lắc đầu, bảo tôi ra nhà sách. Gọi taxi,
tôi vừa nói thì anh tài hỏi liền: "Việt
kiều hỉ! Hổng có chỗ nào bán bản đồ
đâu, đi mô tui chở cho!". Đi đâu? Nói
thế nào bây giờ? Tôi vừa kể tôi nghe
đồn là có nhiều người đi kiếm thì anh
tài cười lớn: "Rồi, tui biết! Đi đào vàng
phải hông? Nhưng tui chở chú tới chớ
có được vô đào hay không thì còn phải
qua "ải" mấy trùm, tui không bảo
đảm". Anh hạ giọng:
"Ở đây thì cứ có đô xanh là cái gì
cũng được, lo chi..."
Xe chạy được khoảng gần một giờ,
đỉnh tháp Chàm nhô lên từ đầu những
ngọn cây xa xa khiến tôi hoang mang.
Tôi đâu có ý định đi tìm vàng. Mặc dầu
anh tài "xin" thêm năm đô để giúp tôi
móc nối với đường dây một ông trùm
anh quen thân, tôi vẫn không mấy yên
lòng. Chắc chắn ông trùm sẽ hỏi,
không tìm vàng thì tìm chi? Trả lời thế
nào nghe cho xuôi tai đây? Thôi, để hạ
hồi, linh động đối phó chứ làm sao biết
được mọi tình huống. Anh tài chỉ một
rặng núi xanh rì đằng trước, kêu:
"Trong kia là chỗ mình tìm đó, chú!".
Đến eo núi, anh tài thắng xe, móc
điện thoại di động, không nói gì nhưng
bấm tin nhắn. Lát sau, anh rồ máy,
quẹo xe vào một con dốc, nhấn ga. Đi
chừng ba trăm thước, một người vai
đeo AK ở đâu xô ra, tay làm dấu, quát:
"Ngừng!". Mắt trừng trừng, anh ta bảo
chúng tôi xuống xe. Anh tài ghé vào tai
thì thào thế nào mà anh ta gật gật. Tôi
theo anh gác cửa đi vào con đường bụi
bờ quanh co đến trước một cái lán. Lại
một người khác đeo AK trỏ tay vào cái
ghế đẩu trong góc, lạnh lùng bảo: "Chờ
đấy!" rồi quay lưng châm điếu cầy rít
thuốc, tiếng kêu sằng sặc như bị bóp
cổ.
Lúc ấy, mặt trời xế bóng nhưng vẫn
nóng gay gắt. Tôi xin một ly nước, lẳng
lặng uống, mắt nhìn về chỏm tháp
Chàm lung linh chớm nắng. Nhớ lại câu
nói của người đàn bà hôm rời Huế, tôi
buột miệng "Chắc anh sẽ về, chỉ mai
mốt...". Anh gác nghe, cười khẩy:
"Muốn thế thì đừng để rắn cắn, rắn độc
nhất là rắn mang hình người!". Được
thể, tôi bắt chuyện, hỏi. Anh ta giảng
giải: "Ai đào được vàng thì kẻ đồng loại
bên cạnh trở thành rắn ngay, có lần
hết người nọ đến người kia hóa rắn,
cắn nhau cướp vàng chết cả đàn. -
Giọng thương hại, anh tiếp - Vì vậy,
người ta đi đào đi một tốp năm ba
người. Anh đi một mình thì đào không
thấy là sống, mà thấy thì chắc toi, hiểu
chưa?".
"Nhưng tôi có định đi đào vàng đâu!"
Tôi buột miệng.
Anh gác hạ khẩu AK trên vai xuống,
lùi một bước, mắt lừ lừ nhìn tôi như
thôi miên. Chết chưa, tôi đã nói thật,
nguy rồi...
*
* *
Theo lời nhà thơ, tôi gọi cho Thụy
nhưng máy điện thoại di động hoặc bị
tắt, hoặc ở nơi không nhận được sóng.
Sáng sáng, tôi lên sân thượng khách
sạn ngắm trời Hà Nội lúc còn mờ
sương, đợi lúc xuống đi bộ quanh hồ
Hoàn Kiếm. Tôi nghĩ về tôi, những được
mất, và về cái thời niên thiếu đầy
những phút chạnh lòng tủi phận. Thời
đó, giấc mơ một ngày sẽ cao bay xa
chạy khiến tôi âm thầm trui rèn thứ vũ
khí thoát thân là học thế nào để có cái
may mắn được một học bổng đi ra
ngoại quốc. Đó là mơ ước hình như bọn
trẻ chúng tôi đứa nào cũng có. Ở tuổi
mười tám, chúng tôi có thể bị gọi đi
quân dịch nếu thi trượt Tú Tài 2. Nếu đỗ
Tú Tài 1 thì đi Thủ Đức ra trường thành
Chuẩn Úy, còn không thì vào Quang
Trung, chẳng cai chẳng đội tất binh nhì,
thế nào cũng bị đem "thí chốt" nếu
không khả năng chạy chọt. Chiến tranh
đã luẩn quẩn tới ven Thành Phố. Sợ
chưa hẳn sợ, nhưng vui thì chẳng mấy
vui, đối với một kẻ như tôi chỉ có một
giấc mơ là ra đi.
Nhưng hắn không vậy. Hắn là con
đầu lòng, được nâng như nâng trứng,
hứng như hứng hoa. Hắn hay ngồi
"chầu rìa" hóng chuyện "người lớn".
Chả là bố nuôi tôi quen biết giới báo
chí truyền thông, khi gặp nhau "người
lớn" bàn chuyện chính trường thời Đệ
nhất Cộng hòa miền Nam, chuyện
chống Cộng, rồi chuyện đám nhân sĩ
Bắc di cư bị chính quyền Diệm hắt
hủi... Hắn được mớ chuyện chính trị
tiêm nhiễm, tự cho mình một phận vụ
thiêng liêng, tìm sách về nghệ thuật
hùng biện trước công chúng, soi gương
hoa chân múa tay tập nói cái câu của
Tổng thống Mỹ Kennedy, nhưng bằng
tiếng Việt, "Đừng hỏi đất nước đã làm
gì cho ta, mà phải hỏi, ta đã làm gì cho
đất nước...". Tôi cố nhịn cười, tránh
tham gia vào những dự án đổi đời của
hắn. Không nhóm được ngọn lửa thiêng
trong lòng tôi, nhưng có lẽ thương hại,
hắn chỉ thỉnh thoảng nhắc chuyện chí
làm trai của Nguyễn Công Trứ, xuống
Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên.
Phải nói hắn thuyết phục được một số
bạn bè cùng lứa và viết lách in thơ in
truyện trên báo.
Năm ấy là năm học sinh sinh viên
"xuống đường" trong vụ đàn áp Phật
giáo của chính quyền Diệm. Trong
thành phố, giáo dân và Phật tử xung
đột tứ tung. Tin rỉ tai: sắp đảo chính.
Hắn không biết thế nào mà "mua" được
một số vũ khí của Địa Phương quân,
đem chôn giấu chục khẩu súng trường
thời đệ nhị thế chiến, dăm quả lựu
đạn... chờ thời cơ khởi nghĩa "chống
độc tài Diệm-Nhu". Vô tình biết chuyện
không phải là đùa này, tôi buộc phải
báo bố nuôi. Ông ta cho hắn một trận
mắng chửi ra trò. Chỉ kịp chỉ mặt tôi
quát "đồ mách lẻo" thì đã có người đến
hỏi hắn. Hóa ra tôi chẳng mách thì mật
vụ Nhu - Diệm cũng đã biết, cho rình
rập quanh xóm. Thế là bố nuôi tôi phải
tìm cách giấu hắn lên Hóc Môn. Và hè
năm đó, hắn không thi Tú Tài 2. Đây là
lần đầu tôi học, và đi thi, không có hắn
bên cạnh. Chạy chọt với công an, bố
nuôi tôi lại mang hắn về Sài Gòn để
hắn thi kỳ 2, đỗ nhưng điểm không vào
hạng xuất sắc. Làm cách mạng,
chuyện học thứ yếu thôi, tất nhiên.
Năm sau, tôi lẳng lặng nộp đơn và
nhận được một học bổng đi Canada.
Đợi đến khi chỉ còn một tháng là lên
đường, tôi mới báo cho bố mẹ nuôi tôi
biết để xin phép đi du học. Lúc đó, tôi
đã 18 tuổi, thành niên rồi, đi hay ở chỉ
tùy tôi. Ngày đầu, bố mẹ nuôi tôi không
nói gì, vui buồn khó đoán. Phần tôi, tôi
sửa soạn hành lý, mặc dầu chẳng có gì
để mang theo trừ một xấp thư của N
tôi mới gặp hè qua. Ít ngày sau, bố
nuôi tôi thân mật ôm vai, nhỏ nhẹ: "Tao
định cho anh mày đi cùng, nhà không
dư giả nhưng cũng có thể lo được một
phần chi phí. Đi xa có anh có em, học
bổng của con cũng là cái đỡ đần
được... cho bớt lo. Anh mày ở đây thì
còn rầy rà với mật vụ, sớm muộn
chúng nó cũng tìm cách đẩy vào lính
cho mà xem... Con thấy thế được
không?".
Tôi lên đường. Lần đầu ngồi máy bay,
tôi ngắm những đám mây trắng ngang
tầm mắt, không thấy luyến tiếc bất cứ
gì. Giấc mơ suốt thiếu thời đang chắp
cánh vượt những khoảng xa tôi ngờ
chẳng bao giờ lấp cho nổi. Ba tháng
sau, hắn cũng đến Quebec, nơi tôi đi
học. Khi đó, chính quyền Diệm-Nhu bị
lật, cả hai bị bắn chết. Chắc chắn hắn
không còn bị mật vụ nào rầy rà.
Hắn lấy hộ chiếu, đi dạng tự túc, hớn
hở kể ngày cách mạng thành công và
kết "Tiếc là không có mi ở đó, vui
lắm...".
*
* *
Mất ba ngày tôi mới liên lạc được với
Thụy. Anh ta đi quay phim ở Quảng
Bình, về đến Hà Nội mới mở e-mail,
nhận tin tôi và gọi điện thoại. Hỏi, anh
đáp:
"Tôi gặp anh ấy đâu tháng trước,
cùng đi với hai người bạn! Tôi không biết
tên, nhưng một cậu cao to, để râu, nói
giọng Bắc. Còn cậu kia, trẻ hơn, da
trắng như da con gái, nói eo éo, giọng
lai nửa Bắc nửa Nam... Hình như họ là
Việt kiều cả. Họ rủ nhau đi tìm..."
"Tìm gì hả anh?"
"Chịu, giời mới biết được! Chỉ thấy
họ nóng nẩy ra mặt. Mấy ngày sau,
anh ấy hỏi tôi cách xuống đáy núi
Nùng, và làm thế nào móc nối được
một người dẫn đường... Tôi giới thiệu
một tay xưa là đặc công, từng xung
phong vào chiếm Tân Sơn Nhất ngày
Giải phóng!"
"Rồi sao, anh?"
"Sau thì tôi đi xa nên không biết gì
thêm. Nhưng anh đợi tôi hỏi thăm cô
bé Trang xem sao. Tôi gặp anh ấy uống
bia với cô Trang chỗ nhà Thủy Tạ ở ven
hồ... Chỉ sợ cô ta về quê rồi!"
"Vâng, mong anh giúp cho. Tôi lo,
anh ấy... có vẻ không mấy bình
thường!"
"Lo gì cơ?"
Không muốn nhắc đến những bức
mail quái lạ, tôi bịa:
"Anh tôi bị tiểu đường, thuốc insulin
mang theo lại hết!"
"Ở đây thì cứ có đô xanh là cái gì
cũng có..."
*
* *
Đầu tháng 6, Hà Nội là lò lửa nung
cho thân người chảy thành nước. Ngủ
không được. Tôi dậy từ lúc trời còn
chập choạng tối, lên sân thượng khách
sạn ngồi. Nhìn xuống, nước hồ Hoàn
Kiếm lóng lánh gợn ánh đèn quanh hồ,
tháp gươm mơ hồ ẩn hiện. Bên kia,
chiếc cầu sơn đỏ bắc vào đền Ngọc Sơn
nhìn như vành môi mếu xệch của một
thiếu phụ mỏi mòn. Thỉnh thoảng, dăm
ba người lầm lũi bước, bóng khấp
khểnh trên hè phố. Lòng đường vắng
xe an bình chứ không dọa dẫm, và thật
là thần tiên khi tai không nghe tiếng xe
máy khằng khặc hầu như suốt ngày, từ
sáng sớm cho đến quá nửa đêm.
Quái, có tiếng gà gáy nghe ngay giữa
thành phố. Trời sáng dần. Bóng người
lao chao trên con đường ven hồ. Hàng
đoàn, họ đi ngược, đi xuôi. Tiếng người
bắt đầu xôn xao. Tôi xuống đường, nhập
vào đám đông, đi theo đoàn người
chuyển động theo chiều kim đồng hồ.
Họ bước những bước dài, hít thở theo
nhịp chân, nét mặt còn chút thư giãn
đầu ngày. Ở những quãng rộng, có
người chăng lưới đánh cầu lông. Gần
nhà Thủy Tạ, hơn ba chục người xếp
thành ba hàng, tay đưa lên, chân co
vào, chuyển mình theo tiếng của ai đó
gọi tên thế múa những bài quyền Thái
Cực. Tôi bước. Người bên cạnh bước.
Người đằng trước bước. Người đằng sau
cũng bước. Thật an toàn khi có những
người hệt như mình, cùng một động
tác, cùng một hướng đi. Khỏi phải nghĩ.
Cứ thế mà tiến đến phía trước, như mọi
người. Cùng với mọi người. Cảm giác
chỉ là một thứ hạt cơ bản quay vòng
vòng mà không cần gì đến ý thức khiến
tôi lâng lâng bay bổng. Cứ thế, tôi để
tâm trí trống rỗng trên quỹ đạo những
bước chân vòng vòng quẩn quanh, cứ
đúng 30 phút lại quay lại khởi điểm là
chân cầu Thê Húc.
Đi đến vòng thứ sáu, hạt cơ bản bị
một cái sốc ngoại sinh. Đó là một con
bé con khoảng mười hai, mười ba tuổi.
Tôi từng thấy nó lê la ở góc phố Hàng
Trống và Bảo Khánh, nơi tôi ghé uống
cà phê mỗi sáng. Không biết từ lúc nào
cái hạt bé bỏng đó bước theo bước chân
tôi, nhưng đến vòng thứ sáu nó mới níu
áo tôi lại, miệng nói:
"Chú không mệt hả?"
Tôi chậm chân, lắc đầu. Vẫn bước, tôi
bảo:
"Mỗi sáng đi bộ thế này tốt lắm...
Nhất là khi chưa có xe cộ, không khí
còn thở được!"
"Chú cho cháu tí tiền ăn sáng nhé.
Nó ráo hoảnh - ... đi theo chú đến đói
rã họng ra, tí nữa thì hụt hơi!"
"Ai bảo theo mà theo..."
Tôi ngừng bước, tay móc tiền đưa
cho con bé năm nghìn.
"Có thế thôi hả chú Việt kiều?"
Cơn bực mình ở đâu ùa đến. Làm sao
nó biết mình là Việt kiều? Năm nghìn
chưa đủ thì bao nhiêu mới đủ? Tôi nhìn
vào mặt con bé. Nó đen đủi, mắt to, mũi
hơi hếch, tóc kẹp, miệng hé ra cười
duyên.
"Sao mày biết tao Việt kiều? Bát phở
Thìn ở bên kia đường chỉ tám nghìn,
cho mày năm mà còn chưa đủ à?"
Con bé nghếch mặt:
"Chú Việt kiều thì dễ biết quá, chỉ
Việt kiều mới ở khách sạn. Còn như
muốn ăn bát phở thì không đủ, chú biết
đấy. Nó chìa tay, giọng nũng nịu - chú
cho thêm ba nghìn đi!"
Tôi lắc đầu, giật áo bước đi không
ngoái lại. Loa phát thanh của khu phố
lúc đó oang oang đọc tin buổi sáng. Tôi
không nghe. Và hình như cũng chẳng ai
nghe, người đi bộ vẫn bước, người múa
quyền Thái Cực vẫn co chân giang tay.
Đám đánh cầu lông cãi cọ được thua, có
kẻ sẵng giọng văng tục. Anh công an
đứng nhìn, tủm tỉm cười. Xe máy bắt
đầu lượn vòng, mùi xăng xông lên. Tôi
đến góc Lê Thái Tổ và Bảo Khánh. Một
cụ bà lưng còng nhấp nhổm qua đường,
mắt toét nhèm, đầu lắc lư nhìn ngang
nhìn ngửa. Tôi bảo cụ nắm tay cháu, ta
cùng qua. Bà cụ gật gật. Nhưng trong
lòng đường, tôi nhích lên một bước rồi
lại phải lùi xuống. Những chiếc xe máy
cứ vùn vụt lao thẳng tới. Con bé con ở
đâu lại xồ ra. Nó gọn lỏn "...Theo cháu"
rồi cứ thế đi qua đường, không thèm
nhìn trái, nhìn phải. Bà cụ hấp tấp chạy
theo. Con bé đặt chân lên hè phố bên
kia thì tiếng phanh rít lên, tiếng va đập
và một tiếng kêu ối giời ơi, sau là tiếng
chửi. Tôi xoè tay ôm mặt không dám
nhìn, chỉ nghe tiếng chân người chạy.
Và tiếng công an huýt còi.
Vào quán cà phê tôi vẫn đến ngồi đợi
tin Thụy, lại thấy con bé quanh quẩn.
Nó bảo "Xe cứu thương đến đưa bà cụ
đi rồi, nhưng chắc chẳng sống được!".
Tôi làm như không nghe thấy, mở Palm
ra tìm e-mail.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.03.2009 16:54:49 bởi lyenson >
#1
    lyenson 30.03.2009 20:59:05 (permalink)
    HAI
    23-02
    Đã tưởng chết. Cuộc hồi sinh
    nào chắc cũng chỉ ngỡ
    ngàng đến thế, hệt như khi mở mắt
    sau một cơn mê. Hiện thực là những
    móc nối của trí nhớ. Nhớ mầu xanh cây
    rừng, mầu bạc những đám mây xa.
    Nhớ vị chát của trái sung chưa chín.
    Nhớ hương thiên lý thoang thoảng.
    Nhưng nhớ nhất, là tiếng người, thứ âm
    thanh mà không còn thì chắc chẳng
    còn gì lưu luyến.
    Trùm B (mắt quắc lên, tròng sâu
    hoắm, răng chìa ra khi nói): "Này anh
    bạn, anh không vào đây đào vàng thì
    anh tìm gì?"
    "Tôi... tôi nói chắc chẳng ai tin."
    "Anh cứ nói, nhưng đừng lươn lẹo!"
    "Tôi đi tìm cái vật quý hiếm có khả
    năng Bảo Quốc Hộ Dân..."
    "Cái vật đó là cái gì?"
    "Tôi chưa biết. Nhưng bạn tôi kể,
    trong giấc mơ, cái vật đó sáng lên.
    Nâng nó và khấn một trăm vị Bồ Tát,
    khi nghe có tiếng gọi từ không trung
    thì chính là nó..."
    Trùm B chẳng nói chẳng rằng, đến
    bên cạnh, thình lình giang tay tát,
    miệng quát:
    "Tổ cha mi, nói láo!"
    Tôi không thấy bóng dáng trăm vị Bồ
    Tát, nhưng rõ ràng có ít ra cũng vài
    chục con đom đóm bay lượn trước mắt.
    Tai lùng bùng, tôi nghe Trùm B ra lệnh
    nhốt tôi vào ngục A Tì. Quay nhìn một
    tay vác súng AK đứng xớ rớ, Trùm B
    bảo:
    "Mày thông báo và gọi họp để Trung
    ương xử lý nghe chưa!"
    Ngục là một cái lỗ rộng đường kính
    nửa thước, sâu một thước, nước ứa lên
    từ mặt đất ngập đến mắt cá chân. Tôi bị
    trói cánh khuỷu, ngồi thu lu thì một tên
    đến đậy lên cái lỗ một phiến gỗ. Trong
    bóng đen, trí óc tôi hầu như tê liệt. Mất
    thị giác, hầu như tôi không còn ý thức
    về không gian. Có lẽ từ đó, thời gian
    cũng không còn. May, tôi vẫn giữ được
    thính giác. Tai tôi vẫn nghe thấy tiếng
    lũ khỉ chí choé đâu đó. Mãi sau, có
    tiếng côn trùng rỉ rả. Thế là đã đêm rồi.
    Cái lạnh đâm vào tứ phía, ngấm dần,
    thấu xương. Răng tôi đánh lập cập. Co
    người, tôi thu mình, chỉ mong sao quên
    được giá buốt của rừng. Chắc mai này
    bọn Trùm sẽ hỏi cung. Cái vật quý hiếm
    ấy là gì, tôi không biết. Trả lời chúng
    thế nào? Hay giả điên, có thể chúng sẽ
    tin mà thả tôi chăng?
    Ôi chao, vẫn lạnh! Ý thức run lên
    theo nhịp răng lập cập báo sự tồn tại
    đang có vẻ gặp vấn đề! Hãy tưởng
    tượng. Tôi, một con người tiền sử. Làm
    sao thổi cho lửa lên? Lấy hai hòn đá,
    đập vào nhau mong cho lửa bén vào
    đống lá cây khô. Nào, ta đập. Hãy
    nhắm mắt hình dung ra nhoáng lửa, tai
    nghe tiếng chan chát của đá cứu rỗi. Ở
    giây phút này, đá là vật quý hiếm. Lửa
    nhoáng lên, nhưng đống lá vẫn cứ trơ
    trơ lãnh cảm. Ừ thì thế, thôi làm cách
    khác. Chẳng sách vở văn chương bảo
    tình có lửa à? Thế thì tôi sẽ đốt đống lá
    khô này bằng lửa tình. Tôi sẽ nghĩ đến
    những Ánh, những Liên, những Thanh,
    những Nguyệt... đã từng làm tôi
    choáng váng, đau khổ, thương nhớ,
    hận thù... Tôi tưởng ra những đôi chân
    thon quặp vào lưng, những cặp vú
    bồng bềnh căng nứt áp vào miệng,
    những làn môi hé mở đợi chờ, những
    cái oằn mình nưng nẩy hất ngược lên...
    Rồi những lời oán trách, giận hờn,
    những câu chia tay bạc bẽo. Vô vọng.
    Vẫn cứ lạnh. Lửa tình thế giỏi lắm thì
    cũng chỉ gầy được khói. Nhà văn nào
    tôi quên mất tên ví von nó đốt cháy cả
    một cánh rừng là nói xằng.
    Có tiếng gà rừng. Gà rừng gáy không
    như gà chuồng, vừa gáy vừa bay nên
    lẫn vào tiếng gáy là tiếng đập cánh. Ờ,
    tự do nên có khác thật. Còn tôi, tù
    nhưng sáng ra, sẽ đỡ lạnh. Vả lại, tôi sẽ
    được biện bạch trước đám Trùm. À, còn
    cái phương án giả điên tôi nghĩ tới
    nhưng chưa đào sâu, nay phải bới lên
    mọi hậu quả...
    Quẳng xuống cho tôi một mẩu bánh
    mì, tên khoác AK nói trống không:
    "Ăn đi, rồi sửa soạn "làm việc" nghe
    chưa!".
    Khổ là nó quên cởi trói cho tôi,
    không có tay thì ăn thế nào được.
    Nhưng nào tôi có đói đâu. Tôi ngẩng
    mặt nhìn trời xanh. Và tự nhủ, dẫu gì
    thì cũng phải tìm cho bằng được cái
    vật quý hiếm kia. Đầu tiên là thuyết
    phục bọn Trùm cái vật đó có thực.
    Phương án này, về mặt nổi, chẳng khác
    mấy phương án giả điên. Hiện tượng là
    một, nhưng bản chất, khác. Nhất định
    khác. Vâng, vì tôi tin nó có thật. Và
    chúng ta trên mảnh đất này sẽ được
    cứu rỗi.
    Tôi bị điệu đến trước mặt ba tên.
    Trùm B, tôi đã ăn từ tay hắn một bạt
    tai hôm qua. Nay thêm hai. Trùm C
    miệng sặc mùi rượu, mắt nhìn tôi lừ lừ,
    mép xệch xuống, tay cứ đưa lên vò
    đầu. Trùm còn lại, tôi gọi là Trùm A vì
    hắn có vẻ như là bề trên hai Trùm kia,
    người rắn chắc, mắt đeo kính cận, môi
    lúc nào cũng mím lại. Sau, tôi mới biết
    Trùm này từng là anh hùng diệt Mỹ thời
    chiến tranh, đi Liên Xô dưới dạng xuất
    khẩu lao động, buôn lậu thuốc lá qua
    Ba Lan và "lỡ tay" giết hai tay cảnh sát
    biên phòng nên phải lưu đào, cuối cùng
    hồi hương mà vẫn trắng tay.
    Trùm C:
    "ĐM, chừ mi không nói cho thiệt thì
    tau cho nếm cái này", tay đập khẩu
    súng Colt lên mặt bàn đánh rầm.
    Trùm B:
    "Hôm qua mi gọi cái chi đó... mà là
    tiếng Tầu. Nhắc lại coi..."
    "Vật quý hiếm Bảo Quốc Hộ Dân", tôi
    vội nói.
    Trùm C (quay nhìn Trùm A):
    " ... Là cái chi vậy, sếp?"
    Trùm A (nhẩn nha):
    "Bảo như bảo vệ, tức là giữ. Hộ...
    (cau mày, ngẫm nghĩ) thì như bảo hộ,
    ủng hộ... tức là giúp, là đỡ đần... Cái
    vật quý hiếm đó là giữ được nước, đỡ
    cho dân..."
    Trùm C:
    "ĐM... giữ với đỡ những thứ đó thì
    được gì (tay đập đập vào túi) mà quý
    với hiếm, cha nội!"
    Trùm A (nghiêm trang, tay đưa ra cái
    hộ chiếu của tôi bị Trùm B tịch thu hôm
    qua):
    "Anh là Việt kiều Canada, phải
    không?"
    Nhìn tôi gật đầu, hắn tiếp, giọng vẫn
    nhẩn nha:
    "Người đời đến đây là đi tìm vàng,
    anh thì không, lại nói rằng đi tìm một
    thứ quý hiếm mà chính anh cũng chỉ
    nghe nói và chưa biết nó là cái gì...
    Anh có thấy thế là kỳ quặc không?"
    Tôi lắc đầu, bắt đầu biện bạch. Quý
    hiếm mà nhan nhản để ai cũng thấy,
    cũng biết thì quý hiếm ở đâu. Không để
    cho người nghe phản ứng, tôi cao
    giọng, con ngựa có cánh biết bay trong
    tranh Tây Phương kỳ quặc thế mà
    người đời trân quý cất trong những
    viện bảo tàng. Con khỉ Tề Thiên giứt
    lông thổi phù phù trong truyện Tây Du
    biến thành trăm con khỉ khác để bảo
    vệ thầy Đường Tăng đi thỉnh kinh Phật
    kỳ quặc thế mà khối người đọc, từ thế
    hệ này qua thế hệ khác, chẳng phải chỉ
    ở Trung Quốc mà còn ở nước ta, thì rõ
    ra là càng kỳ quặc càng quý hiếm, và
    càng quý hiếm càng không thấy được.
    Một động lực vô hình thúc tôi đứng
    dậy. Giọng dõng dạc, tôi nói về đất
    nước chúng ta đang thời kỳ phấn đấu
    mở ra hội nhập vào thế giới, với nào là
    WTO, nào là ASEAN, nào là Quy chế
    Thương mại bình thường vĩnh viễn với
    Mỹ... thì, tôi đánh tay để nhấn mạnh, ở
    vị thế nước mới phục hồi sau chiến
    tranh, ta yếu, và nhiệm vụ giữ nước,
    tức là Bảo Quốc, tất là trọng yếu. Còn
    Hộ Dân ư? Có nước nào mạnh mà dân
    nước đó nghèo khó, khốn khổ, sợ sệt
    đến nem nép, đàn ông chỉ biết nhậu,
    đàn bà thì nhấp nhỏm lấy chồng nước
    ngoài như Đài Loan, Singapore,
    Malaysia, Nam Hàn... không? Ấy, tôi hạ
    giọng, hộ dân trước tiên là làm sao giữ
    được phẩm cách con người, thôi coi
    mình là một món hàng rao bán, giá lên
    xuống theo kinh tế thị trường... Đến
    đây, tôi chưa biết nên tiếp tục thuyết
    giảng thế nào thì Trùm B ngáp, răng
    chìa ra:
    "Mẹ... thằng cha này chắc chập dây
    hóa rồ, nói nghe như mấy ổng trên Ủy
    ban giảng nghị quyết... Mấy anh tính
    sao?"
    Nhìn qua bên cạnh, Trùm C mặt gục
    xuống bàn, miệng ngáy, nước giãi chảy
    ra ướt nhèm. Không đợi Trùm A đáp,
    Trùm B quày quả bước đi, nói với lại:
    "Sếp tính chi thì tính, số đô thu được
    chia cho đều là nếp sống văn minh,
    nghe sếp!"
    Trùm A gật, đưa tay làm dấu cho tôi
    đi theo...
    *
    * *
    Con bé đến sát lớp kính ngăn quán
    nước với con đường đầy bụi, tay đập,
    miệng há hốc ra nói như gào. Nhưng
    tôi không nghe được gì. Nó chỉ tay về
    phía sau. Một người đàn bà trạc trên
    dưới bốn mươi đứng nhìn, nhoẻn
    miệng cười, tay ra dấu chỉ vào cái ghế
    trống trước mặt tôi. Không đợi tôi phản
    ứng, bà ta đi ngay lại lối ra vào, mở
    cửa, đủng đỉnh đi tới chỗ tôi ngồi. Đó
    là một người đàn bà cao ráo, quần xệ
    hở rốn, môi thoa son đỏ, mắt kẻ viền
    đen, mi cong, bôi phấn xanh quanh
    tròng, giày cao đến độ khó đi nhanh
    nên phải bước từng bước nhỏ. Nàng
    tươi tắn, giọng điệu đàng:
    "Anh cho phép em nhé. Em cám ơn
    anh cho cháu tiền quà sáng. Nhìn tôi
    gạt tay ý bảo chẳng có gì, nàng tiếp -
    người tử tế bây giờ hiếm lắm, cháu kể
    là em muốn đến chào hỏi làm quen với
    anh ngay... Tay chỉ về phía con bé lảng
    vảng bên đường, nàng ngậm ngùi... -
    Ấy con không cha như nhà không nóc
    anh ạ. Anh ở nước nào về vậy?"
    Tôi chưa trả lời thì nàng thân mật vỗ
    tay tôi, nhí nhảnh:
    "Để em đoán nhá, anh nhá. Nhìn tôi
    như định giá, nàng trề môi - Singapore
    này, đúng chưa?"
    Tôi lắc. Và nàng đưa ra một chùm địa
    danh, từ Đông Âu cho đến Bắc Mỹ. Tôi
    ngắt lời bằng cách thả thõng - Canada.
    Nàng phá lên cười, giọng càng hồn
    nhiên:
    "Biết ngay mà, trắng trẻo thế này là
    phải tới từ Bắc Cực... Em nghe nói ở đó
    có gấu lông trắng vừa đẹp vừa hiền,
    anh nhỉ... Vừa nói nàng vừa vô tình đặt
    tay lên đùi tôi, khúc khích -... có nuôi
    được gấu như chó bên mình để coi nhà
    không anh?"
    Tôi gật, thừa biết lắc hay gật cũng
    vậy. Thản nhiên, nàng vẫy nhân viên
    phục vụ quán nước, gọi một ly trà
    Lipton. Rồi nàng hỏi tên tôi. Và cứ thế,
    nàng kể gia cảnh mình. Chồng nàng đi
    xuất khẩu lao động sang Đức, hai năm
    nay không có tin, nghe đâu đã kết
    duyên mới với một chị người làng cùng
    cái cảnh "trơ trọi xứ người", một lý do
    tất nhiên không chính đáng để hắn
    phụ giẫy mẹ con nàng, hai sinh vật
    trung thành vẫn tha thiết đợi hắn cho
    đến lúc không có cách nào khác là
    phải, theo nguyên văn lời nàng, "quên
    mẹ nó đi, anh ạ!". Nhìn sâu vào mắt
    tôi, nàng ngọt ngào:
    "Thế anh đã có gia đình chưa?"
    Tôi gật, và chép miệng. Nàng cười:
    "Mới có ba ngày mà đã nhớ vợ rồi ư?
    Chính chuyên đến thế cơ à! Giọng
    thương hại, nàng tiếp - Anh ơi, chớ
    buồn, cuộc đời ngắn ngủi lắm đấy, vù
    một cái là xong... Anh về đây mà phải ở
    khách sạn, thật là tội, lại tốn tiền!"
    Ngạc nhiên, tôi hỏi, đi xa ở khách
    sạn là bình thường chứ ở đâu bây giờ.
    Nàng mím môi:
    "Khách sạn toàn là của bọn tư bản
    "người bóc lột người" đấy. Nơi anh ở là
    của một Soái lớn từ Liên Xô về xây. Nó
    cắt cổ anh mà anh không biết... Em tìm
    cho anh chỗ hay hơn, máy lạnh có, ăn
    uống những món dân tộc, giá chỉ chưa
    đến một nửa... Anh "bao" đi, em lo
    hết!"
    Tôi ngần ngừ. Nàng ngồi sát vào tôi,
    tay lại để lên đùi tôi, nhỏ nhẹ:
    "Bao em, thì em sẽ là "của" anh thời
    gian anh ở Hà Nội này..."
    "Của là của thế nào?", tôi hỏi, chắc
    ngớ ngẩn đến độ nàng phì cười.
    "Còn thế nào nữa. Tất tần tật. Em
    thay chị nhà anh một trăm phần trăm.
    Cơm bưng nước rót, muốn gì được nấy,
    phục dịch ngày đêm, bảo đảm vệ sinh
    an toàn... Nàng vuốt ngược đùi tôi,
    chau mỏ - Em có giấy bác sĩ mới tuần
    trước, chẳng bệnh tật gì sất... Còn chỗ
    ở, khu Nghĩa Đô, nhà xịn mới xây, một
    tầng lầu hai phòng là thuộc về "chúng
    mình", máy lạnh, nước nóng, giường
    chăn đủ cả... Ngày, mười đô thôi,
    chuyên chở có một chú taxi, thêm năm
    đô, ngày ngày đưa mình vào nội
    thành, đi chơi xa thì hợp đồng thêm..."
    "Thế sau đó thì..."
    "Phần em, vì anh tử tế với con cháu
    nhà em, em cảm động lắm... Xem nào.
    Nàng nghĩ ngợi, rồi nắm tay tôi - anh lại
    "hợp tạng" em, nên thế này nhé, anh
    cho bao nhiêu em xin, chẳng dám vòi
    gì..."
    Máu thực dụng của kẻ sống nước
    ngoài khiến tôi cẩn thận:
    "Nhưng không thế được... Em thấy
    bao nhiêu thì đủ!"
    Nàng nghiêm trang, ngồi thẳng lên,
    giọng trầm xuống:
    "Tháng này em có nhiều việc phải
    tiêu... Nàng thở dài - thôi thì em xin
    anh tám chục mỗi ngày! Vị chi anh cứ
    cho là trăm đô, kể cả tiền em đi chợ
    nấu cho anh ăn. OK chứ?"
    Tôi chột dạ. Mặc cả thế là đẩy câu
    chuyện đi quá xa. Thấy tôi ngần ngừ,
    nàng đứng lên:
    "Chẳng dám ép anh, trăm đô cho
    một ngày thiên đàng ở Hà Nội này là rẻ
    đấy! Bên Cali, chỉ ăn hai bữa xoàng
    xoàng cũng hết trăm đô..."
    Nói dứt lời, nàng nguýt dài rồi yểu
    điệu bước đi, nhìn khinh bỉ, mặt không
    thèm giấu nét sưng sỉa. Con bé con
    nàng đứng chờ ở cửa. Nó giơ tay, làm
    cái tác động như để nói "Thế là hỏng
    ăn rồi, hở mẹ!".
    Chiếc Palm lại bần bật rung trong túi
    quần. Tôi mở chiếc điện thoại di động:
    Tin nhắn của Thụy, hẹn 6 giờ chiều lên
    một hàng ăn ở Tây Hồ.
    *
    * *
    23-02
    ... Luồn lách cây rừng chi chít được
    đâu nửa giờ, chúng tôi đến trước một
    căn nhà mái lợp gianh. Trùm A bấy giờ
    mới cất tiếng:
    "Khu này tôi trông nom an ninh, bảo
    đảm với anh an toàn tối đa. Sau này,
    chỉ yêu cầu anh một điều: đừng bao
    giờ, tôi nhấn mạnh, đừng bao giờ nhắc
    đến nó khi anh quay về sống với thế
    giới bên kia..."
    Nghe bốn chữ thế giới bên kia, tôi
    rùng mình. Có phải hắn có ý bảo là thế
    giới người chết, cái cõi âm vất vưởng
    những linh hồn không siêu thoát? Tôi
    gặng hỏi:
    "Thế giới bên kia là thế giới nào?"
    "Hừ... là cái thế giới từ đó anh đến
    khu đào vàng này. Nhưng đừng quên,
    tôi bảo khi anh về sống với thế giới bên
    kia... Chắc gì anh về. Và biết có sống
    được hay không!"
    Tôi lại rùng mình, da nổi gai. Chừng
    như thấy tôi sợ, hắn trấn an:
    "Tôi thì tôi mong anh sống, anh biết
    tại sao không?"
    - ???...
    "Vì cái anh tìm! Kẻ đến đây đãi vàng
    thì có được bao nhiêu. Giỏi cũng chỉ 1,
    2 lạng sau khi phân kim, lại chia cho
    dịch vụ an ninh chúng tôi 30%..."
    "Dịch vụ an ninh?"
    Trùm A giảng giải:
    "Thì cũng bắt chước như thế giới bên
    kia thôi, nhưng khác một điều là chúng
    tôi hợp đồng minh bạch chứ không chơi
    cái cách tham nhũng đâu nhé. Và
    chúng tôi nghiêm chỉnh áp dụng rốt
    ráo tiêu chí xã hội văn minh công
    bằng..."
    Chép miệng, hắn tiếp:
    "Nhưng quay lại cái vật quý hiếm
    nhé. Anh tìm, lại chưa biết nó là cái gì,
    thì còn quá đáy biển mò kim, nhưng
    bảo không thể tìm được thì không
    đúng, phải không nào! Thế có chi khác
    chuyện tin vào ông Thượng Đế thì được
    cứu rỗi, dẫu là chỉ trong muôn một...
    Cũng có thể vì thế nên anh rửng mỡ đi
    tìm, dẫu anh đang sống bình an trong
    một xã hội đi trước đất nước này hàng
    trăm năm, đúng chưa?"
    Tôi nghĩ đến kiểu đặt cược của
    Pascal, im lặng gật đầu, thầm cảm
    phục một người không lý giải quằn quại
    mà cũng vẫn tìm ra được cách khu xử
    hợp lý của một triết gia hạng nhất trên
    thế giới này ba trăm năm có lẻ. Trùm A
    mỉm cười, thân mật vỗ vào vai tôi. Lúc
    đó tôi mới dám nhìn thẳng vào mặt
    hắn. Xương xẩu, lưỡng quyền nhô lên,
    má trái có một vết thẹo chạy từ màng
    tai xuống đến cổ, tròng mắt sâu hoắm
    lấp loé sau cặp kính trắng khiến hắn
    mang dáng dấp trí thức tỉnh lẻ hơn là
    một tên lục lâm thảo khấu bao che
    chuyện đào vàng. Thình lình, hắn
    nghiêm giọng:
    "Giả như tìm thấy, đề nghị mình chia
    đôi nhé, chỉ anh với tôi thôi. Đám Trùm
    kia thu được tiền đô của anh là chúng
    hài lòng rồi. Còn như có cái vật quý
    hiếm Bảo Quốc Hộ Dân ấy thì bán cho
    ai? Bán thế nào?"
    Lặng người đi, tôi, một kẻ mơ mộng,
    nào có nghĩ đến chuyện rao bán cái
    giữ được nước, cứu được dân. Thấy tôi
    im, hắn lẩm nhẩm:
    "Cái phần Bảo Quốc có thể chuồn cho
    các vị lèo lái thế giới bên kia, nhưng họ
    chắc không mua cái Hộ Dân đâu... Hộ
    dân thì họ còn ăn uống thế nào được
    nữa! Món này khó tiêu thụ... Hừm, để
    xem."
    Bóp trán, mắt lim dim, vết thẹo trên
    má hắn phập phồng như thở. Lát sau,
    phá lên cười, hắn reo:
    "... tớ biết chỗ bán rồi, tớ là thiên tài.
    Vồ vai tôi, hắn nắm chặt, lắc lắc - đoán
    thử xem!"
    Không để ý đến tôi nhăn mặt vì
    đau, hắn nói như hét:
    "Này, tớ bán cho ban lãnh đạo láng
    giềng nhé. Chúng nó mua rồi quẳng đi,
    thế là ăn đứt được nước mình mà
    chẳng tốn quân, tốn của, và mang
    tiếng "bá quyền"! Đấy, thần tình chưa -
    hắn vỗ ngực, giọng phấn khích - một
    sáng kiến kết hợp nhuần nhuyễn kinh
    tế và chính trị toàn cầu!"
    Gỡ tay hắn ra, tôi nhẹ giọng đến như
    van vỉ:
    "Phải tìm đã chứ, tay trắng thì bán
    gì?"
    "Đúng! Lấy lại bình tĩnh, hắn thở ra -
    Nhưng tìm phải có kế hoạch. Và tổ
    chức. Hắn lẩm bẩm như nói một mình -
    phải cho đi kiếm Ensara... về trợ lực."
    Quay nhìn tôi, hắn nói như ra lệnh:
    "Mai chúng ta khởi công! Hôm nay
    nghỉ lấy sức... Chỗ tìm ra vật quý hiếm
    ấy, tôi biết!"
    *
    * *
    Vừa bước chân vào nhà hàng ăn
    uống nằm ven hồ, một cô tiếp viên tươi
    như hoa đã ra đón, hỏi tên tôi, trịnh
    trọng nói: "Xin quý khách theo tôi".
    Men lối đi trên bờ nước, tôi được đưa
    đến trước một căn phòng, cửa đề chữ
    VIP đỏ, đằng sau có tiếng cười đùa rôm
    rả. Cô tiếp viên nghiêng mình, giọng
    văn minh có định hướng kinh tế thị
    trường, ngượng ngập "Xin mời" rồi đẩy
    cửa. Không khí mát rượi trong phòng
    ùa ra. Chưa nhìn thấy gì thì một vị chạy
    lại, và mặc dầu tôi chẳng biết là ai, anh
    ta thân tình quàng vai, miệng nói, chà
    chà, đợi anh mãi đấy. Một thiếu nữ rất
    xinh đưa tay vẫy tôi khi được giới thiệu,
    tên là Nhất Phương. Một vị, chừng thất
    thập, tóc dài nhuộm đen, miệng lún
    phún râu, gầy gò trong bộ áo choàng
    vàng kẻ dọc xanh đứng lên đến bắt tay
    tôi, nói bằng tiếng Pháp "vous êtes
    bienvenu, cher ami" rồi vẫy Nhất
    Phương, đẩy cho ngồi cạnh tôi. Và sáu
    bẩy vị khác, tuổi từ ba đến năm mươi,
    đều là những nhà văn nhà thơ, tự kể
    tên nhưng than ôi, tôi chỉ là một kẻ
    thực dụng chẳng để ý đến chữ nghĩa,
    đành chỉ cười cười cúi đầu chào thật lễ
    độ. Sau đó, ai cũng nói một câu thế
    nào cho tôi hiểu là họ đều quen biết
    hắn, thằng anh hờ trời đánh thánh vật
    tôi phải cất công về đây tìm. Tôi nhìn
    quanh nhưng không thấy Thụy, quay
    sang hỏi Nhất Phương thì nàng đáp
    không biết là Thụy cũng hẹn đến đây.
    Vị đứng tuổi, nhà thơ cách tân đầu đàn
    ghé vào tai tôi, mủm mỉm cười:
    "Toa cứ gọi moa là anh, như mọi
    người chứ đừng theo tuổi tác mà gọi
    moa bằng chú nhé. Anh em ở đây ai
    cũng gọi moa bằng anh. Cứ kể cái tính
    chứ đừng đếm tuổi, dễ moa còn trẻ hơn
    họ đấy. Moa có tiếng là "lão ngoan
    đồng" Châu Bá Thông của nền văn hóa
    bản địa..."
    Nhà thơ lảo đảo đứng lên, tay nâng
    ly, nói lớn:
    "Nào, cụng ly uống mừng buổi hội
    ngộ hôm nay nhé!"
    Thế là tiếng thủy tinh loại vừa rẻ vừa
    bền lạch tạch như pháo chuột vang lên.
    Rượu là rượu trắng, gọi là Vodka-ta, khá
    đầm. Uống đệm, có mấy thùng bia
    Heineken, tiếng mở nắp chai lốp bốp.
    Còn món nhậu, thì ếch, nhái, và đặc
    biệt là bò tùng xẻo. Nhất Phương ríu rít:
    "Em xẻo thịt, anh nhé!"
    Nghe xẻo thịt anh, tức là mất cái dấu
    phẩy trong một câu thoại, tôi giật mình
    ôm lấy cánh tay như một phản ứng tự
    vệ. Phương tưởng tôi đùa, cười:
    "Xẻo thịt bò cho anh ăn, đừng lầm
    mà ăn phải thịt em nhé..."
    Nhà thơ cách tân chồm qua, nói bô
    bô:
    "Thịt em thì phải ăn tươi chứ. - Cười
    hô hố, ông ta tiếp: - Nhất Phương là
    thiên nhất phương trong thơ Tô Đông
    Pha đấy, toa người Tây học có biết là
    ai không?"
    Thấy tôi lắc đầu, nhà thơ cách tân hạ
    giọng:
    "Moa biết, mấy toa giỏi thơ Tây thơ
    Mỹ chứ mấy cái món cổ thì nào có để ý.
    Còn moa, nói thật nhé, ông cụ đẻ ra
    moa là thầu khoán, gia đình gốc tư sản
    nên đi học trường của Pháp từ thời trước
    45, may có chút chữ Hán ông nội moa
    bắt học thuở bé nên mới giữ được chút
    truyền thống. Mười bốn tuổi, moa mê
    Lamartine, mê Chateaubriand... rồi khi
    đọc Beaudelaire thì moa lập chí làm
    thơ!"
    Tôi gật gù. Kể thật lạ, kỳ trước tôi về
    nước cách đây đâu mười năm, người
    đâu đâu cũng bảo mình gia đình vốn ba
    đời là nhà nông cấy thuê không ruộng
    không đất. Bây giờ, chỉ mới ba ngày
    qua, nghe ai cũng khoe gốc họ nếu
    không tư sản thì đều là con cháu quan
    lại thời nhà Nguyễn. Tôi nốc vội ly rượu
    để quên thắc mắc. Nhà thơ cách tân
    ghé vào tai, rù rì:
    "Ngôn ngữ là một điều kỳ lạ. Bất cứ
    thứ tiếng nào moa học cũng nhanh, và
    moa cảm ngay cái hồn của nó. Đọc thử
    toa nghe một vài câu moa làm nhé...
    La tendre folie... dans cette vie... Ce
    rêve fantasmagorique... d’une
    fraicheur frigorifique..."
    Tôi chưa dám nói gì, Nhất Phương đã
    xuýt xoa:
    "Em nghe có vần như thơ Đường.
    Nhìn tôi, nàng nói - chả là em đang du
    học ở Thượng Hải về điện ảnh nên
    tiếng Trung Quốc bây giờ em cũng tàm
    tạm, nghe thơ có vần là em biết ngay...
    Này nhé, em nói sai thì anh sửa... phôli
    vần với vi. Còn cái vần sau là ích... phải
    không?"
    Không dám gật đầu, tôi nhìn sang
    nhà thơ cách tân, tảng lờ bằng cách
    nâng ly uống mừng. Mừng gì đây? Nhà
    thơ cách tân vừa cười vừa hỏi. Nhất
    Phương đáp hộ ngay:
    "Thì mừng cho sự hội nhập Đông -
    Tây chứ còn gì nữa! Nàng khúc khích,
    nâng ly, tay kia giơ lên, miệng hò -
    Nào... zô nhé!"
    Thế là zô, zô... Tôi uống, và cứ thế,
    uống mừng cái này, mừng cái kia như
    thể cuộc đời cũng đang mừng vui nhộn
    nhạo.
    Trời về chiều, hoàng hôn lướt trên
    mặt hồ như một tà áo đỏ vờn bay trên
    mặt nước óng ánh. Ô hay, sao không
    thấy Thụy. Tôi lại hỏi Nhất Phương.
    Nàng béo má tôi, cười, có em đây thì
    cần gì đến ai. Và nàng lại rót, tôi lại
    uống, cứ thế...
    Khi tôi tỉnh dậy thì không còn một ai
    trong căn phòng VIP. Giụi mắt, tôi ngơ
    ngác nhìn một nhân viên nhà hàng vỗ
    khẽ vào vai, đánh thức tôi dậy để tôi
    thanh toán cái hóa đơn ăn mừng vừa
    rồi. Tôi bấm máy gọi cho Thụy. Tiếng
    anh ta ngạc nhiên:
    "Tôi nào có hẹn anh đâu!"
    Một lát sau, Thụy phóng xe đến đón
    tôi về. Nhìn tôi, Thụy nói:
    "Anh xem cái tin nhắn gửi đến anh là
    ai gửi!"
    Quả thực không phải Thụy gửi mà là
    địa chỉ mail lạ hoắc. Gửi ngược về địa
    chỉ đó, chúng tôi mới biết đó là một
    trạm Internet trên phố Trần Hưng Đạo.
    Thụy bực bội:
    "Tôi hỏi đám bạn quen tin về ông anh
    của anh, đưa số e-mail của anh cho
    một vài đứa để có gì chúng nó thông
    báo thẳng với anh... Nhưng thằng nào
    chơi cái trò "ăn chạy" này?"
    Vỗ vai Thụy, tôi bảo chẳng có gì
    đáng để quan tâm. Và hỏi, Trang ở
    đâu?
    *
    * *
    ... Buổi trưa hôm đó, tôi được phép
    đi quanh quẩn trong khu vực Trùm A
    phụ trách an ninh dưới sự giám sát
    của một bảo vệ, hệt như là ở thế giới
    bên kia. Nắng gay gắt, trời lại không
    gió, nóng đến mờ mắt, nhưng đám
    người đãi vàng vẫn say sưa, kẻ xúc,
    người sàng, đổ nước rửa cát, rửa đá
    ven một con suối cạn, giơ lên ngắm
    nghía, lắc đầu hoặc gật gù tùy cái may
    mắn trời cho. Họ đi từng ê-kíp ba, bốn
    người, lúc nào cũng có một người lãnh
    nhiệm vụ canh chừng. Anh bảo vệ
    giảng giải:
    "... Ở đây rất dễ bị cướp, lắm khi bảo
    vệ tụi tôi không can thiệp kịp. Nghèo
    nên tham mà anh! Bắt được cướp, tụi
    tui bắn bỏ liền. Mấy xếp trong Trung
    ương dặn, mình kiếm ăn được là vì giữ
    an ninh trật tự nghiêm minh!", rồi cười
    hề hề.
    Tôi nhìn anh, hỏi: "Kiếm khá không?".
    Thì thào, anh hạ giọng:
    "Bí mật nghe! Mình lấy từ 30 tới 40%
    lượng đá có quặng vàng. Nếu người
    đào vàng khoán cho mình phân kim thì
    mình lấy 20% lượng kim. Ngoài ra, khi
    phân chia lô để đào, mỗi lô mình
    "thuế" từ một tới hai trăm ngàn đồng
    mỗi ngày, tùy lô tốt xấu... Bảo vệ tụi
    tui đứa được triệu hai cho tới triệu rưởi
    một tháng, mà là tiền Việt Nam mình
    nghe..."
    Không thấy phụ nữ đi đào vàng, tôi
    thắc mắc. Anh bảo vệ chém tay vào
    không khí, quả quyết:
    "Có mấy bả, chắc tụi tui lại phải lo
    luôn chuyện ghen tuông lang chạ. Hồi
    ban đầu, có mấy bả, xảy ra lắm vụ
    mấy bả kêu là hãm hiếp, phức tạp lắm.
    Ông xếp khu này họp. Ổng nói - xưa
    nay người ta lấy vàng thử bụng đàn bà,
    lấy đàn bà thử bụng đàn ông. Không
    để phụ nữ ở đây, nhưng bề nào vàng
    cũng đến tay họ, thế là vẫn đúng quy
    luật chớ không phải kỳ thị phân biệt
    nam-nữ chi cả... Anh nghe hay không?
    Ổng xưa học tới cấp ba, trí thức thứ
    thiệt chớ không như tụi tui đâu..."
    Bước lại ven suối gần nhóm người
    cắm cúi sàng sẩy, tôi thóp bụng lùi lại.
    Một anh lông mày xếch ngược thò tay
    nắm cán một con dao rừng sáng quắc,
    ánh mắt chỉ dịu đi khi anh bảo vệ xô
    đến, miệng kêu "Khách của ông Trùm
    đó!". Quay sang tôi, anh dặn "Đi lang
    bang là mất đầu đấy nghen!". Bất giác,
    tôi đưa tay lên sờ cổ, gật đầu, biết nó
    còn đấy.
    Về nằm trong một cái lán để tránh
    nắng, tôi tự hỏi, Trùm A khẳng định chỗ
    tìm được cái vật Bảo Quốc Hộ Dân.
    Nhưng là chỗ nào? Và trên cơ sở gì hắn
    khẳng định như vậy? Ngược lại, nếu
    hắn không nói thế, tôi cũng chẳng biết
    tìm chi, và tìm ở đâu, chỉ đoan chắc là
    khi tìm thấy thì vật đó phát sáng, đồng
    thời nghe được một tiếng nói từ thinh
    không. Tóm lại, tất cả mù mờ như làn
    hơi nước bốc lên dưới ánh nắng đổ lửa
    trên thế gian đang lục bục sôi như một
    nồi nước trong đầu tôi. Lơ mơ quẩn
    quanh như thế, đến lúc xế chiều thì có
    người đến gọi tôi đi.
    Lên căn nhà mái lợp gianh tôi đã đến
    ban sáng, tôi vừa thò đầu vào thời
    Trùm A vẫy tay, chỉ một người đàn ông,
    giới thiệu:
    "Đây là thầy Ensara. Thầy sẽ trợ lực
    cho chúng ta!"
    Người đàn ông cao lêu nghêu, áo
    choàng từ đầu xuống chân trắng toát,
    đầu quấn khăn cũng trắng, ngước mắt
    nhìn tôi vô cảm. Thật khó đoán ra tuổi
    tác. Khẳng khiu nhưng lỗ chỗ những
    vết sứt sẹo có lẽ di lại từ một trận đậu
    mùa thuở niên thiếu, khuôn mặt
    Ensara dài ngoẳng, da sạm một thứ
    mầu mun han rỉ. Ensara nói lơ lớ,
    nhưng Trùm A hiểu, đáp:
    "Khởi công càng sớm càng hay.
    Ngay đêm nay cũng được!"
    Ensara gật đầu, chẳng nói chẳng
    rằng xách bị đi ra ngoài. Nhìn Trùm A,
    tôi hỏi:
    "Ông ta là ai? Và trợ lực thế nào?"
    "Ông ấy là thầy pháp, người
    Chàm..."
    Chỉ chiếc chõng tre bảo tôi ngồi,
    Trùm A giảng giải. Khu này đãi cát tìm
    vàng là chuyện phụ, kiếm chẳng được
    mấy. Nhưng sát chân núi là khu cổ mộ
    của dân tộc Chàm từ mấy trăm năm
    nay. Họ chôn của cải với người chết,
    trong những cái chum sành. Người chết
    càng giầu thì của cải châu báu càng
    nhiều, không chỉ có vàng mà còn có cả
    cổ vật, ngọc ngà... Đào mả, phải đề
    phòng rắn và ma Hời. Rắn, có thuốc.
    Nhưng ma Hời, phải nhờ tới thầy pháp.
    Người đi đào mả kể hễ cứ chạm vào
    chum là nghe tiếng khóc lóc, tiếng chửi
    rủa. Có kẻ hoa mắt thấy giáo mác sáng
    loáng vung lên. Có kẻ tối mặt tối mũi,
    xây xẩm gục xuống, sau hóa rồ hóa
    dại. Từ ngày vời được Ensara, những
    hiện tượng kia bớt dần, nhưng cách
    đây hai tháng, có người thò tay vào
    một cái chum rất lớn bỗng nhiên bị hút
    tuột vào, và biến mất, không để lại
    chút hình tích nào, chẳng được như là
    cát, là bụi. Từ đó, Ensara xin thôi. Hiện
    còn bảy cái chum chưa ai dám động
    tới. Trùm A hạ giọng:
    "Tôi đích thân đến nói mãi Ensara
    mới nghe, đòi đến 20 lạng vàng thù
    lao..."
    Chỉ nghe Trùm A kể, tôi đã ớn lạnh,
    lưng đổ mồ hôi. Rùng mình, tôi gặng:
    "Nhưng sao mà biết vật quý hiếm ở
    trong bảy cái chum đó?"
    Trùm A bật cười:
    "Này nhé! Khi tôi ở bên Liên Xô, tôi
    nghe một câu chuyện thế này, kể cho
    anh nghe. Có một đêm, một người
    đánh rơi một đồng tiền vàng trên
    quãng đường từ nhà anh ta ra đến
    cổng làng. Con đường đó có độc một
    cái đèn đường, còn lại tối đen như mực.
    Anh ta cặm cụi bới từng cọng cỏ dưới
    ngọn đèn tìm đồng tiền. Dân làng cười,
    bảo đồng tiền đó có thể rơi bất kỳ chỗ
    nào trên cả con đường dài này, sao cứ
    loay hoay tìm đúng một chỗ. Anh biết
    người đó trả lời thế nào không?"
    Nhìn Trùm A, tôi lắc đầu. Giọng hể
    hả, hắn khệnh khạng:
    "Tôi tìm chỗ sáng, vì chỉ chỗ ấy may
    thì tìm thấy. Còn chỗ tối, rõ là vô
    phương... Đấy, tôi cũng vậy. Bảy cái
    chum kia là chỗ sáng, còn lại thì khu
    này tôi nằm lòng, có cái quái gì mà
    tìm!"
    Vẫn sợ, tôi cố vớt vát:
    "Cái may này đổi hai mươi lạng
    vàng, đắt đấy..."
    "Hà hà... đưa trước một lạng thôi, tìm
    ra thì mới chồng tiền chứ! Tìm được cái
    vật quý hiếm ấy thì hai mươi lạng có
    nhằm nhò gì", Trùm A đáp, giọng chắc
    nịch.
    Cơn sợ bị hút vào một cái chum để
    rồi vô hình vô tướng khiến tôi run lên.
    Nghiến cho răng thôi đánh vào nhau,
    tôi cò kè:
    "Còn chuyện này, hôm anh nói bán
    vật quý hiếm cho ông láng giềng thì tôi
    chưa phát biểu ý kiến. Tôi nghĩ thế là
    không được! Họ nay vẫn kè kè sát
    nách ta... Nguy lắm! Tôi không muốn
    dính dáng vào cái nghiệp này đâu..."
    Trùm A nghe tôi nói, nhếch mép cười
    như muốn bảo thế là chú mày sợ chứ
    gì, sẵng:
    "Thế thì làm thế nào?"
    Không biết ăn nói ra sao, tôi sượng
    sùng:
    "Tôi chịu, anh thử động não xem sao.
    Chuyện buôn bán tôi kém lắm!"
    Trùm A nhổ nước bọt, quay lưng
    bước ra ngoài.
    *
    * *
    24-02
    Đến tối, tiếng cú rúc cứ vang lên
    từng chập. Gió lên, cây rừng xào xạc,
    trăng non lơ lửng giữa những đám mây
    rám bạc trên đỉnh đầu. Ngày nóng,
    nhưng đến đêm, rừng ẩm ướt khiến trời
    lạnh hẳn đi. Xa xa, tiếng trống bập
    bùng nhịp cho tiếng kèn ai oán vẳng
    lại. Trùm A bất ngờ hiện ra. Như một
    phản ứng, tôi rụt người lại, nói ngay:
    "Anh tìm người khác thay tôi... Ở đây
    thiếu gì người!"
    "Hừ... không được! Ensara đã liên hệ
    được với nữ thần Shiva. Thần phán,
    đây là karma của anh, chỉ có anh mới
    có cái duyên nghiệp này... Còn chuyện
    bán, tôi nghĩ ra để chiều lòng anh rồi.
    Ta bán nó cho bọn đã từng muốn
    chiếm một nửa nước ta. Bây giờ Bảo
    Quốc là cho nó tất, chắc chắn sẽ OK.
    Còn Hộ Dân thì chúng nó đòi ta tôn
    trọng nhân quyền, điều nằm trong
    chiến lược toàn cầu trên thế giới,
    chúng nó không thể từ chối được!
    Chúng nó lại vẫn mạnh nhất, giàu
    nhất... anh có đồng ý không!". Mà
    này, Trùm A cười nhạt vỗ tay vào bao
    súng lục, "Anh không đồng ý thì cũng
    phải hợp đồng với tôi, anh nghe rõ
    chứ?"
    Dứt lời, Trùm A vẫy tay. Một toán
    bốn người xông vào, kẻ bịt mắt, người
    xốc vai tôi lôi đi. Quanh co một lát,
    chúng tôi đến trước một đống lửa cháy
    có ngọn. Trùm A mở băng bịt mắt, tôi
    thấy có cả Trùm B và C đứng đợi.
    Ensara vẫn chân nhẩy tay múa, bước
    vòng vòng quanh đống lửa, miệng hú
    dài, tiếng hú hòa vào tiếng chí chóe
    của những con khỉ khiến nhân giới nay
    chập chờn hư thực. Ensara đến trước
    mặt tôi, nói lớn tiếng. Chưa kịp hiểu gì,
    Trùm C ra lệnh:
    "... Cởi hết quần áo ra!"
    Trần như nhộng, tôi khép chân, tay
    che, thầm nghĩ mình nào khác chi đàn
    khỉ leo trèo trên cây. Ensara kéo tôi
    đến trước một bức tượng bằng đồng,
    trăm tay trăm chân, đứng nghiêng,
    hông xếch lên, miệng như cười. Hắn rút
    từ bị đồ nghề cái chổi lông, chấm vào
    một dung dịch sền sệt bốc mùi khăm
    khẳm, hoa lên trời rồi rì rầm to nhỏ.
    Ngửa mặt nhìn trăng, hắn lại hú, ngay
    sau đó thét lên những từ ngữ lạ hoắc,
    tiến tới bắt tôi há mồm, đổ ực vào một
    loại nước mùi hăng hắc. Làm xong
    động tác này, Ensara lại nhẩy múa như
    một con choi choi, giọng hú mỗi lúc
    một não nùng, tay dùng chổi quệt vào
    người tôi những nét ngang, nét dọc. Tôi
    như mê đi, sực tỉnh khi thấy người bị
    choàng vào hai lượt dây chão bện bằng
    vỏ cây nhuộm đỏ, một ở ngang ngực,
    một ở bụng. Xưa nay huênh hoang là
    một kẻ vô thần vì thừa hưởng được
    tinh thần duy lý của thế kỷ Ánh Sáng,
    tôi bỗng thấy cần một sự che chở siêu
    nhiên. Nhưng cầu ai? Jesus, hay Thích
    Ca, hay Mohammed...? Không biết, tôi
    lẩm nhẩm... lạy Trời!
    Chẳng biết Trời nghe thấy chưa
    nhưng tôi bị điệu đến trước một cái
    chum đường kính độ hai vòng ôm, nắp
    mở toang hoác, phía trong đen ngòm.
    Người ta buộc những sợi dây nối người
    tôi vào gốc một thân cây khá to nhằm
    nếu như cái chum hút tôi vào thì còn
    có hai sợi dây giữ dịt tôi ở cái thế giới
    này. Không tin lắm vào khả năng thô
    sơ này, tôi cứ chùng chình, tay không
    dám đưa vào cái lỗ trống đen ngòm
    trong đó vật chất có khả năng tiêu tan.
    Thấy vậy, Trùm C quát:
    "ĐM... mi đưa tay zô, nếu không ông
    bắn bỏ!"
    Nghe tiếng đạn nạp vào nòng súng,
    tôi tự nhủ, có chết thì thà là tiêu tan
    còn hơn bị một viên đạn đồng cắm vào
    tim, thậm chí có thể lệch sang phổi,
    không chết ngay mà khắc khoải cả
    đêm. Tôi nhắm mắt, thọc tay vào chum
    khoắng lên, mắt chờ bảo vật phát
    sáng, tai dỏng ra đón từ thinh không
    những lời huyền diệu đổi mệnh Trời.
    Chỉ có tiếng lục cục xương cốt hàng
    trăm năm trước đập vào nhau. Trùm A
    quát:
    "Không có đếch gì à?"
    Tôi lắc. Thế là họ điệu tôi qua chiếc
    chum thứ hai cách đó cả trăm thước.
    Cũng vậy. Rồi đến chum thứ ba, thứ
    tư... Ensara vẫn nhẩy múa, nhưng bước
    chân có chậm lại. Khỉ trên cành chí
    choé nhiều hơn. Khi tôi mò vào chiếc
    chum thứ bảy, trời đã tờ mờ sáng. Vẫn
    chẳng thấy gì. Ô hô, cái vật quý hiếm
    Bảo Quốc Hộ Dân đâu? Trùm B, kẻ
    đánh tôi một cái tát, lầu bầu như chửi.
    Trùm A, mặt đanh lại, gằn:
    "Đưa nó tới tìm ở cái chum đã hút
    người... Mình đâu biết có cái gì trong
    đó!"
    Tôi lạnh người. Ensara lè lưỡi, mặt
    dài thuỗn ra.
    Đi khoảng mươi phút, người ta đẩy
    tôi chúi xuống chân một cái chum lớn
    hơn những cái chum khác ít là hai lần.
    Không hiểu vì cớ gì, tôi cảm thấy bình
    tĩnh. Có chết, cũng chết cho vinh
    quang. Chết vì nước. Chết để Bảo
    Quốc. Chết vì Hộ Dân. Và chết như
    vậy, ai nỡ vừa chết vừa sợ, rên rỉ, khóc
    lóc. Trong thoáng chốc, tất cả quá khứ
    hiện lại, rõ ràng từng nét, với từng
    người tôi yêu thương. Khi thấy lại hình
    ảnh người đàn bà trên thuyền đêm
    sông Hương hôm nao cười buồn, tôi đã
    sẵn sàng. Nhìn Trùm A, tôi nói như
    trăng trối:
    "Nhớ đấy... Đừng bán bậy, chọn mặt
    gửi vàng, nghe không!"
    Quay lại nhìn những con người đứng
    trợn mắt nhìn, tôi mang tâm trạng một
    Kinh Kha ngày bên bờ sông Dịch. Trùm
    A hò:
    "Buộc dây cho chắc vào gốc cây, rồi
    hai thằng nắm một dây. Động tịnh bất
    thường thì kéo khi tao hô! Hiểu chưa?"
    "Hiểu!" Đám tay chân của Trùm A hò
    lên.
    Ensara tiến tới trước mặt tôi, vẽ bùa
    trong không khí, bảo tôi há miệng ra.
    Tôi lắc đầu, liên tưởng đến cái dung
    dịch hăng hăng hắn đã đổ vào miệng
    tôi. Sống cho sạch, chết cho thơm, tôi
    nghĩ bụng. Thình lình, trong tranh tối
    tranh sáng, tôi thấy một vị đầu trọc
    mặc áo nâu sồng ngồi dưới gốc cây,
    một tay che mặt, tay kia giơ lên như
    bắt quyết. Rồi tôi nghe trong thinh
    không tiếng mõ văng vẳng, và tiếng ai
    đó thì thào bên tai:
    "... trong cõi vô thường sinh ký tử
    quy, ngộ ra trong một sát na cái biên
    giới tử sinh thì cũng đáng một kiếp rồi,
    sân si ái vọng nữa mà chi..."
    A, chân lý đây. Và phải sống với nó,
    chết với nó. Tôi ưỡn ngực bước thẳng
    đến miệng chum mở toang hoác, đen
    ngòm ngòm, trong đó chắc chắn chứa
    cả cái vô hình vô tướng của kẻ đã từng
    biến vào đó như chưa từng là da là thịt.
    Tay tôi vừa qua miệng chum, quả có
    một thứ lực quy tâm hút tôi vào. Chân
    dậm xuống trì kéo lại, tôi thò tay vào.
    Trời hỡi, một thứ mùi tanh hôi nhớp
    nhúa sực lên, và có gì đó như trăm cái
    vòi bạch tuộc cuốn lấy cánh tay tôi.
    Trùm A hô kéo, rồi chạy lại nắm dây
    phụ lực. Ensara rống lên như phát dại.
    Vật Bảo Quốc Hộ Dân tất phải ở đây
    thôi. Nghiến răng, tôi thọc sâu tay vào,
    vai đã quá miệng chum, nhưng tôi cố
    giữ đầu tôi ở ngoài để thở. Tay tôi gần
    như đụng đến đáy chum. Phải rồi, vật
    quý hiếm đây chăng? Đụng vào nó, nó
    sắc lạnh, nó phát sáng. Có tiếng reo.
    Tôi dỏng tai cố nghe một tiếng gọi giữa
    thinh không. Gom hết sức, tôi nắm
    chặt lấy cái vật vô cùng quý hiếm. Bây
    giờ, chết tôi chẳng sợ, chỉ sợ nó vuột
    khỏi tay. Chân tì vào thành chum, tôi
    cong người vận mười thành công lực,
    đạp ngược. Có tiếng gió ào ào lướt qua.
    Tôi hững người, ngã bịch xuống trong
    tiếng reo, ngất đi.
    #2
      lyenson 01.04.2009 16:05:39 (permalink)
      BA
       
      Sáng tinh mơ hôm sau, tôi lại đi vòng
      Bờ Hồ. Một vòng, rồi hai... Đến
      vòng thứ ba, con bé hôm qua ở đâu xô
      ra lẽo đẽo theo sau. Thêm một vòng,
      nó rướn đến cạnh tôi, chạm nhẹ vào
      tay tôi, mủm mỉm cười. Làm như không
      biết, tôi nhìn thẳng, rảo bước. Nó đi
      như chạy, thỉnh thoảng lại khều khều.
      Cho đến khi tôi ngừng chân, mắt nhìn
      phía xe chạy, nhấp nhổm qua đường,
      nó nói "Cháu đi mở đường cho!". Nhớ
      hình ảnh bà cụ bị xe đụng hôm qua, tôi
      rùng mình, không trả lời.
      Sang đến hè đường bên kia, con bé
      chìa tay:
      "Cho cháu tiền phở như hôm qua đi,
      công cháu mở đường cho chú. Nhé, chú
      nhé!"
      Gạt tay con bé, tôi leo lên tam cấp
      vào khách sạn. Mở vòi nước lạnh, tôi
      lẩm bẩm một mình, sao mãi chẳng
      thấy Trang điện thoại. Tắm táp xong,
      tôi mở máy gọi Thụy. Không nói chuyện
      được, tôi đành để tin nhắn, ra ngoài tìm
      quán ăn điểm tâm. Con bé đứng chờ
      ngay cửa khách sạn, nhưng làm như
      ngẫu nhiên, thờ ơ: "Cháu chào chú". Tôi
      đi thẳng lại cái quán gần Nhà Chung,
      ngồi vào chiếc bàn kê cạnh cửa kính.
      Húp đến thìa thứ hai bát bún thang còn
      bốc khói, con bé đến sát bên, mắt
      chòng chọc. Thế này thì còn ăn uống gì
      được hả Trời! Con bé chỉ tay vào mồm,
      vào bụng, nước giãi ứa ra khoé miệng,
      ánh mắt khẩn cầu. Chắc nó đói, tôi tự
      nhủ. Miếng bún nghẹn ở cần cổ, tôi
      quay đi. Đứng lên, tôi ra cửa quán ăn,
      vẫy. Khi nó đến cạnh, tôi đút vào tay nó
      năm nghìn. Con bé lẩm nhẩm:
      "... vẫn như hôm qua, còn vật giá thì
      leo thang!"
      Tôi gần phát điên, hỏi "Ai bảo mày
      vậy?". Nó thản nhiên "...mẹ cháu chứ
      còn ai. Rồi đài, báo... chỗ nào cũng nói
      thế cả!".
      Nắng đầu ngày mỗi lúc một gắt.
      Tiếng xe gắn máy rầm rầm, còi bóp inh
      ỏi. Trong lòng những con đường trung
      tâm Hà Nội, khói xe bay mù, mùi xăng
      bốc lên. Tần ngần, tôi chẳng biết đi
      đâu, lớ ngớ nhìn quanh hệt một kẻ đi
      lạc đang tìm đường. Con bé đến gần.
      Tôi hỏi, có chỗ nào vắng xe ở quanh
      đây không? Nó đáp, ra Văn Miếu, cháu
      đưa. Tôi lắc đầu, lôi bản đồ thành phố
      ra. Nửa giờ sau, tôi chẳng nhìn đống
      văn bia tiến sĩ, tìm một gốc cây tỏa
      bóng mát, ngồi thật im. Tôi nhắm mắt.
      Để chiếm hữu lại cái hiện tại tôi không
      chọn lựa. Để mò mẫm trong một cuộc
      kiếm tìm kẻ đã ngược dòng thời gian
      quay về triều Lý.
      *
      * *
      26-02
      Khi tôi tỉnh, Trùm A ngồi bên cạnh.
      Tôi thều thào hỏi "Cái vật quý hiếm đó
      đâu?". Hắn giúi vào tay tôi một ống
      kim loại lạnh ngắt. Nắm chặt lấy nó
      như níu vào đời này, tôi mỉm cười, sung
      sướng tự nhủ, thì nó đây, cái vật quý
      hiếm mà tôi đã sẵn sàng hy sinh cái
      thân xác tôi trước nguy cơ phân hóa
      đến độ vô tướng vô hình trong cái lỗ
      đen không năng lượng - vật chất mà
      các nhà khoa học đương đại gọi là
      black hole. Trùm A văng tục, giọng bực
      bội:
      "Nó là cái đèn pin của thằng chết bất
      đắc kỳ tử hai tháng trước. Thế thì bán
      cho chó cũng chẳng được! Thế là xong,
      quả này toi rồi. Nay trả lại anh cái hộ
      chiếu và những vật tùy thân. Tiền đô
      tươi thì chúng tôi giữ để thanh lý chi
      phí..."
      Trùm A đứng dậy, nói với lại:
      "Sáng ra, có xe đưa anh về Hội An,
      sau anh tìm xe đi đâu thì đi. Nhớ là
      cấm khai báo. Đừng quên cánh tay
      chúng tôi đủ dài để đến đâu với cũng
      tới, đi là đi, đánh là đánh, giết là giết,
      nghe chưa..."
      Vứt cái đèn pin xuống đất, tôi lặng
      người, đưa tay quệt nước mắt không
      biết chảy ra từ lúc nào. Ensara thay
      quần áo, thu xếp đồ nghề, khinh khỉnh
      không thèm nhìn ai. Tôi ngoảnh về phía
      gốc cây, nơi có hình bóng một vị sư
      đưa tay bắt quyết khi tôi thò tay vào
      cái chum cuối cùng, thấy một vòng
      khói trắng như sương đang loãng ra,
      tai nghe, vẫn cái giọng Huế ngọt ngào
      "... Bữa mô tìm thấy thì về đây với
      em!"
      Xe rời địa phận Mỹ Sơn, chồm khỏi
      cơn ác mộng và nỗi thất vọng khiến
      não bộ tôi đóng băng, người mất hết
      cảm giác, chân tay đơ cứng hầu mất
      mọi khả năng điều khiển. Đến thị xã
      Hội An, tôi chỉ còn sức xuống xe, đứng
      lớ ngớ, hồn vía bay tuốt đến một cõi
      nào đó vô minh. Tôi mò ra Cửa Đại,
      thuê căn phòng nhìn ra biển trong
      một mini-hotel. Mở cửa sổ, tôi im lặng
      ngắm những con sóng bạc đầu cho
      đến khi chiều tà. Mặt trời đỏ tía lơ
      lửng chìm nơi biển lẩn vào trời, ánh
      sáng quết một vết loang loáng mầu
      huyết dụ, lịm dần, chuyển sang mầu
      đen thẫm. Tiếng đứa bé tôi gặp khi
      vào đăng ký thuê phòng chí choé. Nó
      dị dạng, mồm méo, răng chìa ngoài
      vành môi sưng vều, tay lêu nghêu,
      chân ngắn chân dài, thổi phì phò qua
      kẽ răng hở thứ âm điệu ngọng nghịu
      của những đứa trẻ lên ba học nói. Ông
      chủ khách sạn, chắc quãng lục tuần,
      cười cười:
      "Cháu nội tui đấy... Đang chờ bồi
      thường nạn nhân chất độc da cam".
      Chỉ một thiếu phụ đang lau bàn, ông
      tiếp "Còn đây là dâu tui, lo công
      chuyện quản lý... Chú cần chi cứ nói
      nghen"
      Thiếu phụ ngước lên nhìn, ánh mắt
      lạnh lẽo, vô cảm.
      Ra ngoài bãi biển, tôi tìm một quán
      ăn vắng người. Quán xập xệ, bàn phủ
      khăn plát-tích hoen ố, ghế đẩu, ngay
      cạnh là bếp đốt bằng những bình ga,
      thực đơn nhàu nát kẹp trong hai mảnh
      giấy nhựa đùng đục. Bà chủ quán đon
      đả:
      "Chú ở khách sạn mini, phải hông?"
      Gục gặc, tôi chỉ mấy thân dừa trốc
      gốc. Chưa kịp hỏi, bà chủ quán đã nói:
      "Trận bão tháng trước Tết đó chú. Mấy
      tháng rồi mà hổng ai tới kéo đi. Chẳng
      bù với mấy cái khách sạn quốc tế, ba
      ngày là dọn sạch bưng! Nhà gạch
      mà... Xóm "nhà lá" tụi tui thì đợi, trên
      xã nói còn đang "quy hoạch", chú
      hà...". Không thấy tôi nói gì, bà tiếp
      tục:
      "Nếu cái ông chủ khách sạn chú ở
      còn là Chủ tịch thì chắc quy hoạch lẹ
      hơn bởi nếu không, ổng mất khách du
      lịch. Nhưng ổng "về" rồi, bị dân kiện vì
      lấy đất người ta ra chia cho quan chức
      mà hoàn trả không công bằng đó chú!
      Giá đền bù của Ủy ban chỉ năm, mười
      phần trăm giá thị trường, giải thích thì
      thị trường định hướng này nọ, dân tụi
      tui nghe hổng hiểu gì ráo, chỉ thấy vậy
      là người ta trả giá rẻ mạt... Kêu lên
      Huyện, Huyện biểu kêu lên Thị xã. Rồi
      Thị xã biểu không giải quyết, kêu lên
      Tỉnh. Tỉnh lại bảo kêu lên Trung ương.
      Rồi Hội đồng Bộ trưởng, rồi Quốc hội,
      rồi ông Thủ tướng, ông Chủ tịch Nước...
      Thiệt cực, chưa thấy ai kêu chi mà
      được, chú à... Phải chi có gì cứu được
      dân oan, chắc nhiều người xin chết để
      đánh đổi đó chú!".
      A, cái chi cứu được dân oan! Bà quán
      ơi, tôi cũng đang đi tìm nó đây. Nó có,
      hay không có?
      Nếu nó có thì thất bại ở Mỹ Sơn vừa
      qua là chuyện Tái ông mất ngựa. Vì tìm
      được, thì dưới áp lực của bọn Trùm là
      phải bán cho những bọn còn tham
      vọng đế quốc, bá quyền. Cứ nhìn
      chuyện chúng nó nói chống khủng bố
      bên Iraq nhưng thực tâm nhằm kiểm
      soát dầu lửa để khống chế Âu Châu
      khắc biết.
      Nhưng vật quý hiếm Bảo Quốc Hộ
      Dân đó, nó có, hay không có? Trước
      Tết, Rậm-ria điện thoại từ Đan Mạch,
      giọng nghiêm trọng: thần nhân mách
      bảo ta, thế là trao nhiệm vụ cho ba
      chúng ta, cứ gọi hỏi Tiểu-quỷ bên Anh
      xem. Tiểu-quỷ rành rọt, em cũng thấy
      một con bướm trắng bay vào nhà, rồi
      đêm đó, một vị áo nâu sồng lay em,
      bảo cái vật quý hiếm kia đã "về" đất
      nước, kẻ nào có cơ duyên sẽ tìm thấy.
      Thế thì phải về, cơ duyên ngàn năm
      một thuở. Lên kế hoạch, tôi đi ngay vì
      không công ăn việc làm trói buộc, dặn
      Rậm-ria và Tiểu-quỷ về sau, càng sớm
      càng tốt. Nhưng đến hôm nay, chúng
      vẫn biệt tăm hơi! Mở máy Palm bấm
      vào mục nhắn tin, vẫn chẳng có gì. Thế
      là sao? Hỏi bà chủ quán, quanh đây có
      cái cà-phê internet nào không? Bà chỉ
      tay vào con đường hun hút không một
      bóng đèn, đáp: "Chú đi bộ chừng nửa
      giờ, có... Nhưng tối trời thế này, chú là
      người lạ, không nên đi". Cám ơn bà.
      Đúng thế. Tôi phải bảo vệ thân mình để
      còn đi tìm cái vật quý hiếm Bảo Quốc
      Hộ Dân chứ.
      Giật nẩy người khi đẩy cửa khách
      sạn bước vào, tôi giụi mắt, tưởng mình
      quáng gà. Trong tranh sáng tranh tối,
      thiếu phụ tóc tai rũ rượi nhảy nhổm từ
      lòng một người đàn ông rồi lẻn vội ra
      sau. Ông chủ khách sạn bật đèn, vẻ
      bẽn lẽn, cười cười. Khi đó thằng bé tật
      nguyền xô ra. Nó quơ một chiếc gậy,
      miệng ngọng nghịu hét toáng lên "ĐM
      mày, ông nội!".
      *
      * *
      Hỏi cô tiếp viên khách sạn, tôi mới
      biết Thụy đến tìm, không gặp và để vài
      chữ nhắn lại, bảo Trang đã vào thành
      phố Hồ Chí Minh công tác ngắn ngày,
      tuần sau mới về Hà Nội, nhưng sẽ cố
      liên lạc qua điện thoại. Thốt nhiên, tôi
      cảm thấy bơ vơ. Và bất lực. Thấy mặt
      tôi chảy dài, cô tiếp viên thì thào:
      "Khi ở đây, ông anh của anh hay ra
      vườn hoa gần Quốc hội, lắm khi tối mới
      về... Anh ra đấy thử xem, lắm khi may
      là gặp..."
      Tôi gật đầu cám ơn. Đúng như mò
      kim đáy bể. Vô vọng. Tôi thốt nhiên sợ
      lên phòng khách sạn, chỉ một mình,
      giữa mười mét vuông lặng lẽ. Ra Bờ
      Hồ, tôi tìm tiếng động. Dẫu là tiếng xe,
      vẫn còn yên ổn hơn một sự im ắng có
      gì giống như khi đầu óc chập choạng
      lạc vào cõi u mê. Ngồi dưới bóng cây
      liễu, tôi nhắm mắt lơ tiếng chào hàng
      của những đứa bé bán thuốc lá, bật
      lửa, post card, ảnh khiêu dâm... cho du
      khách. Ăn mặc thế này, tôi nghĩ, chúng
      tưởng tôi là người Đại Hàn, Singapore,
      hay Đài Loan... qua đây mua đàn bà về
      làm... vợ chăng? Nghe đâu giá vợ - gọi
      cho chính xác, giá một nô lệ tình dục -
      khoảng năm nghìn đô cộng chi phí
      máy bay vu quy, bảo đảm vệ sinh,
      không aid, bán đứt với toàn bộ giấy tờ
      kết hôn và xuất cảnh chính thức.
      "Chú ơi, chú..."
      Con bé khều tay tôi. Mở mắt ra, chưa
      phản ứng thì tai nghe:
      "Em chào anh... Em đến cám ơn anh
      lại cho cháu tiền ăn quà sáng nay!"
      Mùi nước hoa đâm thốc vào mũi
      khiến tôi ngửng lên. Kề mông ngồi
      xuống băng đá bên cạnh tôi, mẹ con
      bé giả lả:
      "Nói thật, thấy anh thương con bé
      nhà em, em mừng lắm... Cái việc hôm
      nọ, anh bỏ qua cho em, thực tâm em
      chỉ muốn phục vụ anh mà thôi. - Giọng
      nửa đùa nửa thực, mẹ con bé vừa cười
      vừa nói - Anh muốn thì em cho con bé
      nhà em là con nuôi anh! Còn em, em
      già rồi, anh chẳng cần quan tâm đúng
      mức. Con bé nhà em sắp mười bẩy tuổi
      rồi, cái tuổi bẻ sừng trâu đấy..."
      Thực không hiểu ý, tôi ngớ ra,
      nghếch mắt nhìn mẹ con bé, mồm há
      hốc. Mụ véo vào tay tôi:
      "Ấy, em quý bác vì... bác thật thà.
      Này nhé... con nuôi bác, bác muốn làm
      gì thì làm. Bắt ngồi, ngồi. Bắt đứng,
      đứng!"
      Mụ hinh hích, nháy mắt:
      "Rồi bắt nằm, phải nằm, sấp ngửa
      thế nào cũng được, muốn gì có nấy. Em
      không phải khuyến mại mà chân thành
      nói với bác là cháu nó "còn nguyên si",
      em phải tìm người xứng đáng cho nó.
      Thật tình, em bảo cháu, mẹ già sắp về
      hưu mất rồi, con phải cáng đáng cái
      cuộc sống chỉ có mẹ với con. - Im tiếng
      như lấy đà, mụ cao giọng, hất hàm nhìn
      con bé: - Con phải sửa soạn đi làm, lao
      động là vinh quang, phải không nào?"
      Con bé cười, miệng toác ra, răng hở
      lợi, gật gật. Nhìn nó, tôi thấy thương.
      Nó chỉ độ mười bốn mười lăm là cùng,
      hiểu gì mà lắc với gật! Mẹ con bé đổi
      giọng, hạ xuống một ốc-ta, thầm thì:
      "Tình thật, đời con gái ai rồi cũng
      qua một lần... Như em, em không may.
      Lần trước chưa thân, em dối bác, bảo
      chồng em ở bên Đức. Thật ra, nó ở đây
      nhưng lang chạ với con mụ Giám đốc
      hơn nó hai giáp, bỏ bê mẹ con em gần
      chục năm nay. Em về quê ở Vĩnh Phú,
      thầy bu em đuổi, lại phải ôm con lên
      Hà Nội... Mà em thì chẳng nghề chẳng
      nghiệp gì, anh bảo sống bằng cái gì
      đây..."
      Thình lình mẹ con bé nghẹn ngào,
      nước mắt ứa ra hoen vào lớp mascara
      kẻ mi chảy xuống. Không biết làm gì,
      tôi lúng túng đứng lên. Mẹ con bé nắm
      tay tôi lại, mặt căng cứng, nói qua kẽ
      răng:
      "Em hiến nó cho anh, xin anh hai
      nghìn đô, lấy vốn làm ăn lương thiện
      chứ chẳng thể kéo dài thế này mãi. Giá
      này bọn đại gia ở đây có thể trả gấp
      đôi, nhưng em sợ cho con em, vì lắm
      khi chúng nó đến ba bốn thằng... khổ
      cho con bé! Được không anh?"
      Tôi giằng tay ra. Tôi vùng chạy,
      không rõ tại sao. Bất lực? Hay xấu hổ?
      Hay phản ứng cuối cùng trước khi có
      thể phạm tội? Cứ thế cắm đầu chạy, tai
      tôi nghe tiếng huýt còi. Rồi tiếng thét
      chát chúa:
      "Bắt lấy nó!"
      Bóng áo xanh rêu túa ra. Một người
      mặc thường phục chặn đầu tôi. Hắn
      cong mình vòng tay ôm lấy bụng, xoay
      thế nào mà tôi ngã bịch xuống đất, tay
      tức thì bị khóa trái. Tôi kêu "bỏ tôi ra"
      thì người đó quát "câm miệng". Công an
      ùa đến trong một chớp nhoáng. Người
      mặc thường phục, cũng là công an, giao
      tôi cho đồng đội. Chà, công an hữu hiệu
      thật. Lại có võ, chắc võ Tầu, bắt người
      ta dễ dàng. Tay bị bẻ quặt sau lưng,
      công an đẩy tôi vào một chiếc xe bít
      bùng nhanh chóng sịch tới. Về đến trụ
      sở công an quận Hoàn Kiếm, người trực
      là một trung úy đeo kính trắng hất hàm
      hỏi "cướp giật hả?". Tôi lắc đầu. Trong
      người tôi không có giấy tờ, hộ chiếu thì
      khách sạn giữ. Thành khẩn khai báo lý
      lịch xong, tôi nghe ông ta lạnh lùng:
      "Tại sao anh lại chạy?". Chết, nói thế
      nào bây giờ? Tôi ngập ngừng tìm kế
      hoãn binh câu giờ:
      "Nói ra thì... xấu hổ..."
      Viên trung úy nhìn xuống, tay vân
      vê ria mép, chờ đợi.
      "Thưa... tôi bị đau bụng, vội chạy về
      khách sạn để..."
      Đưa tay ngăn tôi nói tiếp, viên trung
      úy chun mũi. Được thể, tôi xin cho vào
      toa-lét ngay. Thế là một công an mặt
      non choẹt dẫn tôi đi qua một cái hành
      lang, tay kè kè súng (tại sao, tôi không
      biết), mặt mũi khẩn trương. Trong toalét,
      tôi định thần, và phát hiện tôi chạy
      ngược chiều lối về khách sạn. A, giấu
      đầu hở đuôi, làm thế nào lấy vải thưa
      che mắt thánh đây?
      *
      * *
      28-02
      Gõ xong "hai thằng chết tiệt, bay ở
      đâu, báo cho ta hiện ở Hội An hay
      ngay", tôi bấm nút gửi, đứng dậy thanh
      toán tiền. Vừa từ quán cà phê Internet
      cạnh chợ bước ra, tôi thoáng thấy thiếu
      phụ quản lý khách sạn. Người đàn bà
      đó trên dưới ba mươi, da đen giòn, và
      nếu bỏ đi cái nhìn lạnh căm của cô ta
      thì phải công nhận nàng mặn mà
      quyến rũ. Đi xăm xăm về phía tôi,
      người đàn bà chợt nhận ra, ngượng
      ngùng cúi chào. Mỉm cười, tôi đáp lễ,
      quay người tiếp tục đi. Hình ảnh ông bố
      chồng ôm con dâu tối qua khiến tôi lờm
      lợm, đầu lại hàng chục con sâu chúi
      xuống đào khoét mảnh đất đầy cảnh
      ngược đời này. Đi dăm bước, tôi nghe
      tiếng gọi giật giọng: "Chú ơi, khoan đi...
      Chờ chút, chú!"
      Quay lại, người đàn bà tất tả chạy
      theo, mặt hớt hải. Tôi ngừng chân.
      Người đàn bà nhìn tôi, ánh mắt nay vài
      vỉ chứ không còn lạnh lẽo, miệng bấp
      búng: "Chú làm phước cho tui được nói
      đôi lời!". Bỏ chiếc giỏ xuống, cô tay
      chắp tay vái tôi.
      "Thôi, chị ơi! Đừng làm vậy, người ta
      nhìn...", tôi nói vội, bước qua tránh cái
      vái giữa chợ. Tay chỉ quán giải khát
      trước mặt, tôi ngập ngừng "... Mời chị
      vô đây nói chuyện cho tiện!".
      Người đàn bà ngồi xuống, mặt quay
      vào tường, dáo dác nhìn quanh sợ
      người đi chợ nhận ra mình. Trôi sạch
      ánh căm hận, mắt cô ta nay sâu xuống
      buồn bã như nước sông Hàn xẻ dọc thị
      trấn. Cô ta đằng hắng, nhỏ nhẻ:
      "Tui tên là Chót, Út-chót. Nhà tui năm
      anh chị em, có chị Út Năm và ba người
      anh trai. Thời mặt trận Quảng Trị, khi
      tui mới sanh được ba tháng, ngày là
      quân bên này, đêm là du kích bên kia.
      Ba tui và anh Hai bị bắn, tội là ác ôn có
      nợ máu với nhân dân. Kế đó chừng năm
      sau, anh Tư và chị Út Năm bị bom, chết
      mất xác. Giải phóng xong, gia đình tui
      trông cậy vào anh Ba đã tuổi lao động,
      còn mạ con tui buôn qua bán lại lặt vặt
      sống qua ngày. Thời chiến tranh với
      Campuchia, mạ sợ anh Ba bị bắt đi
      nghĩa vụ, biểu "con à, mi là thằng con
      trai nối dõi tông đường, đi đâu được
      thời đi mà sống!". Anh Ba vượt biên,
      đến lần thứ ba thì thoát. Ảnh được
      Canada nhận cho định cư, ban đầu ở
      Montreal, sau đi Toronto kiếm việc. Ảnh
      gửi tiền về giúp, mạ con tui có cái mà
      ăn, nhưng ở địa phương, bà con nói ra
      nói vô, công an tới làm khó dễ. Chồng
      tui, hơn tui một giáp, làm công tác an
      ninh huyện. Ảnh thuộc gia đình cách
      mạng, từng nhảy núi, cha ảnh chỉ huy
      đội du kích Bầu Bính. Thấy tui, ảnh ưng
      con mắt, tối ngày qua lại gạ gẫm lấy tui
      về làm vợ. Phần tui, mới mười sáu, tui
      đâu có biết chi đâu, biểu má tui quyết
      định thế nào tui làm vậy. Khi báo tin
      cho anh Ba, ảnh nổi hung, biểu thằng
      cha sắp thành xui gia đó chính là thằng
      đã kết tội cha tui và anh Hai, quyết
      chống lại tới cùng. Ảnh đâu biết mạ con
      tui cơ cực thế nào, nhà cửa cha ông để
      lại bị khiếu kiện là cướp đoạt tài sản
      nhân dân, lời ong tiếng ve tới độ chẳng
      dám ra đường. Khi biết tui lấy chồng,
      anh Ba cắt nguồn viện trợ. Từ đó, thư
      viết ảnh không trả lời. Riết về sau, thư
      bị trả lại. Ảnh bặt tin, mạ tui và tui hổng
      biết ảnh ở đâu... Ít lâu sau, mạ tui chết,
      dặn "... Tau đi nhưng mi đã có chỗ yên
      thân, tau yên lòng. Ráng tìm anh Ba,
      làm sao cho ảnh hiểu, cứ oán hận mãi
      thì biết khi nào cho xong. Biểu ảnh, mạ
      không giận ảnh đâu, ráng có vợ con là
      mạ vui lòng rồi...".
      Người đàn bà nghẹn lời, bưng mặt
      khóc một chập. Lát sau, cô ta tiếp:
      "... Lấy chồng được hơn năm tôi
      sanh cháu. Chú thấy đó, nó dị dạng.
      Đem lên bệnh viện Tỉnh, bác sĩ chẩn là
      nó bị chất độc da cam. Chồng tui khóc
      ròng hai ngày hai đêm, ôm tui kêu
      "Bây chừ làm sao? Anh thương em mà
      không làm chi được, em ơi!". Cha
      chồng tui rầu rĩ bảo con "Mi là đứa trai
      duy nhất, thế này thì bất hiếu, vô hậu
      vi đại...". Tui nói với chồng "Dẫu sao thì
      nó là máu mủ của mình, ráng nuôi cho
      nó lớn lên, nó lấy vợ đẻ con thì có cái
      chi mà sợ mất dòng mất giống!". Ảnh
      nghe, lại khóc, cương quyết không ăn
      nằm với tui vì sợ. Cha ảnh lên bệnh
      viện Tỉnh khám nghiệm, hớn hở nói
      mình không bị chất độc. Ảnh biểu, cha
      sợ không người nối dõi thì nay đi tìm
      một bà còn tuổi sanh đẻ đi, mạ chết từ
      lâu rồi mà. Cha ảnh trừng mắt: "Mi nói
      dễ vậy, tau còn lãnh đạo nhân dân thì
      phải giữ đạo đức cách mạng, đâu có
      thế được! - Chỉ tui đứng xớ rớ, cha ảnh
      biểu: Sẵn đây, tau cho mi thằng em,
      gột được cái tiếng nhà mình vô phúc,
      mi bị nhiễm độc da cam. Sau, mi làm
      cha nó, giấy tờ khai sanh đàng
      hoàng...". Ảnh điếng người, lắc đầu. Từ
      đó ảnh canh tui như canh mồ canh mả,
      lắm bữa bỏ không đi làm trên huyện.
      Nhưng đâu cứ mãi thế được. Ảnh tính
      mua một căn hộ đưa tui đi, chưa kịp thì
      cha ảnh thừa cơ ảnh vắng nhà hãm tui.
      Thấy thân tui bầm dập thâm tím, anh
      hiểu ra, vào bếp tìm con dao phay
      chạy lên. Tui ôm chân ảnh tui khóc, án
      mạng thế này thì chết hết. Cha ảnh
      bung cửa chạy lên cơ quan, tối không
      dám về. Đêm đó, ảnh ra ngoài, chẳng
      biết đi đâu. Sáng ra, công an xã tới báo
      ảnh treo cổ ở miếu Thần hoàng đầu
      thôn..."
      Người đàn bà gục mặt xuống thổn
      thức, khi ngửng lên, lại nhìn với ánh
      mắt căm hận cố hữu:
      "Sau đó, cha ảnh cứ thế, dọa nếu tôi
      không chịu mà đi tố cáo thì ổng sẽ giết
      đứa con tật nguyền của tui... Thằng
      nhỏ nó biết, đêm đêm nó quặp chặt lấy
      tui. Ổng mò vô, là nó chửi ĐM mày, ông
      nội. Ổng đánh, nhưng nó không ngán.
      Khi ổng bị mất chức vì cướp đất thì ổng
      xây cái khách sạn mini, bề ngoài là cha
      chồng, nhưng... chú thấy đó, ổng làm
      tới như tối qua. Bây giờ, chú à... Xem
      hộ chiếu đăng ký ở khách sạn thì chú là
      Việt kiều Canada. Tui nhờ chú giúp tui
      tìm anh Ba, giấy tờ tên... sanh năm...
      tại Quảng Trị, năm... còn ở Toronto.
      Liên lạc được ảnh, may ảnh thương mà
      cứu mẹ con tui khỏi cái cảnh khốn nạn
      này. Được không chú?"
      Nhìn ánh mắt người đàn bà khẩn
      cầu, tôi gật đầu, nhưng biết là khó, vô
      cùng khó. Còn nước còn tát, biết thế
      nào hơn được. Để vá lại từng mảnh đời
      rách nát. Để cuộc đời này bớt đi tiếng
      khóc.
      Trời ơi, giá mà tôi tìm được cái vật
      quý hiếm Bảo Quốc Hộ Dân kia nhỉ!
      *
      * *
      29-02
      Đây, đây rồi. Mở máy, tôi có tin nhắn
      của hai thằng chết tiệt:
      "Hai ta đang ở Hà Nội, hẹn mi vào 8
      giờ mỗi sáng ở phở Thìn cạnh Bờ Hồ,
      hỏi ai cũng biết. Vật quý hiếm ở Thăng
      Long đây, ra ngay, hai ta chờ. Tiểu-quỷ
      đêm qua lại mơ thấy thần nhân, dặn
      hiện thực nào mà chẳng huyền ảo, chỉ
      cần viết lên giấy tất chuyển tải nhục
      cảm, sờ được, ngửi được, nếm được...
      ha ha. Rậm-ria và Tiểu-quỷ".
      Điện thoại cho hãng Vietnam
      Airlines, tôi đặt vé bay ra Hà Nội và
      phải đến ngay phi trường Đà Nẵng lấy
      chuyến bay chiều nay. Càng hay, tôi
      thanh toán tiền khách sạn, nhìn ông
      chủ, rồi nhìn cô quản lý. Thằng bé dị
      dạng đến nắm tay tôi, miệng bí bô gọi:
      "Chú, chú!". Ông chủ quát: "Đi chỗ
      khác chơi!". Nó nhìn lên, mắt xéo xẹo,
      mồm lẩm bẩm điều gì không rõ, nhưng
      tôi vẫn nghe "ĐM mày, ông nội!".
      *
      * *
      Số tôi may. Vị trung úy công an
      không để ý đến cái chi tiết chạy ngược
      hướng về khách sạn, nhưng kiểm tra
      đăng ký của khách sạn, xem xét hộ
      chiếu, và khi biết không có ai bị cướp
      giựt trưa hôm đó trên Bờ Hồ thì cho tôi
      về. Tất cả, mất ba giờ. Ra khỏi trụ sở
      công an, trời đã nhá nhem. Trút được
      một gánh nặng, tôi hớn hở như kẻ nhặt
      được tiền rơi, cười một mình khi tưởng
      tượng cảnh kể lại cho đám người quen
      rủ rê tôi tranh đấu cho dân chủ ở hải
      ngoại cái cuộc ở tù (chỉ ba giờ, nhưng
      tạm cứ lửng lơ) như một thành tích. Họ
      hẳn ao ước chứng cớ (được) tù tội hẳn
      hoi để có khả năng vươn lên lãnh đạo
      phong trào.
      Về đến khách sạn, tôi điện ngay cho
      Thụy. Hắn hỏi: "Nghe nói công an đưa
      anh về trụ sở, có việc gì vậy?". Dĩ
      nhiên, tôi kể hết, nhưng không nói
      chuyện bà mẹ định bán trinh con bé
      kiếm vốn làm ăn, và lặp lại lý do đau
      bụng, với những chi tiết rất thuyết
      phục. Thụy dặn tôi ở đây ăn uống phải
      cẩn thận, gà thì gà cúm, heo thì heo tai
      xanh... Thụy bảo đã liên lạc được với
      Trang, và nàng dặn Thụy đi tìm một
      người bạn tên Ban Mai, là người cũng
      đã từng gặp hắn, thằng anh trời đánh
      của tôi. Chính Thụy cũng chỉ mới gặp
      Ban Mai, chỉ biết cô ta công tác trong
      ty văn hóa tỉnh Hòa Bình, nhưng hứa sẽ
      tìm giúp số điện thoại.
      Tôi ra ngoài ăn tối. Cô tiếp viên
      khách sạn chặn tôi ở cửa, thì thầm:
      "Lúc công an đến làm việc, em cứ sợ
      là anh bị bắt ở vườn hoa..."
      Lắc đầu, tôi không nói gì thêm. Cô
      tiếp viên đoán: "Thế chắc anh bị đứa
      nào nó móc túi hay cướp giựt, phải
      không?". Tôi lại lắc. Tai vách mạch
      rừng, ngay với cô tiếp viên này cũng
      nên khai báo thành khẩn. Thế là tôi kể
      lại, ngắn gọn thôi, cái lý do tôi đã trình
      bầy cho công an, và kết luận:
      "Công an ta thật hữu hiệu, lại đối đãi
      rất lịch sự, không đánh đập nạt nộ gì,
      xử lý đúng nếp sống văn minh, theo
      hiến pháp và pháp luật".
      Không hiểu sao, cô tiếp viên cười
      bẽn lẽn. Còn tôi, tôi chợt giật mình. Bây
      giờ tôi cũng nói dối được. Và vô tư, cứ
      như thật.
      Tôi đi ăn phở. Nhớ lời Thụy, tôi không
      dám đến phở Thìn có tiếng là ngon,
      nhưng xập xệ bình dân. Tôi chọn phở
      44, một quán phở nhìn ra hồ, có máy
      lạnh và bàn ghế hẳn hoi, dành cho
      những người có tiền như bọn du khách
      ngoại quốc và đám Việt kiều. Phở thì
      chắc là bò, mà bò nước ta thông minh
      cần cù, chẳng phải như bò điên lở mồm
      long móng bị cấm ở Âu Châu đâu. Vừa
      húp nước phở, tôi vừa tự hỏi, lý do gì
      mà cô tiếp viên khách sạn cứ nhắc đến
      một cái vườn hoa, rõ là có ý dò hỏi xem
      tôi có gì dính líu đến đấy không. Thằng
      bé chơi trò điệp viên trong tôi thức
      giấc. Cộng hưởng với nỗi đớn hèn khiến
      tôi nói dối như thật, thằng bé đó đâm
      ra liều lĩnh, sống lại giấc mơ điệp viên
      thuở thiếu thời. Nó điều tra. Rất dễ, vì
      ai cũng biết. Đó là vườn hoa Mai Xuân
      Thưởng.
      Trưa hôm sau, len lỏi giữa những tán
      lá trụi nắng, tôi lần đến góc cái vườn
      hoa đó. Bạt chăng chắn gió che cho
      đám người kẻ ngồi kẻ nằm. Một bà cụ
      móm mém ngước lên nhìn, miệng mấp
      máy: "Ông hỏi ai?". Tôi đáp: "Thưa cụ
      cháu tìm anh cháu", mô tả hình dạng
      hắn, nhưng chẳng một ai nói gì. Bà cụ
      lại gặng: "Cậu ấy từ đâu đến? Ở đây thì
      Bắc có, Nam có, Trung có. Tôi từ Thái
      Bình. Còn bà này, - tay chỉ một phụ nữ
      xồn xồn, cụ thều thào - đến từ Kiên
      Giang. Ông cụ đây thì Đồng Tháp, ông
      kia từ Hà Tĩnh... Toàn người có tuổi cả.
      Hiện còn một cô người Thái Bình, lại là
      một nhà ngoại cảm nên người ta còn
      e... Cô ấy bảo nhờ ơn trên, biết sớm
      muộn chúng tôi sẽ được cứu rỗi, oan
      khiên gì cũng giải được!". Tôi thầm nhủ,
      với cái khả năng siêu nhiên ấy, cô ta có
      thể giúp tôi tìm ra cái thằng anh trời
      đánh kia không? Hỏi cô ấy ở đâu thì bà
      cụ bảo cứ đến khi mặt trời lặn cô ta
      mới ra đây, đầu đội khăn vàng, nhìn
      không lẫn được.
      Tối nhá nhem, mây nặng trĩu chỉ
      chực đè xuống Hà Nội nóng như lên
      sốt. Điện cho Thụy, tôi xin được số Ban
      Mai ở Hòa Bình, nhưng là số cơ quan,
      tôi gọi không ai trả lời vì quá giờ hành
      chính. Ăn qua loa, tôi quyết định quay
      lại vườn hoa đang đươm độc với những
      người dân oan mất nhà mất đất "khiếu
      kiện đông người", chủ ý tìm hỏi nhà
      ngoại cảm có khả năng đối thoại được
      với thần linh. Dĩ nhiên, tôi không dám
      nói với ai. Để lấy can đảm, tôi lại lấy
      tâm thế của một điệp viên nhị trùng
      đang bị bám, chơi trò đi vòng vèo, khi
      taxi khi xe ôm, tưởng tượng mình "cắt
      đuôi" địch. Đến gần vườn hoa, tôi tản
      bộ như một kẻ nhàn du, vào quán cháo
      giáp dãy nhà bỏ hoang. Dân oan giấu
      màn chiếu chăn mền ở đấy, mắt trước
      mắt sau, lúi húi xách về vườn hoa, lưng
      gò xuống tưởng có thể bé đi như con
      giun cái kiến. Đi theo họ, tôi bước vào
      một kịch trường kỳ dị, nhìn quanh
      quẩn. Dưới một gốc cây, nhà ngoại
      cảm tên Tiểu Hằng đầu quấn khăn
      vàng ngồi đấy, mô đất bên cạnh cắm
      một bó nhang đỏ lập loè trong gió. Tôi
      đến ngồi trước mặt cô, cô ngước lên,
      hỏi tôi muốn hỏi gì, người âm hay
      người dương. Thuật lại chuyện tôi đi
      tìm thằng anh chết tiệt với một thứ đầu
      đuôi nói ra khó ai tin, cô ta chỉ cười,
      bảo tôi đặt quẻ đi. Cô nhắm mắt trầm
      ngâm, thì thào với những đấng thần
      linh còn phù trợ đám người trần mắt
      thịt, khoảng đâu mươi phút. Khi mở
      mắt nhìn tôi, mắt cô vô cảm, ánh mắt
      đến từ một thế giới khác, bí ẩn, dọa
      nạt. Tôi đợi, lòng hồi hộp, tự hỏi bao
      nhiêu năm tưởng mình duy lý mà tại
      sao nay đang ngồi chờ những lời phán
      từ một cõi siêu linh không kiểm chứng
      được. Lát sau, cô Hằng lên tiếng, ngắn
      gọn, nhưng quả quyết:
      "Đi đâu nghe tiếng gào tìm Đào Hạ
      Trang thì chính là hắn, kẻ hóa rồ nhận
      mình là một người bạn triều Lý..."
      *
      * *
      Tôi là một kẻ chẳng ra gì. Vô cảm.
      Ích kỷ. Tôi ngơ vấn nạn của mọi người,
      chăm chăm hỏi nhà ngoại cảm chỉ một
      câu, ngẫm lại mới thấy ngớ ngẩn, là
      cái thằng anh chết tiệt của tôi ở đâu.
      Nó ở đâu thì ở, việc gì đến tôi. Thật mà
      nói, tôi chưa bao giờ coi nó như một
      người bạn. Nó khác tôi, tất cả. Nó hão
      huyễn, tôi thực tế. Nó may mắn có cha
      có mẹ. Tôi, một đứa con hoang. Nó
      tham vọng đổi đời. Tôi, quần quật với
      chỉ đời mình cũng đã quá sức. Nó chỗ
      nào cũng có người yêu. Nhưng tôi, chỉ
      có độc một người vợ. Hắn làm thơ, còn
      tôi, tôi là anh chuyên viên kế toán,
      ngày ngày ghi chép những con số vô
      hồn, cộng cộng trừ trừ những bài toán
      sơ cấp giả hình làm dáng quan trọng.
      Hắn có những người bạn được thần
      nhân mách bảo cách Bảo Quốc Hộ
      Dân. Tôi chẳng quen biết ai, cô độc như
      một con sâu. Một con sâu róm vì chẳng
      biết cười hiền hoà, lại lông lá dị kỳ tởm
      lợm. Ấy thế, tại vì sao mà tôi lại chỉ hỏi
      được nhà ngoại cảm tên Hằng cái câu
      hỏi khốn nạn, và được biết có một
      thằng điên đi tìm Đào Hạ Trang. Lại
      một con đàn bà, chắc chắn nó phải có
      gì mới quyến rũ thằng kia đến độ đổ
      khùng đi réo tên để cả nước cùng biết.
      Không, cả nước thì e hơi quá, nhưng lọt
      đến tai cư dân quanh đây hẳn là có
      thật.
      Lẩn về khách sạn, tôi nằm dài, mở
      TV, chắc chắn thế nào cũng có tin về
      vụ "khiếu kiện đông người" ở vườn hoa
      Mai Xuân Thưởng. Nhưng không, chỉ có
      hình ảnh thi hoa hậu Việt Nam duyên
      dáng, tin ta được ủng hộ gia nhập "đúp
      bờ vê tê u", tin Việt kiều "vinh danh"
      đóng góp với đất nước, tin cúm gà, tin
      heo tai xanh, bò long móng... đều được
      những cơ quan có chức năng giải quyết
      kịp thời. Tôi thiếp ngủ trong tiếng í éo
      rôm rả một phim Đài Loan, lại chuyện
      yêu nhau mà oái oăm chia tay vì chàng
      cảm thấy trách nhiệm với hai đứa con
      riêng. Và nàng, vừa trẻ vừa đẹp, đi qua
      San Francisco để quên duyên tình lỡ
      dở. Nhưng thật bất ngờ, nàng gặp lại
      người yêu thời còn là sinh viên, nay
      đang làm giám đốc một công ty lớn
      bên Mỹ, mặc đồ bộ, đi xe Mercedes,
      đeo kính dâm, mồm nhai suynh-gôm...
      Sáng dậy, tôi điện thoại ngay cho
      Ban Mai sau giờ hành chính. Sau khi tự
      giới thiệu và kể tôi đi tìm thằng chết
      tiệt, Ban Mai vui vẻ, giọng như chim:
      "Anh ấy lên Mường Lát cách đây hai
      tuần, chính em đưa lại giới thiệu nường
      Phin. Trưa mai em có việc về Hà Nội, tối
      phải đi nghe hát xẩm. Nếu anh tò mò
      muốn đi xem nét văn hóa truyền thống
      dân tộc này, em xin mời, em sẽ cho
      anh thêm chi tiết..."
      Thì ra Ban Mai phải đi nghe hát xẩm
      vì nàng chuyên trách phần văn hóa
      dân gian cho Ty Thông tin Văn hóa.
      Nhưng hát xẩm, theo cái kiến thức nhỏ
      bằng hạt đậu của tôi, là hát khi đi ăn
      mày, ê a con cá nó sống nhờ nước, tôi
      sống nhờ ông đi qua bà đi lại, ngửa nón
      đợi bố thí của những kẻ động lòng.
      Chẳng lẽ đi ăn mày nay thành truyền
      thống? Tôi nghĩ quanh, bật cười về cái
      dớ dẩn của một anh dở ngô dở ngọng
      trước những tình tự dân tộc.
      Trước khi gặp Ban Mai, tôi có cả một
      ngày, không biết phải làm gì cho hết.
      Ra Bờ Hồ, tôi sợ gặp lại con bé con, mẹ
      nó, và nhất là hình ảnh bà cụ bị xe chẹt
      chết. Vả lại, cái dòng xe gắn máy rú rít
      nhả hơi xăng chạy vòng vòng chẳng có
      tác động gì khác là căng bựt cân não
      đến một lúc thì thần kinh nhão ra vô
      cảm. Hỏi cô tiếp viên khách sạn, cô
      mỉm cười: "Thế anh đã đi thăm lăng Bác
      chưa? Đi sớm, chứ không thì đông lắm
      đấy!". Tôi ngần ngừ: "Quanh lăng có cây
      xanh không?". Cô ta vui vẻ: "Muốn cây
      xanh thì phải đến chỗ Bảo tàng, gần
      nhà sàn Bác Hồ và chùa Một Cột. Chỗ
      ấy du khách nhiều, đông vui lắm!".
      *
      * *
      Đến Bảo tàng, tôi theo chân dòng
      người, xem những bức ảnh phóng lớn
      từ một lịch sử hoành tráng đầy dâu bể
      thời cận đại, có hang Pác Bó, chiến khu
      Việt Bắc, Đại tướng Giáp trong chiến
      dịch Điện Biên Phủ, Bác Hồ cưỡi ngựa
      trong rừng, Bác Hồ và thiếu nhi, Bác Hồ
      tiếp các sắc tộc thiểu số... Rồi nhà sàn,
      cuốn sách mở ngửa của bác sĩ Spock
      về giáo dục trẻ em, cái bàn con con
      của một nhân vật vĩ đại nhưng giản dị.
      Và chùa Một Cột. Chùa nay được trùng
      tu lại, chắc khác với ngôi chùa cổ xây
      từ thời Lý, lớp sơn đỏ có thếp vàng còn
      mới toanh chói chang dưới nắng trưa
      gay gắt. Tìm một bóng râm, tôi ngồi, đưa mắt
      nhìn quanh. Gốc cây ngay bên cạnh, một cụ già
      đeo kính đen thầy bói, tay ôm một cái thúng nhỏ
      trên đậy bằng mẹt, sờ soạng như mù. Cụ nghe tiếng
      sột soạt, quay về phía tôi, nói:
      ‘’ Mua giúp cho tôi thẻ hương nhé! Chùa này
      linh thiêng lắm, cầu được ước thấy!’’
      ‘’ Cám ơn cụ, cháu chẳng cầu gì cả!’’
      ‘’ Ông không cầu gì à? Quái lạ, đám quan
      quyền cầu giầu sang danh vọng, lũ ăn mày cầu của
      bố thí hầu no bụng… Ông không có tiền cứ nói
      thật, tôi biếu nén hương vào lễ Thánh.’’
      ‘’ Cám ơn cụ, có cầu, cháu chỉ cầu những điều
      người làm được mà Thánh Thần thì không!'’
      ‘’ Cái gì mà Thánh Thần không làm được!’’, cụ
      già hỏi, giọng có chút ngạc nhiên.
      ‘’ Chẳng hạn như khi đi xe máy quanh hồ Hoàn
      Kiếm, đừng đạp ga lao đi mà chẳng kể đến chuyện
      gây tai nạn chết người!’’, tôi đáp rồi chậm rãi kể
      lại việc bà cụ qua đường bị xe đâm. Cụ già thở dài,
      ngước mắt nhìn lên, thủng thẳng :
      ‘’ Những chuyện nghịch lý ngược đời ở đây
      nhiều lắm, kể không hết đâu! Trông ông như người
      Sài Gòn…Sài Gòn thì thế nào?’’
      ‘’ Cháu chưa đi Sài Gòn nhưng nghe nói
      nay cũng thế…’’
      ‘’ Ờ, cái xấu lây nhanh hơn hủi, người ta bây
      giờ cứ sống chết mặc bay. Thế ông ở đâu?’’
      Nghe tôi đáp tôi từ Canada về, cụ già bật cười,
      miệng thốt ‘’ …thì ra khúc ruột ngàn dặm, may
      nhỉ… ‘’. Cụ bưng thúng đến, ngồi xổm, miệng thì
      thào :
      ‘’Thế thì ông phải coi hàng xịn mua làm kỷ
      niệm…Gặp khách tôi mới dám cho xem!’’
      Tay giở cái mẹt đậy thúng, cụ chìa vào mắt tôi.
      Trong thúng, toàn những huân chương. Cụ lục
      thúng tìm, rồi giơ lên, cao giọng:
      ‘’ Cái này, Huân chương Điện Biên, cổ nhất,
      hơn sáu mươi năm rồi. Đây là huân chương của
      anh bạn nối khố của tôi, người cùng làng, lại cùng
      đơn vị đi đánh đồi Béatrice. Tôi để ông giá rẻ, ông
      giữ cho bạn bè quốc tế xem…’’
      Không đáp, tôi hỏi, giọng không dấu được kinh
      ngạc:
      ‘’ Cụ lấy đâu ra mà nhiều huân chương đến
      thế này?’’
      ‘’ Ấy, chết hay chưa chết thì con cháu cũng
      mang bán để lấy cái đút vào mồm, ông ạ! Nhà quê
      chúng tôi chẳng còn gì, ngoài đống huân chương
      và bảng Liệt Sĩ. Tôi mang lên nơi có du khách bán,
      lấy tiền mang về cho họ để có cái mà ăn. Thường
      thì bán khó lắm, và mỗi lần bán được, tôi đều thắp
      hương khấn vái vong hồn bạn bè đồng ngũ…’’
      Cổ tôi nghẹn lại. Nhổm dậy, tôi đi như
      chạy, chẳng hiểu sao nước mắt ứa ra.
      Lẩn dưới những tàn cây che nắng, đầu
      óc tôi chập chờn hư thực. Cứ thế, tôi
      bước, hoang mang không còn biết mình
      ở đâu, và đang sống ở thời nào. Thời Lý,
      thời thằng anh chết tiệt của tôi quay về
      trong bức e-mail có chiếu dời đô? Tiếng
      hát Đào Hạ Trang, mùi cứt trâu trên bờ
      sông Nhị, chuyện đi tìm vật quí hiếm
      Bảo Quốc Hộ Dân? Tất cả những rối rắm
      đó quậy lộn vào nhau thành thứ hiện
      thực rời từng mảng lềnh bềnh trong tâm
      thức. Tôi giụi mắt. Không được. Phải bám
      vào ngày hôm nay.
      Tìm một bóng râm, tôi ngồi. Thời Lý,
      thời thằng anh chết tiệt của tôi quay về
      trong bức e-mail có chiếu dời đô, tiếng
      hát Đào Hạ Trang, mùi cứt trâu trên bờ
      sông Nhị, chuyện đi tìm vật quý hiếm
      Bảo Quốc Hộ Dân. Tất cả những rối
      rắm đó quậy lộn vào nhau thành thứ
      hiện thực rời từng mảng lềnh bềnh
      trong tâm thức. Tôi giụi mắt. Không
      được. Phải bám vào ngày hôm nay. Tối
      này, tôi sẽ gặp Ban Mai, hỏi ai là nường
      Phin, và phải tìm cho bằng được thằng
      chết tiệt nay bặt tin.
      *
      * *
      Đi dọc Hàng Đào khi phố vừa lên
      đèn, tôi chưa đến chợ Đồng Xuân đã
      nghe nhịp phách lẫn vào tiếng nhị văng
      vẳng. Người đông, đi phải lách, và
      trong cái đám chen chúc đủ thứ mùi tôi
      bỗng thò tay giữ chiếc ví trong túi
      quần, cụm từ ăn cắp chợ Đồng Xuân từ
      thời xa xưa rập rình đe dọa. Đến dãy
      cửa hàng ăn uống giữa chợ, tiếng chào
      mời dưới ánh nê-ông nhợt nhạt vang
      lên tứ phía. Chỗ nào cũng đặc sản của
      hàng chục địa danh, mùi dầu mỡ mắm
      muối gia vị sực vào mũi. Cạnh đó, một
      sân khấu dàn dựng sơ sài với khoảng
      ba chục cái ghế nhựa đặt đúng hàng
      đúng lối ở vòng trong. Vòng ngoài,
      người xúm nhau đứng. Trẻ nít chạy
      vòng vòng. Kẻ cười kẻ nói. Dăm thanh
      niên chen vai thích cánh chen vào
      chiếm chỗ. Tiếng bà già càu nhàu.
      Tiếng gái nạ dòng chua loét cất lên
      chửi. Rồi người can ngăn, yêu cầu nếp
      sống văn minh, đừng cậy khoẻ ức hiếp
      yếu, cậy trẻ bắt nạt già, phải có trước
      sau tôn ti trên dưới. Trong không khí
      nháo nhào, tiếng mi-crô rè rè cất lên,
      giới thiệu đêm văn hóa này do Trung
      tâm Phát triển Âm nhạc Việt Nam tổ
      chức phục vụ đồng bào. Theo lời dặn
      của Ban Mai, tôi hỏi một anh phụ trách
      trật tự. Lát sau, một người trạc đôi
      mươi ra, hồn nhiên chào rồi đưa tôi vào
      chỗ sau sân khấu, tay chỉ một người
      con gái. Chưa chắc có phải là Ban Mai
      không, tôi định hỏi nhưng nàng đưa
      một tay lên môi khẽ suỵt, tay kia chỉ ra
      sân khấu. Nàng cười bằng mắt, nhẹ
      nhàng: "Anh ra ngồi ghế ngoài sân xem
      cho thoải mái!".
      Một cụ già khăn đóng áo dài, tay
      cầm giấy, trịnh trọng đọc. Cụ giải thích
      xưa vào thời phong kiến thực dân người
      mù hát xẩm xin ăn là do bức bách vật
      chất, nhưng nay nước ta kinh tế thị
      trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa đã
      xóa đói giảm nghèo, hát xẩm được
      nâng cấp thành nghệ thuật đáp ứng
      một nhu cầu tâm linh quần chúng. Về
      làn điệu, xẩm có rất nhiều bài, nhưng
      có 8 bài đặc trưng là Xẩm chợ, Chênh
      bong, Riềm huê, Ba bực nhịp bằng,
      Phồn huê, Hò bốn mùa, Hát ai Xẩm
      thập ân... Người hát xẩm trước đây là
      những người mù. Họ phải học thuộc làn
      điệu, phải biết chơi đàn, chơi phách,
      nắm được hát đến chỗ nào thì dạo đàn,
      chỗ nào được đánh phách vào, chỗ nào
      đàn chỉ có đệm mà không chêm giai
      điệu, tạo được những âm điệu đặc sắc
      do cảm nhận cuộc sống qua đôi tai.
      Khuyết tật giác quan của họ khiến mọi
      người dễ cảm thông. Đặc tính nổi bật
      trong nghệ thuật hát xẩm là tính hài
      hước, đả kích sâu cay, châm biếm, phê
      phán thói đời và tiếng oán than những
      nỗi buồn da diết, khổ đau của kiếp
      người.
      Cụ dứt lời, chẳng thấy ai phản ứng
      gì, vài kẻ vỗ tay cho lịch sự. Thế là mọi
      người không ai nhìn ai cùng vỗ tay hồ
      hởi. Đám nghệ sĩ bậc thầy ra trước
      chào khán giả. Có cả nghệ sĩ nhân dân,
      nghệ sĩ ưu tú. Họ đứng tuổi, quần trắng
      áo the, đầu đội khăn xếp, tay ôm đàn
      ôm nhị, mắt đeo kính đen giả như mù
      cho đậm đà bản sắc. Có cả lớp trẻ,
      thường đã tốt nghiệp bộ môn nhạc
      truyền thống dạy ở Nhạc viện, trang
      phục rất chỉn chu, nhất là đám thanh
      nữ thướt tha trong những vạt áo tứ
      thân sặc sỡ che quanh giải yếm đào.
      Nhưng buổi tối trình diễn hôm nay
      nhằm mục đích vinh danh cụ Hà Thị
      Cầu, nghệ nhân từ Ninh Bình, người đã
      truyền dậy "nghề" cho đám hậu sinh.
      Nghệ sĩ trẻ Tuyết Hoa dìu cụ ra. Cụ lòa,
      móm mém, đầu đội khăn mỏ quạ, cúi
      chào khán giả rồi vào. Thật lạ, không
      hiểu vì sao tiếng vỗ tay ran dội như
      pháo. Cụ phải ra sân khấu thêm một
      lần, cũng vẫn chẳng cất lời, chỉ chắp
      tay vái khán giả. Sau khi đó, Ban Mai ra
      ngồi cạnh tôi, dịu dàng bảo:
      "Sau buổi hát này, ta mới nói chuyện
      dài được..."
      Hiểu ý, tôi ngẩng nhìn sân khấu, chỉ
      kịp nhận biết Ban Mai có một mái tóc
      thật dài, dài có lẽ chấm gót. Điều này
      hiếm. Vào thời buổi này, ai nấy háo hức
      Đổi Mới đến cả chân mày kẽ tóc, để tóc
      dài là hơi bị xưa.
      Tiếng đàn bầu chẳng khác tiếng
      người nỉ non khóc, từng chặp nấc lên
      theo nhịp phách nấc nghẹn, đệm
      những lời thương thân oán phận, từ
      Tiễn anh khóa, đến Xẩm chợ... rồi Lỡ
      bước sang ngang... Nghệ sĩ trình diễn
      ngồi hát, tay sử dụng một loại nhạc cụ,
      nhập vào hồn vía quá vãng còn luẩn
      quất tựa những linh hồn lạc lõng một
      thời chưa hẳn khuất. Người nghe im
      lặng. Không còn tiếng rao hàng. Không
      cả tiếng trẻ con hò hét. Và họ vỗ tay
      như đoạn kết cho mỗi bài hát thường
      kể lại những lỡ làng dang dở. Sau, khán
      giả hò tên cụ Cầu.
      Cụ lại ra, Tuyết Hoa vẫn ở bên. Cụ
      ngồi xuống, tay quơ cây đàn nhị, lẳng
      lặng so dây, bật khẽ một tiếng, rồi
      dặng hắng lấy giọng. Như một phép lạ,
      khi cụ cất tiếng hát, giọng thanh hẳn
      chứ không có chút gì mỏi mệt của một
      người ở tuổi trên dưới tám mươi. Cuối
      câu, cụ luyến láy tự nhiên như người
      nói, tiếng vang vang trong một phiên
      tối chợ:
      Sáng trăng suông vằng vặc cái
      đêm rằm
      Nửa đêm về sáng trăng nằm
      nơi ngọn tre
      Anh có yêu em cho trọn một
      bề,
      Để em thơ thẩn ngồi kề bên
      trăng.
      Sự tình này ai thấu cho chăng?
      Để em chỉ nguyện bóng trăng
      chịu sầu.
      Tương tư nối một nhịp đôi ba
      cầu,
      Bắc Nam đôi ngả, chịu sầu đôi
      nơi.
      Con chim khôn chết mệt về
      mồi.
      Con chim khôn. Là mẹ? Chết không
      phải vì mồi, chết vì lũ chim non đợi
      chim mẹ về mồi? Cụ Cầu hát xong,
      khán giả im như bị hớp hồn đến cả
      phút, lát sau mới cất tiếng hoan hô đến
      vỡ chợ. Cụ mỉm cười, nắm tay Tuyết
      Hoa, nét mặt rạng rỡ, ân cần: "Tôi hát
      cái gì cho vui nhé! Nẫy giờ, toàn những
      bài buồn, buồn quá. Muốn vui một tí,
      thời nào cũng phải kể chuyện ngược
      đời...". Tuyết Hoa so dây cây nhị. Cụ
      Cầu cầm phách gõ từng tràng lách
      cách. Thình lình cụ cất lời, giọng dí
      dỏm:
      Hỡi người trai trẻ kia ơi,
      Muốn nghe lại đây
      em kể bài ngược đời cho
      nghe...
      Chuột kia cắn cổ con mèo,
      Một đàn châu chấu đuổi theo
      đá gà.
      Trạch chấu cắn cổ ba ba,
      Một lũ đàn bà bóp vú đàn ông.
      Người nằm xuống để lợn cạo
      lông.
      Một chục quả hồng nuốt bà lão
      tám mươi.
      ... Thớt kia chực nghiến con
      dao,
      Một đàn cóc chực đớp sao trên
      giời.
      ... Dế mèn thức suốt đêm
      khuya,
      Hát xẩm không tiền nên nghèo
      xác xơ...
      *
      * *
      Ban Mai cắn môi, quả quyết:
      "Anh hỏi em có thấy gì lạ không, em
      nghĩ lại, không anh ạ. Anh ấy bản chất
      là người đam mê, chứ ngoài ra thì bình
      thường như em hiểu. Duy có chuyện
      cái vật anh ấy gọi là Bảo Quốc Hộ Dân,
      nói ra chắc ít người tin. Nhưng có điều
      người đời tin hàng mấy chục năm, chịu
      cực chịu khổ, mất con mất cái, đổ
      xương đổ máu cho nó mà nay mở mắt
      nhìn ra thì như vỡ một cơn mộng
      hoang. Vậy anh bảo, bây giờ ai dám tin
      gì? Buồn hơn nữa, ai dám tin ai? Anh
      ấy có lạ là ở chỗ anh ấy vẫn dám tin.
      Vào em chẳng hạn. Sau dăm câu
      chuyện, anh ấy kể cho em chuyến
      xuống núi Nùng với người dẫn đường.
      Vất vả lắm. Phải đấm hàng chục triệu
      làm tiền mãi lộ, xuống thì trong đường
      hầm toàn rắn với chuột lộn nhộn lao
      nhao. Đến gần chỗ thông ra sông, anh
      ấy bảo khi đó con đường hầm nước
      ngập đến bụng, toàn là rết chẳng biết
      ở đâu chui ra, con nào con nấy to bằng
      chiếc đũa, bám vào đầu vào tóc, chui
      xuống cổ xuống vai, lách vào bụng vào
      ngực. Đến gần đích, thì dơi bay ra hàng
      đàn, cứ nhằm người lao đến cắn. Anh
      ấy bảo, chắc pháp thuật của Cao Biền,
      kẻ đã trấn yểm long mạch khiến nước
      ta cứ yên bình là kiệt dân khí... Theo
      đúng lời thần nhân, anh ấy tìm nửa
      ngày mới thấy cái chày đá cắm vào cối,
      nhưng ngược đời, cối ở trên chầy ở
      dưới, chặn đúng vào một mạch nước
      phun bọt lên. Đào nhấc được vật đó thì
      có tiếng phì phì ngay bên tai. Anh ấy
      quay lại, eo ôi, một con rắn dưới cái
      chầy chui ra, có sáu con mắt, lè lưỡi to
      bằng bàn tay, xông lại. Đã được dặn
      cách chống, anh ấy niệm... câu gì như
      a la ba ha om nít ràng... mà nay em
      quên mất. Con rắn liền gục đầu xuống,
      theo lối ra sông trườn đi, và lúc quẫy
      đuôi, nó hóa thành rồng bay lên trời.
      Anh ấy bảo nay Hà Nội sẽ lại hóa thành
      Thăng Long, nếu giải được vật trấn
      yểm bằng cách giam nó vào núi Nà
      Mèo ở gần Mai Châu trên Hòa Bình.
      Anh ấy nhờ em đưa đường, nhưng em
      không phải người Mai Châu, em mới
      nhờ nường Phin vốn người Mường Lát
      cạnh đấy đưa anh ấy đi. Tính ra đến
      nay hai tuần rồi, nhưng em chẳng được
      tin tức gì. Trước khi đi Hà Nội, biết sẽ
      gặp anh, em có điện thoại cho nường
      Phin. Cô ấy cũng chưa về, anh ạ!"
      "Nhưng nường Phin là ai?", tôi hỏi.
      Ban Mai cười:
      "Nhưng anh là ai đã chứ! Bây giờ cho
      em hỏi anh tìm anh ấy làm gì?"
      Hình như đây là lần đầu có người hỏi
      tôi là ai. Hình như đây cũng là lần đầu
      tôi nói về tôi, nhưng tôi nói cả giờ thì
      cũng cứ loanh quoanh lẩn quẩn những
      chuyện lung tung. Tôi liệu có thực biết
      tôi là ai không, ngoài những chuyện
      chán mớ đời như công ăn việc làm, vợ
      con, nhà cửa, xe cộ... Thú thực như vậy
      với Ban Mai, tôi im lặng, không biết nói
      gì hơn. Lát sau, tôi ngập ngừng xin Ban
      Mai đưa tôi đi tìm nường Phin và thằng
      anh chết tiệt chẳng biết đã giam được
      cái vật trấn yểm kia chưa. Chắc Ban
      Mai từ chối, tôi cúi đầu di chân xuống
      đất. Có lẽ vì thương hại, Ban Mai cười
      hiền hòa, bảo: "Cũng được, và thế là
      anh có thời giờ nói cho em biết anh là
      ai đấy nhé!"
      #3
        lyenson 07.04.2009 14:36:23 (permalink)
        BỐN
         
        Người thanh niên ngửa mặt hú một
        tiếng thật dài. Tiếng hú rít gió
        khiến mặt hồ Dâm Đàm gợn sóng,
        chim chóc hoảng hốt đập cánh bay lên
        trời. Vị sư già trụ trì chùa Phổ Độ tham
        thiền nhập định liền chín tuần trăng
        giật mình mở mắt. Sư buột miệng niệm
        A di đà Phật, nhìn tượng Mầu Ni thếp
        vàng, dùng phép Truyền âm nhĩ mật,
        miệng mím chặt, mắt nhắm nghiền,
        tay bắt quyết chữ Tâm. Tượng mấp
        máy môi, thanh âm nửa hư nửa thực
        "Tình là bể khổ, chúng sinh nay quy
        về... Cái đó... là hết ý!". Đạo Hạnh ngộ
        ra, thỉnh một tiếng chuông, cúi đầu lĩnh
        ý.
        Với tay lấy thiền trượng tùy thân thời
        giặc dã nhan nhản, vị sư già vận sức
        vào đan điền. Hít ba hơi nguyên khí
        hạo nhiên, chân bước theo phép Đào
        tẩu khinh công, bóng áo vàng xẹt đi
        như một chớp lửa. Thanh niên chưa hú
        hết hơi vị sư đã liệng một vòng đáp
        xuống, miệng mỉm cười:
        "Vô lượng thọ Phật. Kẻ xuất gia này xin
        chào thí chủ!".
        Thanh niên cúi đầu đáp lễ, kín đáo
        thò tay vào nắm chắc giấy tờ và một
        cuộn tiền mặt, dè dặt: "Kính chào đại
        sư! Kính xin đại sư cho biết tính danh!"
        Vị sư già đủng đỉnh: "Bần tăng họ Từ,
        Phương trượng chùa Phổ Độ. Nghe
        tiếng hú của thí chủ, bần tăng đoán thí
        chủ đang phẫn chí khổ tâm..."
        Thanh niên mừng ra mặt, vội vã:
        "Chắc chùa ở quanh đây. Đệ tử dám
        hỏi một lời, xin đại sư giải đáp cho!"
        Nhích nhẹ, Từ đã đến trước mặt
        thanh niên, đáp: "Chùa bần tăng ở khá
        xa, sau núi Tản. Nhưng thí chủ cứ
        hỏi...".
        Thanh niên ngập ngừng:
        "Dám thưa Phương trượng, đệ tử lấy
        Vietnam Airlines đáp xuống Nội Bài, đi
        được đâu mười dặm thì hóa ra mình
        đang trên xe trâu trên đường dời đô từ
        Hoa Lư đến đây. Đợi trên bờ tả ngạn
        sông Nhị, đệ tử có biết một thiếu nữ
        tên Đào Hạ Trang, người gốc Đông Hải,
        dặn đến Dâm Đàm tìm. Đệ tử đã hú ba
        ngày ba đêm, nhưng bặt vô âm tín. Đệ
        tử rập đầu kính thỉnh Phương trượng
        giúp cho...".
        Từ nhăn mặt:
        "Dây oan đây. Người cởi ra, kẻ buộc
        vào trong cái bể khổ này. Nhưng để bần
        tăng hỏi thí chủ một câu đã!"
        Thanh niên ngước nhìn, nét mặt băn
        khoăn như khi nhập cảnh ở phi cảng.
        "Dám hỏi, thí chủ từ đâu đến?"
        Thanh niên đáp hệt như khi khai báo
        ở hải quan. Từ Phương trượng bấm đốt
        tay, lắc đầu:
        "Gia Nã Đại, ở đâu mà bần tăng
        bấm không ra thế này?"
        Điểm cây thiền trượng xuống đất, Từ
        bay lên, tay che mắt nhìn quanh. Khi hạ
        xuống nhẹ như một ngọn cỏ, Từ hỏi:
        "Thí chủ có lỡm bần tăng không đấy?".
        Thanh niên lượm một cành cây khô,
        vạch chữ X, thưa:
        "Giả dụ ta đứng đây, nhỏ như con
        kiến, thì Gia Nã Đại ở tít Bờ Hồ bên kia,
        và Dâm Đàm này trở thành Thái Bình
        Dương, một trong tứ hải trên thế giới
        có năm châu này..."
        Từ ngắt:
        "... À, thì ra thế. Phép Viễn Nhãn của
        bần tăng chỉ đến Cảng Hải Phòng là
        hết! Tứ hải giai huynh đệ. Bốn phương
        vô sản đều là anh em, thí chủ cứ tin
        thế đi".
        Thanh niên chưa hẳn yên lòng, đang
        định đãi bôi một câu cho êm thì Từ
        nhẩy thoắt lên chạc ba cây sung mọc
        ven hồ. Sợ rắn cắn, thanh niên lùi vào
        gốc cây, mắt nhìn xuống đám cỏ dại.
        Khinh thân nhẩy xuống, Từ ghé vào tai
        thanh niên thì thào:
        "Tổng Nhị cục đang tiến đến bao
        vây... Chúng dùng roi điện, búa tạ, lưỡi
        tầm sét cứ bạ nghe tiếng đồn nào cũng
        đến vây bủa. Ta phải đi thôi, ở lại thì
        bần tăng mắc tội tiếp xúc với một khúc
        ruột ngàn dặm học phép Biễn Diến Bòa
        Hình đang bị Nội Mật viện cấm! Đi
        thôi!"
        Thanh niên chưa kịp trả lời thì người
        bốc lên trong tấm cà sa vàng xẹt đi
        mất tăm, chắc chắn còn nhanh hơn vận
        tốc siêu âm. Tai ù, mắt nhắm tịt, thanh
        niên vẫn đủ tỉnh táo tự nhủ, cái gì ở Đại
        Việt cũng ưu việt, đúng với lời đồn của
        rợ Đài Loan, rợ Singapore và rợ Kim ở
        Đại Hàn đang qua đây lấy giống tốt về
        trồng người.
        *
        * *
        Lạng một vòng xem xét bằng thủ
        pháp Ó Cập Kiến, Từ Phương trượng
        kẹp thanh niên vào nách, yên tâm từ từ
        đáp xuống một vạt đất bằng phẳng trải
        gạch mầu gụ. Thình lình, trống ầm ầm
        nổi lên. Trong không trung, tiếng gió
        xoáy u u dọa nạt. Từ quát, tay xoay
        vòng, chéo áo cà sa găm hàng trăm
        mũi tiêu, mỗi mũi nhỏ bằng ba mũi kim
        khâu. Thật lạ, những mũi tiêu uốn éo
        chuyển động hệt sinh vật sống, đầu
        rướn cong ngúc ngắc. Thanh niên rú
        lên, giọng hoảng loạn. Nghe tiếng rú,
        những con trùng lớn dần, ngọ nguậy
        nhìn như sán lải. Từ chặc lưỡi:
        "Thế này thì gốc là Thảo trùng tiêu
        pháp của Đông Tà Hoàng Dược Sư trong
        Võ Lâm ngũ bá đây!"
        Chúm miệng nhổ nước bọt, Từ tiếp
        tục xoay vòng, nước bọt bay toé những
        hạt li ti như mưa bụi. Thảo trùng lả tả
        rụng xuống, cong queo như bị đốt.
        Ba tiếng chiêng đánh dóng dả, tiếng
        reo hò ầm ầm tứ phía. Một thiếu nữ
        mặt bịt bằng voan trắng, áo xường
        xám mầu lục, giơ tay lên. Đợi tiếng reo
        lắng bặt, nàng cất tiếng, giọng êm như
        mây bồng bềnh:
        "Chẳng hiểu thế nào mà Sư quấy
        phá Tiện nữ thế này. Tiểu tử đây, để
        lại thì xin bái biệt Sư trong tình thân
        hữu, còn không thì Tiện nữ bảo thật,
        máu sẽ đổ trên thềm chùa Phổ Độ đến
        ba đời sau vẫn chưa khô..."
        Từ cười ha hả, hắng giọng:
        "Dám hỏi danh tính cô nương, tại
        sao bần tăng quấy phá, và lý do tại
        sao cô nương muốn giữ tiểu tử này?"
        Thiếu nữ nhỏ nhẻ:
        "Tiểu nữ là Hân Ly, vẫn cứ đi tìm Đồ
        Long đao. Tiểu tử đây có sứ mệnh truy
        lùng một vật Bảo Quốc Hộ Dân, tiểu nữ
        nghĩ chắc đó là thanh đao vì nó tiểu nữ
        suýt oan mạng. Nếu không, thì chí ít
        vật đó cũng phải là kiếm Ỷ Thiên...
        Nhưng còn một lý do khác, riêng tư
        hơn, tiểu nữ không tiện nói ra!"
        Từ ngạc nhiên:
        "Theo cái biết nông cạn chốn giang
        hồ của bần tăng thì cô nương phải là
        người đầu triều Minh, tức là sau Tống,
        rồi Nguyên. Bần tăng hiểu là ta đang
        sống đời Tống, vậy khi ấy làm gì có Đồ
        Long đao và Ỷ Thiên kiếm mà cô nương
        tìm?" Còn chuyện riêng tư, Từ dùng
        phép Truyền âm nhĩ mật, hỏi, là chuyện
        gì?
        Hân Ly đưa tay lên chấm nước mắt,
        giọng run run:
        "Bực cao tăng hỏi, Tiện nữ không
        dám giấu... Ấy là Tiện nữ vẫn trinh
        trắng, chẳng một ai đoái hoài vì một
        bên mặt bị rạch ở đảo Long Sà, lúc nào
        cũng cứ phải lấy khăn che, nói lảng là
        mình theo đạo Hồi. Thời gian thì như vó
        câu qua cửa, Tiện nữ phòng không gối
        chiếc, mùa xuân cứ chậm chạp như
        què. Tiện nữ lại nghe bên châu Mỹ
        người ta có kỹ thuật ghép da mặt, phục
        hồi và chỉnh trang được nhan sắc ngoại
        hình, quảng cáo trên rất nhiều báo chợ
        ở quận Cam. Tiểu tử đây nói được tiếng
        Anh, có thể bảo lãnh cho Tiện nữ xin hộ
        chiếu xuất dương, làm thông ngôn cho
        Tiện nữ vì nói thật, Tiện nữ rất kém
        ngoại ngữ. Trong khi chờ đợi giấy tờ
        xuất cảnh, biết đâu Tiện nữ lại chẳng
        tìm được đao Đồ Long hay kiếm Ỷ
        Thiên, một công đôi ba việc..."
        Từ Phương trượng thở dài:
        "... Sắc sắc, không không! Sếch sếch
        cũng không không cô nương ạ! Còn
        như đao kiếm, quý báu gì thì cũng chỉ
        đưa đến sát sinh mà thôi."
        Lúc đó, thanh niên ghé vào tai Từ, thì
        thào "...sau 11 - 09, nhập cảnh vào Mỹ
        khó lắm vì chuyện chống khủng bố". Từ
        gật đầu, thủng thẳng:
        "Cô nương khiến bần tăng mủi lòng,
        xót xa cho thân gái dặm trường, đặng
        chẳng đừng phải kiếm cách lưu vong
        hòng sửa mặt cho đúng gu nam tử.
        Nhưng xin hỏi, bần tăng trao tiểu tử
        đây cho cô nương thì cô nương cho lại
        bần tăng cái gì?"
        Hân Ly đáp ngay:
        "Tiện nữ xin để lại toàn bộ âm binh
        phò Tiện nữ cho Phương trượng sai bảo.
        Xin nói ngay, ngày sinh thời Mao Chủ
        Xí, chính Lâm Bưu nguyên soái gạ đổi
        lấy toàn bộ lúa gạo trong kế hoạch
        năm năm mà Tiện nữ cũng không chịu
        đấy!"
        Từ cười hềnh hệch, nhưng nhẹ
        nhàng:
        "Ngay bần tăng thì bần tăng cũng
        chẳng đổi thế. Ai chẳng biết vì duy ý
        chí mà năng suất kém, sản phẩm nông
        nghiệp chẳng có là bao, lại không giá
        trị gì trên thị trường quốc tế!".
        Chưa dứt lời, Từ bế thốc thanh niên,
        tay khoa thiền trượng, vù lên đỉnh cây
        rồi dùng phép Đào Tẩu công lướt đi,
        hình dáng chỉ còn là một vệt khói vàng
        nhạt. Hân Ly quát the thé:
        "Không cho chúng nó thoát! Bắt lại
        cho ta!".
        Âm binh ùa ra tám phương trời, tiếng
        binh khí chát chúa chạm vào thiền
        trượng nghe đinh tai nhức óc. Từ thoát
        vòng vây chẳng mấy khó khăn. Khi Hân
        Ly đằng vân tới thì nàng chỉ thấy một
        chấm vàng ở cuối trời, biết không hy
        vọng gì bắt lại được. Tức tối, Hân Ly
        quắc mắt quát âm binh:
        "Ma chúng bay là đồ ăn hại. Lễ rằm
        tháng bảy này cấm trại, không cho lê
        la đi ăn cháo lá đa nữa! Bây giờ, vật
        chết tất cả sư sãi rồi đốt chùa, nghe
        không!".
        Chùa Phổ Độ cháy bừng bừng trong
        tiếng kêu khóc của đám sư sãi đã bị âm
        binh đột nhập bắt trói vào giờ Tị. Từ
        Phương trượng ngoái nhìn, lẩm nhẩm:
        "A di đà Phật, sau này ta sẽ xây
        dựng lại bằng mười cho mà xem!"
        *
        * *
        Khi thanh niên mở được mắt, chàng
        chỉ thấy một màn đêm đặc sệt. Giơ tay
        lên, chàng chạm vào vách đá ẩm ướt
        rêu phong. Khí lạnh thấm vào buốt đến
        xương. Chập choạng đứng lên men ra
        chỗ có chút ánh sáng hiu hắt, chàng lờ
        mờ thấy Từ Phương trượng ngồi xếp
        bằng tròn, tay chắp trước ngực, mắt
        nhắm nghiền, huyệt Bách Hội đỉnh đầu
        bốc một lớp khói trắng. Ngồi xệp xuống
        nền đất ẩm thấp, thanh niên im lặng
        chờ.
        Được dăm tuần hương, có tiếng thở ra.
        Rồi tiếng Phương trượng:
        "... Nam mô Phật, nam mô Pháp,
        nam mô Tăng... Tiểu tử thế mà khoẻ
        hơn ta! Chắc tuổi trẻ, khí lực còn nhiều,
        tốt! Ta cứu được mạng ngươi, chắc do
        duyên tiền định mà thôi".
        Thanh niên rập đầu cảm tạ, và hỏi
        ngay:
        "Bạch thầy, thầy tinh thông quán
        thế, nhưng tại hạ vẫn chưa được thầy
        chỉ giáo cho biết Đào Hạ Trang nay ở
        đâu. Lậy thầy ba lậy, tại hạ không thấy
        nàng thì chết không nhắm mắt được,
        xin thầy làm phúc chỉ cho..."
        Nói đến đấy, thanh niên òa lên khóc
        như cha chết. Từ bực mình gắt:
        "... Yên nào, hơi tí là khóc. Để ta ăn
        cái gì cho ấm bụng rồi ta quán tưởng
        tìm con ranh cho con. Có thực mới vực
        được đạo! Đi bắc cho ta nồi nước sôi.
        Nồi ta giấu sau Nhục bồ đoàn... Chỗ
        này!".
        Theo ngón tay chỉ, thanh niên cúi
        xuống, lôi ra một cái nồi đất, nghẹn
        ngào không một lời. Từ lẩm bẩm "Cái
        tình là cái chi chi? Ta chịu! Không thể
        nào hiểu nổi đám chúng sanh này cứ
        như một bầy khỉ!".
        Sau khi ăn một tô mì ăn liền giội
        nước sôi, Từ Phương trượng rứt chiếc lá
        bách soi trên ngọn bạch lạp, miệng
        khấn tên Đào Hạ Trang, rồi nhắm mắt
        thiền quán. Đâu dăm phút sau, Từ mở
        mắt nhìn thanh niên, nói:
        "Quẻ Lữ, thế là đi rồi, hiện ở thôn
        Đào Xá..."
        Thanh niên rập đầu, tức tưởi:
        "Kẻ hậu sinh ngu tối, chẳng biết
        Đào Xá ở đâu, xin thầy chỉ đến nơi
        đến chốn, kiếp này không đền ơn
        được thì xin đến kiếp sau..."
        Từ nhỏ nhẹ:
        "Thí chủ khỏi nghĩ chuyện ân huệ
        cho nhọc lòng. Đào Xá lập từ Thuận
        Thiên năm thứ 16, do Đào thị, một ca
        nương nổi tiếng hát hay, khiến đám
        con hát nay đều gọi là Đào nương. Bần
        tăng không biết Hạ Trang đích xác là ai,
        nhưng chắc chắn nàng trú ở Đào Xá,
        thí chủ cứ tìm hỏi, hẳn sẽ biết".
        Văng vẳng lại yêu nhau, cởi áo cho
        nhau... vang vọng như một tiếng gọi
        sâu thẳm. Thanh niên đứng lên vái một
        vái, thốt: "Muôn vàn cảm tạ thầy, nay
        xin xuống núi để...".
        Từ ngắt:
        "Không phải xuống núi mà là leo lên
        hang... Nhưng đừng đi vội thế. Bần
        tăng biết duyên nghiệp của thí chủ
        nặng lắm, mong giúp được thí chủ một
        chút trước khi bần tăng lên làm vua!"
        Thanh niên nhảy thót lên:
        "Thầy là người tu hành, sao lại lên
        ngôi vua được?".
        Từ mỉm cười:
        "Sao lại không? Trước khi bần tăng
        kể cho thí chủ nghe, để bần tăng hỏi
        một câu đã"
        Thanh niên ngước lên chờ đợi. Từ
        đủng đỉnh:
        "Nãy, Hân Ly cô nương có nói là thí
        chủ đi tìm một vật Bảo Quốc Hộ Dân.
        Đó là vật gì vậy?"
        Thanh niên kể chuyện ba người, gồm
        Rậm-ria, Tiểu-quỷ và chàng có thần
        nhân mách bảo, rủ nhau về tìm với
        mục đích làm sao để con dân Đại Việt
        đỡ khổ ải nhục nhằn sau hai cuộc
        chiến, nhưng nay vẫn chưa biết vật đó
        là gì và ở đâu.
        Từ chép miệng:
        "Hơi hâm một tí đấy, nhưng được cái
        tâm trong sáng! Không tìm, tất không
        thấy. Có tìm, may mà thấy thì cứu được
        cả thiên hạ!"
        Thanh niên quỳ xuống ôm chân Từ,
        giọng tha thiết:
        "Kẻ ngu tối này đã thấy phép thần
        thông của thầy, xin thầy mách cho cái
        vật quý hiếm kia là gì?"
        Khẽ nâng thanh niên lên, Từ niệm
        nam mô rồi nói, giọng như đinh đóng
        cột:
        "Thì là cái khiến đoạt được ngôi vua
        chứ gì nữa! Có quyền là có tiền. Quyền
        tuyệt đối, thì tiền không thèm đếm,
        cưu mang ai chẳng được! Cũng vì thế
        mà bần tăng sẽ lên ngôi trong mười
        lăm năm nữa!"
        Thanh niên còn sững sờ thì Từ chậm
        rãi:
        "Bần tăng thuộc hệ phái tu dấn thân,
        đã từng khuyên Ngô Tuấn thiến đi để
        gần gũi Lý Nhân Tông, tên đổi ra Lý
        Thường Kiệt, vào Thái Ninh năm thứ 4
        được vua sai đi đánh Tống, cùng với
        Tông Đản chiếm châu Khâm, châu
        Liêm, châu Ung. Năm sau, Tống hợp
        quân với Chiêm và Chân Lạp sang xâm
        lấn nước ta, bần tăng lại cùng Lý tướng
        quân đón đánh giặc ở bờ sông Như
        Nguyệt. Ở đền hai vị tướng họ Trương
        trung nghĩa, chính bần tăng vận Truyền
        Thông thần công để Lý tướng quân
        phát thanh:
        Nam quốc sơn hà Nam đế cư
        Tiệt nhiên định phận tại thiên
        thư
        Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
        Nhữ đẳng hành khan thủ bại
        hư.
        nhằm động viên quân ta giữ sơn hà.
        Bần tăng biết vua Lý Nhân Tông không
        có con trai nối dõi, sẽ lấy cháu lập làm
        Vua. Sùng Hiền hầu là em Vua đang
        cầu con trai. Bần tăng dặn báo cho bần
        tăng khi Đào phu nhân lâm bồn, bần
        tăng sẽ trút xác nhập hồn vào thành
        Thái tử Dương Hoán kế vị Nhân Tông.
        Bần tăng lên ngôi Vua là vậy, và sẽ lấy
        hiệu là Thần Tông..."
        Thanh niên hoảng hốt, van xin:
        "Kẻ ngu tối này xin thầy nghĩ lại.
        Trước khi làm vua, ai cũng nghĩ mình sẽ
        Bảo Quốc Hộ Dân. Nhưng thưa thầy,
        khi làm vua rồi thì chuyện hộ dân lắm
        vị vua quên béng, đâm ra hại dân thì
        nhiều. Vả lại, đi thêm mười thế kỷ,
        chuyện tách thần quyền ra khỏi thế
        quyền là trào lưu chung của loài người.
        Và rồi thế quyền cũng không tập trung
        vào một người, hay một nhóm người,
        mà phải dựa trên tính đồng thuận liên
        đới của mọi người trong một quy ước
        xã hội. Vậy thầy đã tu, tu cho trọn kiếp
        thanh cao, có phải thế mới là phương
        án tối ưu không?"
        Từ lắc đầu, nhỏ nhẹ:
        "Bần tăng cám ơn thí chủ đã chân
        thành khuyên ngăn, nhưng hai điều thí
        chủ nói thì bần tăng chẳng hiểu điều
        gì, cho nên thôi, để bần tăng bói thêm
        một quẻ xem cát hung trước mắt thế
        nào..."
        Nói xong, Từ nhắm mắt, người lặng
        vào một thế giới khác. Khi Từ mở mắt,
        vẻ trầm tĩnh cố hữu biến mất. Giọng ảo
        não, Từ thốt:
        "Thái sư Lê Văn Thịnh mưu đồ thoán
        nghịch, Nhân Tông mệnh hệ nào thì
        làm sao bần tăng triển khai kế hoạch
        nhập hồn vào Dương Hoán còn chưa
        thụ thai? Cái đám họ Lê này đặt mồ đặt
        mả thế nào mà đời này qua đời kia hễ
        cứ nhăm nhe Tể tướng là lại nghĩ ngay
        đến chuyện chiếm lấy Lộc Đỉnh của
        thiên hạ. Thế này thì bần tăng phải cầu
        thí chủ giúp một tay mới được!"
        "Giúp thế nào?", thanh niên bỡ ngỡ
        hỏi.
        Từ ghé vào tai, dặn như vầy, như
        vầy... đọc hồi sau sẽ rõ.
        *
        * *
        Rậm-ria và Tiểu-quỷ hiện sáng nào
        cũng ăn phở Thìn ven hồ Hoàn Kiếm
        đợi bạn, ba ngày sau thì sốt ruột, lắm
        lúc văng tục không khác gì trẻ bụi
        đường Hà Nội. Bảnh mắt, Tiểu-quỷ cư
        ngụ thành Luân Đôn, nơi rượu đỏ ê hề
        nhất nhì thế giới nên sớm nghiện chất
        cồn, đòi ngay một ly đế quốc lủi. Nâng
        lên miệng, Tiểu-quỷ nhõng nhẹo nhại
        thơ Quang Dũng "Uống đi cho đỏ mũi.
        Cho lên hương cuộc đời", tay vuốt mũi,
        miệng cười khì khì. Rậm-ria húp cạn
        bát phở váng mỡ, nhếch ria phán:
        "Nói cho bạn biết, phải bốn nghìn
        năm mới làm được bát nước phở thế
        này đấy, tự hào đi! Này nhé, mùi thì
        mùi hành thơm nhưng không hắc, nồng
        nhưng không gây, lại thoáng cái hương
        gừng gợi vị cay... Gợi thôi nhé, thế mới
        tài tình. Dân tộc ta là thế, tinh tế..."
        Tiểu-quỷ ngắt:
        "... và nghèo rớt mùng tơi, huynh
        ơi!"
        Cười hinh hích, - Tiểu-quỷ tiếp -
        "nhưng được cái nghèo mà ham, cái gì
        cũng đòi là nhất, là đỉnh cao!"
        Rậm-ria bực bội:
        "Nghèo không phải là xấu, giầu
        không cứ là hay! Bạn phải hỏi, nghèo
        là vì gì, và giàu thì làm thế nào mà
        giàu. Và hãy can đảm đối mặt với sự
        thật, dẫu đau cắt lòng".
        Đưa tay lên vê ria, Rậm-ria búng tay
        gọi tính tiền phở, trầm giọng:
        "Quái thật, sao hắn vẫn chưa tới. Email
        hắn dặn sẽ đi ngay, lẽ ra là đã đến
        từ hôm kia chứ!"
        "Chắc lại có cái bóng hồng nào đó.
        Em biết tính hắn nên mới đặt là Lơ-mơ
        lãng tử. Và cứ thấy nhan sắc là hắn
        động lòng, rồi đi đến đâu thì đi, chết
        bỏ!"
        "Nhưng chuyện chúng ta là chuyện
        đại sự... Thần nhân lại bảo chú là cả ba
        người chúng ta hợp lại thì mới có cơ
        may. Đèo thêm một bóng hồng nào đó
        vào rồi nhỡ lỡ việc thì sao!"
        Người phục vụ, một cậu bé độ mười
        bốn mười lăm, đến tính tiền với Rậmria.
        Tay này vốn người Hà Nội, trước ở
        phố Hàng Lược, sau giải phóng thì vào
        Nam, rồi vượt biên, nổi tiếng hải ngoại
        với một tập truyện khá hiện thực về cái
        thực trạng xã hội miền Bắc. Sau đó,
        Rậm-ria mở một tiệm ăn ở
        Copenhagen bên Đan Mạch nhưng vừa
        đóng cửa vì kinh tế Âu Châu đang tuột
        dốc. Làm ăn bên ngoài khó, Rậm-ria
        lần này tính kế hồi hương nhưng không
        nói ra cho ai biết ngoài Tiểu-quỷ. Rậmria
        tay đưa mấy tờ giấy 10.000 đồng
        nhàu nát bẩn thỉu, mắt nhìn cậu bé,
        hỏi:
        "Ông Thìn đâu, mấy ngày tao ra đây
        ăn mà không thấy. Tao là khách cũ, hai
        mươi năm mới quay lại đây. Mày nhắn
        ông ấy là phở vẫn cứ như xưa, ngon
        lắm..."
        Cậu bé cười cười:
        "Ông cháu về hưu từ sau Đổi Mới,
        bây giờ ốm nằm nhẹp ở nhà, mỗi lần ra
        quán là lại lầu nhầu chửi chúng cháu là
        phá gia cang, mất truyền thống, cứ
        kêu nước phở bỏ quá nhiều mì chính.
        Ông cháu có biết đâu là xương bò đắt,
        nấu thì phải tăng giá, mà tăng là ế
        liền... Cháu sẽ nói với ông cháu là
        khách cũ vẫn khen ngon, để ông cháu
        yên lòng!"
        "Ừ, - Rậm-ria đằng hắng, - cứ nói thế
        cho tao. Bảo ông mày là Phở và Chả
        Giò thành món ăn quốc tế, nổi tiếng
        còn hơn Điện Biên Phủ và chiến dịch
        Đại thắng mùa Xuân đấy!"
        Tiểu-quỷ phá lên cười ằng ặc, đứng
        dậy bước khỏi quán nằm ngay đầu một
        cái ngõ hẹp đâm ra đường, nóng đến
        chẩy mỡ với ba nồi phở đặt trên than
        hồng, khách đông ngồi chen như ngồi
        lên lòng nhau, húp nước xì xà xì xụp
        đồng tấu bản giao hưởng đầu ngày. Ra
        đến ngoài, Tiểu-quỷ móc máy:
        "Huynh khéo thật, người Hà Nội có
        khác. Em ăn phở Thìn, thấy thua xa phở
        Hòa ở Paris. Còn so với phở Nguyễn Huệ
        ở quận Cam Cali thì phở Thìn vừa ít
        bánh, vừa ít thịt, nhưng được cái là
        người ăn phở hơn xa nơi khác ở chỗ đói,
        húp hết nước rồi mà láo liên như sắp
        liếm cả bát... Ô, đất ngàn năm văn vật
        ta ơi, đừng tuyệt vọng!"
        "Này bạn, - Rậm-ria khoa tay như
        dọa - xin chớ mỉa mai cái đất này! Bạn
        sinh sau đẻ muộn, lại yên ổn ở Sài Gòn
        nên nào biết 12 ngày đêm bom B52
        cầy xuống đất mà không lay động được
        lòng người Thăng Long. Nhưng thôi,
        chúng ta hòa giải với nhau vì công việc
        chung là phải tìm cho ra cái vật quý
        hiếm Bảo Quốc Hộ Dân kìa!"
        "Thế nước có chông chênh thế nào
        mới phải Bảo Quốc, dân còn lầm than
        ra sao nên mới lo chuyện Hộ Dân -
        Tiểu-quỷ trề môi - Còn nếu cứ ca cẩm
        bài ca lạc quan tếu thì, ô hô ai tai, lại
        ru ngủ kiểu ta phở ngon nhất bốn ngàn
        năm lịch sử, ta đỉnh cao của lương tri
        thời đại, ta bách chiến bách thắng,
        đánh ngã nào là Đế Quốc, Thực Dân,
        rồi Bành Trướng... Nói vậy để huynh vui
        lòng, đệ nói ngay, nhưng thật tình vẫn
        không khỏi xấu hổ...".
        Đứng sựng lại, Rậm-ria kìm nóng
        giận, giọng nghẹn như có ai thò tay
        bóp cổ:
        "Chính tôi là người cảnh báo sự việc
        "con khỉ không đuôi" ngày còn thời bao
        cấp, bạn quên rồi ư? Giờ khác, ta có
        điều kiện hội nhập vào kinh tế toàn
        cầu, xuất khẩu lao động hầu huấn
        luyện tay nghề. Cứ xem con em của
        chúng ta thì biết tôi không thể lầm.
        Mấy đứa cháu tôi, chúng học từ sáng
        đến tối, chăm chỉ, biết lo đến tương lai.
        So với con tôi sống bên Đan Mạch, tôi
        công nhận chúng hơn nhiều, và tương
        lai là ở chúng..."
        Nói đến đó, Rậm-ria vùng vằng sang
        lề đường bên kia ven hồ. Tiếng xe
        Honda thắng gấp, bánh nghiến mặt
        đường ken két, rồi tiếng chửi: "ĐM
        mày, thằng dở người, định chết à!".
        Tiểu-quỷ theo chân, nhưng nhìn trước
        nhìn sau, mắt la mày lét. Khi hắn đặt
        chân lên hè con đường gạch lát quanh
        Bờ Hồ, Rậm-ria bảo, giọng vẫn cứ ấm
        ức:
        "Tôi đi tiên phong cho bạn, bạn
        suýt vừa giết tôi đấy!"
        *
        * *
        Thanh niên hứa giúp nếu Từ Phương
        trượng nói rõ đầu đuôi, vái rồi khẳng
        khái:
        "Cứ chuyện gì có tình có lý, lại khoa
        học, vừa đúng hướng tất yếu của lịch
        sử vừa thể tất được cả nhân nghĩa đạo
        Khổng thì tại hạ đây sẵn lòng".
        Bấy giờ Từ mới kể. Khi nhập định bói
        cát hung, Từ dùng độn Tàng tâm liên lạc
        với Tiểu Hằng tiên cô hiện đang trụ ở
        vườn hoa Mai Xuân Thưởng cứu giúp
        dân oan đang cùng nhau "khiếu kiện
        đông người". Tiểu Hằng, đóng vai nhà
        ngoại cảm để phù hợp với thời đại,
        đúng lúc ấy phải đối phó với truyền
        thống khủng bố, chỉ kịp gửi e-mail báo:
        "Hai đạo hắc bạch sẽ xuất đầu lộ diện
        phía tây hồ Dâm Đàm, lực lượng
        nghiêng ngửa, phần thắng vẫn là
        chuyện thiên cơ!". Rầu rĩ, Từ tự nhủ, có
        ta vào thì ta cũng không thay đổi được
        cán cân lực lượng. Làm Gì? What is to
        be done? Que Faire? Что делать? Bỗng
        nhớ còn tiểu tử đa tình bên cạnh, ta
        chợt thấy cái duyên trời định.
        "Trời định thế nào?", thanh niên thắc
        mắc.
        Khi ấy, Từ chậm rãi:
        "Thí chủ đến với bần tăng là có xếp
        đặt cơ huyền như giải trình điện toán vi
        tính. Giúp một tay, cán cân sẽ nghiêng
        về phần bạch, đám tà đạo chẳng thể
        nào bách hại được Lý Nhân Tông! Xin thí
        chủ giúp cho..."
        Thanh niên vươn vai, giọng cương
        quyết:
        "Cứu người, dĩ nhiên tại hạ đâu dám
        từ nan! Nhưng xin nói thật với Phương
        trượng: từ ấu thơ, tại hạ chuyên việc
        sách đèn, chân mềm tay yếu, cùng lắm
        sự nghiệp chỉ có chục bài thơ lục bát
        đăng điện báo hải ngoại, tại hạ làm gì
        được?"
        Từ Phương trượng thốt lên "Thiện tai,
        thiện tai!", rồi mỉm cười: "Thí chủ chớ
        lo!". Vòng tay ra sau lưng, Từ rút theo
        chiều sống lưng một thanh kiếm dài
        mười tấc, han rỉ, ngoại hình ngòng
        ngoèo. Chìa trước mặt thanh niên, Từ
        nghiêm giọng:
        "Quỳ xuống làm lễ bái sư, ta sẽ
        truyền cho Thanh Công kiếm pháp, lúc
        ấy thì mi chẳng còn phải sợ ai trên
        chốn giang hồ! Đây là kiếm Thanh
        Công, xưa của Tào Tháo, Triệu Tử Long
        cướp được ở cầu Trường Bản, nhờ thế
        cứu đặng Ấu Chúa A Đẩu mang về cho
        Lưu Huyền Đức, mi không biết à?"
        Lẽ thì phải quỳ xuống, nhưng thanh
        niên lùi ba bước, vòng tay thưa:
        "Bạch thầy, kẻ ngu tối này từng đã
        phát thệ hòa bình rồi tham gia phong
        trào phản chiến ở Berkeley chống chiến
        tranh, không thể dùng kiếm đổ máu
        được! Vả lại, kẻ ngu tối này tự nghĩ
        không có cái cơ duyên xuất gia đầu
        Phật, lòng còn tơ tưởng Đào Hạ Trang,
        nay xin kiếu để đi tìm nàng ở Đào
        Xá..."
        Nói xong, thanh niên ba chân bốn
        cẳng quay mình chạy. Từ Phương
        trượng chỉ khẽ nhấc mình, thân đã rơi
        xuống chặn ngay cửa hang, từ tốn:
        "Đi đâu mà vội mà vàng? Nếu không
        muốn tu chùa thì còn phương án Cư sĩ,
        tu tại gia, muốn vợ con vẫn được Phật
        phê chuẩn đăng ký! Chê kiếm gây đổ
        máu, thì còn thứ khí giới hiền lành như
        côn, như bổng. Xưa, các vị tổ chùa
        Thiếu Lâm cũng đã thu thập bí kíp võ
        công thiên hạ, thập bát ban võ nghệ
        đều tinh thông, kể cả phép Đả Cẩu
        Bổng của lão ăn mày Hồng Thất Công.
        Thí chủ không dùng kiếm thì ta dậy cho
        dùng bổng, gọn, nhẹ, lại không bị Viện
        Nội Mật xếp vào tội tàng trữ vũ khí...
        Tính danh thí chủ là gì, ta chưa biết!"
        "Bằng hữu gọi kẻ ngu tối này là Lơmơ
        lãng tử..."
        "Không được, đệ tử nhà Phật tên
        phải nghiêm chỉnh hơn... Để ta nghĩ
        xem! Nhưng trước khi bái sư mi còn
        điều gì muốn hỏi không?"
        Thanh niên lúng búng:
        "Bạch thầy, kẻ ngu tối này như vào
        một cơn mộng du. Bắt đầu là xuống
        máy bay thì còn kỷ XXI, thoắt một cái,
        quay lại thời Lý Thái Tổ dời đô 10 kỷ
        trước từ Hoa Lư về Đại La. Thành này
        nay gọi là Thăng Long bởi lẽ các vì vua
        từ Thái Tổ, qua Thái Tông, Thánh Tông,
        vị nào cũng thấy rồng lộn, khi thì ngồi
        thuyền vượt sông Nhị, khi thì cưỡi ngựa
        thị sát trên đê Yên Phụ, cả đêm lẫn
        ngày, năm này qua năm nọ, không hề
        mệt mỏi. Đến lúc kẻ ngu tối này đi tìm
        Hạ Trang thì thình lình đến thời Nhân
        Tông, gọi Thái Tổ bằng cụ. Nay thầy ban
        kiếm, lại kiếm Thanh Công có từ loạn
        Tam Quốc bên Tầu... Đùng một cú, thầy
        e-mail cho nhà ngoại cảm tên Hằng
        trong vụ "khiếu kiện đông người" thì ta
        lại rất hiện đại..."
        Cười lên ha hả, Từ Phương trượng
        đáp:
        "Tiểu tử thắc mắc thế, kể cũng đúng!
        Ta đồ vậy là mi có căn duyên, học với
        ta thành đạt chắc nhanh thôi. Vấn đề
        mi đặt ra là cơ bản đấy. Đó là câu hỏi
        Thời gian là gì? Hà hà, trả lời thì ắt có
        kẻ đã thử trả lời rồi, và thậm chí đoạt
        giải Nobel Vật lý pháp. Nghe ta lập
        ngôn đây: Thời gian có là do vật chất
        chuyển động. Năng lượng cấu thành
        chuyển động, cho nên thời gian là năng
        lượng, mà năng lượng chẳng qua cũng
        là một dạng của vật chất. Đấy, mi thấy
        cái lẽ huyền nhiệm tuần hoàn chưa?
        Năng lượng thì luôn được bảo tồn, cho
        nên thời gian cũng vậy. Cái ta gọi là
        trước, là sau đều là chuyện bề mặt của
        thứ thời gian thẳng tắp do sinh tử gây
        ấn tượng. Thật ra, không có gì trước,
        không có gì sau, tất cả chuyển dịch
        tuần hoàn. Tức là, từ khởi duyên mà đi,
        không có gì... Cho nên khi mi bảo "thì
        ta lại rất hiện đại" là chẳng có cơ sở.
        Nếu mi muốn, ta sẽ đưa mi đến thời
        hậu hiện đại như trong văn chương
        chẳng hạn. Nhưng ta bảo trước, ở đoạn
        này thì gập ghềnh, gẫy khúc, hỗn
        mang, đột biến nhiều đến nỗi độc giả
        tẩu hỏa nhập ma, tác giả thì chết, chỉ
        còn độc văn bản trên giấy vụn hoặc
        trên màn hình phù du..."
        Thanh niên quỳ xuống rập đầu:
        "Thầy đã giải đáp cho kẻ này cái
        nghi vấn đó, vậy nay chỉ còn một điều
        bất cập...". Nhìn Từ Phương trượng
        đang ngước mắt hấp háy ngó ngang,
        thanh niên thở dài, tiếp: "... số là cứu ai
        thì cứu, chứ cứu vua lắm khi lại thành
        họa cho chúng sinh..."
        Đập tay xuống Nhục bồ đoàn, Từ
        chặn, nghiêm khắc:
        "Dù xây chín bậc phù đồ, cũng
        không bằng làm phúc cứu cho một
        người... Vua thì cũng là người, cứu là
        cứu một người mà thôi!"
        Nghe đến đó, thanh niên ngộ ra lẽ từ
        bi bao la, liền sụp xuống, đầu đập vào
        nền đá lát hang, miệng rên rỉ:
        "Vì cứu lấy một con người, dẫu hắn
        là vua, đệ tử nay xin lậy ba lậy bái sư,
        lòng nhủ lòng, một miếng cũng là thầy,
        nửa miếng cũng là thầy. Dám mong Sư
        phụ truyền cho phép Đả Cẩu, và xin
        cho đệ tử được phép tu tại gia, đúng
        phương án Cư sĩ, không kiêng khem gì
        cả..."
        Từ Phương trượng hài lòng, ánh mắt
        nhân từ nhìn thanh niên:
        "Khen cho tiểu tử ngộ được lẽ cơ
        huyền, hiểu ra căn cơ bản thể của
        chuyển động là tuần hoàn. Để tránh
        hỗn mang, một chuyển động vòng với
        chỉ một tâm điểm là ổn định tối ưu. Vậy
        ta ban cho tiểu tử pháp danh Nhất
        Tâm! Từ nay, bỏ cái tên cà chớn đầy
        bụi là Lơ-mơ lãng tử đi!"
        Thanh niên lại rập đầu bái tạ.
        Quả như mong đợi của Từ Phương
        trượng, Nhất Tâm học một hiểu mười,
        tinh tiến mau vô cùng, nhất là khi
        luyện phép Lăng Ba Vi Bộ của nước Đại
        Lý, chạy nhanh, tránh né thật vô song
        trên chốn giang hồ. Đến giai đoạn học
        bổng pháp, Từ Phương trượng bẻ một
        gốc tre già, vuốt đến đâu thì thân
        thẳng ra, uốn lượn như loại Hắc Thiên
        Trúc chỉ thấy ở nước Liêu thời Đông
        Châu. Nhất Tâm xin học đúng ba chiêu
        pháp, sợ học nhiều, cậy có võ mà động
        tâm quyền lực thì thường chỉ gây sát
        sinh. Từ Phương trượng bước đầu
        truyền cho Nhất Tâm chiêu thức Đả Dã
        cẩu bổng, chuyên đánh chó dân dã,
        chó hoang, loại chó Ta nhiều kinh
        nghiệm đời, thường đói, biết nhu biết
        cương, lẩn tránh tài tình. Chiêu thức
        thứ hai là Đả Thị cẩu bổng, dùng để trị
        chó giữ nhà trong thành phố. Loại này
        thường là chó Tây Dương, giống từ
        nước Đức bên Âu Châu, chỉ đám nhà
        giầu từ trung lưu cấp cao trở lên mới
        đủ tiền mua. Thị cẩu thường gầm gừ
        nhe nanh, có cái thuật nhảy lên cắn cổ
        người như hổ báo, lại nói ngoại ngữ nên
        lắm khi cần phiên dịch mới ra lệnh
        được, vì thế không thật đáng kinh.
        Chiêu thức thứ ba là Đả Quyền cẩu
        bổng, dùng đánh chó nhà quyền quý.
        Loại này đủ thứ, có chó Ta, chó Tây, chó
        Tầu, chó Nhật. Chúng được chọn lựa rất
        kỹ, phân loại ra chó kiểng, chó săn, chó
        canh ma, chó kề mệnh phụ để giải sầu
        khi đức lang quân đi công tác dài ngày,
        vv... Chống mỗi loại, là phải theo đúng
        chiêu thức, khi mạnh khi yếu, lúc
        hoành tráng bung ra, lúc ẩn thân co
        cụm, học khá lâu mà Nhất Tâm vẫn còn
        quờ quạng, nhất là khi đối phó với chó
        canh ma. Loại này không sủa. Chúng
        thường liên hợp với đám cảnh vệ có
        điện thoại cầm tay để liên lạc với Trung
        ương đài chủ. Đám cảnh vệ thường
        được huấn luyện nghiệp vụ theo
        phương pháp ngậm máu phun người,
        chất độc ngấm có thể đến ba đời sau
        còn tác động trên lục phủ ngũ tạng của
        nạn nhân.
        Sau dăm ngày khổ luyện, đầu choáng
        tai ù, mình xuất hạn dầm dề nhưng vẫn
        không nhuần nhuyễn, Nhất Tâm nản chí
        thì Từ Phương trượng an ủi, bảo loại chó
        canh ma chỉ loanh quanh ở Thủ Đô nên
        bất tất phải cực lòng, hễ gặp thì dùng
        phép Lăng Ba Vi Bộ để toàn thân. Còn
        muốn thắng chúng, chắc phải đánh
        theo Liên Hiệp đa phong trào với các
        phái như Côn Luân, Nhân Quyền, Tung
        Sơn, Dân Chủ, Đại Ngôn. Và bởi mãnh
        hổ nan địch quần cẩu, phải niệm chú
        đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết mới
        mong đắc thủ.
        Nhất Tâm cúi đầu lĩnh ý.
        *
        * *
        Lại nói về Rậm-ria và Tiểu-quỷ loanh
        quanh trên 36 phố phường chờ Lơ-mơ
        lãng tử. Hai chàng hơi bị buồn, liền
        nhắc những chuyện tình nghĩa. Cách
        đây gần một thập niên, Tiểu-quỷ rủ Lơmơ
        sang Copenhagen thăm Rậm-ria.
        Buổi trưa, khi tiệm ăn hết khách, ba
        người ra vườn sau bù khú. Rậm-ria
        nghiêm trang:
        "Chẳng phải lúc nào cũng có cái
        duyên hội ngộ này, nhớ tích kết nghĩa
        vườn đào của Lưu-Quan-Trương, sao
        nay ta không uống một chén thề, thề
        rằng sao đổi vật dời, ta vinh nhục có
        nhau, như anh em ruột thịt?"
        Tiểu-quỷ cảm động, nước mắt rưng
        rưng, cầm ly lên ực ngay rồi rót thêm
        một ly cho mình, thốt: "Sẵn sàng!". Ôm
        vai Tiểu-quỷ, Rậm-ria quay nhìn Lơ-mơ:
        "Còn ông anh, ông phải là Lưu Bị mới
        được!"
        Lơ-mơ nguây nguẩy:
        "Kết nghĩa thì number one rồi,
        nhưng vườn không cây, chỉ có độc một
        chậu quất làm kiểng... Và Lưu Bị thì kẻ
        hèn này chẳng dám nhận..."
        "Thì kết nghĩa vườn quất, trượng phu
        ai đi câu nệ chuyện lặt vặt! Nhưng tại
        sao huynh chê chức Lưu Bị?"
        "Lý do... có tính bản chất. Lơ-mơ
        hắng giọng- Hai vị huynh đài còn nhớ,
        khi Triệu Tử Long bế được ấu chúa A
        Đẩu về trao tận tay cho Lưu Bị thì hắn
        đối xử ra sao không? Hắn quăng đứa
        con còn ẵm ngửa xuống đất, kêu vì mi
        mà ta suýt mất một chiến tướng rồi ôm
        lấy Tử Long khóc mùi. Đệ cho thế là
        hoặc Bị giả dối làm màn biểu diễn ân
        nghĩa chủ tướng trước ba quân, hoặc
        hắn chẳng có chút tình gì ngay với đứa
        con hắn đẻ ra. Vậy thì đệ không cam
        tâm làm Lưu Bị đâu!"
        Rậm-ria thở dài nhưng Tiểu-quỷ nhẩy
        quẫng lên vỗ vai Lơ-mơ:
        "Nếu huynh chê Lưu Bị thì đệ cũng
        chẳng hợp gì với Quan và Trương. Vân
        Trường thì phò nhị tẩu mà không lăn
        tăn, hẳn khác tạng đệ. Còn Trương Phi
        thì đen thùi lùi, lại nóng nẩy hay làm
        càn. Phần đệ, huynh nhìn xem. Đệ
        trắng trẻo thế này - Tiểu-quỷ uốn éo
        đứng lên - lại cơ trí hơn hắn nhiều. Nếu
        hai vị đồng ý, cho đệ làm Triệu Tử Long
        đi, oách hơn hai tên kia nhiều!"
        Rậm-ria gật:
        "Muốn làm ai thì làm, quan trọng là
        nội dung. Và nội dung là chuyện kết
        nghĩa với nhau. Nào, nâng ly!"
        Tiểu-quỷ vui vẻ, nhắc nào, nào, và
        hào hứng:
        "Ba anh em ta phải làm một cái gì
        chung với nhau mới được! Nhìn hai vị
        huynh đài ngơ ngác, Tiểu-quỷ cười hà
        hà, đề nghị - ta viết chung một tiểu
        thuyết chẳng hạn. Văn chương mà chỉ
        thuần truyện ngắn thì "đoản" lắm. Nhị
        vị huynh đài thấy thế nào?"
        Lơ-mơ giật mình, khép chân lại thủ
        thế, tự nghĩ mình mới có chục bài thơ
        lục bát, hổ thẹn thầm nhủ chớ đánh đu
        với tinh. Rậm-ria cười cười hỏi, nhưng
        viết gì cơ chứ? Tiểu-quỷ vỗ vào đầu
        bình bịch, kêu toáng lên:
        "Cái viết thì trong này rồi. Ta lấy tít
        là Bạn Triều Lý. Đệ nghĩ cả năm nay
        mới được hai câu đầu vào truyện.
        Nghe đây: Mặt hồ Dâm Đàm chao
        nghiêng khi chim báo bão đập cánh
        trên đầu rừng cây cơm nguội gập
        mình trong gió đầu đông se sắt lạnh
        hơi đồng. Lúc ấy, đoàn di tản từ Hoa
        Lư về Thăng Long dừng lại trên bờ
        sông Nhị, ngơ ngác nhìn về phương
        Nam, luyến nhớ quê cha đến cất chân
        không được, tay đưa lên chùi những
        giọt lệ ròng ròng chảy trên má trên
        môi..."
        Dĩ nhiên, tiểu thuyết ấy chưa sinh
        thành để đánh động văn hóa Giao Chỉ,
        gần đây lạm phát thơ và truyện chớp,
        rất phù hợp với xu thế nghe-nhìn, ăn
        fastfood, uống coca. Lý do thì nhiều, kể
        ra làm gì, lực bất tòng tâm là chuyện
        bình thường đối với lớp đặc tuyển một
        dân tộc thông minh, cần cù và hiếu
        học. Chỗ nào cũng vậy, ấy cái nước
        mình nó thế, từ Đông sang Tây, từ Nam
        chí Bắc!
        Đợi đến ngày thứ năm, cả hai sốt
        ruột, phải uống bia liên tục. Ngà ngà,
        Rậm-ria nhìn Tiểu- quỷ, hỏi:
        "Thần nhân có mách bảo thêm điều
        gì trong mơ nữa không? Hay là chuyện
        mơ mộng lại là chuyện nhà văn đi tìm
        hứng?"
        Nghe đến đấy, vốn mơ ước làm
        chuyện lớn, Tiểu-quỷ nghiến răng nhẫn
        nhục nhìn ra dòng xe máy chạy vòng
        vòng quanh Bờ Hồ. Quả thật thời gian
        sau này Tiểu-quỷ than mất phong độ,
        loay hoay tìm đường Đổi mới, đang âm
        mưu thành trưởng môn phái Z. Phải nói
        ngay, mười năm trước, khi Tiểu-quỷ
        xuất hiện thì giang hồ nổi sóng, hải
        ngoại kêu nếu trong nước có ông
        truyện ngắn Hua Tát với thủ pháp hiện
        thực trần trụi thì ở ngoài ta có Tiểuquỷ,
        nhà văn trẻ dùng thủ pháp hiện
        thực huyền ảo, nhìn ra cái chết sau
        quá khứ dập vùi vì pháo thuyền trên
        dòng Dương Tử. Văn phái Z chủ trương
        đổi D và cả GI thành Z, ziải phóng chị
        em, tranh đấu cho nữ quyền, đòi hỏi
        bạch hóa zâm zục, zia ziết, ziậm ziật.
        Một số nhà văn gốc Bắc nói ngọng R
        thành D, tuyên bố thực sự cách tân, đòi
        biến cả R sang Z, chẳng hạn zun zẩy,
        zùng zợn, vv... Miền Nam thành đồng,
        cũng nói ngọng, đi vô thành đi zô, đề
        nghị đổi V thành ZZ, thí zụ, đi về thành
        đi zzề, vẩn vơ thành zzẩn zzơ. Tiểu-quỷ
        yêu cầu trật tự, ra nghị quyết bỏ ZZ,
        chủ yếu zùng đúng ba tiêu chí, đứng
        hàng đầu là Zâm Zục, sau mới đến
        Zùng Zợn, và chót cùng là Zạo Zực. Lý
        zo đưa ra, zăn chương miền Bắc có
        truyền thống nên thủ cựu phải lên
        hàng đầu, còn miền Nam, đứng sau, bù
        lại được hai tiêu chí đổi R thành Z, vì
        tiền nhân dặn miền Nam "đi sau nhưng
        về trước".
        Thấy Tiểu-quỷ im lặng, Rậm-ria cười
        cười:
        "Sao tôi hỏi mà bạn không đáp,
        khinh nhau thế! Rậm-ria mỉa - Thần
        nhân mách bảo trong mơ cũng huyền
        ảo lắm đấy chứ! Nhưng đâu cứ phải đợi
        Trăm năm cô đơn của châu Mỹ Latin!
        Tây du ký, rồi Liêu trai chí dị mà không
        huyền ảo à? Nhà văn đâu cứ phải học
        ngoại ngữ rồi đi bắt chước như khỉ
        đâu..."
        Trúng chưởng, Tiểu-quỷ hộc một
        đống máu bầm, người cong xuống, mắt
        đỏ lừ ngước lên, trả miếng:
        "Nhà văn cũng không cứ phải thật
        dốt, và viết lách như pha mắm muối,
        làm mãi một món Tự lực văn đoàn!
        Cuối cùng, đóng cửa tiệm vì thế thì...
        ăn mãi phải chán!"
        *
        * *
        Thuyền ngự ra đến giữa hồ. Lý Nhân
        Tông ngửng mặt nhìn lên trời, thầm
        khấn: "Kính lạy Hoàng Thiên, kẻ xác
        phàm mắt thịt này đã xây 21 chùa,
        dựng 16 tháp, đổi hoàng hậu 6 lần, ăn
        nằm trước sau với 105 thị tần cung nữ,
        tha chém cho hơn 300 tên đầu giặc
        đuôi cướp làm phúc, thế mà sao không
        có lấy một mụn con. Nay xin phát thệ
        xuống tóc nếu ước nguyện nối dòng họ
        Lý này được chứng giám...". Trời bỗng
        sáng rực lên từ phương Bắc. Một chiếc
        thuyền câu vùn vụt lao tới khiến Thái
        sư Lê Văn Thịnh đi thuyền sau quát thủ
        hạ đề phòng, binh khí rút ra, tiếng
        loẻng xoẻng nghe rợn người. Chiếc
        thuyền câu đảo một vòng. Trên thuyền
        có ba người. Một người cúi sụp xuống,
        miệng thưa: "Muôn tâu Thánh Thượng,
        kẻ tiện dân tình cờ biết đấng Cửu Trùng
        hạ giá nên đến lạy chào, kính chúc
        Thánh Thượng an khang!". Nhân Tông
        chưa đáp thì Lê Thái sư quát:
        "... Không có giấy tờ đi lại mà đến tất
        là mang lòng tà ám, không cho chúng
        nó thoát, bắt lại!".
        Nheo mắt nhìn xuống thuyền câu,
        Nhân Tông giơ tay chặn lại, giọng
        khoan hòa:
        "Ngừng lại! Ai như Từ Đạo Hạnh, phải
        không?".
        Lúc ấy Từ Phương trượng ngửng lên,
        miệng hô: "Thánh Thượng vạn, vạn
        tuế!". Lê Thái sư phất tay cho đám thủ
        hạ thu binh khí, giọng thân mật:
        "Thì ra là Từ đạo lão. Từ ngày chia
        tay trên bến Như Nguyệt, xa mặt
        nhưng chẳng cách lòng, đệ luôn nhắc
        huynh với Thánh Thượng, nào ngờ hôm
        nay lại có cái duyên kỳ ngộ này!"
        Từ thầm nhủ, khi ấy Lê mới chỉ là
        một trung úy Viện Nội Mật chuyên lo
        an ninh một bến sông quèn, nhưng sau
        hắn luồn lách thế nào mà Lý tướng
        quân từng bình Chiêm phá Tống phải
        về hưu non để hắn tiếm cái chức Thái
        sư, quần thần từ đó chỉ còn là lũ hình
        nhân không tim không óc. Rạp đầu
        xuống, Từ bấm bụng, thốt:
        "Thiện tai, thiện tai. Bần tăng kính
        chào quan Thái sư. Vô lượng thọ
        Phật..."
        Lê đáp lễ, hỏi: "Những ai cùng đi với
        Từ lão đạo đấy?". Từ đáp: "Bẩm Thái
        sư, đây là Mục Thận và Nhất Tâm, đều
        là đệ tử tục gia của bần tăng!". Cả hai
        thấy Từ nháy mắt, liền rập đầu lạy.
        Thình lình một vòng sáng xuất hiện
        từ phương Bắc, xoay như lốc trên mặt
        hồ khiến sóng nổi nhấp nhô. Lê Thái sư
        tái mặt quay hỏi viên phụ chính, nhưng
        hắn bảo việc lạ này đột xuất chứ không
        nằm trong kế hoạch. Chính ngọ, tiếng
        reo hò nổi lên. Xa xa, ba chiến thuyền
        buồm sơn đen lao tới. Chiếc đầu, chăng
        phướn đỏ, góc trái vẽ một chùm sao,
        bên dưới là hình chiếc búa tạ vắt chéo
        một cái câu liêm, hai loại khí giới có
        tính quần chúng ở những vùng có
        nhiều thợ rèn và cư dân đậm đà truyền
        thống văn minh lúa nước. Chiếc thuyền
        ở chính diện nổi trống. Một người to
        lớn, bệ vệ, má trái có nốt ruồi to bằng
        đồng chinh, sừng sững hiện ra ở đầu
        mũi, đằng sau là một biểu ngữ viết chữ
        vàng: "Chủ Xí Sống Mãi Với Chúng Ta".
        Trên thuyền, đội Hồng Vệ trang phục
        đỏ tuyền phất cờ, hô: Tinh Tú lão tiên
        muôn năm. Thuyền bên phải, đội Hắc
        Vệ quần áo đen hò: Tinh Tú lão tiên
        muôn năm. Rồi thuyền bên trái, đội
        Bạch Vệ quần áo trắng, cũng gào lên
        Tinh Tú lão tiên muôn năm. Từ Phương
        trượng vốn đi lại võ lâm lâu năm nhận
        ngay ra là Đại Chưởng Môn họ Đinh ở
        Nam Hải đảo, sử dụng một cây đinh ba,
        võ nghệ thượng thừa, lại dùng Hồng
        Thư pháp và Tiêu Dao tán, hai loại kịch
        độc khiến khách giang hồ chỉ nghe mà
        hồn xiêu phách lạc. Pháp Hồng Thư là
        pháp hớp hồn, kẻ bị độc mất khả năng
        tư duy, bảo gì làm nấy bất kể sống
        chết. Còn Tiêu Dao tán là một thứ bột
        vô hương vô ảnh, ai hít vào thì chỉ một
        phút sau người nhũn ra, công lực tiêu
        tán. Khi đó phải dùng Hồng Thư mới có
        thể giải độc Tiêu Dao, nhưng thế là bị
        hớp hồn, tất vong thân, thành công cụ
        của quyền lực họ Đinh.
        Đợi tiếng hò reo lắng xuống, Đinh lão
        tiên cất tiếng hỏi: "Thằng nào xưng đế
        ở An Nam quận?". Lúc ấy, Lê Thái sư
        run giọng quát:
        "Hỗn láo! Thấy Vua mà mất dậy thế
        à? Mi chưa bao giờ nghe Nam quốc sơn
        hà Nam đế cư ư?"
        Đinh cười hà hà, phất tay thì những
        mũi câu liêm từ ba chiến thuyền phóng
        ra móc vào thuyền ngự của Nhân Tông,
        thuyền Lê Thái sư và thuyền Từ Phương
        trượng. Đinh lão ra lệnh:
        "Tìm một rẻo đất cao để ta hỏi cái
        bọn Nam man này, tìm cho ra ngọn
        ngành cớ sự!"
        Thế là thuyền lại vùn vụt rẽ nước, cái
        nọ kéo cái kia, hướng phía Đông lướt đi
        như bay.
        Đám vệ quân Hồng, Hắc, Bạch vây
        quanh, vua tôi Đại Việt biết lâm vào
        thế nên ngoại giao, tính kế tìm cách
        trao đổi hai bên cùng có lợi. Đinh lão
        tiên chỉ Lê Thái sư, hỏi:
        "Mi là thằng xưng Đế?"
        Nhìn Nhân Tông mặt xám ngoét, Lê
        đáp:
        "Không! Nhưng hiện tại hạ điều
        khiển được triều đình nước này, các hạ
        muốn thì tại hạ lo, ngàn vàng cũng
        chẳng đáng là bao!"
        Bật cười ha hả, Đinh lão trề môi:
        "Mi định đút lót ta à? Ừ, hiện ta cần
        cái đồng bằng sông Nhị cắm dùi, ở đảo
        mãi cũng chán... Hà hà, chỉ phơi nắng
        với tắm biển và đợi khách du lịch đi
        tua, ngán lắm!".
        Từ Phương trượng khi đó gầm lên rồi
        cất tiếng:
        "Hỡi Đinh lão ma, vua tôi ta sa vào
        tay ngươi nhưng còn ngươi, rồi ngươi
        không lọt được lưới trời. Tiệt nhiên định
        mệnh tại thiên thư, cho nên cái hạng
        đức mỏng như ngươi làm gì mà với tới
        được ngôi Thiên Tử... Đẻ ra ngươi, chỉ
        là loài cóc..."
        Giơ đinh ba lên trời, Đinh thét một
        tiếng lộng óc, hô hoán "Con cóc là cậu
        ông Trời...", tay thình lình phát chưởng
        đập vào đầu Từ. Nghe tiếng gió ào ào,
        Từ vung thiền trượng, dùng thủ pháp tá
        lực, lách qua một bên, áo cà sa phồng
        gió căng như một cánh buồm. Đinh
        gầm gừ:
        "Khá khen cho thằng trọc, võ công
        mi cũng vào loại khá đấy. Ta hỏi, mi là
        đồ đệ chùa Thiếu Lâm hay Tung Sơn?".
        Chưa dứt lời, bất ngờ Đinh chỉa đinh
        ba ra đánh ngón Sát Ngư thủy phục,
        thường sử dụng đâm cá hồi trên biển
        khi chúng cỡn lên sóng vào mùa đẻ
        trứng. Từ lùi một bước, rồi tiến ba
        bước, tay xòe ra dùng Cầm Nã thủ bắt
        ba mũi đinh ba. Cười nhạt, Đinh hô
        "Biến!" thì ba mũi đinh ba thành ba con
        rắn hổ mang cong cổ, thở phì phì, lưỡi
        thụt ra thụt vào, nhe răng nhắm cổ tay
        Từ mổ. Không kịp ứng phó, Từ buột
        miệng than, mệnh ta tuyệt rồi chăng...
        #4
          lyenson 07.05.2009 10:10:46 (permalink)
          NĂM
           
          Tiếng than của Từ Phương trượng
          chưa dứt, một ánh quang xanh biếc
          lóe lên chém xuống như sét đánh. Ba
          tiếng choeng choeng rền rĩ, Đinh lão
          thảng thốt rú:
          "Ta mất cha nó ba cái đầu đinh ba
          rồi!"
          Ngay cạnh Từ Phương trượng, một
          tráng sĩ mặt bịt bằng vải đen, chỉ cặp
          mắt sáng quắc lộ ra, tay thu kiếm bỏ
          vào vỏ trong một sát na, thủ pháp
          nhanh hơn ánh sáng. Đinh lão vứt cây
          đinh ba xuống đất, nhìn hổ khẩu mình
          toạc ra, thầm sợ kình lực của kẻ vừa
          xuất hiện. Lấy lại bình tĩnh, Đinh lão rút
          cây nhuyễn tiên giắt lưng, giọng xuống
          một ốc-ta, khen:
          "Hảo kiếm pháp, hảo kiếm pháp...
          Danh tính tại hạ là gì? Cớ sao lại dây
          vào chuyện tanh hôi chốn giang hồ?"
          "Ta là Độc Cô Cầu Bại núi Tung Sơn
          đây. Tay chỉ Từ Phương trượng, tráng sĩ
          tiếp - thấy vị này đã nương cửa Phật mà
          mi còn hà hiếp nên ta phải ra tay cứu.
          Có phải mi chính là Đinh Xuân Đông,
          truyền thừa của Đinh Xuân Thu trưởng
          môn phái Tinh Tú không?"
          "Đúng thế. Sư phụ ta lìa dương thế
          này ba năm nay..."
          "Ta lại nghe mi là kẻ ám toán Sư phụ
          mi bằng Tiêu Dao tán mà mi học mót
          được Đệ Tứ ác là Cùng Hung Cực Ác,
          đúng không?"
          Đinh chột dạ. Tội gì chứ tội phản sư
          diệt tổ là tội không ai, kể cả chính lẫn
          tà, trong giang hồ khoan thứ. Nuốt
          nước bọt, Đinh lấy giọng khoan thai:
          "Bọn mồm mắm tôm trong võ lâm thì
          thiếu gì. Các hạ nghe chúng thì là ăn
          lúa giống đấy. Chuyện ta được sư phụ
          truyền chức chưởng môn, thiên hạ ai
          chẳng biết. Phải không?"
          Tức thì ba đội Hồng, Hắc và Bạch vệ
          đồng thanh:
          "Phải rồi! Tinh Tú Đinh lão tiên muôn
          năm!"
          Tráng sĩ đưa tay lên miệng huýt gió.
          Một con ngựa bạch xông ra, trên lưng
          ngựa một đống bầy nhầy cọ quậy.
          Ngựa hí lên tung vó, đống bầy nhầy rơi
          xuống đất nghe đến bịch, chửi:
          "Bá ngọ mày Bạch Thần mã, tao mà
          chết thì chó nó cắt cỏ cung phụng
          mày!"
          Tráng sĩ thu hai tay vào bụng, tạo ra
          hấp lực kéo đống bầy nhầy tới gần, rồi
          vòng tay đẩy tới. Bầy-nhầy đến trước
          mặt Đinh lão, ngẩng lên rồi hoảng hốt
          thối lui ba bước, định chạy. Tráng sĩ vận
          kình lực dùng phép Cách Không Lưu Vũ
          giữ Bầy-nhầy lại, hất hàm:
          "Lão ma, ngươi chưa nhận ra người
          này là ai à? Đây chính là AQ, sư đệ
          ngươi, chẳng lẽ có mươi năm mà ngươi
          đã quên sạch nghĩa sư môn sao?"
          Khi ấy AQ mới nhìn ra Đinh lão ma,
          lồng lên:
          "A, ra là thằng phản thầy diệt tổ này.
          Mi hạ thủ cho ta thân tàn ma dại, mất
          hết khí lực đến cắt cỏ cho ngựa ăn
          cũng chẳng nên thân! Ta định chết thì
          gặp Chí Phèo làng Vũ Đại, dậy ta phép
          Vạ Thực Cấu Diện mà cào mặt ăn vạ.
          Ta học cả tháng nhưng không thành
          đại công, thôi phép trả thù trong tưởng
          tượng, tính nhịn đói để qua thế giới
          bên kia diện đoàn tụ với Lệnh sư thì
          gặp được tráng sĩ đây. Nghe xong
          chuyện, tráng sĩ hứa giúp ta đi trả thù
          cho Lệnh sư bị ngươi ám hại..."
          Đinh lão quát: "Im miệng! Đừng nói
          bậy...". Thình lình một tay vận mười
          thành công lực xuất chưởng đánh
          thẳng vào huyệt Bách Hội của AQ, tay
          kia Đinh quật nhuyễn tiên vào thanh
          kiếm Độc Cô Cầu Bại vừa rút ra. Nhìn
          thế công bất ngờ này, Từ Phương
          trượng chỉ kịp đảo mình nhắm cặp giò
          họ Đinh quét thiền trượng theo thế
          Trảm Sà Thủ khiến hắn phải nhẩy lên
          cao tám trượng, thu nhuyễn tiên lại,
          miệng chửi: "Hai đánh một chẳng chột
          cũng què, không biết xấu!"
          Đầu AQ vỡ vụn, óc phòi ra trắng hếu,
          chân tay vẫn tiếp tục co giựt thấy mà
          kinh. Độc Cô Cầu Bại lửa giận phừng
          phừng, quát: "Giết người để nhẹm
          tiếng, tội ác của mi chất chồng, ta
          không thể bỏ qua được! Ác giả ác báo!
          Coi kiếm của ta đây..."
          Bay lên như chim ưng, Độc Cô uốn
          mình lộn vòng, kiếm khí phát thành
          tiếng xì xì, nhắm Đỉnh đầu của Đinh lão
          chụp xuống một cái lưới làm bằng ánh
          quang sắc tía. Đinh lão rú lên, chân
          điểm xuống đất nhưng thân chưa cất
          lên thì lại phải hạ xuống, cây nhuyễn
          tiên lượn trên đầu chỉ mong thủ, mỗi
          lúc một chậm chạp, phần thua coi như
          trước mắt. Trong khi Đinh lão lùi dần,
          đám vệ quân nhao nhao: "Đã bảo mà,
          Đinh chưởng môn thần công cái thế,
          tiểu tử không chịu quỳ xuống thì chỉ có
          tán mạng. Tinh Tú muôn năm, muôn
          năm...".
          Đánh được ba khắc, thình lình Đinh
          lão lăn ra đất, tay áo phát một luồng
          kình lực lạnh ngắt. Độc Cô cười ha hả,
          rút khăn bịt mặt ra phẩy liên tiếp về
          phía đám vệ quân của phái Tinh Tú,
          phẩy đến đâu thì chúng nhũn người
          ngồi xệp xuống hoặc ngã bổ chửng ra,
          kêu khóc váng lên. Độc Cô quát:
          "Lão ma thu Tiêu Dao tán lại đi, đừng
          giết đệ tử như vậy nữa". Đinh lão tái
          mặt rút tay áo, lại nghe Độc Cô cười,
          bảo: "Cái phép đánh bằng Tiêu Dao độc
          tán vô ảnh vô hương bây giờ người ta
          dậy cách chống ngay trong những lớp
          bổ túc văn hoá cấp 3, hay ho gì mà thi
          thố. Coi đây!"
          Vừa nói, Độc Cô ném kiếm lên trời,
          lưỡi kiếm không rơi thẳng mà lại đảo
          một vòng rồi ngòng ngoèo như rắn vây
          bọc chụp xuống. Đinh lão cảm thấy
          một áp lực nặng như núi ập lên đầu,
          vận công đẩy lên, hai chân lún sâu vào
          đất, cứ một, rồi hai, rồi ba tấc như sắp
          bị chôn sống. Lão thét lên, mồm thổi
          một cục đờm mầu xanh vào mặt Độc
          Cô, mùi thối bốc lên khiến ai nấy bịt
          mũi. Bị đánh ám khí bất ngờ, Độc Cô
          buộc phải thu kiếm, nhẩy sang một
          bên tránh. Lúc bấy giờ, Đinh lão đã vận
          dụng gần hết công lực, thở hổn hển,
          giơ tay như xin thua.
          Chợt có tiếng trẻ khóc ré lên, rồi
          tiếng ru the thé: "Con ơi con ngủ đi
          con. Để mẹ đuổi bọn lon ton làm hề..."
          Từ Phương trượng tái mặt, lẩm
          nhẩm: "Thế là Nhị ác họ Diệp tái xuất
          giang hồ. Phen này không biết cát
          hung ra sao..."
          *
          * *
          Thiếu phụ trang phục trắng toát,
          ngoại hình rất chuẩn theo tiêu chí
          những cuộc thi hoa hậu, chỉ lạ là mặt
          một nửa trẻ măng như độ trăng tròn,
          nửa kia da lại nhăn nheo như một lão
          bà tuổi thất thập. Ghé răng cắn cổ đứa
          trẻ hút máu, Diệp Nhị nương nhắm
          mắt, miệng loe loét đỏ, hút xong một
          ngụm rồi dỗ:
          "Con mẹ ngoan, vì cái bọn chó heo
          này mẹ mới phải thế. Sau, nghỉ dăm
          bữa nửa tháng thì con sẽ hồi sức
          thôi..."
          Đứa bé không còn sức khóc, lả trong
          tay Diệp như một chiếc lá. Hút máu là
          bước sửa soạn Huyết Công tuyệt kỹ,
          gốc gác từ bên xứ Ba La Tư, chưởng
          âm hàn đánh ra có thể khiến máu địch
          thủ đông lại tức khắc, tác dụng chẳng
          thua gì Cửu Âm Chân Kinh chưởng
          pháp nổi tiếng võ lâm. Diệp Nhị nương
          đứng thứ nhì trong tứ ác. Đệ nhất ác là
          Thái tử Đoàn Diên Khánh nước Đại Lý,
          võ công quái dị, hai chân bị liệt nên di
          chuyển bằng tay nhưng còn nhanh hơn
          beo hổ. Đệ tam ác, tên Nam Hải Ngạc
          Thần, công lực còn đứng trên Tinh Tú
          Đinh lão chưởng môn một mức, học
          được cả Hàm Mô công của Tây độc Âu
          Dương Phong lẫn phép Sư Tử hống của
          Tạ Tốn Đại Hiệp, oai lực xô núi đẩy
          biển. Đệ tứ ác, nhân vật chỉ nhắc đến
          tên là phụ nữ nhà nhà đóng cửa. Y cần
          cái ấy một ngày đến bẩy bận, không
          được thì cương cứng đến phát khùng,
          lý do là hệ điều tiết hóc-môn trục trặc
          bẩm sinh. Y có chữa chạy với Hoa Đà,
          vị danh y này cũng bó tay, đề nghị cắt
          bỏ nhưng bệnh nhân không chịu.
          Thường, tứ ác đi đâu có nhau, trừ Đệ
          tứ ác thường xuyên tạm vắng vì lý do
          bệnh lý.
          Diệp Nhị nương vẫy Đinh lão, mắng:
          "Thấy cô nương mà không đến lạy chào
          thì ta nọc ra đánh cho biết thế nào là lễ
          độ, nghe chưa!" Thật lạ, Đinh líu ríu cúi
          đầu vái ba vái. Quay sang Độc Cô Cầu
          Bại, kẻ chỉ mong có người đánh bại
          mình, Diệp cao giọng:
          "Mi quả thật lớn lối, võ nghệ chỉ thế
          mà ngông nghênh tự cho mình một cái
          tên thật... là cao ngạo. Rút kiếm ra ta
          chỉ điểm võ công cho!"
          Thoáng một cái, Diệp Nhị nương lạng
          mình đến bên Độc Cô, tay đưa ra tát
          yêu, miệng nở một nụ cười duyên
          dáng. Độc Cô cúi đầu, cảm thấy má
          mình lạnh ngắt, biết âm kình của đối
          phương vào hạng nhất nhì giang hồ.
          Rùng mình, tay phải hoành kiếm, tay
          trái bấm vào huyệt Dương Hoa điều
          khiển thân nhiệt, Độc Cô lùi ba bước.
          Thình lình, một tiếng khoan hoà cất
          lên, âm lượng nhỏ nhưng xoáy vào tai,
          nghe như tiếng muỗi:
          "Thí chủ ngừng tay ngay, chớ manh
          động!"
          Mọi người ngửng lên nhìn. Một nhà sư
          áo nâu đến tự lúc nào mà không ai hay,
          đứng trên mô đất cao, tay lần tràng,
          mắt nhắm nghiền, lông mi bạc thếch rủ
          xuống như hai con rết. Độc Cô Cầu Bại
          reo lên:
          "Huyền Từ Vô Thượng Sư, thật duyên
          hạnh cho tiểu tử được diện kiến, xin
          nhận một lậy này".
          Mở mắt nhìn, Huyền bước sang một
          bước tránh cái lậy, từ tốn: "Đại hiệp
          khách khí làm gì!". Đảo nhìn một lượt,
          Huyền Từ vái Lý Nhân Tông, giọng
          cung kính:
          "Ngài là Vua nước Nam, xin cẩn
          trọng giữ mình, nuôi rắn trong tay áo
          thì nguy lắm!"
          Nói xong Đại sư nhìn vào mắt Thái sư
          Lê Văn Thịnh, chặc lưỡi ngửa mặt nói
          trống không: "Cầm tinh con cọp mà lòng
          dạ con heo, tiếc thay, tiếc thay!".
          Khi đó, Diên Khánh và Nam Hải Ngạc
          Thần khinh công đáp xuống. Diệp Nhị
          nương ré lên:
          "Đại ca, tam đệ... Lại cái thằng thầy
          chùa này đến phá bĩnh..."
          Chưa dứt lời, hai người y phục mầu
          chàm cũng từ trên mây rơi xuống như
          hai chiếc lá. Một người râu quai nón
          nói sang sảng:
          "Côn Luân nhị hiệp kính chào Huyền
          Từ Đại Sư và Độc Cô Cầu Bại đại hiệp!
          Thế này thì bên tà có bốn, bên chính
          cũng bốn, giao đấu thế nào xin Đại Sư
          chỉ giáo..."
          Nhị hiệp núi Côn Luân danh trấn
          giang hồ hai chục năm nay, chuyên
          dùng đao, thường đánh theo phép xa
          luân chiến, trận mạc kể hàng trăm mà
          chưa lần nào thua, nổi tiếng là chính
          trực và cơ trí. Huyền Từ và Độc Cô đáp
          lễ. Lúc bấy giờ, Nam Hải Ngạc Thần
          người cao tám trượng, mặt mũi sần sùi,
          bắp tay bắp chân cuồn cuộn như sắt
          nguội, cười lên ha hả:
          "Vậy là hai vị núi Côn Luân quên mất
          thằng đầu trọc tay xách thiền trượng
          kia ư. Nó lại mang theo hai thằng đệ
          tử, tay chân múa máy cũng có vẻ là
          con nhà võ. Bốn chống bốn là thế ư?"
          Từ Phương trượng đáp, giọng bình
          thản:
          "Vậy thì đám Hồng Vệ, Hắc Vệ, Bạch
          Vệ của Tinh Tú lão ma sờ sờ ra đấy mà
          thí chủ không tính ư?"
          Diệp Nhị nương ngắt, khích bác:
          "Chuyện nước Nam chúng bay,
          không có người nước Nam lo mà lại
          phải cầu xin người phương Bắc chúng
          ta ra tay hộ, không biết nhục à?"
          Xách thiền trượng lên, Từ tính nhẩy
          ra nhưng Huyền Từ nắm áo giật lại.
          Nam Hải Ngạc Thần vênh vang ra đứng
          giữa vạt đất bằng, miệng nhếch lên
          kiêu ngạo, quát:
          "An Nam chúng bay chỉ là thỏ cáo
          hay sao? Đứa nào giỏi ra đây!"
          Từ lại định nhẩy ra nhưng Huyền Từ
          vẫn nắm lại, nói nhỏ vào tai: "Sư đệ
          nghe ta. Mi mệnh mộc, nó mệnh hỏa
          nên mi ra là chết cháy, không được!".
          Diệp Nhị nương khinh khỉnh:
          "Thế mà rao Nam quốc sơn hà Nam
          đế cư, thật một lũ mặt dầy!"
          Không nhịn nhục được nữa, bất ngờ
          Nhất Tâm xông ra. Từ vội vàng thưa với
          Huyền Từ:
          "Bẩm Sư huynh, Nhất Tâm mới học
          võ công có bốn buổi, chỉ biết đúng ba
          miếng Đả Cẩu và ngón võ Lăng Ba,
          chống thế nào được?"
          Nheo mắt, Huyền Từ ngắm Nhất
          Tâm. Vòng tay áo cà sa, Huyền Từ dùng
          kình lực kéo Nhất Tâm về phía mình,
          miệng nói lớn: "Thí chủ đánh trận đầu,
          để ta nhắn nhủ đôi lời...". Khi Nhất Tâm
          đến cạnh, Huyền Từ thì thào vào tai.
          Ngoảnh lại nhìn Thái tử Diên Khánh,
          Huyền Từ từ tốn:
          "Thái tử và ta không nên động thủ,
          cứ để bọn trẻ nó vần nhau cho vui. Hai
          ta làm trọng tài, ai đánh mà chạy khỏi
          cái vòng tròn hai ta vạch ra là thua, chỉ
          cần đánh một trận để bớt hao tổn chân
          khí. Thái tử nghĩ thế nào?"
          Diên Khánh biết động thủ thì tất
          Huyền Từ là địch thủ, phần thắng
          chẳng thể chắc được. Về phần Diệp
          Nhị nương, chắc chắn Côn Luân nhị
          hiệp ứng chiến, cũng không biết cơ sự
          sẽ ra sao. Còn Tinh Tú lão ma, qua vài
          ngón thử tài vừa rồi hẳn dưới tay Độc
          Cô Cầu Bại một mức, thua không tránh
          được. Nhìn Nhất Tâm, Diên Khánh tự
          nhủ, thằng bé con này dẫu có học võ
          từ lúc lọt lòng thì cũng chỉ một cái đập
          của Ngạc Thần là thừa sức đưa nó về
          đoàn tụ gia đình với ông bà ông vải.
          Không nói không rằng, Diên Khánh tót
          lên không, tay chống một cây thiết
          cương, quay người xoay đi, mặt đất
          cầy lên nửa vòng tròn bán kính đúng
          năm thước. Huyền Từ, miệng nói "Đa
          tạ, đa tạ", tay phất lên, kình lực cắm
          xuống mặt đất vẽ tiếp nửa vòng tròn
          còn lại. Từ Phương trượng mặt tái
          ngoét, nắm tay dặn Nhất Tâm, đánh
          không được thì chạy vòng, rồi dùng
          phép Đả Thị Cẩu chứ đừng phân tâm
          đánh ngón khác. Huyền Từ giọng độ
          lượng, nói nhỏ: "Thí chủ mệnh Thủy, ắt
          dập được Hỏa, nhưng tập trung vào
          phép chạy..."
          Nam Hải Ngạc Thần chân dậm xuống
          đất thành những vết sâu cả tấc, tay
          vung ngang đầu, hét tướng lên:
          "Dặn dò gì mà lâu thế hả thằng nhãi
          ranh miệng còn hơi sữa. Ông nội mày
          chờ, ra đây lậy, ông tha cho".
          Nhất Tâm run lên như cầy sấy, không
          kìm được nỗi kinh khiếp khiến răng
          đánh vào nhau nghe lập cập. Huyền Từ
          phất chưởng đẩy. Nhất Tâm chân không
          chạm đất, bay là là ra, tay cầm bổng
          Đả Cẩu không chặt. Vừa đặt chân
          xuống, Ngạc Thần tức thì bay lại phóng
          Phi Hoàn Quỷ Cước ra một lúc tám thế
          đá vây bủa đối phương, bụi cát bốc lên
          mờ mịt. Huyền Từ quát:
          "Chó cắn, chạy đi!"
          Nhập tâm phép Lăng Ba Vi Bộ, Nhất
          Tâm bước ba bộ bên trái, tiến tới bốn
          bộ, rồi quay sang bước bảy bước bên
          phải theo phép tính của Phục Hi. Ngạc
          Thần thét lên rồi chuyển bộ pháp dùng
          Cầm Nã chiêu dương pháp tóm lấy ngực
          Nhất Tâm. Thoắt một cái, Nhất Tâm lạng
          sang phải, Ngạc Thần lấy chân ngáng,
          nhưng Tâm đã vòng đến trước mặt song
          vì hãi quá nên nhắm nghiền mắt lại. Cứ
          thế, một đánh một chạy cho đến khi
          Huyền Từ quát, đánh chó cứ đánh vào
          đuôi thì Nhất Tâm phạng một phạng,
          Ngạc Thần rú lên, nhưng lại thấy kình
          lực gần như không có gì. Nhẩy ra xa,
          Ngạc Thần hỏi:
          "Cớ sao mi lại phủi bụi chứ không
          thực sự đánh ta?"
          Bất ngờ, Nhất Tâm còn ấm ứ chưa trả
          lời thì Huyền Từ thốt:
          "Bần tăng dặn tiểu tử rằng thiện căn
          ở tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba
          chữ tài, tha người thì được tha, đánh
          người thì rồi có ngày người đánh, ân
          oán sẽ chập chùng!"
          Bỗng Ngạc Thần như chợt nhớ lại
          điều gì, thất thanh:
          "Có phải các hạ dùng phép Lăng Ba
          Vi Bộ không?"
          Nhất Tâm vừa gật thì Ngạc Thần quỳ
          xuống:
          "Nếu các hạ là Đoàn Dự thì cho đệ tử
          lạy một lạy cho đúng nghĩa thầy trò.
          Còn nếu như các hạ là đệ tử Đoàn Dự
          thì ta là anh em huynh đệ đồng môn, lẽ
          gì lại đi đánh lẫn nhau!"
          Nói xong Ngạc Thần tung mình lên
          cao chạy biến đi như một vệt khói.
          *
          * *
          Sự việc đến đây đã rõ, trừ chi tiết
          sau. Biết Nhân Tông có thể bị ám hại,
          Từ Phương trượng cầu cứu với sư huynh
          là Huyền Từ Vô Thượng Sư. Phần Lê
          Văn Thịnh, Thái sư đã liên lạc với Tinh
          Tú lão ma, thúc cho vị chưởng môn họ
          Đinh tập kích thuyền ngự trên hồ Dâm
          Đàm. Tinh Tú lão ma bàn với Nam Hải
          Ngạc Thần, toan tính chiếm Đại Việt
          làm kế lâu dài vì địa thế nằm trên
          đường giao lưu nối Trung Quốc với khối
          Đông Nam Á và Ấn Độ nên khá chiến
          lược trong phát triển kinh tế toàn cầu.
          Nhưng sức cô, Ngạc Thần thỉnh Đoàn
          Diên Khánh nước Đại Lý vốn sát Đại
          Việt hiện vẫn còn lang bang chưa đoạt
          lại ngôi vương bị anh em Đoàn Chính
          Thuần tiếm mất. Qua Tiểu Hằng, Từ
          báo rằng đám tà đạo khá đông, Huyền
          Từ tức tốc mời Côn Luân nhị hiệp. Hai
          vị này đang luận võ công với Độc Cô
          Cầu Bại, nhân tiện liền rủ cùng đi hành
          hiệp. Để đối phó với đám vệ quân Tinh
          Tú, Từ đã gọi đệ tử là Mục Thận, có
          phép La Võng thần công, quăng lưới
          một lúc bắt được hàng trăm con cá hồi,
          thị trường tiêu thụ chính là Phù Tang
          hải quốc có tục ăn cá sống sashimi.
          Còn sở dĩ Từ dạy võ cho Nhất Tâm là vì
          đã định giao cho Nhất Tâm nhiệm vụ hộ
          giá, chứ có ngờ đâu vì tự ái dân tộc mà
          Nhất Tâm xông ra đối đầu với Nam Hải
          Ngạc Thần danh chấn võ lâm. May, vì
          thanh niên ngờ nghệch này chẳng biết
          đối phương là ai. Và nhất là vì chàng
          dùng phép Vi Ba Lăng Bộ thì Ngạc Thần
          cứ ngỡ chàng là Đoàn Dự mà hắn buộc
          phải bái làm thầy như truyện kể trong
          Lục Mạch Thần Kiếm của đại văn hào
          Kim Dung.
          Lại nói sau khi Ngạc Thần chạy thì
          Diên Khánh chẳng nói chẳng rằng cũng
          vọt mình lên ngọn cây, để lại một tiếng
          cười gằn. Diệp Nhị nương phi thân bám
          sau, biết nay không làm gì được. Chỉ
          còn Tinh Tú lão ma, hắn bần thần nhìn
          Lê Văn Thịnh, vẫy tay chào trước khi hò
          đệ tử lên thuyền. Thịnh lơ đi nhưng
          Thần Tông đã thấy rõ đầu mối vụ việc
          phục kích này, lạnh lùng ra lệnh chèo
          về. Ra đến giữa hồ, trời bỗng mù mây,
          gió ù ù thốc khiến đàn quạ đập cánh
          bay lên nháo nhác. Biết việc đã bại lộ,
          Thịnh làm liều, rút đoản kiếm nhẩy qua
          thuyền Vua. Bất thình lình, ai nấy thấy
          một con cọp lông vàng giơ móng vuốt
          vồ Thần Tông. Nhất Tâm vội xoay bổng
          điểm vào mõm cọp theo chiêu thức Đả
          Dã cẩu, miệng la oai oái. Từ Phương
          trượng chưa kịp hành động thì Mục
          Thận quăng lưới. Cọp vùng vẫy, nhưng
          không sao gỡ ra được, thở khò khè mặc
          cho Nhất Tâm cứ nhè đít mà đánh đến
          cả trăm hèo. Lát sau, có tiếng người
          thốt lên: "Thôi, đừng đánh nữa, tôi đau
          quá rồi!". Trong lưới cá, Thái sư Lê Văn
          Thịnh nằm chèo queo, tay ôm mặt, tay
          ôm đít. Chuyện này được ghi trong Đại
          Việt Sử ký toàn thư, nói rõ Vua tha tội
          chết cho Thịnh, đánh xuống làm thứ
          dân, đầy lên trại Thao Giang. Còn Mục
          Thận thì được Vua ban cho đất Tây Hồ
          làm thực ấp. Sử thần Ngô Sĩ Liên đời
          sau bàn: Kẻ làm tôi (phạm tội) thí quân
          cướp ngôi mà được miễn tội chết, thế
          là sai trong việc hình, lỗi ở Vua tin sùng
          đạo Phật.
          Nay nói về Từ Phương trượng và
          Nhất Tâm. Về đến Kinh, Vua hỏi muốn
          thưởng gì thì Từ quỳ xuống xin cho xây
          một ngôi chùa lấy tên là Phật Tích, đời
          đời ghi đức giáo hoá lẽ sắc - không của
          đức Thích Ca Mầu Ni. Về phần Nhất
          Tâm, chàng chỉ xin đưa chàng đi Đào
          Xá. Vua thấy lạ gặng hỏi nhưng chàng
          đỏ mặt lên cười bẽn lẽn.
          Từ Phương trượng tiễn Nhất Tâm đến
          Gia Lâm thì dừng chân, nói:
          "Vui duyên mới chớ quên nhiệm vụ
          nhé!"
          Nhất Tâm ngạc nhiên hỏi: "Nhiệm vụ
          gì, thưa Sư phụ?". Từ nhắc:
          "Thì đi tìm cái vật Bảo Quốc Hộ Dân
          ấy, quên rồi à!"
          Nhất Tâm ứa nước mắt, ôm lấy chân
          thầy. Đỡ đệ tử lên, Từ thì thào:
          "Có thể vật ấy ở đáy núi Nùng, nơi
          thông ra sông Nhị. Nó mang hình dạng
          cái chày thọc vào cối, tức là Nõn-
          Nường trong truyền thống phồn thực.
          Ta nghe thời Bắc thuộc Cao Biền chôn
          vật đó để trấn yểm dân khí An Nam,
          khiến trong đất nước này người người
          tham lam, nhà nhà gian dối, ai nấy lo
          no cơm ấm cật cho mình chứ chẳng
          thèm biết đến người khác, đời đời kiếp
          kiếp cãi cọ tranh giành đánh đấm lẫn
          nhau. Lấy được Nõn-Nường, con tế trời
          đất rồi khiến cho âm thuận dương hòa,
          diệt mầm làm con dân Đại Việt không
          mở mày mở mặt ra được! Nhưng muốn
          âm thuận dương hòa thì phải đến núi
          Nà Mèo gần Mường Lát ở Hòa Bình - Từ
          ghé vào tai Nhất Tâm -... và làm thế
          này, thế này..."
          Nhất Tâm lĩnh ý thầy, lậy tạ rồi nhẩy
          lên con ngựa trắng Vua ban, ra roi chạy
          về phương Nam.
          *
          * *
          Tiểu-quỷ không dằn được nữa, nói
          thẳng:
          "Tưởng anh vì cái vật Bảo Quốc Hộ
          Dân, rủ đi dò hỏi, nhưng suốt thời gian
          về đây anh chạy qua Bát Tràng xem
          cái khả năng xuất đồ gốm bán sang Âu
          Châu, lại rằng dò hỏi thì có thể rầy rà
          mang tội danh gián điệp..."
          Rậm-ria tái mặt, nhưng bình tĩnh
          đáp:
          "Bạn biết không, bây giờ khác thời
          cấm chợ ngăn sông, ta đã mở ra hội
          nhập với cả thế giới. Thế thì, xuất khẩu
          lấy ngoại tệ là cần lắm chứ. Với lại tôi
          tìm gốm Bát Tràng vì đó là sản phẩm
          truyền thống, chắc chắn sẽ làm vẻ
          vang cho văn hóa ta, đâu phải chuyện
          thường!"
          "Tiệm ăn đóng cửa, anh kẹt không
          biết xoay xở thế nào nên mới vẽ
          chuyện ra chứ đừng nói kiểu vẹt là làm
          giầu tức yêu nước, đúng theo khẩu
          hiệu dân giầu nước mạnh. Về đây, anh
          thấy anh em họ hàng ai cũng bán nhà
          trong phố cổ lấy cả năm ba trăm cây
          vàng, anh mới tiếc, anh nghĩ anh xưa
          vượt biên là một lầm lẫn... Bây giờ, cái
          gì trong nước cũng tốt, cũng đẹp. Cha
          mẹ thì tảo tần găm hầu bao đợi ngày
          Việt Nam lên sàn thị trường chứng
          khoán, con em thì học đến mụ người
          ra, ngày không dưới 10 giờ, học trường
          rồi đi học bổ túc, để hướng tới tương
          lai... Anh có biết hôm qua vụ nổ ở Hồ
          Tây là do dân oan "khiếu kiện đông
          người" không? Hiện nay, mỗi năm như
          vậy trung bình có 200.000 vụ đòi nhà
          đòi đất, đòi cả năm mười năm mà
          chính quyền lơ đi trong khi một ngàn
          năm trước, Lý Thái Tông cho phép
          người khiếu kiện có quyền gõ mõ vào
          thẳng cung Vua, và xử thì chỉ trong 10
          ngày là giải quyết! Xã hội công bình
          sống theo nếp sống văn minh ở đâu?"
          Rậm-ria bị Tiểu-quỷ dập pháo liên
          tục, ngạc nhiên nhưng lấy vẻ mặt
          nghiêm và buồn, chép miệng:
          "Thời kỳ quá độ, chỗ nào chẳng
          vậy! Chuyện ba chúng ta về đây, làm
          sao tôi quên được, nhưng phải chờ Lơmơ
          có mặt, mà hắn thì thế là 5 ngày
          nay trốn biệt chẳng hiểu ở đâu! Còn
          chuyện phê phán xã hội, bạn cứ chờ,
          chúng ta sẽ làm cho ra lẽ..."
          Một chiếc Honda ghé vào lề. Người
          ngồi trên vẫy Rậm-ria, ới:
          "Doanh nhân yêu nước ơi! Lên ngồi
          sau ngay, ta đi, trễ giờ đến nơi rồi!"
          Nhẩy lên xe, Rậm-ria hẹn về ăn trưa.
          Tiểu-quỷ trề môi:
          "Chắc đàn anh lại sang Bát Tràng
          làm cái việc vẻ vang cho văn hoá ta
          chứ gì!"
          *
          * *
          Nhất Tâm cắm một bó nhang, vái ba
          vái, rồi phủ phục trước nấm mộ trên
          cắm một cái bia đá khắc chữ ngoằn
          ngoèo. Trăng bán khai thuở nguyên sơ
          lấp ló e thẹn sau những đám mây bạc
          lởn vởn vờn quanh chọc ghẹo. Không
          kìm được, chàng nức nở buột miệng:
          "Ta đến đây nhưng nàng nay đâu?
          Gào tên nàng đến rách họng ở Dâm
          Đàm, rồi trải qua một cuộc phân tranh
          chính-tà khiến mạng ta tưởng đã đến
          chỗ tuyệt, ta mới biết nàng ở Đào Xá.
          Nhưng, thật đau đớn cho ta, nấm mồ
          này là nơi nàng vùi xác tục để hồn
          phiêu diêu về chốn Niết Bàn... Đào Hạ
          Trang nàng hỡi, mối tình này thác
          xuống tuyền đài cũng chẳng thể nào
          tan..."
          Nhất Tâm đập đầu vào thành mộ,
          máu toé ra có vòi. Thiếu nữ quỳ đằng
          sau nhẩy xổ lại lôi áo, miệng hốt
          hoảng:
          "Công tử, chớ liều mình, mệnh hệ có
          thế nào là liên lụy đến cả làng Tiện
          nữ!"
          Đó là Đào Nhí, người gặp Nhất Tâm
          chiều hôm nay. Nghe Nhất Tâm hớn hở
          hỏi: "Cho tôi hỏi cô Đào Hạ Trang,
          người làng bảo nhà ở đây!", Đào Nhí
          ngạc nhiên: "Dạ đúng, nhưng bà cô tổ
          dòng họ Đào chúng tôi đã mất từ đầu
          triều Lý Thái Tông rồi!". Nhất Tâm tưởng
          mình bị lỡm, cười: "Cô nương đùa? Tôi
          mới được đức Vua Lý Nhân Tông, cháu
          gọi Thái Tông bằng ông, cho con ngựa
          trắng này hôm qua để đi đến đây...".
          Đào Nhí, mặt nghiêm trang, vòng tay
          ngắt: "Công tử chê chúng tôi là người
          cầy sâu cuốc bẫm, nhưng dẫu ngu hèn
          đến đâu chúng tôi cũng biết năm nay
          là năm Nhâm Tý, Thiên Thuận năm thứ
          năm tức năm 1132 sau Công nguyên.
          Ngày sinh nhật vua Lý Thần Tông được
          17 tuổi, Vua vừa ban chiếu báo rồng
          vàng từ điện Vĩnh Quang bay ra cung
          Lệ Quang, miễn sưu thuế cho toàn dân
          một năm...". Nhớ đến lời Từ Phương
          trượng báo sẽ trút xác để nhập vào
          Dương Hoán lên làm Vua, Nhất Tâm vội
          vã: "Có phải Thần Tông kế vị Nhân Tông
          không, thưa cô nương...". Nhìn Đào Nhí
          gật đầu, Nhất Tâm tính nhẩm rồi thốt:
          "Ta đi từ sáng, chiều đến đây nhưng
          thế mà lại mất đến trên 17 năm...".
          Thất thanh kêu: "Thế Đào Hạ Trang
          đâu?". Nhìn Đào Nhí lắc đầu, Nhất Tâm
          ngã vật xuống đất, nằm hôn mê cho
          đến đêm. Khi tỉnh dậy, Đào Nhí báo bà
          cô tổ họ Đào nổi tiếng ca ngâm từ thời
          Lý Thái Tổ đã quy tiên được 133 năm
          rồi. Nước mắt đầm đìa, Nhất Tâm khẩn
          khoản xin Đào Nhí đưa mình ra viếng
          mộ. Không ngờ người đàn ông đa tình
          này liều mình đập đầu quyên sinh, Đào
          Nhí lấy lá nhai ra đắp vào trán rách
          toạc một đường, nắm quần Nhất Tâm,
          giọng run run: "Công tử chớ dại, Tiện
          nữ xin lấy thân này đền duyên cho bà
          cô tổ, chứ nói dại công tử chết thì...
          thì...". Bất chợt, có tiếng cười, rồi tiếng
          hát lảnh lót vẳng lại từ trăm năm trước:
          Yêu nhau, cởi yếm í à cho nhau
          Về nhà dối cha dối mẹ, dối rằng ơ à
          qua cầu mà gió bay, í a...
          *
          * *
          Rậm-ria và Tiểu-quỷ nhẩy nhổm lên
          reo khi Lơ-mơ lãng tử thò mặt vào quán
          phở Thìn. Kéo Lơ-mơ ngồi xuống, Tiểuquỷ
          ngạc nhiên hỏi:
          "Ủa, ăn mặc thế này? Anh làm thầy
          chùa từ khi nào vậy?"
          Dựa cây Đả Cầu bổng vào chân bàn,
          Lơ-mơ nhỏ giọng:
          "Từ thời Lý, chuyện ngàn năm nay,
          tìm chỗ vắng vẻ tôi sẽ từ từ thuật lại
          cho các bạn, thề không giấu diếm gì
          cả. Vả lại...". Lơ-mơ nhìn khách ăn phở
          xung quanh, im bặt.
          Ba người kéo nhau ra ngồi trên ghế
          đá bắc dưới cây đại thụ rễ sần sùi trườn
          lên khỏi mặt đất cạnh đền Ngọc Sơn.
          Tiểu-quỷ vừa châm thuốc, hút chưa
          được một hơi thì tiếng xe bình bịch chí
          ít cũng cỡ 300 phân khối đập vào màng
          nhĩ chói chang. Có tiếng cười ngạo
          nghễ: "Ba anh giai đi bụi...".
          Lời chưa dứt, xe đã vọt qua, đen trùi
          trũi như một con ngựa không cương
          hóa dại lồng lên. Rậm-ria lắc đầu:
          "Dân Hà Nội nay giầu, ăn chơi cũng
          hạng nhất!"
          Quay đi ngoảnh lại, chàng kỵ mã
          cưỡi chiếc xe đã sáp lại:
          "Một vòng Bờ Hồ, mất đúng 3 phút
          26 giây, anh giai nghĩ thế nào? Thi
          quốc tế được chứ?"
          Tiểu-quỷ ngắm thanh niên thân cao
          mười thước, vai ngang tám tấc, tay dài
          như tay vượn, mặt vuông vắn chữ điền,
          nhếch miệng cười thiện cảm, ỏn ẻn:
          "Quá được! Nhanh hơn cả công an
          giao thông. Con xích thố này mua đâu
          mà giống tốt thế?"
          "Khá khen kẻ mắt xanh nhìn ra ngựa
          quý. Mượn của Vân Trường làm dăm ba
          phi vụ, nhưng nếu anh giai muốn,
          thương lượng thuận mua vừa bán thì
          cũng có thể để cho anh giai dùng..."
          Rậm-ria chen vào:
          "Phi vụ gì mà cần ngựa tốt thế này?"
          "Chẳng nói giấu gì ba anh, kẻ hèn
          này kinh doanh với thương hiệu "Ân Trả
          Oán Đền", tiền trao thì bảo đảm giao
          hàng trong ba ngày. Bảng giá như sau.
          Chém chân hoặc tay phải: 300.000$,
          Chân hoặc tay trái: 200.000$. Thanh
          toán phần xác, bằng dao: 2.000.000$,
          bằng súng: 1.500.000$. Tạt acid (vào
          mặt để đánh ghen): 1.000.000$... Công
          ty có giá khuyến mại vào dịp Tết,
          Giáng sinh và ngày lễ Độc lập... Các
          anh có cần dịch vụ nào không?"
          Trời bỗng tối sầm xuống. Thanh niên
          một tay che mắt, tay kia chỉ lên không,
          mồm nói:
          "Anh giai xem gấu đang gặm mặt
          trời kìa!"
          Quả thế, một chớm đen như mõm
          chó lấn vào vòng sáng khiến mặt trời
          lẹm đi, lát sau chỉ còn là một lưỡi liềm
          có viền sáng như lửa bắt quanh. Bóng
          tối ngay giữa ban ngày khiến chim
          chóc chíu chít nháo nhác, gà hoảng hốt
          o e, chó tru lên từng hồi tựa chừng hóa
          dại. Thế gian chìm vào một chậu mực
          tím khổng lồ. Tiếng ngựa hí. Tiếng
          quát: "Chẩu, chẩu". Ba người níu vào
          nhau. Lơ-mơ bảo: "Đừng buông tay ra,
          kẻo lạc!".
          Gấu ăn no, nhả dần con mồi. Mặt
          trời ló dạng, thiên nhiên như lột xác
          nhưng lơ ngơ như một đứa bé dở người
          đang lớn. Tiểu-quỷ chợt rú lên: "Tháp
          gươm biến đâu mất rồi?". Rậm-ria
          ngoảnh lại, hoảng hốt: "Cái đồng hồ
          trên nóc Bưu Điện cũng không còn...".
          Lúc bấy giờ, Lơ-mơ sống lại cảm giác
          ngày chàng vào Hà Nội, xe chở khách
          của Vietnam Airlines hóa thành xe trâu
          trên con đường dời đô từ Hoa Lư về
          theo chiếu chỉ của Lý Thái Tổ. Nhìn
          quanh, đám phụ nữ đều mặc yếm
          trắng váy thâm chứ không còn điệu
          đàng quần xệ áo thun môi đỏ má
          hồng. Đám đàn ông kẻ đóng khố người
          cởi trần mình mẩy xăm hình rồng rắn
          chứ chẳng hoành tráng vét-tông cà-vát
          mặc dầu trời nóng xấp xỉ 30 độ C. Lơmơ
          thốt:
          "Chưa biết năm nay là năm nào,
          nhưng chắc chắn chúng ta đã quay về
          triều Lý!"
          Nhẩn nha, Lơ-mơ thuật lại chuyện đi
          tìm Đào Hạ Trang, bái Từ Đạo Hạnh
          làm thầy, đụng độ với Nam Hải Ngạc
          Thần, cứu giá Lý Nhân Tông và cuối
          cùng, khóc trên mộ Đào Hạ Trang đã
          ra người thiên cổ, rồi từ chối ước
          nguyện xe duyên của Đào Nhí, cô bé
          gọi Hạ Trang bằng cố tổ. Nhỏ nhẹ, Lơmơ
          chắp tay vái bạn:
          "Xin hai vị huynh đài từ nay gọi tại
          hạ là Nhất Tâm, pháp danh do Sư phụ
          ban cho đệ!"
          Chưa biết Rậm-ria và Tiểu-quỷ đáp
          thế nào thì vó ngựa cồm cộp đập trên
          đá lát, và tiếng ồm ồm: "Nỉ hảo, nỉ
          hảo!". Đó là thanh niên ba người gặp
          trước Nhật Thực, cưỡi xích thố chạy
          ngang, vừa ra roi vừa thét:
          "Mại zô, mại zô dịch vụ Ân Đền Oán
          Trả. Chính Tổng giám đốc là Triệu Tử
          Long đi khuếch mại, mua một cho một,
          bảo đảm không vừa lòng sẽ hoàn trả
          tiền. Mại zô..."
          Về chuyện đi tìm vật quý hiếm Bảo
          Quốc Hộ Dân, Nhất Tâm không giấu
          giếm, kể ngọn ngành cho bạn nghe.
          Rậm-ria trầm ngâm:
          "Xuống đáy núi Nùng chỗ thông ra
          sông Nhị thì phải nhờ ông chú mình
          trong chiến tranh chống Mỹ nguyên
          phụ trách hệ thống địa đạo trong nội
          thành để bảo vệ những yếu nhân khi bị
          bom. Nói, chắc ông cụ sẽ giúp, nhưng
          chắc chắn ít nhiều cũng phải có tí thù
          lao. Đất nước ta còn nghèo, nhất là
          những người trót về hưu! Đồng ý như
          vậy nhé."
          Dĩ nhiên. Ba người bạn triều Lý
          ngoéo tay nhau, cách ký hợp đồng
          mười kỷ trước thời hiện đại.
          *
          * *
          Chuyện không thể ngờ nổi khiến
          Nhất Tâm choáng váng ngã ngồi xuống
          đất. Rậm-ria đỡ Nhất Tâm lên, giọng
          hậm hực:
          "Tiểu-quỷ thuê Triệu Tử Long đến dậy
          cho tôi một bài học, bạn ạ! Nhưng tôi
          chạy được! Bây giờ, tôi nâng giá để
          Triệu Tử Long dậy lại cho Tiểu-quỷ cũng
          bài học ấy..."
          Thấy Rậm-ria còn đủ cả chân tay,
          mặt mũi nguyên vẹn chưa bị a-xít tàn
          phá, Nhất Tâm yên lòng, can:
          "Không thế được! Hưu chiến để bàn
          bạc. Chúng ta đã kết nghĩa vườn quất
          năm nào, thề sinh tử có nhau, một
          thằng chết thì hai thằng kia chết theo.
          Phần tôi, chưa tìm ra vật quý hiếm thì
          tôi còn muốn sống, bạn hiểu chứ!"
          Nói xong, Nhất Tâm đi tìm Tử Long,
          đề nghị:
          "Tôi trả ngài giá gấp ba, nếu như
          ngài để cho chúng tôi bình yên, tránh
          được nội chiến!"
          Tử Long cười, không nói yes, không
          nói no, chỉ buông thõng "để xem!".
          Trước cái thế lơ lửng con cá vàng kiểu
          gươm treo trên cổ nền Hòa Bình đang
          bị đe doạ, Nhất Tâm quyết định tìm hỏi
          Tiểu-quỷ cho ra lẽ.
          "Hiền đệ, sao mà đến cơ sự này?"
          "Đệ không muốn trả cái giá 3 triệu
          cho ông chú Rậm-ria làm hướng đạo
          xuống đáy núi Nùng, chê đắt thì Rậmria
          bảo đệ không có lòng với những
          công thần chống Mỹ cứu nước, tính
          toán như một thằng tài phiệt rẻ tiền
          kiểu lũ tư sản mại bản miền Nam trước
          75... Đệ đáp, tư sản thế còn hơn bọn lợi
          dụng nhân công trong nước làm đồ mỹ
          nghệ như gốm Bát Tràng bán đổ bán
          tháo cho Tây phương, giá trả cho người
          lao động chỉ 2 đến 3% giá bán lẻ bên
          Âu Châu. Rậm-ria bảo thế cũng còn hơn
          bọn thầu khoán ở Sài Gòn thời Thiệu-Kỳ
          ăn cắp để có tiền gửi con đi học trường
          Tây như đệ... Huynh bảo, chửi đến cha
          đệ mà đệ không phản ứng thì đệ là cái
          giống gì?"
          Đợi Tiểu-quỷ dằn xúc động xong,
          Nhất Tâm dịu dàng:
          "Thế Tiểu-quỷ phản ứng thế nào?"
          Nuốt nước bọt, Tiểu-quỷ nói một thôi:
          "Đệ bảo, thứ nhất Rậm-ria về đây là
          đi kiếm mối làm ăn, và làm thì phải
          móc nối với những kẻ có thế lực, có
          tiền, chứ cái quán ăn ở Copenhagen
          chẳng đáng một đồng chinh. Để "sửa
          soạn tâm lý thuận lợi", Rậm-ria nay nói
          ngược tất cả những điều đã nói cái thời
          "con khỉ không đuôi", huyễn tưởng nào
          là tương lai qua lớp trẻ hiếu học mà
          thật ra học chỉ vì cha mẹ ham bằng
          cấp, học thật thì ít, cái học thuộc lòng
          sau này biến mình thành vẹt thì nhiều.
          Thứ hai, nói đến ăn cắp thì thời Thiệu-
          Kỳ có, nhưng so với thời "đúp bờ vê tê
          u" này thì hơi bị lép, và nay chẳng chỉ
          ăn cắp mà còn ăn cướp, rút ruột đến
          40% ngân sách những công trình phải
          vay quốc tế thế này thì chẳng khác gì
          bán nước vì con cháu sẽ nợ đời đời kiếp
          kiếp, đành bán đất, bán trôn nuôi
          miệng. Thứ ba, Rậm-ria cứ cho mình là
          nhà văn, nhưng thật mà nói, 15 năm
          qua chẳng viết được một cái gì đáng
          viết. Đồng thời, Rậm-ria ấm ức với cái
          nghề "nhà bếp", chê bai dè bỉu mọi
          người, mở mồm là giọng điệu làm cha
          thiên hạ bắt chước kẻ Rậm-ria tâm
          phục, một nhà văn hiếm đẻ, bế tắc,
          uống rượu, làm dáng quên mình..."
          Nhất Tâm giơ tay ngăn, miệng nói
          "thôi, thôi!" nhưng Tiểu-quỷ tiếp:
          "Để đáp đệ, Rậm-ria đi và độ hai
          mươi phút sau thì công an đến tìm đệ
          "làm việc". Huynh biết về việc gì
          không? Họ hỏi cái vật quý hiếm ta đi
          tìm là vật gì, huynh là ai, vân vân và
          vân vân?"
          Nhất Tâm rùng mình. Cục diện bây
          giờ khác rồi. Tiểu-quỷ thở dài:
          "Đệ nghĩ đệ thôi cái việc đi tìm..."
          Nhất Tâm thấy mình bỗng thật cô
          đơn. Không, không thế được! Dẫu một
          mình, chàng tự nhủ, sống chết ra sao thì
          cũng bất cần, ta phải tìm cho bằng được
          cái vật Bảo Quốc Hộ Dân, tìm như tìm ý
          nghĩa chính đời mình. Vả lại, cơ may đến
          thế, bỏ lỡ thì có ai thay ta mà làm cái
          việc sinh tử này. Cố kìm tiếng thở dài,
          chàng nói nhỏ:
          "Dẫu gì thì cũng chớ hợp đồng với
          Triệu Tử Long. Biết đâu nó lừa, trúng kế
          là thân bại danh liệt. Rậm-ria cũng liên
          lạc rồi điều đình với Tử Long dậy cho
          đệ một bài học. Chuyện mỗi ngày một
          rách, cũng chỉ vì... Phần ta, ta đi dàn
          xếp với Rậm-ria cho êm thắm... Ta hẹn
          đệ mai ở đây!"
          Đúng hẹn, Nhất Tâm cùng Rậm-ria
          đến Thủy Tạ, nơi bán nước giải khát
          ven hồ trông sang bên kia là đền Ngọc
          Sơn. Tiểu-quỷ đã có mặt, đang uống
          bia với hai người con gái. Một tên Đài
          Trang, trán dô, răng khấp khểnh, mắt
          ma quái, dáng cao cao, người mình
          dong. Tiểu-quỷ giới thiệu đây một
          thành viên của Văn phái 3Z đang độ
          tiếng nổi như cồn. Người kia, tên Ban
          Mai, tóc dài, mặt trái xoan, mũi thanh
          thanh, miệng lúc nào cũng như đang
          cười. Chuyện trò một lát, Ban Mai đứng
          dậy nói:
          "Chúng em biết các anh bận việc, xin
          phép đi trước, hy vọng có dịp gặp lại".
          Đúng lúc đó thì Thụy, một người bạn
          của Đài Trang, xuất hiện. Anh ta cũng
          chào rồi cùng đi với Trang và Mai, hẹn
          ba người bạn triều Lý nếu rảnh tối đến
          ăn bò tùng xẻo trên đường Cổ Ngư sát
          Hồ Tây.
          Bây giờ, chỉ còn ba người. Nhất Tâm
          xin phép nói trước, tóm tắt sự việc và
          kết luận: "Chúng ta về đây với những
          nỗi niềm bức xúc, mỗi người một khác,
          nhưng chẳng ai thật sự vui được! Vậy
          thì, nghĩ đến mối thâm kình kết nghĩa,
          tạm chia tay nhau, ký hiệp định hòa
          bình, ngưng gửi quân hay khí giới nhằm
          chiếm thế thượng phong nhưng thật mà
          nói, chỉ có lợi cho Triệu Tử Long mà thôi.
          Còn chuyện Bảo Quốc Hộ Dân, thôi cứ
          để đó. Chuyện này bây giờ lộ rồi, cục
          diện đã đổi, sẽ phức tạp hơn nhiều..."
          Cả Rậm-ria và Tiểu-quỷ đều gật đầu.
          Nhất Tâm vui vẻ:
          "Để kỷ niệm cuộc hàn huyên không
          đổ vỡ, xin mừng chúng ta một chai
          rượu tình..."
          Đi ra quầy, Nhất Tâm gọi một chai
          Napoleon VSOP và xin 3 cái ly pha lê.
          Đến lúc quay lại bàn, Nhất Tâm nghe từ
          xa tiếng Tiểu-quỷ và Rậm-ria nổi lên
          như đánh nhịp cho nhau:
          Tao bế tắc
          Mày bế tắc
          Nó bế tắc
          Chúng ta bế tắc
          Các anh bế tắc
          Chúng nó bế tắc
          Nhìn mặt Tiểu-quỷ xanh lè, mũi đỏ
          hẳn lên vì xúc động, mắt đục ngầu.
          Nhìn mặt Rậm-ria tái ngắt, gân xanh
          thái dương co giật, ria quặp xuống.
          Nhìn mình thoáng qua trong bức gương
          choán nửa bức tường, cô đơn, hụt hẫng,
          Nhất Tâm ứa nước mắt. Khi đến cạnh
          hai người bạn nay như hai hình nhân chỉ
          biết chia nhau một động từ, Nhất Tâm
          nghẹn ngào:
          "Cả thế gian này bế tắc!".
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9