TRĂNG NGUYÊN SƠ - NAM DAO

Tác giả Bài
lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
TRĂNG NGUYÊN SƠ - NAM DAO - 30.03.2009 16:51:07


Lời phi lộ:
Cấu trúc tiểu thuyết này kết hợp với thể
cổ điển
nào là phóng sự, rồi cả chưởng Kim Dung,
tức một món lẩu đủ yếu tố "hậu hiện đại"
có thể gây sốc cho người đọc.
Nay cẩn cáo.
NAM DAO
14-11-2007

MỘT

Nghiêng mắt nhìn xuống, nghe
người bên cạnh bảo đê sông Hồng
đấy, năm nay lại phải đắp đê chống lũ.
Con nước mầu nâu đục ánh sắc đỏ lững
lờ, xung quanh ruộng đồng sau vụ gặt
nằm dài trơ trẽn. Lẳng lặng, tôi bấm
chiếc Palm, tìm địa chỉ ghi trong bộ
nhớ.
Cách đây hai tháng, hắn chắc cũng
như tôi, cũng nhìn xuống sông khi
máy bay lượn vòng trước khi đáp
xuống. Khi đó, mùa gặt, ruộng chưa
hoang vu. Cứ theo trí nhớ những đoạn
văn học thuở vỡ lòng, thế nào mà
chẳng có đàn cò trắng phau bay về
đậu trên những mô đất đợi dăm hạt
lúa rơi. Hẳn là thế, khác thế nào được.
Hắn xuống máy bay. Rồi hắn về một
khách sạn nào đó, đưa hộ chiếu. Lên
phòng, hắn viết nhật ký như một thói
nghiện ngập. Ở đấy, hắn khôn ngoan
chuyển qua e-mail ngay về cho tôi,
dặn giữ hộ, đất này lắm kẻ rình mò
trấn lột, kể cả nhật ký. Hắn viết:
11-03
"... chiếc xe Toyota của Vietnam
Airlines chạy chậm dần, chậm dần. Có
người hô, xuống xe, sửa soạn qua cầu
vào Kinh. Thế là nhốn nháo lên, xô đẩy
nhau. Đặt chân xuống đất, tôi chao
người suýt ngã. Đất bùn trơn như mỡ,
mầu đỏ như mầu tiết lợn nhầy nhụa.
Ngước lên, ô kìa, sao lại chỉ thấy toàn
xe trâu kéo. Xe thồ đủ thứ. Giường
chõng, bàn ghế, nồi niêu, chăn màn...
Nhìn quanh, thật lạ lùng. Mới đây là cô
tiếp viên thơm mùi nước hoa Gucci. Bây
giờ? Tôi hỏi đi đâu thế này? Có tiếng
véo von khúc khích:
"... anh giai ơi, ta di đô từ Hoa Lư về
Thăng Long mà".
Tôi quay lại. Cô bé gái vừa cất tiếng
nói mở miệng cười, vết quết trầu đỏ
thắm, hàm răng nhuộm đen tuyền như
những hạt na ánh lên dưới nắng trưa
ngột ngạt. Mùi cứt trâu bốc lên thối
hoắc.
Tôi đành bịt mũi. Mắt liếc như dao bổ
cau, cô bé trêu "... chưa về đến Kinh
mà anh giai đã văn minh ngay rồi à?".
Thế là các cô đi xung quanh cùng ré
lên cười lăn cười lóc.
Chúng tôi nối đuôi nhau, chân bám
vào bùn, tay xách nách mang trong
tiếng cười nói tưng bừng. Nhìn cô bé, tôi
ngập ngừng:
"... lối này đi đến cầu Long Biên,
phải không?".
Cô ấy ngạc nhiên:
"Cầu gì thì em không biết, nhưng từ
Hoa Lư, trai tráng đã đến bến sông
đóng bè ghép lại tháng trước".
Tôi buột miệng: "Cầu Long Biên do
Tây nó xây, xưa gọi là cầu Đuy-me..."
Cô bé lại ngặt nghẽo:
"Thôi đừng lỡm em, anh giai... Anh
người trại nào?".
Ngây người, tôi không biết trả lời làm
sao. Cô bé thấy tôi im lặng, nguýt dài,
lại trêu "Chẳng phải ngô, chẳng phải
khoai... Chàng đi em biết nhớ ai, em
chờ". Nói xong, cô chạy ra sau, miệng
hát:
Yêu nhau, cởi yếm, í à, cho
nhau
Về nhà, dối rằng, cha với mẹ
Rằng a ối a qua cầu
Tình tình tình gió bay.
Đám chị em vây quanh nàng đồng
thanh "tình tình tình gió bay" rồi phá
lên cười nắc nẻ, tiếng hát tiếng cười vút
lên đậu trên mây chín tầng chót vót.
Tiếp tục dấn bước, tôi ngoái nhìn phía
sau, nhưng chỉ thấy đôi mắt tinh nghịch
xanh mầu cốm non nheo lại chọc ghẹo.
Đến gần bờ sông, đám con gái rẽ lên
phía thượng lưu. Người con gái hát lúc
nãy bấy giờ mới chạy ra sau, nói với lại:
"Chúng em đến hồ Dâm Đàm định cư.
Có hỏi thì hỏi họ Đào, tên Hạ Trang,
quê ở Đông Hải nhé..."
Xe trâu phải vòng xuống hạ lưu, nơi
nước cạn ngang lưng để sang sông.
Đoàn người khoác gùi trên vai trèo lên
những mảng bè cột chặt bằng những
sợi chão làm từ vỏ cây sồi bện lại. Sang
đến bờ bên kia, lại phải chờ xe trâu.
Trời sẫm xuống. Mặt trời tím lịm phớt
lên mặt nước mầu hoa cà se sẽ chao
trong gió chiều. Một kỵ sĩ cưỡi con
ngựa ô ở đâu xồ tới, nhẩy xuống, đến
thì thào vào tai cụ già râu trắng như
cước. Ông cụ nói lớn cho mọi người
nghe, "Qua đêm ở đây, mai tốt ngày
mới được phép vào Kinh, nghe chưa!".
Đoàn người ồ lên, rồi chia nhau tìm
những gò đất khô ráo. Họ túm năm
tụm ba thổi lửa, nấu cơm, thỉnh thoảng
có kẻ cất tiếng hò lên gọi nhau. Tìm
một gốc cây, tôi ngả lưng, nhắm mắt
nhưng chẳng sao ngủ được. Chẳng lẽ
thoắt một cái tôi từ đầu kỷ XXI lộn
ngược gần 1000 năm quay về thời nhà
Lý đang dời đô đến Thăng Long. Thật
hay mơ? Không, mùi cứt trâu thối
hoăng lên có thật. Tôi đưa tay sờ mặt
đất ẩm bùn, bốc một bốc, bóp vụn ra.
Đất rơi tơi tả. Đất có thật. Tôi xuống bờ
sông rửa tay. Bùn đất trôi đi, tay tôi
sạch, và thế là nước có thật. Đất nước
có thật, nhưng còn cô bé Hạ Trang họ
Đào? Tôi đứng lên, tản bộ đi tìm. Đêm
len vào bịt mắt cản đường. Cứ thế, tôi
bước, tôi chong mắt nghển cổ ra nhìn.
Không thấy Hạ Trang đâu. Có thể Hạ
Trang không có thật. Hoặc là tôi đã
quay về kỷ XXI, thời điểm cách lúc này
chưa hơn vài giờ trước khi tôi lên máy
bay? Hay là , hay là…hoặc giả chính tôi
không có thật?
*
* *
Đúng như hắn dặn dò, tôi hỏi lấy
phòng 403 hoặc 503 tại khách sạn BK.
Cô bé tiếp viên lật hộ chiếu, ghi chép,
nheo mắt hỏi: "Anh về nước lần đầu?".
Tôi lắc. "Ai bảo mà anh biết phòng 403
để đòi ở đó?". Tôi đáp: "Ông anh tôi về
ở đây độ hai tháng trước bảo tôi thế!".
Nhân dịp, tôi hỏi:
"Anh ấy thấp người, đeo kính trắng,
cũng đến từ Canada... Em có gặp anh
ấy không?"
Cô bé lắc đầu, mời tôi xuống Bar ở
tầng dưới uống nước, đợi cô làm thủ
tục nhận phòng. Trưa, trời hầm hập, mồ
hôi đổ ra như tắm hơi. Đợi đâu mươi
lăm phút, điện thoại từ tiếp tân gọi
xuống. Tôi lên. Bà quản lý khách sạn,
tuổi sồn sồn, tươi cười "... Chúng tôi
tiếp thu nhu cầu của khách, nhưng
phải tính tiền dịch vụ, chỉ năm đô thôi".
Ngạc nhiên, tôi hỏi: "Phòng trống thì để
tôi ở, còn dịch vụ gì?".
"Dạ, khách thích mà được chúng tôi
thỏa mãn thì trả phí, ở đây như thế.
Thoả mãn được, là ở quyền hạn quản lý
của chúng tôi mà... Năm đô là lần này
thôi, giá phòng thì vẫn 20 đô một ngày,
như mọi phòng khác! Phòng 403 là
phòng tốt nhất đấy, vừa yên, lại nhìn
được ra hồ...".
Cố lấy vẻ thản nhiên như không có
chuyện gì lạ, tôi lẳng lặng thò tay móc
túi.
Nhoài người nằm thườn ra, tôi nhắm
mắt lấy lại sức. Ngồi trên máy bay gần
hai mươi giờ, không kể thời gian đợi
chuyển máy bay ở Tokyo, những bắp
thịt trong người nhừ ra như bị dần, đầu
không còn sức đề kháng, tôi gần như
mê mụ. Nửa thức nửa tỉnh, tôi chợp đi,
tai nghe loáng thoáng tiếng hắn
nghiêm trọng "Sắp tìm thấy nó rồi, hãy
về giúp một tay, cần lắm!", hệt như
trong cái e-mail cuối cùng tôi nhận
được cách đây vài tuần.
Người ngoài tưởng tôi và hắn là anh
em ruột, nhưng không phải vậy. Tôi vốn
là một đứa con rơi, bố mẹ nuôi tôi nhặt
về trong vụ đói năm Ất Dậu. Khi đó,
hắn mới lên hai. Mẹ nuôi tôi nựng hắn,
chỉ tôi, bảo... cho con có bạn. Còn bé,
tôi nào hiểu tôi là một thứ đồ chơi. Đến
năm lên sáu, tôi mới biết. Phận tôi, nó
thế. Bài học đầu tiên là phải biết cam
phận. Khi nó cắn cấu, chỉ được khóc. Và
chạy. Khi ăn, nhận phần ít. Và có thèm
chút âu yếm thì lần xuống nơi U già,
một người đàn bà lớn tuổi mắt đã lòa
thường ngồi ở góc bếp chẻ rau, vo
gạo... Thỉnh thoảng U giấu được cái
bánh, cái kẹo, giấm giúi vào tay, giục:
"Ăn đi, cho U xem!". Mắt lòa, U nào
thấy gì! Nói thế nhưng tôi chẳng oán
trách gì bố mẹ nuôi. Không chết đói, đã
là may lắm, U thỉnh thoảng dặn tôi
đừng quên. Chẳng qua phận tôi nó thế!
Nhưng cũng vì thế mà tôi thực tế. Từ
năm lên mười, tôi hiểu để tồn tại, tôi
phải mở mắt ra nhìn những người
chung quanh. Họ thế nào? Ai thương
ai, ai ghét ai? Và nhất là đối với chính
mình thì họ ra sao? Tôi không tranh ăn,
tranh chơi, lỉnh đi khi bố mẹ nuôi tôi
phát thuốc tễ, thuốc bổ... cho đám bốn
đứa con đẻ. Tôi biết nhanh nhẩu góp
tay vào bất cứ chuyện gì làm được,
nhất là khi bố mẹ nuôi tôi có mặt. Tôi
cố gắng nói thật ít, không bao giờ tỏ ra
ranh mãnh, che giấu tất cả bằng thứ
cung cách ngu ngơ hiền lành. Được đi
học, lại học cùng lớp, tôi làm sao cho
điểm của hắn lúc nào cũng nhỉnh hơn
điểm của tôi, tránh thành đối tượng
của so đo ganh tị... Tóm lại, tôi không
còn tuổi thơ, sống hai mặt, một là cho
riêng tôi. Mặt kia là tôi dưới mắt người
khác, nhợt nhạt, không cá tính và đôi
khi ngu ngu dở dở nhưng hiền lành.
Nhưng khi chỉ có tôi đối mặt với tôi, tôi
giữ một góc mơ mộng tư riêng. Tôi
tưởng tượng gốc gác tôi là con một vị
quan lang Mường ở chân núi Tản. Cha
đẻ tôi cầm đầu dân quân chống Pháp,
tử thương trong một trận giáp chiến.
Mẹ tôi bế tôi chạy đến một ngôi chùa,
bỏ tôi đấy rồi nhảy xuống giếng tự vận.
Sư ông ngôi chùa tôi đặt tên là chùa
Thiên Phương ở Lạng Sơn nhặt tôi, rồi
vì nhà chùa nghèo không đủ ăn nên
phải tìm người khá giả nhờ nuôi. Thế là
cái duyên đến buộc tôi vào gia đình bố
mẹ nuôi, lúc ấy tản cư từ Hải Phòng.
Họ Nguyễn là họ của bố nuôi. Tôi họ gì?
Tìm đọc sách nói về dân tộc Mường, tôi
tự gán cho tôi họ Bạch. Vâng, tôi họ
Bạch, một dòng quan lang xưa oanh
liệt nhưng nay thất cơ lỡ vận. Và để tạo
cho thiếu niên họ Bạch này sinh khí, tôi
cho mình đóng vai một điệp viên nhị
trùng, xông vào cuộc đời với nhiệm vụ
còn nằm trong bí mật. Trong khi chờ
đợi, tôi nhận lệnh phải học hành thế
nào cho giỏi, đợi ngày thoát ly. Và động
cơ ấy khiến tôi chong đèn, học, nhưng
học kín, không để ai dòm ngó.
*
* *
Ngủ mê mệt, khi tôi thức thì trời đã
chập choạng tối. Với tay rót một cốc
nước, tôi uống, đầu óc tỉnh táo dần. Tôi
lên sân thượng khách sạn, ngồi hóng
gió, gọi một chai Ashahi, đưa mắt nhìn
về phía Bờ Hồ. Những trụ đèn đã mọc
lên, khác thời tôi về Hà Nội mười năm
trước. Uống xong cốc bia, tôi mở Palm
xem tin nhắn. Không có gì. Tôi lại tìm
đọc những bức e-mail lưu trữ:
20-02
"... Chúng nó báo - về sẽ gặp nhau ở
Huế nhưng chẳng hiểu sao tôi tìm mãi
không được. Lần đó, dân đồn "Ông về",
nô nức trả tiền vé vào để chiêm ngưỡng
"Ông", đấng sẽ thế thiên hành đạo. Báo
chí có loan tin (dĩ nhiên với hoài nghi
của những kẻ thực dụng làm báo phải
đạo chính thống), và mặc dầu hy vọng
là thật, tôi vẫn giữ vẻ e dè, cùng đám
nghệ sĩ thuộc ty văn hóa đất Thần Kinh
lên đò sông Hương, đi nghe hò Huế
trong một đêm tối trời có đủ mưa, đủ
gió, và những người đàn bà giọng mặn
mà nữ tính của đế đô xưa.
"Thuyền từ Đông Ba thuyền qua Đập
Đá. Thuyền rời Vĩ Dạ tới ngã ba Sình...
Lờ đờ bóng ngả trăng chênh... Điệu hò
xa vắng đượm tình nước non". Giọng
ngân dài như không dứt được trong khi
chúng tôi đợi người đi dò tin "Ông" vẫn
chưa về. Mưa vẫn mưa rơi, tiếng tí tách
buồn bã. Mặt sông lấp loáng ánh dao
liếc lạnh rùng rợn. Người đàn bà vừa dứt
câu hò nhìn tôi, lo lắng:
"Ông về thiệt hỉ, anh?".
Ôi, đôi quầng mắt thẫm bóng những
đêm dài ngước đợi. Tôi nhỏ giọng "Về...
"Ông" sẽ về, nhất định thế!". Bàn tay
nào mượt mà nắm lấy tay tôi, mơn
man, như đòi vỗ về, như nhắc chút ân
tình đến từ một mối duyên chẳng ai
chờ ai đợi. Nhắm mắt, tôi khẽ nắm lấy
bàn tay ấy thay lời cảm ơn, giật mình
khi người đi kiểm tin "Ông về" đột ngột
xuất hiện, miệng cười hô hố, nói lớn:
"Không có "Ông" nào đâu. Một đồn
mười, mười đồn trăm, dân xếp hàng
mua vé năm ngàn đồng vô xem ông
cầm kiếm, miệng giáng những câu tiên
tri. Nhưng tui chỉ thấy hình ảnh phập
phồng một cái mang cua sống, khá lớn,
nhìn có thể tưởng tượng là người cầm
gươm, nhưng đâu có nghe thấy chi!
Một con nhỏ xưng là cô đồng thì nghe
thấy hết, nói lại cho người vô xem.
Nhưng công an Thừa Thiên bắt nó tội
dùng mê tín dị đoan làm loạn lòng
người, và bắt cả chủ nhà tội lừa đảo,
buộc hoàn lại tiền vé...".
Tôi nghe một tiếng thở dài bên cạnh.
Bàn tay đó buông tay tôi ra. Tôi với
chụp. Vô vọng. Gió lên. Tiếng chèo
khua nước nhịp thời gian. Trời chợt trở
lạnh hơn bao giờ. Tôi biết tôi vẫn còn
phải đi tìm... Người đàn bà vừa nắm
tay tôi đứng dậy, bước những bước
chòng chành lên bờ, để lại cho tôi đúng
một cái nhìn ánh màu tuyệt vọng...
Không, tôi ơi, đừng tuyệt vọng. Câu
hát của người bạn rong ca vang lên.
Chết, mới tuyệt vọng. Chúng ta chưa
có niềm ân sủng cho phép phủi tay ra
đi. Và nhất là tôi lại vừa mang ơn một
bàn tay níu vào tay mình trong khoang
con thuyền chòng chành gió. Mới năm
nào tôi viết: “Nhan sắc vẽ vời/ Lý tưởng
viển vông/ Chợt rụng rời giữa có và
không/ Mày xanh mi biếc môi hồng/
Tỉnh ra sóng đã bềnh bồng cuộn trôi/
Tôi ơi hỡi, tôi ơi!”. Mới năm nào tôi đã
định tự đi vào miên viễn mà không hỏi
phép bất cứ đấng Cao Xanh nào. Nếu
đến từ một niềm tuyệt vọng thì tôi ơi,
tôi chỉ đáng có đến thế sao. Trong khi
từ đỉnh non đến ven biển đấu trường
với toàn những kẻ trục lợi tranh danh
đang âm thầm tuốt kiếm chém những
nhát không khoan nhượng vào đồng
loại? Trong khi những người nắm thế
quyền đoạt nhà chiếm đất rồi bắt hằng
hà sa số nạn nhân cùng nhau hát vang
lên bài ca cho ngày mai?
Không thế được, tôi ơi, đừng tuyệt
vọng!
Suốt ba ngày, tôi đợi tin Rậm-ria và
Tiểu-quỷ. Tôi lang thang trên những
con đường của Huế. Qua cầu Tràng
Tiền, ghé chợ Đông Ba, đến Gia Hội...
Vòng lại Bến Ngự, ngơ ngẩn ngắm bức
tượng Phan Sào Nam xếch mắt nhìn
vào tiền đồ. Rồi tôi lại đi. Vào Hoàng
Thành, ngơ ngác giữa đám du khách.
Tôi luẩn quẩn với một quá khứ nặng
như chì buộc vào chân. Tôi lê về phía
trước với những bộc phá bom đạn còn
ghi nguyên vết ghẻ lở đậu mùa chi chít
khoét đục những bức tường cổ đổ nát.
Tôi đến chân Khiêm Cung thì gặp người
đàn bà tối nọ. Đến gần, người đàn bà
ấy làm như không thấy tôi, cúi mặt
nhìn những bó hương, bó nhang để
cạnh chồng giấy vàng, giấy bạc. Nàng
thoa chút phấn hồng trên má, môi
thoáng vết son rất dịu, mắt vẫn đẫm
bóng tối ngay khi nắng lên ngang đầu.
Tôi im lặng. "Ông" không về, tôi biết.
Nàng ngước lên cười, cái cười không
kém thê thảm như lần nàng nhìn tôi
khi lên bờ tối hôm nọ. Thình lình, nàng
bâng quơ:
"Ai tìm được cho em hy vọng, em
nguyện làm vợ, hiến thân này cho, cho
hết..."
Tôi hốt hoảng. Lát sau, tôi nghẹn
ngào, cố nói:
"Tôi về là để tìm điều đó cho em, cho
tôi, cho tất cả chúng ta..."
Nàng khẽ quay người, thì thào:
"Thì anh đi đi, chừ cứ đứng đó làm
sao thấy!"
Từng câu, từng chữ, nàng thuật lại
cho tôi chuyện người ta đổ đi tìm ở
dưới Mỹ Sơn, nơi cách Hội An đâu hơn
hai ba chục cây số. Rồi giục "... Chừ
anh đi nghe anh! Bữa mô tìm thấy thì
về đây với em!".
Sáng sớm hôm sau, tôi bắt xe hàng
xuống Đà Nẵng.
*
* *
Lần theo bản đồ chi chít tên đường,
tôi tìm được phố Lý Quốc Sư. Trước mặt
một quảng trường, Nhà Thờ nghễu
nghện chọc trời, tường xám xịt dấu vết
những tháng năm không chăm sóc tu
bổ. Dưới nắng rừng rực chực bốc lửa,
tôi vội bước, nhìn số nhà rồi rẽ vào một
cái ngách. Chục năm trước, tôi có đến
đây một lần nhưng bây giờ chẳng còn
nhận ra gì nữa. Quán rượu ngày xưa
giờ là căn nhà ba tầng bằng gạch, cửa
sắt khóa bằng một sợi dây xích sắt to
bằng ngón tay cái. Tôi bấm chuông.
Một đứa bé ra bảo: "Ông cháu đau,
không xuống được!". Tôi nhờ cháu lên
gác báo, khẩn khoản dặn: "Cháu cứ nói
thế, chắc ông cho gặp!". Quả vậy. Uốn
người, tôi leo một cái cầu thang hẹp,
bậc không đều, cao thấp khó lường.
Nhà thơ ngước mắt nhìn tôi. Ông ta
đây sao? Mười lăm năm trước, ông đã
đứng tuổi nhưng vẫn cường tráng mặc
dầu khi tôi gặp, ông mới bị quản chế
đâu gần ba năm vì cái tội chính thức là
bán rượu lậu. Tội không chính thức, ai
cũng biết, là tội chuyển thơ của ông ra
ngoại quốc. Chính hắn cũng bị liên
quan. Bị cấm cửa không có nhập cảnh
cho tới thời kỳ Đổi Mới mới lại được về,
hắn nói hắn oan, có tội thì là cái tội gà
chưa sáng đã gáy, kiến nghị chính sách
kinh tế gì đó. Nay, tóc ông bạc phau,
móm mém, mắt lờ đờ, nằm nghiêng phì
phò thở.
"Nhà thơ chắc không nhận ra... tôi!"
Ông lắc. Tôi nhắc lại buổi tôi gặp ông
với hắn cách đây mới thế mà đã mười
lăm năm. Ông mỉm cười:
"Lâu nhỉ! Mình trí nhớ kém rồi... Lại
mới ngã cầu thang, xương chậu bị vỡ,
ngồi lên không được! Xin lỗi phải tiếp
khách trong cái thế khó coi này!", ông
khẽ cười.
Hỏi ông đã gặp hắn chưa, ông nhắm
mắt, đáp:
"Bao giờ về cậu ấy cũng đến thăm
tôi. Sau dịp Tết vừa qua, cậu ấy từ Đà
Nẵng vào..."
"Anh ấy có nhắc sẽ đi tìm chùa Báo
Thiên... Thưa nhà thơ, chùa ấy ở đâu?"
"À... Chùa xây cuối đời Lý, bị phá thế
kỷ trước mất rồi... Người Pháp xây Nhà
Thờ Lớn ngay trên móng nhà chùa, ở
góc phố. Làm gì còn chùa Báo Thiên?
Khi cậu ấy hỏi, tôi đã bảo vậy!"
Tôi cân nhắc, rồi ngập ngừng:
"Nhà thơ có biết anh tôi đi tìm gì
không?"
"Biết..."
"Nhưng đó là một niềm hoang
tưởng..."
Tôi nhẩn nha kể lại cho nhà thơ
nghe nội dung những bức e-mail tôi
nhận được và kết luận:
"Sợ anh ấy hoang tưởng ở mức bệnh
hoạn... Cho nên tôi mới về gấp!"
Nhà thơ mỉm cười, từ tốn:
"Đừng sợ. Một thứ vật quý hiếm như
vậy, có hoang tưởng thì cũng tự nhiên
thôi. Vả lại, người nghệ sĩ nào chẳng
hoang tưởng. Động cơ tái tạo mọi hiện
thực phải giẫy bỏ để giải phóng sáng
tạo... Hoang tưởng càng lớn thì khả
năng nghệ thuật càng cao. Như cái
nghiệp ấy mà!"
Ngưng lại lấy hơi, nhà thơ thều thào
tiếp:
"Lấy cái số phôn của Thụy, gọi hỏi
xem... Tay này giao du rộng, cũng quen
biết anh cậu."
Bấm đốt ngón tay, ông lẩm nhẩm
một mình:
"... Thế là tháng nay không thấy mặt,
chẳng hiểu đã tìm ra chưa, rõ cơ khổ!"
Ra đường, tôi vòng lại Nhà Thờ. Đứng
dưới mái hiên một cửa hàng bán mỹ
nghệ cho khách du lịch, tôi ngước nhìn
cây thập tự cao vút chọc vào nền trời
sáng lóa mắt, tưởng tượng cảnh xe bò
chở tượng Phật đi để lấy tượng Chúa
thay vào thế chân trong một cuộc đuổi
nhà đổi chủ. Thế quyền và tâm linh
phải chăng là hai mặt một đồng xu
trong một thể cân bằng không bao giờ
ổn định. Đồng xu quay sau cái búng tay
của tên làm ảo thuật, quay tít thò lò, và
tiếng hô: "Nào đặt cược nào, sấp hay
ngửa!".
Khát đến khô cổ, tôi vào một quán
giải khát. Chọn một góc trống, ngồi mở
Palm đọc lại những bức mail.
*
* *
21-02
... Từ Lăng Cô nhìn xuống, cây xanh
lấp loáng nắng vạch một vòng chặn
biển sóng uốn lượn cứ như chực tràn
vào đất. Xe khách ngừng nửa giờ. Tâyba
lô xuống xe, tay lắc lắc khi đám trẻ
con bán Postcard chồm đến, mắt
ngước lên nhìn, miệng răng khấp
khểnh nhấp nhô ngọng nghịu "pho tao
dần, bli-bli" (four thousands, please,
please). Đến Đà Nẵng, tôi ghé vào Bảo
tàng Chàm nằm gần bến sông, định
mua một tấm bản đồ Mỹ Sơn, xưa là
thánh địa của dân tộc đã gần như bị
xóa sổ này. Cô bé bán hàng lưu niệm
lắc đầu, bảo tôi ra nhà sách. Gọi taxi,
tôi vừa nói thì anh tài hỏi liền: "Việt
kiều hỉ! Hổng có chỗ nào bán bản đồ
đâu, đi mô tui chở cho!". Đi đâu? Nói
thế nào bây giờ? Tôi vừa kể tôi nghe
đồn là có nhiều người đi kiếm thì anh
tài cười lớn: "Rồi, tui biết! Đi đào vàng
phải hông? Nhưng tui chở chú tới chớ
có được vô đào hay không thì còn phải
qua "ải" mấy trùm, tui không bảo
đảm". Anh hạ giọng:
"Ở đây thì cứ có đô xanh là cái gì
cũng được, lo chi..."
Xe chạy được khoảng gần một giờ,
đỉnh tháp Chàm nhô lên từ đầu những
ngọn cây xa xa khiến tôi hoang mang.
Tôi đâu có ý định đi tìm vàng. Mặc dầu
anh tài "xin" thêm năm đô để giúp tôi
móc nối với đường dây một ông trùm
anh quen thân, tôi vẫn không mấy yên
lòng. Chắc chắn ông trùm sẽ hỏi,
không tìm vàng thì tìm chi? Trả lời thế
nào nghe cho xuôi tai đây? Thôi, để hạ
hồi, linh động đối phó chứ làm sao biết
được mọi tình huống. Anh tài chỉ một
rặng núi xanh rì đằng trước, kêu:
"Trong kia là chỗ mình tìm đó, chú!".
Đến eo núi, anh tài thắng xe, móc
điện thoại di động, không nói gì nhưng
bấm tin nhắn. Lát sau, anh rồ máy,
quẹo xe vào một con dốc, nhấn ga. Đi
chừng ba trăm thước, một người vai
đeo AK ở đâu xô ra, tay làm dấu, quát:
"Ngừng!". Mắt trừng trừng, anh ta bảo
chúng tôi xuống xe. Anh tài ghé vào tai
thì thào thế nào mà anh ta gật gật. Tôi
theo anh gác cửa đi vào con đường bụi
bờ quanh co đến trước một cái lán. Lại
một người khác đeo AK trỏ tay vào cái
ghế đẩu trong góc, lạnh lùng bảo: "Chờ
đấy!" rồi quay lưng châm điếu cầy rít
thuốc, tiếng kêu sằng sặc như bị bóp
cổ.
Lúc ấy, mặt trời xế bóng nhưng vẫn
nóng gay gắt. Tôi xin một ly nước, lẳng
lặng uống, mắt nhìn về chỏm tháp
Chàm lung linh chớm nắng. Nhớ lại câu
nói của người đàn bà hôm rời Huế, tôi
buột miệng "Chắc anh sẽ về, chỉ mai
mốt...". Anh gác nghe, cười khẩy:
"Muốn thế thì đừng để rắn cắn, rắn độc
nhất là rắn mang hình người!". Được
thể, tôi bắt chuyện, hỏi. Anh ta giảng
giải: "Ai đào được vàng thì kẻ đồng loại
bên cạnh trở thành rắn ngay, có lần
hết người nọ đến người kia hóa rắn,
cắn nhau cướp vàng chết cả đàn. -
Giọng thương hại, anh tiếp - Vì vậy,
người ta đi đào đi một tốp năm ba
người. Anh đi một mình thì đào không
thấy là sống, mà thấy thì chắc toi, hiểu
chưa?".
"Nhưng tôi có định đi đào vàng đâu!"
Tôi buột miệng.
Anh gác hạ khẩu AK trên vai xuống,
lùi một bước, mắt lừ lừ nhìn tôi như
thôi miên. Chết chưa, tôi đã nói thật,
nguy rồi...
*
* *
Theo lời nhà thơ, tôi gọi cho Thụy
nhưng máy điện thoại di động hoặc bị
tắt, hoặc ở nơi không nhận được sóng.
Sáng sáng, tôi lên sân thượng khách
sạn ngắm trời Hà Nội lúc còn mờ
sương, đợi lúc xuống đi bộ quanh hồ
Hoàn Kiếm. Tôi nghĩ về tôi, những được
mất, và về cái thời niên thiếu đầy
những phút chạnh lòng tủi phận. Thời
đó, giấc mơ một ngày sẽ cao bay xa
chạy khiến tôi âm thầm trui rèn thứ vũ
khí thoát thân là học thế nào để có cái
may mắn được một học bổng đi ra
ngoại quốc. Đó là mơ ước hình như bọn
trẻ chúng tôi đứa nào cũng có. Ở tuổi
mười tám, chúng tôi có thể bị gọi đi
quân dịch nếu thi trượt Tú Tài 2. Nếu đỗ
Tú Tài 1 thì đi Thủ Đức ra trường thành
Chuẩn Úy, còn không thì vào Quang
Trung, chẳng cai chẳng đội tất binh nhì,
thế nào cũng bị đem "thí chốt" nếu
không khả năng chạy chọt. Chiến tranh
đã luẩn quẩn tới ven Thành Phố. Sợ
chưa hẳn sợ, nhưng vui thì chẳng mấy
vui, đối với một kẻ như tôi chỉ có một
giấc mơ là ra đi.
Nhưng hắn không vậy. Hắn là con
đầu lòng, được nâng như nâng trứng,
hứng như hứng hoa. Hắn hay ngồi
"chầu rìa" hóng chuyện "người lớn".
Chả là bố nuôi tôi quen biết giới báo
chí truyền thông, khi gặp nhau "người
lớn" bàn chuyện chính trường thời Đệ
nhất Cộng hòa miền Nam, chuyện
chống Cộng, rồi chuyện đám nhân sĩ
Bắc di cư bị chính quyền Diệm hắt
hủi... Hắn được mớ chuyện chính trị
tiêm nhiễm, tự cho mình một phận vụ
thiêng liêng, tìm sách về nghệ thuật
hùng biện trước công chúng, soi gương
hoa chân múa tay tập nói cái câu của
Tổng thống Mỹ Kennedy, nhưng bằng
tiếng Việt, "Đừng hỏi đất nước đã làm
gì cho ta, mà phải hỏi, ta đã làm gì cho
đất nước...". Tôi cố nhịn cười, tránh
tham gia vào những dự án đổi đời của
hắn. Không nhóm được ngọn lửa thiêng
trong lòng tôi, nhưng có lẽ thương hại,
hắn chỉ thỉnh thoảng nhắc chuyện chí
làm trai của Nguyễn Công Trứ, xuống
Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên.
Phải nói hắn thuyết phục được một số
bạn bè cùng lứa và viết lách in thơ in
truyện trên báo.
Năm ấy là năm học sinh sinh viên
"xuống đường" trong vụ đàn áp Phật
giáo của chính quyền Diệm. Trong
thành phố, giáo dân và Phật tử xung
đột tứ tung. Tin rỉ tai: sắp đảo chính.
Hắn không biết thế nào mà "mua" được
một số vũ khí của Địa Phương quân,
đem chôn giấu chục khẩu súng trường
thời đệ nhị thế chiến, dăm quả lựu
đạn... chờ thời cơ khởi nghĩa "chống
độc tài Diệm-Nhu". Vô tình biết chuyện
không phải là đùa này, tôi buộc phải
báo bố nuôi. Ông ta cho hắn một trận
mắng chửi ra trò. Chỉ kịp chỉ mặt tôi
quát "đồ mách lẻo" thì đã có người đến
hỏi hắn. Hóa ra tôi chẳng mách thì mật
vụ Nhu - Diệm cũng đã biết, cho rình
rập quanh xóm. Thế là bố nuôi tôi phải
tìm cách giấu hắn lên Hóc Môn. Và hè
năm đó, hắn không thi Tú Tài 2. Đây là
lần đầu tôi học, và đi thi, không có hắn
bên cạnh. Chạy chọt với công an, bố
nuôi tôi lại mang hắn về Sài Gòn để
hắn thi kỳ 2, đỗ nhưng điểm không vào
hạng xuất sắc. Làm cách mạng,
chuyện học thứ yếu thôi, tất nhiên.
Năm sau, tôi lẳng lặng nộp đơn và
nhận được một học bổng đi Canada.
Đợi đến khi chỉ còn một tháng là lên
đường, tôi mới báo cho bố mẹ nuôi tôi
biết để xin phép đi du học. Lúc đó, tôi
đã 18 tuổi, thành niên rồi, đi hay ở chỉ
tùy tôi. Ngày đầu, bố mẹ nuôi tôi không
nói gì, vui buồn khó đoán. Phần tôi, tôi
sửa soạn hành lý, mặc dầu chẳng có gì
để mang theo trừ một xấp thư của N
tôi mới gặp hè qua. Ít ngày sau, bố
nuôi tôi thân mật ôm vai, nhỏ nhẹ: "Tao
định cho anh mày đi cùng, nhà không
dư giả nhưng cũng có thể lo được một
phần chi phí. Đi xa có anh có em, học
bổng của con cũng là cái đỡ đần
được... cho bớt lo. Anh mày ở đây thì
còn rầy rà với mật vụ, sớm muộn
chúng nó cũng tìm cách đẩy vào lính
cho mà xem... Con thấy thế được
không?".
Tôi lên đường. Lần đầu ngồi máy bay,
tôi ngắm những đám mây trắng ngang
tầm mắt, không thấy luyến tiếc bất cứ
gì. Giấc mơ suốt thiếu thời đang chắp
cánh vượt những khoảng xa tôi ngờ
chẳng bao giờ lấp cho nổi. Ba tháng
sau, hắn cũng đến Quebec, nơi tôi đi
học. Khi đó, chính quyền Diệm-Nhu bị
lật, cả hai bị bắn chết. Chắc chắn hắn
không còn bị mật vụ nào rầy rà.
Hắn lấy hộ chiếu, đi dạng tự túc, hớn
hở kể ngày cách mạng thành công và
kết "Tiếc là không có mi ở đó, vui
lắm...".
*
* *
Mất ba ngày tôi mới liên lạc được với
Thụy. Anh ta đi quay phim ở Quảng
Bình, về đến Hà Nội mới mở e-mail,
nhận tin tôi và gọi điện thoại. Hỏi, anh
đáp:
"Tôi gặp anh ấy đâu tháng trước,
cùng đi với hai người bạn! Tôi không biết
tên, nhưng một cậu cao to, để râu, nói
giọng Bắc. Còn cậu kia, trẻ hơn, da
trắng như da con gái, nói eo éo, giọng
lai nửa Bắc nửa Nam... Hình như họ là
Việt kiều cả. Họ rủ nhau đi tìm..."
"Tìm gì hả anh?"
"Chịu, giời mới biết được! Chỉ thấy
họ nóng nẩy ra mặt. Mấy ngày sau,
anh ấy hỏi tôi cách xuống đáy núi
Nùng, và làm thế nào móc nối được
một người dẫn đường... Tôi giới thiệu
một tay xưa là đặc công, từng xung
phong vào chiếm Tân Sơn Nhất ngày
Giải phóng!"
"Rồi sao, anh?"
"Sau thì tôi đi xa nên không biết gì
thêm. Nhưng anh đợi tôi hỏi thăm cô
bé Trang xem sao. Tôi gặp anh ấy uống
bia với cô Trang chỗ nhà Thủy Tạ ở ven
hồ... Chỉ sợ cô ta về quê rồi!"
"Vâng, mong anh giúp cho. Tôi lo,
anh ấy... có vẻ không mấy bình
thường!"
"Lo gì cơ?"
Không muốn nhắc đến những bức
mail quái lạ, tôi bịa:
"Anh tôi bị tiểu đường, thuốc insulin
mang theo lại hết!"
"Ở đây thì cứ có đô xanh là cái gì
cũng có..."
*
* *
Đầu tháng 6, Hà Nội là lò lửa nung
cho thân người chảy thành nước. Ngủ
không được. Tôi dậy từ lúc trời còn
chập choạng tối, lên sân thượng khách
sạn ngồi. Nhìn xuống, nước hồ Hoàn
Kiếm lóng lánh gợn ánh đèn quanh hồ,
tháp gươm mơ hồ ẩn hiện. Bên kia,
chiếc cầu sơn đỏ bắc vào đền Ngọc Sơn
nhìn như vành môi mếu xệch của một
thiếu phụ mỏi mòn. Thỉnh thoảng, dăm
ba người lầm lũi bước, bóng khấp
khểnh trên hè phố. Lòng đường vắng
xe an bình chứ không dọa dẫm, và thật
là thần tiên khi tai không nghe tiếng xe
máy khằng khặc hầu như suốt ngày, từ
sáng sớm cho đến quá nửa đêm.
Quái, có tiếng gà gáy nghe ngay giữa
thành phố. Trời sáng dần. Bóng người
lao chao trên con đường ven hồ. Hàng
đoàn, họ đi ngược, đi xuôi. Tiếng người
bắt đầu xôn xao. Tôi xuống đường, nhập
vào đám đông, đi theo đoàn người
chuyển động theo chiều kim đồng hồ.
Họ bước những bước dài, hít thở theo
nhịp chân, nét mặt còn chút thư giãn
đầu ngày. Ở những quãng rộng, có
người chăng lưới đánh cầu lông. Gần
nhà Thủy Tạ, hơn ba chục người xếp
thành ba hàng, tay đưa lên, chân co
vào, chuyển mình theo tiếng của ai đó
gọi tên thế múa những bài quyền Thái
Cực. Tôi bước. Người bên cạnh bước.
Người đằng trước bước. Người đằng sau
cũng bước. Thật an toàn khi có những
người hệt như mình, cùng một động
tác, cùng một hướng đi. Khỏi phải nghĩ.
Cứ thế mà tiến đến phía trước, như mọi
người. Cùng với mọi người. Cảm giác
chỉ là một thứ hạt cơ bản quay vòng
vòng mà không cần gì đến ý thức khiến
tôi lâng lâng bay bổng. Cứ thế, tôi để
tâm trí trống rỗng trên quỹ đạo những
bước chân vòng vòng quẩn quanh, cứ
đúng 30 phút lại quay lại khởi điểm là
chân cầu Thê Húc.
Đi đến vòng thứ sáu, hạt cơ bản bị
một cái sốc ngoại sinh. Đó là một con
bé con khoảng mười hai, mười ba tuổi.
Tôi từng thấy nó lê la ở góc phố Hàng
Trống và Bảo Khánh, nơi tôi ghé uống
cà phê mỗi sáng. Không biết từ lúc nào
cái hạt bé bỏng đó bước theo bước chân
tôi, nhưng đến vòng thứ sáu nó mới níu
áo tôi lại, miệng nói:
"Chú không mệt hả?"
Tôi chậm chân, lắc đầu. Vẫn bước, tôi
bảo:
"Mỗi sáng đi bộ thế này tốt lắm...
Nhất là khi chưa có xe cộ, không khí
còn thở được!"
"Chú cho cháu tí tiền ăn sáng nhé.
Nó ráo hoảnh - ... đi theo chú đến đói
rã họng ra, tí nữa thì hụt hơi!"
"Ai bảo theo mà theo..."
Tôi ngừng bước, tay móc tiền đưa
cho con bé năm nghìn.
"Có thế thôi hả chú Việt kiều?"
Cơn bực mình ở đâu ùa đến. Làm sao
nó biết mình là Việt kiều? Năm nghìn
chưa đủ thì bao nhiêu mới đủ? Tôi nhìn
vào mặt con bé. Nó đen đủi, mắt to, mũi
hơi hếch, tóc kẹp, miệng hé ra cười
duyên.
"Sao mày biết tao Việt kiều? Bát phở
Thìn ở bên kia đường chỉ tám nghìn,
cho mày năm mà còn chưa đủ à?"
Con bé nghếch mặt:
"Chú Việt kiều thì dễ biết quá, chỉ
Việt kiều mới ở khách sạn. Còn như
muốn ăn bát phở thì không đủ, chú biết
đấy. Nó chìa tay, giọng nũng nịu - chú
cho thêm ba nghìn đi!"
Tôi lắc đầu, giật áo bước đi không
ngoái lại. Loa phát thanh của khu phố
lúc đó oang oang đọc tin buổi sáng. Tôi
không nghe. Và hình như cũng chẳng ai
nghe, người đi bộ vẫn bước, người múa
quyền Thái Cực vẫn co chân giang tay.
Đám đánh cầu lông cãi cọ được thua, có
kẻ sẵng giọng văng tục. Anh công an
đứng nhìn, tủm tỉm cười. Xe máy bắt
đầu lượn vòng, mùi xăng xông lên. Tôi
đến góc Lê Thái Tổ và Bảo Khánh. Một
cụ bà lưng còng nhấp nhổm qua đường,
mắt toét nhèm, đầu lắc lư nhìn ngang
nhìn ngửa. Tôi bảo cụ nắm tay cháu, ta
cùng qua. Bà cụ gật gật. Nhưng trong
lòng đường, tôi nhích lên một bước rồi
lại phải lùi xuống. Những chiếc xe máy
cứ vùn vụt lao thẳng tới. Con bé con ở
đâu lại xồ ra. Nó gọn lỏn "...Theo cháu"
rồi cứ thế đi qua đường, không thèm
nhìn trái, nhìn phải. Bà cụ hấp tấp chạy
theo. Con bé đặt chân lên hè phố bên
kia thì tiếng phanh rít lên, tiếng va đập
và một tiếng kêu ối giời ơi, sau là tiếng
chửi. Tôi xoè tay ôm mặt không dám
nhìn, chỉ nghe tiếng chân người chạy.
Và tiếng công an huýt còi.
Vào quán cà phê tôi vẫn đến ngồi đợi
tin Thụy, lại thấy con bé quanh quẩn.
Nó bảo "Xe cứu thương đến đưa bà cụ
đi rồi, nhưng chắc chẳng sống được!".
Tôi làm như không nghe thấy, mở Palm
ra tìm e-mail.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.03.2009 16:54:49 bởi lyenson >

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: TRĂNG NGUYÊN SƠ - NAM DAO - 30.03.2009 20:59:05
HAI
23-02
Đã tưởng chết. Cuộc hồi sinh
nào chắc cũng chỉ ngỡ
ngàng đến thế, hệt như khi mở mắt
sau một cơn mê. Hiện thực là những
móc nối của trí nhớ. Nhớ mầu xanh cây
rừng, mầu bạc những đám mây xa.
Nhớ vị chát của trái sung chưa chín.
Nhớ hương thiên lý thoang thoảng.
Nhưng nhớ nhất, là tiếng người, thứ âm
thanh mà không còn thì chắc chẳng
còn gì lưu luyến.
Trùm B (mắt quắc lên, tròng sâu
hoắm, răng chìa ra khi nói): "Này anh
bạn, anh không vào đây đào vàng thì
anh tìm gì?"
"Tôi... tôi nói chắc chẳng ai tin."
"Anh cứ nói, nhưng đừng lươn lẹo!"
"Tôi đi tìm cái vật quý hiếm có khả
năng Bảo Quốc Hộ Dân..."
"Cái vật đó là cái gì?"
"Tôi chưa biết. Nhưng bạn tôi kể,
trong giấc mơ, cái vật đó sáng lên.
Nâng nó và khấn một trăm vị Bồ Tát,
khi nghe có tiếng gọi từ không trung
thì chính là nó..."
Trùm B chẳng nói chẳng rằng, đến
bên cạnh, thình lình giang tay tát,
miệng quát:
"Tổ cha mi, nói láo!"
Tôi không thấy bóng dáng trăm vị Bồ
Tát, nhưng rõ ràng có ít ra cũng vài
chục con đom đóm bay lượn trước mắt.
Tai lùng bùng, tôi nghe Trùm B ra lệnh
nhốt tôi vào ngục A Tì. Quay nhìn một
tay vác súng AK đứng xớ rớ, Trùm B
bảo:
"Mày thông báo và gọi họp để Trung
ương xử lý nghe chưa!"
Ngục là một cái lỗ rộng đường kính
nửa thước, sâu một thước, nước ứa lên
từ mặt đất ngập đến mắt cá chân. Tôi bị
trói cánh khuỷu, ngồi thu lu thì một tên
đến đậy lên cái lỗ một phiến gỗ. Trong
bóng đen, trí óc tôi hầu như tê liệt. Mất
thị giác, hầu như tôi không còn ý thức
về không gian. Có lẽ từ đó, thời gian
cũng không còn. May, tôi vẫn giữ được
thính giác. Tai tôi vẫn nghe thấy tiếng
lũ khỉ chí choé đâu đó. Mãi sau, có
tiếng côn trùng rỉ rả. Thế là đã đêm rồi.
Cái lạnh đâm vào tứ phía, ngấm dần,
thấu xương. Răng tôi đánh lập cập. Co
người, tôi thu mình, chỉ mong sao quên
được giá buốt của rừng. Chắc mai này
bọn Trùm sẽ hỏi cung. Cái vật quý hiếm
ấy là gì, tôi không biết. Trả lời chúng
thế nào? Hay giả điên, có thể chúng sẽ
tin mà thả tôi chăng?
Ôi chao, vẫn lạnh! Ý thức run lên
theo nhịp răng lập cập báo sự tồn tại
đang có vẻ gặp vấn đề! Hãy tưởng
tượng. Tôi, một con người tiền sử. Làm
sao thổi cho lửa lên? Lấy hai hòn đá,
đập vào nhau mong cho lửa bén vào
đống lá cây khô. Nào, ta đập. Hãy
nhắm mắt hình dung ra nhoáng lửa, tai
nghe tiếng chan chát của đá cứu rỗi. Ở
giây phút này, đá là vật quý hiếm. Lửa
nhoáng lên, nhưng đống lá vẫn cứ trơ
trơ lãnh cảm. Ừ thì thế, thôi làm cách
khác. Chẳng sách vở văn chương bảo
tình có lửa à? Thế thì tôi sẽ đốt đống lá
khô này bằng lửa tình. Tôi sẽ nghĩ đến
những Ánh, những Liên, những Thanh,
những Nguyệt... đã từng làm tôi
choáng váng, đau khổ, thương nhớ,
hận thù... Tôi tưởng ra những đôi chân
thon quặp vào lưng, những cặp vú
bồng bềnh căng nứt áp vào miệng,
những làn môi hé mở đợi chờ, những
cái oằn mình nưng nẩy hất ngược lên...
Rồi những lời oán trách, giận hờn,
những câu chia tay bạc bẽo. Vô vọng.
Vẫn cứ lạnh. Lửa tình thế giỏi lắm thì
cũng chỉ gầy được khói. Nhà văn nào
tôi quên mất tên ví von nó đốt cháy cả
một cánh rừng là nói xằng.
Có tiếng gà rừng. Gà rừng gáy không
như gà chuồng, vừa gáy vừa bay nên
lẫn vào tiếng gáy là tiếng đập cánh. Ờ,
tự do nên có khác thật. Còn tôi, tù
nhưng sáng ra, sẽ đỡ lạnh. Vả lại, tôi sẽ
được biện bạch trước đám Trùm. À, còn
cái phương án giả điên tôi nghĩ tới
nhưng chưa đào sâu, nay phải bới lên
mọi hậu quả...
Quẳng xuống cho tôi một mẩu bánh
mì, tên khoác AK nói trống không:
"Ăn đi, rồi sửa soạn "làm việc" nghe
chưa!".
Khổ là nó quên cởi trói cho tôi,
không có tay thì ăn thế nào được.
Nhưng nào tôi có đói đâu. Tôi ngẩng
mặt nhìn trời xanh. Và tự nhủ, dẫu gì
thì cũng phải tìm cho bằng được cái
vật quý hiếm kia. Đầu tiên là thuyết
phục bọn Trùm cái vật đó có thực.
Phương án này, về mặt nổi, chẳng khác
mấy phương án giả điên. Hiện tượng là
một, nhưng bản chất, khác. Nhất định
khác. Vâng, vì tôi tin nó có thật. Và
chúng ta trên mảnh đất này sẽ được
cứu rỗi.
Tôi bị điệu đến trước mặt ba tên.
Trùm B, tôi đã ăn từ tay hắn một bạt
tai hôm qua. Nay thêm hai. Trùm C
miệng sặc mùi rượu, mắt nhìn tôi lừ lừ,
mép xệch xuống, tay cứ đưa lên vò
đầu. Trùm còn lại, tôi gọi là Trùm A vì
hắn có vẻ như là bề trên hai Trùm kia,
người rắn chắc, mắt đeo kính cận, môi
lúc nào cũng mím lại. Sau, tôi mới biết
Trùm này từng là anh hùng diệt Mỹ thời
chiến tranh, đi Liên Xô dưới dạng xuất
khẩu lao động, buôn lậu thuốc lá qua
Ba Lan và "lỡ tay" giết hai tay cảnh sát
biên phòng nên phải lưu đào, cuối cùng
hồi hương mà vẫn trắng tay.
Trùm C:
"ĐM, chừ mi không nói cho thiệt thì
tau cho nếm cái này", tay đập khẩu
súng Colt lên mặt bàn đánh rầm.
Trùm B:
"Hôm qua mi gọi cái chi đó... mà là
tiếng Tầu. Nhắc lại coi..."
"Vật quý hiếm Bảo Quốc Hộ Dân", tôi
vội nói.
Trùm C (quay nhìn Trùm A):
" ... Là cái chi vậy, sếp?"
Trùm A (nhẩn nha):
"Bảo như bảo vệ, tức là giữ. Hộ...
(cau mày, ngẫm nghĩ) thì như bảo hộ,
ủng hộ... tức là giúp, là đỡ đần... Cái
vật quý hiếm đó là giữ được nước, đỡ
cho dân..."
Trùm C:
"ĐM... giữ với đỡ những thứ đó thì
được gì (tay đập đập vào túi) mà quý
với hiếm, cha nội!"
Trùm A (nghiêm trang, tay đưa ra cái
hộ chiếu của tôi bị Trùm B tịch thu hôm
qua):
"Anh là Việt kiều Canada, phải
không?"
Nhìn tôi gật đầu, hắn tiếp, giọng vẫn
nhẩn nha:
"Người đời đến đây là đi tìm vàng,
anh thì không, lại nói rằng đi tìm một
thứ quý hiếm mà chính anh cũng chỉ
nghe nói và chưa biết nó là cái gì...
Anh có thấy thế là kỳ quặc không?"
Tôi lắc đầu, bắt đầu biện bạch. Quý
hiếm mà nhan nhản để ai cũng thấy,
cũng biết thì quý hiếm ở đâu. Không để
cho người nghe phản ứng, tôi cao
giọng, con ngựa có cánh biết bay trong
tranh Tây Phương kỳ quặc thế mà
người đời trân quý cất trong những
viện bảo tàng. Con khỉ Tề Thiên giứt
lông thổi phù phù trong truyện Tây Du
biến thành trăm con khỉ khác để bảo
vệ thầy Đường Tăng đi thỉnh kinh Phật
kỳ quặc thế mà khối người đọc, từ thế
hệ này qua thế hệ khác, chẳng phải chỉ
ở Trung Quốc mà còn ở nước ta, thì rõ
ra là càng kỳ quặc càng quý hiếm, và
càng quý hiếm càng không thấy được.
Một động lực vô hình thúc tôi đứng
dậy. Giọng dõng dạc, tôi nói về đất
nước chúng ta đang thời kỳ phấn đấu
mở ra hội nhập vào thế giới, với nào là
WTO, nào là ASEAN, nào là Quy chế
Thương mại bình thường vĩnh viễn với
Mỹ... thì, tôi đánh tay để nhấn mạnh, ở
vị thế nước mới phục hồi sau chiến
tranh, ta yếu, và nhiệm vụ giữ nước,
tức là Bảo Quốc, tất là trọng yếu. Còn
Hộ Dân ư? Có nước nào mạnh mà dân
nước đó nghèo khó, khốn khổ, sợ sệt
đến nem nép, đàn ông chỉ biết nhậu,
đàn bà thì nhấp nhỏm lấy chồng nước
ngoài như Đài Loan, Singapore,
Malaysia, Nam Hàn... không? Ấy, tôi hạ
giọng, hộ dân trước tiên là làm sao giữ
được phẩm cách con người, thôi coi
mình là một món hàng rao bán, giá lên
xuống theo kinh tế thị trường... Đến
đây, tôi chưa biết nên tiếp tục thuyết
giảng thế nào thì Trùm B ngáp, răng
chìa ra:
"Mẹ... thằng cha này chắc chập dây
hóa rồ, nói nghe như mấy ổng trên Ủy
ban giảng nghị quyết... Mấy anh tính
sao?"
Nhìn qua bên cạnh, Trùm C mặt gục
xuống bàn, miệng ngáy, nước giãi chảy
ra ướt nhèm. Không đợi Trùm A đáp,
Trùm B quày quả bước đi, nói với lại:
"Sếp tính chi thì tính, số đô thu được
chia cho đều là nếp sống văn minh,
nghe sếp!"
Trùm A gật, đưa tay làm dấu cho tôi
đi theo...
*
* *
Con bé đến sát lớp kính ngăn quán
nước với con đường đầy bụi, tay đập,
miệng há hốc ra nói như gào. Nhưng
tôi không nghe được gì. Nó chỉ tay về
phía sau. Một người đàn bà trạc trên
dưới bốn mươi đứng nhìn, nhoẻn
miệng cười, tay ra dấu chỉ vào cái ghế
trống trước mặt tôi. Không đợi tôi phản
ứng, bà ta đi ngay lại lối ra vào, mở
cửa, đủng đỉnh đi tới chỗ tôi ngồi. Đó
là một người đàn bà cao ráo, quần xệ
hở rốn, môi thoa son đỏ, mắt kẻ viền
đen, mi cong, bôi phấn xanh quanh
tròng, giày cao đến độ khó đi nhanh
nên phải bước từng bước nhỏ. Nàng
tươi tắn, giọng điệu đàng:
"Anh cho phép em nhé. Em cám ơn
anh cho cháu tiền quà sáng. Nhìn tôi
gạt tay ý bảo chẳng có gì, nàng tiếp -
người tử tế bây giờ hiếm lắm, cháu kể
là em muốn đến chào hỏi làm quen với
anh ngay... Tay chỉ về phía con bé lảng
vảng bên đường, nàng ngậm ngùi... -
Ấy con không cha như nhà không nóc
anh ạ. Anh ở nước nào về vậy?"
Tôi chưa trả lời thì nàng thân mật vỗ
tay tôi, nhí nhảnh:
"Để em đoán nhá, anh nhá. Nhìn tôi
như định giá, nàng trề môi - Singapore
này, đúng chưa?"
Tôi lắc. Và nàng đưa ra một chùm địa
danh, từ Đông Âu cho đến Bắc Mỹ. Tôi
ngắt lời bằng cách thả thõng - Canada.
Nàng phá lên cười, giọng càng hồn
nhiên:
"Biết ngay mà, trắng trẻo thế này là
phải tới từ Bắc Cực... Em nghe nói ở đó
có gấu lông trắng vừa đẹp vừa hiền,
anh nhỉ... Vừa nói nàng vừa vô tình đặt
tay lên đùi tôi, khúc khích -... có nuôi
được gấu như chó bên mình để coi nhà
không anh?"
Tôi gật, thừa biết lắc hay gật cũng
vậy. Thản nhiên, nàng vẫy nhân viên
phục vụ quán nước, gọi một ly trà
Lipton. Rồi nàng hỏi tên tôi. Và cứ thế,
nàng kể gia cảnh mình. Chồng nàng đi
xuất khẩu lao động sang Đức, hai năm
nay không có tin, nghe đâu đã kết
duyên mới với một chị người làng cùng
cái cảnh "trơ trọi xứ người", một lý do
tất nhiên không chính đáng để hắn
phụ giẫy mẹ con nàng, hai sinh vật
trung thành vẫn tha thiết đợi hắn cho
đến lúc không có cách nào khác là
phải, theo nguyên văn lời nàng, "quên
mẹ nó đi, anh ạ!". Nhìn sâu vào mắt
tôi, nàng ngọt ngào:
"Thế anh đã có gia đình chưa?"
Tôi gật, và chép miệng. Nàng cười:
"Mới có ba ngày mà đã nhớ vợ rồi ư?
Chính chuyên đến thế cơ à! Giọng
thương hại, nàng tiếp - Anh ơi, chớ
buồn, cuộc đời ngắn ngủi lắm đấy, vù
một cái là xong... Anh về đây mà phải ở
khách sạn, thật là tội, lại tốn tiền!"
Ngạc nhiên, tôi hỏi, đi xa ở khách
sạn là bình thường chứ ở đâu bây giờ.
Nàng mím môi:
"Khách sạn toàn là của bọn tư bản
"người bóc lột người" đấy. Nơi anh ở là
của một Soái lớn từ Liên Xô về xây. Nó
cắt cổ anh mà anh không biết... Em tìm
cho anh chỗ hay hơn, máy lạnh có, ăn
uống những món dân tộc, giá chỉ chưa
đến một nửa... Anh "bao" đi, em lo
hết!"
Tôi ngần ngừ. Nàng ngồi sát vào tôi,
tay lại để lên đùi tôi, nhỏ nhẹ:
"Bao em, thì em sẽ là "của" anh thời
gian anh ở Hà Nội này..."
"Của là của thế nào?", tôi hỏi, chắc
ngớ ngẩn đến độ nàng phì cười.
"Còn thế nào nữa. Tất tần tật. Em
thay chị nhà anh một trăm phần trăm.
Cơm bưng nước rót, muốn gì được nấy,
phục dịch ngày đêm, bảo đảm vệ sinh
an toàn... Nàng vuốt ngược đùi tôi,
chau mỏ - Em có giấy bác sĩ mới tuần
trước, chẳng bệnh tật gì sất... Còn chỗ
ở, khu Nghĩa Đô, nhà xịn mới xây, một
tầng lầu hai phòng là thuộc về "chúng
mình", máy lạnh, nước nóng, giường
chăn đủ cả... Ngày, mười đô thôi,
chuyên chở có một chú taxi, thêm năm
đô, ngày ngày đưa mình vào nội
thành, đi chơi xa thì hợp đồng thêm..."
"Thế sau đó thì..."
"Phần em, vì anh tử tế với con cháu
nhà em, em cảm động lắm... Xem nào.
Nàng nghĩ ngợi, rồi nắm tay tôi - anh lại
"hợp tạng" em, nên thế này nhé, anh
cho bao nhiêu em xin, chẳng dám vòi
gì..."
Máu thực dụng của kẻ sống nước
ngoài khiến tôi cẩn thận:
"Nhưng không thế được... Em thấy
bao nhiêu thì đủ!"
Nàng nghiêm trang, ngồi thẳng lên,
giọng trầm xuống:
"Tháng này em có nhiều việc phải
tiêu... Nàng thở dài - thôi thì em xin
anh tám chục mỗi ngày! Vị chi anh cứ
cho là trăm đô, kể cả tiền em đi chợ
nấu cho anh ăn. OK chứ?"
Tôi chột dạ. Mặc cả thế là đẩy câu
chuyện đi quá xa. Thấy tôi ngần ngừ,
nàng đứng lên:
"Chẳng dám ép anh, trăm đô cho
một ngày thiên đàng ở Hà Nội này là rẻ
đấy! Bên Cali, chỉ ăn hai bữa xoàng
xoàng cũng hết trăm đô..."
Nói dứt lời, nàng nguýt dài rồi yểu
điệu bước đi, nhìn khinh bỉ, mặt không
thèm giấu nét sưng sỉa. Con bé con
nàng đứng chờ ở cửa. Nó giơ tay, làm
cái tác động như để nói "Thế là hỏng
ăn rồi, hở mẹ!".
Chiếc Palm lại bần bật rung trong túi
quần. Tôi mở chiếc điện thoại di động:
Tin nhắn của Thụy, hẹn 6 giờ chiều lên
một hàng ăn ở Tây Hồ.
*
* *
23-02
... Luồn lách cây rừng chi chít được
đâu nửa giờ, chúng tôi đến trước một
căn nhà mái lợp gianh. Trùm A bấy giờ
mới cất tiếng:
"Khu này tôi trông nom an ninh, bảo
đảm với anh an toàn tối đa. Sau này,
chỉ yêu cầu anh một điều: đừng bao
giờ, tôi nhấn mạnh, đừng bao giờ nhắc
đến nó khi anh quay về sống với thế
giới bên kia..."
Nghe bốn chữ thế giới bên kia, tôi
rùng mình. Có phải hắn có ý bảo là thế
giới người chết, cái cõi âm vất vưởng
những linh hồn không siêu thoát? Tôi
gặng hỏi:
"Thế giới bên kia là thế giới nào?"
"Hừ... là cái thế giới từ đó anh đến
khu đào vàng này. Nhưng đừng quên,
tôi bảo khi anh về sống với thế giới bên
kia... Chắc gì anh về. Và biết có sống
được hay không!"
Tôi lại rùng mình, da nổi gai. Chừng
như thấy tôi sợ, hắn trấn an:
"Tôi thì tôi mong anh sống, anh biết
tại sao không?"
- ???...
"Vì cái anh tìm! Kẻ đến đây đãi vàng
thì có được bao nhiêu. Giỏi cũng chỉ 1,
2 lạng sau khi phân kim, lại chia cho
dịch vụ an ninh chúng tôi 30%..."
"Dịch vụ an ninh?"
Trùm A giảng giải:
"Thì cũng bắt chước như thế giới bên
kia thôi, nhưng khác một điều là chúng
tôi hợp đồng minh bạch chứ không chơi
cái cách tham nhũng đâu nhé. Và
chúng tôi nghiêm chỉnh áp dụng rốt
ráo tiêu chí xã hội văn minh công
bằng..."
Chép miệng, hắn tiếp:
"Nhưng quay lại cái vật quý hiếm
nhé. Anh tìm, lại chưa biết nó là cái gì,
thì còn quá đáy biển mò kim, nhưng
bảo không thể tìm được thì không
đúng, phải không nào! Thế có chi khác
chuyện tin vào ông Thượng Đế thì được
cứu rỗi, dẫu là chỉ trong muôn một...
Cũng có thể vì thế nên anh rửng mỡ đi
tìm, dẫu anh đang sống bình an trong
một xã hội đi trước đất nước này hàng
trăm năm, đúng chưa?"
Tôi nghĩ đến kiểu đặt cược của
Pascal, im lặng gật đầu, thầm cảm
phục một người không lý giải quằn quại
mà cũng vẫn tìm ra được cách khu xử
hợp lý của một triết gia hạng nhất trên
thế giới này ba trăm năm có lẻ. Trùm A
mỉm cười, thân mật vỗ vào vai tôi. Lúc
đó tôi mới dám nhìn thẳng vào mặt
hắn. Xương xẩu, lưỡng quyền nhô lên,
má trái có một vết thẹo chạy từ màng
tai xuống đến cổ, tròng mắt sâu hoắm
lấp loé sau cặp kính trắng khiến hắn
mang dáng dấp trí thức tỉnh lẻ hơn là
một tên lục lâm thảo khấu bao che
chuyện đào vàng. Thình lình, hắn
nghiêm giọng:
"Giả như tìm thấy, đề nghị mình chia
đôi nhé, chỉ anh với tôi thôi. Đám Trùm
kia thu được tiền đô của anh là chúng
hài lòng rồi. Còn như có cái vật quý
hiếm Bảo Quốc Hộ Dân ấy thì bán cho
ai? Bán thế nào?"
Lặng người đi, tôi, một kẻ mơ mộng,
nào có nghĩ đến chuyện rao bán cái
giữ được nước, cứu được dân. Thấy tôi
im, hắn lẩm nhẩm:
"Cái phần Bảo Quốc có thể chuồn cho
các vị lèo lái thế giới bên kia, nhưng họ
chắc không mua cái Hộ Dân đâu... Hộ
dân thì họ còn ăn uống thế nào được
nữa! Món này khó tiêu thụ... Hừm, để
xem."
Bóp trán, mắt lim dim, vết thẹo trên
má hắn phập phồng như thở. Lát sau,
phá lên cười, hắn reo:
"... tớ biết chỗ bán rồi, tớ là thiên tài.
Vồ vai tôi, hắn nắm chặt, lắc lắc - đoán
thử xem!"
Không để ý đến tôi nhăn mặt vì
đau, hắn nói như hét:
"Này, tớ bán cho ban lãnh đạo láng
giềng nhé. Chúng nó mua rồi quẳng đi,
thế là ăn đứt được nước mình mà
chẳng tốn quân, tốn của, và mang
tiếng "bá quyền"! Đấy, thần tình chưa -
hắn vỗ ngực, giọng phấn khích - một
sáng kiến kết hợp nhuần nhuyễn kinh
tế và chính trị toàn cầu!"
Gỡ tay hắn ra, tôi nhẹ giọng đến như
van vỉ:
"Phải tìm đã chứ, tay trắng thì bán
gì?"
"Đúng! Lấy lại bình tĩnh, hắn thở ra -
Nhưng tìm phải có kế hoạch. Và tổ
chức. Hắn lẩm bẩm như nói một mình -
phải cho đi kiếm Ensara... về trợ lực."
Quay nhìn tôi, hắn nói như ra lệnh:
"Mai chúng ta khởi công! Hôm nay
nghỉ lấy sức... Chỗ tìm ra vật quý hiếm
ấy, tôi biết!"
*
* *
Vừa bước chân vào nhà hàng ăn
uống nằm ven hồ, một cô tiếp viên tươi
như hoa đã ra đón, hỏi tên tôi, trịnh
trọng nói: "Xin quý khách theo tôi".
Men lối đi trên bờ nước, tôi được đưa
đến trước một căn phòng, cửa đề chữ
VIP đỏ, đằng sau có tiếng cười đùa rôm
rả. Cô tiếp viên nghiêng mình, giọng
văn minh có định hướng kinh tế thị
trường, ngượng ngập "Xin mời" rồi đẩy
cửa. Không khí mát rượi trong phòng
ùa ra. Chưa nhìn thấy gì thì một vị chạy
lại, và mặc dầu tôi chẳng biết là ai, anh
ta thân tình quàng vai, miệng nói, chà
chà, đợi anh mãi đấy. Một thiếu nữ rất
xinh đưa tay vẫy tôi khi được giới thiệu,
tên là Nhất Phương. Một vị, chừng thất
thập, tóc dài nhuộm đen, miệng lún
phún râu, gầy gò trong bộ áo choàng
vàng kẻ dọc xanh đứng lên đến bắt tay
tôi, nói bằng tiếng Pháp "vous êtes
bienvenu, cher ami" rồi vẫy Nhất
Phương, đẩy cho ngồi cạnh tôi. Và sáu
bẩy vị khác, tuổi từ ba đến năm mươi,
đều là những nhà văn nhà thơ, tự kể
tên nhưng than ôi, tôi chỉ là một kẻ
thực dụng chẳng để ý đến chữ nghĩa,
đành chỉ cười cười cúi đầu chào thật lễ
độ. Sau đó, ai cũng nói một câu thế
nào cho tôi hiểu là họ đều quen biết
hắn, thằng anh hờ trời đánh thánh vật
tôi phải cất công về đây tìm. Tôi nhìn
quanh nhưng không thấy Thụy, quay
sang hỏi Nhất Phương thì nàng đáp
không biết là Thụy cũng hẹn đến đây.
Vị đứng tuổi, nhà thơ cách tân đầu đàn
ghé vào tai tôi, mủm mỉm cười:
"Toa cứ gọi moa là anh, như mọi
người chứ đừng theo tuổi tác mà gọi
moa bằng chú nhé. Anh em ở đây ai
cũng gọi moa bằng anh. Cứ kể cái tính
chứ đừng đếm tuổi, dễ moa còn trẻ hơn
họ đấy. Moa có tiếng là "lão ngoan
đồng" Châu Bá Thông của nền văn hóa
bản địa..."
Nhà thơ lảo đảo đứng lên, tay nâng
ly, nói lớn:
"Nào, cụng ly uống mừng buổi hội
ngộ hôm nay nhé!"
Thế là tiếng thủy tinh loại vừa rẻ vừa
bền lạch tạch như pháo chuột vang lên.
Rượu là rượu trắng, gọi là Vodka-ta, khá
đầm. Uống đệm, có mấy thùng bia
Heineken, tiếng mở nắp chai lốp bốp.
Còn món nhậu, thì ếch, nhái, và đặc
biệt là bò tùng xẻo. Nhất Phương ríu rít:
"Em xẻo thịt, anh nhé!"
Nghe xẻo thịt anh, tức là mất cái dấu
phẩy trong một câu thoại, tôi giật mình
ôm lấy cánh tay như một phản ứng tự
vệ. Phương tưởng tôi đùa, cười:
"Xẻo thịt bò cho anh ăn, đừng lầm
mà ăn phải thịt em nhé..."
Nhà thơ cách tân chồm qua, nói bô
bô:
"Thịt em thì phải ăn tươi chứ. - Cười
hô hố, ông ta tiếp: - Nhất Phương là
thiên nhất phương trong thơ Tô Đông
Pha đấy, toa người Tây học có biết là
ai không?"
Thấy tôi lắc đầu, nhà thơ cách tân hạ
giọng:
"Moa biết, mấy toa giỏi thơ Tây thơ
Mỹ chứ mấy cái món cổ thì nào có để ý.
Còn moa, nói thật nhé, ông cụ đẻ ra
moa là thầu khoán, gia đình gốc tư sản
nên đi học trường của Pháp từ thời trước
45, may có chút chữ Hán ông nội moa
bắt học thuở bé nên mới giữ được chút
truyền thống. Mười bốn tuổi, moa mê
Lamartine, mê Chateaubriand... rồi khi
đọc Beaudelaire thì moa lập chí làm
thơ!"
Tôi gật gù. Kể thật lạ, kỳ trước tôi về
nước cách đây đâu mười năm, người
đâu đâu cũng bảo mình gia đình vốn ba
đời là nhà nông cấy thuê không ruộng
không đất. Bây giờ, chỉ mới ba ngày
qua, nghe ai cũng khoe gốc họ nếu
không tư sản thì đều là con cháu quan
lại thời nhà Nguyễn. Tôi nốc vội ly rượu
để quên thắc mắc. Nhà thơ cách tân
ghé vào tai, rù rì:
"Ngôn ngữ là một điều kỳ lạ. Bất cứ
thứ tiếng nào moa học cũng nhanh, và
moa cảm ngay cái hồn của nó. Đọc thử
toa nghe một vài câu moa làm nhé...
La tendre folie... dans cette vie... Ce
rêve fantasmagorique... d’une
fraicheur frigorifique..."
Tôi chưa dám nói gì, Nhất Phương đã
xuýt xoa:
"Em nghe có vần như thơ Đường.
Nhìn tôi, nàng nói - chả là em đang du
học ở Thượng Hải về điện ảnh nên
tiếng Trung Quốc bây giờ em cũng tàm
tạm, nghe thơ có vần là em biết ngay...
Này nhé, em nói sai thì anh sửa... phôli
vần với vi. Còn cái vần sau là ích... phải
không?"
Không dám gật đầu, tôi nhìn sang
nhà thơ cách tân, tảng lờ bằng cách
nâng ly uống mừng. Mừng gì đây? Nhà
thơ cách tân vừa cười vừa hỏi. Nhất
Phương đáp hộ ngay:
"Thì mừng cho sự hội nhập Đông -
Tây chứ còn gì nữa! Nàng khúc khích,
nâng ly, tay kia giơ lên, miệng hò -
Nào... zô nhé!"
Thế là zô, zô... Tôi uống, và cứ thế,
uống mừng cái này, mừng cái kia như
thể cuộc đời cũng đang mừng vui nhộn
nhạo.
Trời về chiều, hoàng hôn lướt trên
mặt hồ như một tà áo đỏ vờn bay trên
mặt nước óng ánh. Ô hay, sao không
thấy Thụy. Tôi lại hỏi Nhất Phương.
Nàng béo má tôi, cười, có em đây thì
cần gì đến ai. Và nàng lại rót, tôi lại
uống, cứ thế...
Khi tôi tỉnh dậy thì không còn một ai
trong căn phòng VIP. Giụi mắt, tôi ngơ
ngác nhìn một nhân viên nhà hàng vỗ
khẽ vào vai, đánh thức tôi dậy để tôi
thanh toán cái hóa đơn ăn mừng vừa
rồi. Tôi bấm máy gọi cho Thụy. Tiếng
anh ta ngạc nhiên:
"Tôi nào có hẹn anh đâu!"
Một lát sau, Thụy phóng xe đến đón
tôi về. Nhìn tôi, Thụy nói:
"Anh xem cái tin nhắn gửi đến anh là
ai gửi!"
Quả thực không phải Thụy gửi mà là
địa chỉ mail lạ hoắc. Gửi ngược về địa
chỉ đó, chúng tôi mới biết đó là một
trạm Internet trên phố Trần Hưng Đạo.
Thụy bực bội:
"Tôi hỏi đám bạn quen tin về ông anh
của anh, đưa số e-mail của anh cho
một vài đứa để có gì chúng nó thông
báo thẳng với anh... Nhưng thằng nào
chơi cái trò "ăn chạy" này?"
Vỗ vai Thụy, tôi bảo chẳng có gì
đáng để quan tâm. Và hỏi, Trang ở
đâu?
*
* *
... Buổi trưa hôm đó, tôi được phép
đi quanh quẩn trong khu vực Trùm A
phụ trách an ninh dưới sự giám sát
của một bảo vệ, hệt như là ở thế giới
bên kia. Nắng gay gắt, trời lại không
gió, nóng đến mờ mắt, nhưng đám
người đãi vàng vẫn say sưa, kẻ xúc,
người sàng, đổ nước rửa cát, rửa đá
ven một con suối cạn, giơ lên ngắm
nghía, lắc đầu hoặc gật gù tùy cái may
mắn trời cho. Họ đi từng ê-kíp ba, bốn
người, lúc nào cũng có một người lãnh
nhiệm vụ canh chừng. Anh bảo vệ
giảng giải:
"... Ở đây rất dễ bị cướp, lắm khi bảo
vệ tụi tôi không can thiệp kịp. Nghèo
nên tham mà anh! Bắt được cướp, tụi
tui bắn bỏ liền. Mấy xếp trong Trung
ương dặn, mình kiếm ăn được là vì giữ
an ninh trật tự nghiêm minh!", rồi cười
hề hề.
Tôi nhìn anh, hỏi: "Kiếm khá không?".
Thì thào, anh hạ giọng:
"Bí mật nghe! Mình lấy từ 30 tới 40%
lượng đá có quặng vàng. Nếu người
đào vàng khoán cho mình phân kim thì
mình lấy 20% lượng kim. Ngoài ra, khi
phân chia lô để đào, mỗi lô mình
"thuế" từ một tới hai trăm ngàn đồng
mỗi ngày, tùy lô tốt xấu... Bảo vệ tụi
tui đứa được triệu hai cho tới triệu rưởi
một tháng, mà là tiền Việt Nam mình
nghe..."
Không thấy phụ nữ đi đào vàng, tôi
thắc mắc. Anh bảo vệ chém tay vào
không khí, quả quyết:
"Có mấy bả, chắc tụi tui lại phải lo
luôn chuyện ghen tuông lang chạ. Hồi
ban đầu, có mấy bả, xảy ra lắm vụ
mấy bả kêu là hãm hiếp, phức tạp lắm.
Ông xếp khu này họp. Ổng nói - xưa
nay người ta lấy vàng thử bụng đàn bà,
lấy đàn bà thử bụng đàn ông. Không
để phụ nữ ở đây, nhưng bề nào vàng
cũng đến tay họ, thế là vẫn đúng quy
luật chớ không phải kỳ thị phân biệt
nam-nữ chi cả... Anh nghe hay không?
Ổng xưa học tới cấp ba, trí thức thứ
thiệt chớ không như tụi tui đâu..."
Bước lại ven suối gần nhóm người
cắm cúi sàng sẩy, tôi thóp bụng lùi lại.
Một anh lông mày xếch ngược thò tay
nắm cán một con dao rừng sáng quắc,
ánh mắt chỉ dịu đi khi anh bảo vệ xô
đến, miệng kêu "Khách của ông Trùm
đó!". Quay sang tôi, anh dặn "Đi lang
bang là mất đầu đấy nghen!". Bất giác,
tôi đưa tay lên sờ cổ, gật đầu, biết nó
còn đấy.
Về nằm trong một cái lán để tránh
nắng, tôi tự hỏi, Trùm A khẳng định chỗ
tìm được cái vật Bảo Quốc Hộ Dân.
Nhưng là chỗ nào? Và trên cơ sở gì hắn
khẳng định như vậy? Ngược lại, nếu
hắn không nói thế, tôi cũng chẳng biết
tìm chi, và tìm ở đâu, chỉ đoan chắc là
khi tìm thấy thì vật đó phát sáng, đồng
thời nghe được một tiếng nói từ thinh
không. Tóm lại, tất cả mù mờ như làn
hơi nước bốc lên dưới ánh nắng đổ lửa
trên thế gian đang lục bục sôi như một
nồi nước trong đầu tôi. Lơ mơ quẩn
quanh như thế, đến lúc xế chiều thì có
người đến gọi tôi đi.
Lên căn nhà mái lợp gianh tôi đã đến
ban sáng, tôi vừa thò đầu vào thời
Trùm A vẫy tay, chỉ một người đàn ông,
giới thiệu:
"Đây là thầy Ensara. Thầy sẽ trợ lực
cho chúng ta!"
Người đàn ông cao lêu nghêu, áo
choàng từ đầu xuống chân trắng toát,
đầu quấn khăn cũng trắng, ngước mắt
nhìn tôi vô cảm. Thật khó đoán ra tuổi
tác. Khẳng khiu nhưng lỗ chỗ những
vết sứt sẹo có lẽ di lại từ một trận đậu
mùa thuở niên thiếu, khuôn mặt
Ensara dài ngoẳng, da sạm một thứ
mầu mun han rỉ. Ensara nói lơ lớ,
nhưng Trùm A hiểu, đáp:
"Khởi công càng sớm càng hay.
Ngay đêm nay cũng được!"
Ensara gật đầu, chẳng nói chẳng
rằng xách bị đi ra ngoài. Nhìn Trùm A,
tôi hỏi:
"Ông ta là ai? Và trợ lực thế nào?"
"Ông ấy là thầy pháp, người
Chàm..."
Chỉ chiếc chõng tre bảo tôi ngồi,
Trùm A giảng giải. Khu này đãi cát tìm
vàng là chuyện phụ, kiếm chẳng được
mấy. Nhưng sát chân núi là khu cổ mộ
của dân tộc Chàm từ mấy trăm năm
nay. Họ chôn của cải với người chết,
trong những cái chum sành. Người chết
càng giầu thì của cải châu báu càng
nhiều, không chỉ có vàng mà còn có cả
cổ vật, ngọc ngà... Đào mả, phải đề
phòng rắn và ma Hời. Rắn, có thuốc.
Nhưng ma Hời, phải nhờ tới thầy pháp.
Người đi đào mả kể hễ cứ chạm vào
chum là nghe tiếng khóc lóc, tiếng chửi
rủa. Có kẻ hoa mắt thấy giáo mác sáng
loáng vung lên. Có kẻ tối mặt tối mũi,
xây xẩm gục xuống, sau hóa rồ hóa
dại. Từ ngày vời được Ensara, những
hiện tượng kia bớt dần, nhưng cách
đây hai tháng, có người thò tay vào
một cái chum rất lớn bỗng nhiên bị hút
tuột vào, và biến mất, không để lại
chút hình tích nào, chẳng được như là
cát, là bụi. Từ đó, Ensara xin thôi. Hiện
còn bảy cái chum chưa ai dám động
tới. Trùm A hạ giọng:
"Tôi đích thân đến nói mãi Ensara
mới nghe, đòi đến 20 lạng vàng thù
lao..."
Chỉ nghe Trùm A kể, tôi đã ớn lạnh,
lưng đổ mồ hôi. Rùng mình, tôi gặng:
"Nhưng sao mà biết vật quý hiếm ở
trong bảy cái chum đó?"
Trùm A bật cười:
"Này nhé! Khi tôi ở bên Liên Xô, tôi
nghe một câu chuyện thế này, kể cho
anh nghe. Có một đêm, một người
đánh rơi một đồng tiền vàng trên
quãng đường từ nhà anh ta ra đến
cổng làng. Con đường đó có độc một
cái đèn đường, còn lại tối đen như mực.
Anh ta cặm cụi bới từng cọng cỏ dưới
ngọn đèn tìm đồng tiền. Dân làng cười,
bảo đồng tiền đó có thể rơi bất kỳ chỗ
nào trên cả con đường dài này, sao cứ
loay hoay tìm đúng một chỗ. Anh biết
người đó trả lời thế nào không?"
Nhìn Trùm A, tôi lắc đầu. Giọng hể
hả, hắn khệnh khạng:
"Tôi tìm chỗ sáng, vì chỉ chỗ ấy may
thì tìm thấy. Còn chỗ tối, rõ là vô
phương... Đấy, tôi cũng vậy. Bảy cái
chum kia là chỗ sáng, còn lại thì khu
này tôi nằm lòng, có cái quái gì mà
tìm!"
Vẫn sợ, tôi cố vớt vát:
"Cái may này đổi hai mươi lạng
vàng, đắt đấy..."
"Hà hà... đưa trước một lạng thôi, tìm
ra thì mới chồng tiền chứ! Tìm được cái
vật quý hiếm ấy thì hai mươi lạng có
nhằm nhò gì", Trùm A đáp, giọng chắc
nịch.
Cơn sợ bị hút vào một cái chum để
rồi vô hình vô tướng khiến tôi run lên.
Nghiến cho răng thôi đánh vào nhau,
tôi cò kè:
"Còn chuyện này, hôm anh nói bán
vật quý hiếm cho ông láng giềng thì tôi
chưa phát biểu ý kiến. Tôi nghĩ thế là
không được! Họ nay vẫn kè kè sát
nách ta... Nguy lắm! Tôi không muốn
dính dáng vào cái nghiệp này đâu..."
Trùm A nghe tôi nói, nhếch mép cười
như muốn bảo thế là chú mày sợ chứ
gì, sẵng:
"Thế thì làm thế nào?"
Không biết ăn nói ra sao, tôi sượng
sùng:
"Tôi chịu, anh thử động não xem sao.
Chuyện buôn bán tôi kém lắm!"
Trùm A nhổ nước bọt, quay lưng
bước ra ngoài.
*
* *
24-02
Đến tối, tiếng cú rúc cứ vang lên
từng chập. Gió lên, cây rừng xào xạc,
trăng non lơ lửng giữa những đám mây
rám bạc trên đỉnh đầu. Ngày nóng,
nhưng đến đêm, rừng ẩm ướt khiến trời
lạnh hẳn đi. Xa xa, tiếng trống bập
bùng nhịp cho tiếng kèn ai oán vẳng
lại. Trùm A bất ngờ hiện ra. Như một
phản ứng, tôi rụt người lại, nói ngay:
"Anh tìm người khác thay tôi... Ở đây
thiếu gì người!"
"Hừ... không được! Ensara đã liên hệ
được với nữ thần Shiva. Thần phán,
đây là karma của anh, chỉ có anh mới
có cái duyên nghiệp này... Còn chuyện
bán, tôi nghĩ ra để chiều lòng anh rồi.
Ta bán nó cho bọn đã từng muốn
chiếm một nửa nước ta. Bây giờ Bảo
Quốc là cho nó tất, chắc chắn sẽ OK.
Còn Hộ Dân thì chúng nó đòi ta tôn
trọng nhân quyền, điều nằm trong
chiến lược toàn cầu trên thế giới,
chúng nó không thể từ chối được!
Chúng nó lại vẫn mạnh nhất, giàu
nhất... anh có đồng ý không!". Mà
này, Trùm A cười nhạt vỗ tay vào bao
súng lục, "Anh không đồng ý thì cũng
phải hợp đồng với tôi, anh nghe rõ
chứ?"
Dứt lời, Trùm A vẫy tay. Một toán
bốn người xông vào, kẻ bịt mắt, người
xốc vai tôi lôi đi. Quanh co một lát,
chúng tôi đến trước một đống lửa cháy
có ngọn. Trùm A mở băng bịt mắt, tôi
thấy có cả Trùm B và C đứng đợi.
Ensara vẫn chân nhẩy tay múa, bước
vòng vòng quanh đống lửa, miệng hú
dài, tiếng hú hòa vào tiếng chí chóe
của những con khỉ khiến nhân giới nay
chập chờn hư thực. Ensara đến trước
mặt tôi, nói lớn tiếng. Chưa kịp hiểu gì,
Trùm C ra lệnh:
"... Cởi hết quần áo ra!"
Trần như nhộng, tôi khép chân, tay
che, thầm nghĩ mình nào khác chi đàn
khỉ leo trèo trên cây. Ensara kéo tôi
đến trước một bức tượng bằng đồng,
trăm tay trăm chân, đứng nghiêng,
hông xếch lên, miệng như cười. Hắn rút
từ bị đồ nghề cái chổi lông, chấm vào
một dung dịch sền sệt bốc mùi khăm
khẳm, hoa lên trời rồi rì rầm to nhỏ.
Ngửa mặt nhìn trăng, hắn lại hú, ngay
sau đó thét lên những từ ngữ lạ hoắc,
tiến tới bắt tôi há mồm, đổ ực vào một
loại nước mùi hăng hắc. Làm xong
động tác này, Ensara lại nhẩy múa như
một con choi choi, giọng hú mỗi lúc
một não nùng, tay dùng chổi quệt vào
người tôi những nét ngang, nét dọc. Tôi
như mê đi, sực tỉnh khi thấy người bị
choàng vào hai lượt dây chão bện bằng
vỏ cây nhuộm đỏ, một ở ngang ngực,
một ở bụng. Xưa nay huênh hoang là
một kẻ vô thần vì thừa hưởng được
tinh thần duy lý của thế kỷ Ánh Sáng,
tôi bỗng thấy cần một sự che chở siêu
nhiên. Nhưng cầu ai? Jesus, hay Thích
Ca, hay Mohammed...? Không biết, tôi
lẩm nhẩm... lạy Trời!
Chẳng biết Trời nghe thấy chưa
nhưng tôi bị điệu đến trước một cái
chum đường kính độ hai vòng ôm, nắp
mở toang hoác, phía trong đen ngòm.
Người ta buộc những sợi dây nối người
tôi vào gốc một thân cây khá to nhằm
nếu như cái chum hút tôi vào thì còn
có hai sợi dây giữ dịt tôi ở cái thế giới
này. Không tin lắm vào khả năng thô
sơ này, tôi cứ chùng chình, tay không
dám đưa vào cái lỗ trống đen ngòm
trong đó vật chất có khả năng tiêu tan.
Thấy vậy, Trùm C quát:
"ĐM... mi đưa tay zô, nếu không ông
bắn bỏ!"
Nghe tiếng đạn nạp vào nòng súng,
tôi tự nhủ, có chết thì thà là tiêu tan
còn hơn bị một viên đạn đồng cắm vào
tim, thậm chí có thể lệch sang phổi,
không chết ngay mà khắc khoải cả
đêm. Tôi nhắm mắt, thọc tay vào chum
khoắng lên, mắt chờ bảo vật phát
sáng, tai dỏng ra đón từ thinh không
những lời huyền diệu đổi mệnh Trời.
Chỉ có tiếng lục cục xương cốt hàng
trăm năm trước đập vào nhau. Trùm A
quát:
"Không có đếch gì à?"
Tôi lắc. Thế là họ điệu tôi qua chiếc
chum thứ hai cách đó cả trăm thước.
Cũng vậy. Rồi đến chum thứ ba, thứ
tư... Ensara vẫn nhẩy múa, nhưng bước
chân có chậm lại. Khỉ trên cành chí
choé nhiều hơn. Khi tôi mò vào chiếc
chum thứ bảy, trời đã tờ mờ sáng. Vẫn
chẳng thấy gì. Ô hô, cái vật quý hiếm
Bảo Quốc Hộ Dân đâu? Trùm B, kẻ
đánh tôi một cái tát, lầu bầu như chửi.
Trùm A, mặt đanh lại, gằn:
"Đưa nó tới tìm ở cái chum đã hút
người... Mình đâu biết có cái gì trong
đó!"
Tôi lạnh người. Ensara lè lưỡi, mặt
dài thuỗn ra.
Đi khoảng mươi phút, người ta đẩy
tôi chúi xuống chân một cái chum lớn
hơn những cái chum khác ít là hai lần.
Không hiểu vì cớ gì, tôi cảm thấy bình
tĩnh. Có chết, cũng chết cho vinh
quang. Chết vì nước. Chết để Bảo
Quốc. Chết vì Hộ Dân. Và chết như
vậy, ai nỡ vừa chết vừa sợ, rên rỉ, khóc
lóc. Trong thoáng chốc, tất cả quá khứ
hiện lại, rõ ràng từng nét, với từng
người tôi yêu thương. Khi thấy lại hình
ảnh người đàn bà trên thuyền đêm
sông Hương hôm nao cười buồn, tôi đã
sẵn sàng. Nhìn Trùm A, tôi nói như
trăng trối:
"Nhớ đấy... Đừng bán bậy, chọn mặt
gửi vàng, nghe không!"
Quay lại nhìn những con người đứng
trợn mắt nhìn, tôi mang tâm trạng một
Kinh Kha ngày bên bờ sông Dịch. Trùm
A hò:
"Buộc dây cho chắc vào gốc cây, rồi
hai thằng nắm một dây. Động tịnh bất
thường thì kéo khi tao hô! Hiểu chưa?"
"Hiểu!" Đám tay chân của Trùm A hò
lên.
Ensara tiến tới trước mặt tôi, vẽ bùa
trong không khí, bảo tôi há miệng ra.
Tôi lắc đầu, liên tưởng đến cái dung
dịch hăng hăng hắn đã đổ vào miệng
tôi. Sống cho sạch, chết cho thơm, tôi
nghĩ bụng. Thình lình, trong tranh tối
tranh sáng, tôi thấy một vị đầu trọc
mặc áo nâu sồng ngồi dưới gốc cây,
một tay che mặt, tay kia giơ lên như
bắt quyết. Rồi tôi nghe trong thinh
không tiếng mõ văng vẳng, và tiếng ai
đó thì thào bên tai:
"... trong cõi vô thường sinh ký tử
quy, ngộ ra trong một sát na cái biên
giới tử sinh thì cũng đáng một kiếp rồi,
sân si ái vọng nữa mà chi..."
A, chân lý đây. Và phải sống với nó,
chết với nó. Tôi ưỡn ngực bước thẳng
đến miệng chum mở toang hoác, đen
ngòm ngòm, trong đó chắc chắn chứa
cả cái vô hình vô tướng của kẻ đã từng
biến vào đó như chưa từng là da là thịt.
Tay tôi vừa qua miệng chum, quả có
một thứ lực quy tâm hút tôi vào. Chân
dậm xuống trì kéo lại, tôi thò tay vào.
Trời hỡi, một thứ mùi tanh hôi nhớp
nhúa sực lên, và có gì đó như trăm cái
vòi bạch tuộc cuốn lấy cánh tay tôi.
Trùm A hô kéo, rồi chạy lại nắm dây
phụ lực. Ensara rống lên như phát dại.
Vật Bảo Quốc Hộ Dân tất phải ở đây
thôi. Nghiến răng, tôi thọc sâu tay vào,
vai đã quá miệng chum, nhưng tôi cố
giữ đầu tôi ở ngoài để thở. Tay tôi gần
như đụng đến đáy chum. Phải rồi, vật
quý hiếm đây chăng? Đụng vào nó, nó
sắc lạnh, nó phát sáng. Có tiếng reo.
Tôi dỏng tai cố nghe một tiếng gọi giữa
thinh không. Gom hết sức, tôi nắm
chặt lấy cái vật vô cùng quý hiếm. Bây
giờ, chết tôi chẳng sợ, chỉ sợ nó vuột
khỏi tay. Chân tì vào thành chum, tôi
cong người vận mười thành công lực,
đạp ngược. Có tiếng gió ào ào lướt qua.
Tôi hững người, ngã bịch xuống trong
tiếng reo, ngất đi.

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: TRĂNG NGUYÊN SƠ - NAM DAO - 01.04.2009 16:05:39
BA
 
Sáng tinh mơ hôm sau, tôi lại đi vòng
Bờ Hồ. Một vòng, rồi hai... Đến
vòng thứ ba, con bé hôm qua ở đâu xô
ra lẽo đẽo theo sau. Thêm một vòng,
nó rướn đến cạnh tôi, chạm nhẹ vào
tay tôi, mủm mỉm cười. Làm như không
biết, tôi nhìn thẳng, rảo bước. Nó đi
như chạy, thỉnh thoảng lại khều khều.
Cho đến khi tôi ngừng chân, mắt nhìn
phía xe chạy, nhấp nhổm qua đường,
nó nói "Cháu đi mở đường cho!". Nhớ
hình ảnh bà cụ bị xe đụng hôm qua, tôi
rùng mình, không trả lời.
Sang đến hè đường bên kia, con bé
chìa tay:
"Cho cháu tiền phở như hôm qua đi,
công cháu mở đường cho chú. Nhé, chú
nhé!"
Gạt tay con bé, tôi leo lên tam cấp
vào khách sạn. Mở vòi nước lạnh, tôi
lẩm bẩm một mình, sao mãi chẳng
thấy Trang điện thoại. Tắm táp xong,
tôi mở máy gọi Thụy. Không nói chuyện
được, tôi đành để tin nhắn, ra ngoài tìm
quán ăn điểm tâm. Con bé đứng chờ
ngay cửa khách sạn, nhưng làm như
ngẫu nhiên, thờ ơ: "Cháu chào chú". Tôi
đi thẳng lại cái quán gần Nhà Chung,
ngồi vào chiếc bàn kê cạnh cửa kính.
Húp đến thìa thứ hai bát bún thang còn
bốc khói, con bé đến sát bên, mắt
chòng chọc. Thế này thì còn ăn uống gì
được hả Trời! Con bé chỉ tay vào mồm,
vào bụng, nước giãi ứa ra khoé miệng,
ánh mắt khẩn cầu. Chắc nó đói, tôi tự
nhủ. Miếng bún nghẹn ở cần cổ, tôi
quay đi. Đứng lên, tôi ra cửa quán ăn,
vẫy. Khi nó đến cạnh, tôi đút vào tay nó
năm nghìn. Con bé lẩm nhẩm:
"... vẫn như hôm qua, còn vật giá thì
leo thang!"
Tôi gần phát điên, hỏi "Ai bảo mày
vậy?". Nó thản nhiên "...mẹ cháu chứ
còn ai. Rồi đài, báo... chỗ nào cũng nói
thế cả!".
Nắng đầu ngày mỗi lúc một gắt.
Tiếng xe gắn máy rầm rầm, còi bóp inh
ỏi. Trong lòng những con đường trung
tâm Hà Nội, khói xe bay mù, mùi xăng
bốc lên. Tần ngần, tôi chẳng biết đi
đâu, lớ ngớ nhìn quanh hệt một kẻ đi
lạc đang tìm đường. Con bé đến gần.
Tôi hỏi, có chỗ nào vắng xe ở quanh
đây không? Nó đáp, ra Văn Miếu, cháu
đưa. Tôi lắc đầu, lôi bản đồ thành phố
ra. Nửa giờ sau, tôi chẳng nhìn đống
văn bia tiến sĩ, tìm một gốc cây tỏa
bóng mát, ngồi thật im. Tôi nhắm mắt.
Để chiếm hữu lại cái hiện tại tôi không
chọn lựa. Để mò mẫm trong một cuộc
kiếm tìm kẻ đã ngược dòng thời gian
quay về triều Lý.
*
* *
26-02
Khi tôi tỉnh, Trùm A ngồi bên cạnh.
Tôi thều thào hỏi "Cái vật quý hiếm đó
đâu?". Hắn giúi vào tay tôi một ống
kim loại lạnh ngắt. Nắm chặt lấy nó
như níu vào đời này, tôi mỉm cười, sung
sướng tự nhủ, thì nó đây, cái vật quý
hiếm mà tôi đã sẵn sàng hy sinh cái
thân xác tôi trước nguy cơ phân hóa
đến độ vô tướng vô hình trong cái lỗ
đen không năng lượng - vật chất mà
các nhà khoa học đương đại gọi là
black hole. Trùm A văng tục, giọng bực
bội:
"Nó là cái đèn pin của thằng chết bất
đắc kỳ tử hai tháng trước. Thế thì bán
cho chó cũng chẳng được! Thế là xong,
quả này toi rồi. Nay trả lại anh cái hộ
chiếu và những vật tùy thân. Tiền đô
tươi thì chúng tôi giữ để thanh lý chi
phí..."
Trùm A đứng dậy, nói với lại:
"Sáng ra, có xe đưa anh về Hội An,
sau anh tìm xe đi đâu thì đi. Nhớ là
cấm khai báo. Đừng quên cánh tay
chúng tôi đủ dài để đến đâu với cũng
tới, đi là đi, đánh là đánh, giết là giết,
nghe chưa..."
Vứt cái đèn pin xuống đất, tôi lặng
người, đưa tay quệt nước mắt không
biết chảy ra từ lúc nào. Ensara thay
quần áo, thu xếp đồ nghề, khinh khỉnh
không thèm nhìn ai. Tôi ngoảnh về phía
gốc cây, nơi có hình bóng một vị sư
đưa tay bắt quyết khi tôi thò tay vào
cái chum cuối cùng, thấy một vòng
khói trắng như sương đang loãng ra,
tai nghe, vẫn cái giọng Huế ngọt ngào
"... Bữa mô tìm thấy thì về đây với
em!"
Xe rời địa phận Mỹ Sơn, chồm khỏi
cơn ác mộng và nỗi thất vọng khiến
não bộ tôi đóng băng, người mất hết
cảm giác, chân tay đơ cứng hầu mất
mọi khả năng điều khiển. Đến thị xã
Hội An, tôi chỉ còn sức xuống xe, đứng
lớ ngớ, hồn vía bay tuốt đến một cõi
nào đó vô minh. Tôi mò ra Cửa Đại,
thuê căn phòng nhìn ra biển trong
một mini-hotel. Mở cửa sổ, tôi im lặng
ngắm những con sóng bạc đầu cho
đến khi chiều tà. Mặt trời đỏ tía lơ
lửng chìm nơi biển lẩn vào trời, ánh
sáng quết một vết loang loáng mầu
huyết dụ, lịm dần, chuyển sang mầu
đen thẫm. Tiếng đứa bé tôi gặp khi
vào đăng ký thuê phòng chí choé. Nó
dị dạng, mồm méo, răng chìa ngoài
vành môi sưng vều, tay lêu nghêu,
chân ngắn chân dài, thổi phì phò qua
kẽ răng hở thứ âm điệu ngọng nghịu
của những đứa trẻ lên ba học nói. Ông
chủ khách sạn, chắc quãng lục tuần,
cười cười:
"Cháu nội tui đấy... Đang chờ bồi
thường nạn nhân chất độc da cam".
Chỉ một thiếu phụ đang lau bàn, ông
tiếp "Còn đây là dâu tui, lo công
chuyện quản lý... Chú cần chi cứ nói
nghen"
Thiếu phụ ngước lên nhìn, ánh mắt
lạnh lẽo, vô cảm.
Ra ngoài bãi biển, tôi tìm một quán
ăn vắng người. Quán xập xệ, bàn phủ
khăn plát-tích hoen ố, ghế đẩu, ngay
cạnh là bếp đốt bằng những bình ga,
thực đơn nhàu nát kẹp trong hai mảnh
giấy nhựa đùng đục. Bà chủ quán đon
đả:
"Chú ở khách sạn mini, phải hông?"
Gục gặc, tôi chỉ mấy thân dừa trốc
gốc. Chưa kịp hỏi, bà chủ quán đã nói:
"Trận bão tháng trước Tết đó chú. Mấy
tháng rồi mà hổng ai tới kéo đi. Chẳng
bù với mấy cái khách sạn quốc tế, ba
ngày là dọn sạch bưng! Nhà gạch
mà... Xóm "nhà lá" tụi tui thì đợi, trên
xã nói còn đang "quy hoạch", chú
hà...". Không thấy tôi nói gì, bà tiếp
tục:
"Nếu cái ông chủ khách sạn chú ở
còn là Chủ tịch thì chắc quy hoạch lẹ
hơn bởi nếu không, ổng mất khách du
lịch. Nhưng ổng "về" rồi, bị dân kiện vì
lấy đất người ta ra chia cho quan chức
mà hoàn trả không công bằng đó chú!
Giá đền bù của Ủy ban chỉ năm, mười
phần trăm giá thị trường, giải thích thì
thị trường định hướng này nọ, dân tụi
tui nghe hổng hiểu gì ráo, chỉ thấy vậy
là người ta trả giá rẻ mạt... Kêu lên
Huyện, Huyện biểu kêu lên Thị xã. Rồi
Thị xã biểu không giải quyết, kêu lên
Tỉnh. Tỉnh lại bảo kêu lên Trung ương.
Rồi Hội đồng Bộ trưởng, rồi Quốc hội,
rồi ông Thủ tướng, ông Chủ tịch Nước...
Thiệt cực, chưa thấy ai kêu chi mà
được, chú à... Phải chi có gì cứu được
dân oan, chắc nhiều người xin chết để
đánh đổi đó chú!".
A, cái chi cứu được dân oan! Bà quán
ơi, tôi cũng đang đi tìm nó đây. Nó có,
hay không có?
Nếu nó có thì thất bại ở Mỹ Sơn vừa
qua là chuyện Tái ông mất ngựa. Vì tìm
được, thì dưới áp lực của bọn Trùm là
phải bán cho những bọn còn tham
vọng đế quốc, bá quyền. Cứ nhìn
chuyện chúng nó nói chống khủng bố
bên Iraq nhưng thực tâm nhằm kiểm
soát dầu lửa để khống chế Âu Châu
khắc biết.
Nhưng vật quý hiếm Bảo Quốc Hộ
Dân đó, nó có, hay không có? Trước
Tết, Rậm-ria điện thoại từ Đan Mạch,
giọng nghiêm trọng: thần nhân mách
bảo ta, thế là trao nhiệm vụ cho ba
chúng ta, cứ gọi hỏi Tiểu-quỷ bên Anh
xem. Tiểu-quỷ rành rọt, em cũng thấy
một con bướm trắng bay vào nhà, rồi
đêm đó, một vị áo nâu sồng lay em,
bảo cái vật quý hiếm kia đã "về" đất
nước, kẻ nào có cơ duyên sẽ tìm thấy.
Thế thì phải về, cơ duyên ngàn năm
một thuở. Lên kế hoạch, tôi đi ngay vì
không công ăn việc làm trói buộc, dặn
Rậm-ria và Tiểu-quỷ về sau, càng sớm
càng tốt. Nhưng đến hôm nay, chúng
vẫn biệt tăm hơi! Mở máy Palm bấm
vào mục nhắn tin, vẫn chẳng có gì. Thế
là sao? Hỏi bà chủ quán, quanh đây có
cái cà-phê internet nào không? Bà chỉ
tay vào con đường hun hút không một
bóng đèn, đáp: "Chú đi bộ chừng nửa
giờ, có... Nhưng tối trời thế này, chú là
người lạ, không nên đi". Cám ơn bà.
Đúng thế. Tôi phải bảo vệ thân mình để
còn đi tìm cái vật quý hiếm Bảo Quốc
Hộ Dân chứ.
Giật nẩy người khi đẩy cửa khách
sạn bước vào, tôi giụi mắt, tưởng mình
quáng gà. Trong tranh sáng tranh tối,
thiếu phụ tóc tai rũ rượi nhảy nhổm từ
lòng một người đàn ông rồi lẻn vội ra
sau. Ông chủ khách sạn bật đèn, vẻ
bẽn lẽn, cười cười. Khi đó thằng bé tật
nguyền xô ra. Nó quơ một chiếc gậy,
miệng ngọng nghịu hét toáng lên "ĐM
mày, ông nội!".
*
* *
Hỏi cô tiếp viên khách sạn, tôi mới
biết Thụy đến tìm, không gặp và để vài
chữ nhắn lại, bảo Trang đã vào thành
phố Hồ Chí Minh công tác ngắn ngày,
tuần sau mới về Hà Nội, nhưng sẽ cố
liên lạc qua điện thoại. Thốt nhiên, tôi
cảm thấy bơ vơ. Và bất lực. Thấy mặt
tôi chảy dài, cô tiếp viên thì thào:
"Khi ở đây, ông anh của anh hay ra
vườn hoa gần Quốc hội, lắm khi tối mới
về... Anh ra đấy thử xem, lắm khi may
là gặp..."
Tôi gật đầu cám ơn. Đúng như mò
kim đáy bể. Vô vọng. Tôi thốt nhiên sợ
lên phòng khách sạn, chỉ một mình,
giữa mười mét vuông lặng lẽ. Ra Bờ
Hồ, tôi tìm tiếng động. Dẫu là tiếng xe,
vẫn còn yên ổn hơn một sự im ắng có
gì giống như khi đầu óc chập choạng
lạc vào cõi u mê. Ngồi dưới bóng cây
liễu, tôi nhắm mắt lơ tiếng chào hàng
của những đứa bé bán thuốc lá, bật
lửa, post card, ảnh khiêu dâm... cho du
khách. Ăn mặc thế này, tôi nghĩ, chúng
tưởng tôi là người Đại Hàn, Singapore,
hay Đài Loan... qua đây mua đàn bà về
làm... vợ chăng? Nghe đâu giá vợ - gọi
cho chính xác, giá một nô lệ tình dục -
khoảng năm nghìn đô cộng chi phí
máy bay vu quy, bảo đảm vệ sinh,
không aid, bán đứt với toàn bộ giấy tờ
kết hôn và xuất cảnh chính thức.
"Chú ơi, chú..."
Con bé khều tay tôi. Mở mắt ra, chưa
phản ứng thì tai nghe:
"Em chào anh... Em đến cám ơn anh
lại cho cháu tiền ăn quà sáng nay!"
Mùi nước hoa đâm thốc vào mũi
khiến tôi ngửng lên. Kề mông ngồi
xuống băng đá bên cạnh tôi, mẹ con
bé giả lả:
"Nói thật, thấy anh thương con bé
nhà em, em mừng lắm... Cái việc hôm
nọ, anh bỏ qua cho em, thực tâm em
chỉ muốn phục vụ anh mà thôi. - Giọng
nửa đùa nửa thực, mẹ con bé vừa cười
vừa nói - Anh muốn thì em cho con bé
nhà em là con nuôi anh! Còn em, em
già rồi, anh chẳng cần quan tâm đúng
mức. Con bé nhà em sắp mười bẩy tuổi
rồi, cái tuổi bẻ sừng trâu đấy..."
Thực không hiểu ý, tôi ngớ ra,
nghếch mắt nhìn mẹ con bé, mồm há
hốc. Mụ véo vào tay tôi:
"Ấy, em quý bác vì... bác thật thà.
Này nhé... con nuôi bác, bác muốn làm
gì thì làm. Bắt ngồi, ngồi. Bắt đứng,
đứng!"
Mụ hinh hích, nháy mắt:
"Rồi bắt nằm, phải nằm, sấp ngửa
thế nào cũng được, muốn gì có nấy. Em
không phải khuyến mại mà chân thành
nói với bác là cháu nó "còn nguyên si",
em phải tìm người xứng đáng cho nó.
Thật tình, em bảo cháu, mẹ già sắp về
hưu mất rồi, con phải cáng đáng cái
cuộc sống chỉ có mẹ với con. - Im tiếng
như lấy đà, mụ cao giọng, hất hàm nhìn
con bé: - Con phải sửa soạn đi làm, lao
động là vinh quang, phải không nào?"
Con bé cười, miệng toác ra, răng hở
lợi, gật gật. Nhìn nó, tôi thấy thương.
Nó chỉ độ mười bốn mười lăm là cùng,
hiểu gì mà lắc với gật! Mẹ con bé đổi
giọng, hạ xuống một ốc-ta, thầm thì:
"Tình thật, đời con gái ai rồi cũng
qua một lần... Như em, em không may.
Lần trước chưa thân, em dối bác, bảo
chồng em ở bên Đức. Thật ra, nó ở đây
nhưng lang chạ với con mụ Giám đốc
hơn nó hai giáp, bỏ bê mẹ con em gần
chục năm nay. Em về quê ở Vĩnh Phú,
thầy bu em đuổi, lại phải ôm con lên
Hà Nội... Mà em thì chẳng nghề chẳng
nghiệp gì, anh bảo sống bằng cái gì
đây..."
Thình lình mẹ con bé nghẹn ngào,
nước mắt ứa ra hoen vào lớp mascara
kẻ mi chảy xuống. Không biết làm gì,
tôi lúng túng đứng lên. Mẹ con bé nắm
tay tôi lại, mặt căng cứng, nói qua kẽ
răng:
"Em hiến nó cho anh, xin anh hai
nghìn đô, lấy vốn làm ăn lương thiện
chứ chẳng thể kéo dài thế này mãi. Giá
này bọn đại gia ở đây có thể trả gấp
đôi, nhưng em sợ cho con em, vì lắm
khi chúng nó đến ba bốn thằng... khổ
cho con bé! Được không anh?"
Tôi giằng tay ra. Tôi vùng chạy,
không rõ tại sao. Bất lực? Hay xấu hổ?
Hay phản ứng cuối cùng trước khi có
thể phạm tội? Cứ thế cắm đầu chạy, tai
tôi nghe tiếng huýt còi. Rồi tiếng thét
chát chúa:
"Bắt lấy nó!"
Bóng áo xanh rêu túa ra. Một người
mặc thường phục chặn đầu tôi. Hắn
cong mình vòng tay ôm lấy bụng, xoay
thế nào mà tôi ngã bịch xuống đất, tay
tức thì bị khóa trái. Tôi kêu "bỏ tôi ra"
thì người đó quát "câm miệng". Công an
ùa đến trong một chớp nhoáng. Người
mặc thường phục, cũng là công an, giao
tôi cho đồng đội. Chà, công an hữu hiệu
thật. Lại có võ, chắc võ Tầu, bắt người
ta dễ dàng. Tay bị bẻ quặt sau lưng,
công an đẩy tôi vào một chiếc xe bít
bùng nhanh chóng sịch tới. Về đến trụ
sở công an quận Hoàn Kiếm, người trực
là một trung úy đeo kính trắng hất hàm
hỏi "cướp giật hả?". Tôi lắc đầu. Trong
người tôi không có giấy tờ, hộ chiếu thì
khách sạn giữ. Thành khẩn khai báo lý
lịch xong, tôi nghe ông ta lạnh lùng:
"Tại sao anh lại chạy?". Chết, nói thế
nào bây giờ? Tôi ngập ngừng tìm kế
hoãn binh câu giờ:
"Nói ra thì... xấu hổ..."
Viên trung úy nhìn xuống, tay vân
vê ria mép, chờ đợi.
"Thưa... tôi bị đau bụng, vội chạy về
khách sạn để..."
Đưa tay ngăn tôi nói tiếp, viên trung
úy chun mũi. Được thể, tôi xin cho vào
toa-lét ngay. Thế là một công an mặt
non choẹt dẫn tôi đi qua một cái hành
lang, tay kè kè súng (tại sao, tôi không
biết), mặt mũi khẩn trương. Trong toalét,
tôi định thần, và phát hiện tôi chạy
ngược chiều lối về khách sạn. A, giấu
đầu hở đuôi, làm thế nào lấy vải thưa
che mắt thánh đây?
*
* *
28-02
Gõ xong "hai thằng chết tiệt, bay ở
đâu, báo cho ta hiện ở Hội An hay
ngay", tôi bấm nút gửi, đứng dậy thanh
toán tiền. Vừa từ quán cà phê Internet
cạnh chợ bước ra, tôi thoáng thấy thiếu
phụ quản lý khách sạn. Người đàn bà
đó trên dưới ba mươi, da đen giòn, và
nếu bỏ đi cái nhìn lạnh căm của cô ta
thì phải công nhận nàng mặn mà
quyến rũ. Đi xăm xăm về phía tôi,
người đàn bà chợt nhận ra, ngượng
ngùng cúi chào. Mỉm cười, tôi đáp lễ,
quay người tiếp tục đi. Hình ảnh ông bố
chồng ôm con dâu tối qua khiến tôi lờm
lợm, đầu lại hàng chục con sâu chúi
xuống đào khoét mảnh đất đầy cảnh
ngược đời này. Đi dăm bước, tôi nghe
tiếng gọi giật giọng: "Chú ơi, khoan đi...
Chờ chút, chú!"
Quay lại, người đàn bà tất tả chạy
theo, mặt hớt hải. Tôi ngừng chân.
Người đàn bà nhìn tôi, ánh mắt nay vài
vỉ chứ không còn lạnh lẽo, miệng bấp
búng: "Chú làm phước cho tui được nói
đôi lời!". Bỏ chiếc giỏ xuống, cô tay
chắp tay vái tôi.
"Thôi, chị ơi! Đừng làm vậy, người ta
nhìn...", tôi nói vội, bước qua tránh cái
vái giữa chợ. Tay chỉ quán giải khát
trước mặt, tôi ngập ngừng "... Mời chị
vô đây nói chuyện cho tiện!".
Người đàn bà ngồi xuống, mặt quay
vào tường, dáo dác nhìn quanh sợ
người đi chợ nhận ra mình. Trôi sạch
ánh căm hận, mắt cô ta nay sâu xuống
buồn bã như nước sông Hàn xẻ dọc thị
trấn. Cô ta đằng hắng, nhỏ nhẻ:
"Tui tên là Chót, Út-chót. Nhà tui năm
anh chị em, có chị Út Năm và ba người
anh trai. Thời mặt trận Quảng Trị, khi
tui mới sanh được ba tháng, ngày là
quân bên này, đêm là du kích bên kia.
Ba tui và anh Hai bị bắn, tội là ác ôn có
nợ máu với nhân dân. Kế đó chừng năm
sau, anh Tư và chị Út Năm bị bom, chết
mất xác. Giải phóng xong, gia đình tui
trông cậy vào anh Ba đã tuổi lao động,
còn mạ con tui buôn qua bán lại lặt vặt
sống qua ngày. Thời chiến tranh với
Campuchia, mạ sợ anh Ba bị bắt đi
nghĩa vụ, biểu "con à, mi là thằng con
trai nối dõi tông đường, đi đâu được
thời đi mà sống!". Anh Ba vượt biên,
đến lần thứ ba thì thoát. Ảnh được
Canada nhận cho định cư, ban đầu ở
Montreal, sau đi Toronto kiếm việc. Ảnh
gửi tiền về giúp, mạ con tui có cái mà
ăn, nhưng ở địa phương, bà con nói ra
nói vô, công an tới làm khó dễ. Chồng
tui, hơn tui một giáp, làm công tác an
ninh huyện. Ảnh thuộc gia đình cách
mạng, từng nhảy núi, cha ảnh chỉ huy
đội du kích Bầu Bính. Thấy tui, ảnh ưng
con mắt, tối ngày qua lại gạ gẫm lấy tui
về làm vợ. Phần tui, mới mười sáu, tui
đâu có biết chi đâu, biểu má tui quyết
định thế nào tui làm vậy. Khi báo tin
cho anh Ba, ảnh nổi hung, biểu thằng
cha sắp thành xui gia đó chính là thằng
đã kết tội cha tui và anh Hai, quyết
chống lại tới cùng. Ảnh đâu biết mạ con
tui cơ cực thế nào, nhà cửa cha ông để
lại bị khiếu kiện là cướp đoạt tài sản
nhân dân, lời ong tiếng ve tới độ chẳng
dám ra đường. Khi biết tui lấy chồng,
anh Ba cắt nguồn viện trợ. Từ đó, thư
viết ảnh không trả lời. Riết về sau, thư
bị trả lại. Ảnh bặt tin, mạ tui và tui hổng
biết ảnh ở đâu... Ít lâu sau, mạ tui chết,
dặn "... Tau đi nhưng mi đã có chỗ yên
thân, tau yên lòng. Ráng tìm anh Ba,
làm sao cho ảnh hiểu, cứ oán hận mãi
thì biết khi nào cho xong. Biểu ảnh, mạ
không giận ảnh đâu, ráng có vợ con là
mạ vui lòng rồi...".
Người đàn bà nghẹn lời, bưng mặt
khóc một chập. Lát sau, cô ta tiếp:
"... Lấy chồng được hơn năm tôi
sanh cháu. Chú thấy đó, nó dị dạng.
Đem lên bệnh viện Tỉnh, bác sĩ chẩn là
nó bị chất độc da cam. Chồng tui khóc
ròng hai ngày hai đêm, ôm tui kêu
"Bây chừ làm sao? Anh thương em mà
không làm chi được, em ơi!". Cha
chồng tui rầu rĩ bảo con "Mi là đứa trai
duy nhất, thế này thì bất hiếu, vô hậu
vi đại...". Tui nói với chồng "Dẫu sao thì
nó là máu mủ của mình, ráng nuôi cho
nó lớn lên, nó lấy vợ đẻ con thì có cái
chi mà sợ mất dòng mất giống!". Ảnh
nghe, lại khóc, cương quyết không ăn
nằm với tui vì sợ. Cha ảnh lên bệnh
viện Tỉnh khám nghiệm, hớn hở nói
mình không bị chất độc. Ảnh biểu, cha
sợ không người nối dõi thì nay đi tìm
một bà còn tuổi sanh đẻ đi, mạ chết từ
lâu rồi mà. Cha ảnh trừng mắt: "Mi nói
dễ vậy, tau còn lãnh đạo nhân dân thì
phải giữ đạo đức cách mạng, đâu có
thế được! - Chỉ tui đứng xớ rớ, cha ảnh
biểu: Sẵn đây, tau cho mi thằng em,
gột được cái tiếng nhà mình vô phúc,
mi bị nhiễm độc da cam. Sau, mi làm
cha nó, giấy tờ khai sanh đàng
hoàng...". Ảnh điếng người, lắc đầu. Từ
đó ảnh canh tui như canh mồ canh mả,
lắm bữa bỏ không đi làm trên huyện.
Nhưng đâu cứ mãi thế được. Ảnh tính
mua một căn hộ đưa tui đi, chưa kịp thì
cha ảnh thừa cơ ảnh vắng nhà hãm tui.
Thấy thân tui bầm dập thâm tím, anh
hiểu ra, vào bếp tìm con dao phay
chạy lên. Tui ôm chân ảnh tui khóc, án
mạng thế này thì chết hết. Cha ảnh
bung cửa chạy lên cơ quan, tối không
dám về. Đêm đó, ảnh ra ngoài, chẳng
biết đi đâu. Sáng ra, công an xã tới báo
ảnh treo cổ ở miếu Thần hoàng đầu
thôn..."
Người đàn bà gục mặt xuống thổn
thức, khi ngửng lên, lại nhìn với ánh
mắt căm hận cố hữu:
"Sau đó, cha ảnh cứ thế, dọa nếu tôi
không chịu mà đi tố cáo thì ổng sẽ giết
đứa con tật nguyền của tui... Thằng
nhỏ nó biết, đêm đêm nó quặp chặt lấy
tui. Ổng mò vô, là nó chửi ĐM mày, ông
nội. Ổng đánh, nhưng nó không ngán.
Khi ổng bị mất chức vì cướp đất thì ổng
xây cái khách sạn mini, bề ngoài là cha
chồng, nhưng... chú thấy đó, ổng làm
tới như tối qua. Bây giờ, chú à... Xem
hộ chiếu đăng ký ở khách sạn thì chú là
Việt kiều Canada. Tui nhờ chú giúp tui
tìm anh Ba, giấy tờ tên... sanh năm...
tại Quảng Trị, năm... còn ở Toronto.
Liên lạc được ảnh, may ảnh thương mà
cứu mẹ con tui khỏi cái cảnh khốn nạn
này. Được không chú?"
Nhìn ánh mắt người đàn bà khẩn
cầu, tôi gật đầu, nhưng biết là khó, vô
cùng khó. Còn nước còn tát, biết thế
nào hơn được. Để vá lại từng mảnh đời
rách nát. Để cuộc đời này bớt đi tiếng
khóc.
Trời ơi, giá mà tôi tìm được cái vật
quý hiếm Bảo Quốc Hộ Dân kia nhỉ!
*
* *
29-02
Đây, đây rồi. Mở máy, tôi có tin nhắn
của hai thằng chết tiệt:
"Hai ta đang ở Hà Nội, hẹn mi vào 8
giờ mỗi sáng ở phở Thìn cạnh Bờ Hồ,
hỏi ai cũng biết. Vật quý hiếm ở Thăng
Long đây, ra ngay, hai ta chờ. Tiểu-quỷ
đêm qua lại mơ thấy thần nhân, dặn
hiện thực nào mà chẳng huyền ảo, chỉ
cần viết lên giấy tất chuyển tải nhục
cảm, sờ được, ngửi được, nếm được...
ha ha. Rậm-ria và Tiểu-quỷ".
Điện thoại cho hãng Vietnam
Airlines, tôi đặt vé bay ra Hà Nội và
phải đến ngay phi trường Đà Nẵng lấy
chuyến bay chiều nay. Càng hay, tôi
thanh toán tiền khách sạn, nhìn ông
chủ, rồi nhìn cô quản lý. Thằng bé dị
dạng đến nắm tay tôi, miệng bí bô gọi:
"Chú, chú!". Ông chủ quát: "Đi chỗ
khác chơi!". Nó nhìn lên, mắt xéo xẹo,
mồm lẩm bẩm điều gì không rõ, nhưng
tôi vẫn nghe "ĐM mày, ông nội!".
*
* *
Số tôi may. Vị trung úy công an
không để ý đến cái chi tiết chạy ngược
hướng về khách sạn, nhưng kiểm tra
đăng ký của khách sạn, xem xét hộ
chiếu, và khi biết không có ai bị cướp
giựt trưa hôm đó trên Bờ Hồ thì cho tôi
về. Tất cả, mất ba giờ. Ra khỏi trụ sở
công an, trời đã nhá nhem. Trút được
một gánh nặng, tôi hớn hở như kẻ nhặt
được tiền rơi, cười một mình khi tưởng
tượng cảnh kể lại cho đám người quen
rủ rê tôi tranh đấu cho dân chủ ở hải
ngoại cái cuộc ở tù (chỉ ba giờ, nhưng
tạm cứ lửng lơ) như một thành tích. Họ
hẳn ao ước chứng cớ (được) tù tội hẳn
hoi để có khả năng vươn lên lãnh đạo
phong trào.
Về đến khách sạn, tôi điện ngay cho
Thụy. Hắn hỏi: "Nghe nói công an đưa
anh về trụ sở, có việc gì vậy?". Dĩ
nhiên, tôi kể hết, nhưng không nói
chuyện bà mẹ định bán trinh con bé
kiếm vốn làm ăn, và lặp lại lý do đau
bụng, với những chi tiết rất thuyết
phục. Thụy dặn tôi ở đây ăn uống phải
cẩn thận, gà thì gà cúm, heo thì heo tai
xanh... Thụy bảo đã liên lạc được với
Trang, và nàng dặn Thụy đi tìm một
người bạn tên Ban Mai, là người cũng
đã từng gặp hắn, thằng anh trời đánh
của tôi. Chính Thụy cũng chỉ mới gặp
Ban Mai, chỉ biết cô ta công tác trong
ty văn hóa tỉnh Hòa Bình, nhưng hứa sẽ
tìm giúp số điện thoại.
Tôi ra ngoài ăn tối. Cô tiếp viên
khách sạn chặn tôi ở cửa, thì thầm:
"Lúc công an đến làm việc, em cứ sợ
là anh bị bắt ở vườn hoa..."
Lắc đầu, tôi không nói gì thêm. Cô
tiếp viên đoán: "Thế chắc anh bị đứa
nào nó móc túi hay cướp giựt, phải
không?". Tôi lại lắc. Tai vách mạch
rừng, ngay với cô tiếp viên này cũng
nên khai báo thành khẩn. Thế là tôi kể
lại, ngắn gọn thôi, cái lý do tôi đã trình
bầy cho công an, và kết luận:
"Công an ta thật hữu hiệu, lại đối đãi
rất lịch sự, không đánh đập nạt nộ gì,
xử lý đúng nếp sống văn minh, theo
hiến pháp và pháp luật".
Không hiểu sao, cô tiếp viên cười
bẽn lẽn. Còn tôi, tôi chợt giật mình. Bây
giờ tôi cũng nói dối được. Và vô tư, cứ
như thật.
Tôi đi ăn phở. Nhớ lời Thụy, tôi không
dám đến phở Thìn có tiếng là ngon,
nhưng xập xệ bình dân. Tôi chọn phở
44, một quán phở nhìn ra hồ, có máy
lạnh và bàn ghế hẳn hoi, dành cho
những người có tiền như bọn du khách
ngoại quốc và đám Việt kiều. Phở thì
chắc là bò, mà bò nước ta thông minh
cần cù, chẳng phải như bò điên lở mồm
long móng bị cấm ở Âu Châu đâu. Vừa
húp nước phở, tôi vừa tự hỏi, lý do gì
mà cô tiếp viên khách sạn cứ nhắc đến
một cái vườn hoa, rõ là có ý dò hỏi xem
tôi có gì dính líu đến đấy không. Thằng
bé chơi trò điệp viên trong tôi thức
giấc. Cộng hưởng với nỗi đớn hèn khiến
tôi nói dối như thật, thằng bé đó đâm
ra liều lĩnh, sống lại giấc mơ điệp viên
thuở thiếu thời. Nó điều tra. Rất dễ, vì
ai cũng biết. Đó là vườn hoa Mai Xuân
Thưởng.
Trưa hôm sau, len lỏi giữa những tán
lá trụi nắng, tôi lần đến góc cái vườn
hoa đó. Bạt chăng chắn gió che cho
đám người kẻ ngồi kẻ nằm. Một bà cụ
móm mém ngước lên nhìn, miệng mấp
máy: "Ông hỏi ai?". Tôi đáp: "Thưa cụ
cháu tìm anh cháu", mô tả hình dạng
hắn, nhưng chẳng một ai nói gì. Bà cụ
lại gặng: "Cậu ấy từ đâu đến? Ở đây thì
Bắc có, Nam có, Trung có. Tôi từ Thái
Bình. Còn bà này, - tay chỉ một phụ nữ
xồn xồn, cụ thều thào - đến từ Kiên
Giang. Ông cụ đây thì Đồng Tháp, ông
kia từ Hà Tĩnh... Toàn người có tuổi cả.
Hiện còn một cô người Thái Bình, lại là
một nhà ngoại cảm nên người ta còn
e... Cô ấy bảo nhờ ơn trên, biết sớm
muộn chúng tôi sẽ được cứu rỗi, oan
khiên gì cũng giải được!". Tôi thầm nhủ,
với cái khả năng siêu nhiên ấy, cô ta có
thể giúp tôi tìm ra cái thằng anh trời
đánh kia không? Hỏi cô ấy ở đâu thì bà
cụ bảo cứ đến khi mặt trời lặn cô ta
mới ra đây, đầu đội khăn vàng, nhìn
không lẫn được.
Tối nhá nhem, mây nặng trĩu chỉ
chực đè xuống Hà Nội nóng như lên
sốt. Điện cho Thụy, tôi xin được số Ban
Mai ở Hòa Bình, nhưng là số cơ quan,
tôi gọi không ai trả lời vì quá giờ hành
chính. Ăn qua loa, tôi quyết định quay
lại vườn hoa đang đươm độc với những
người dân oan mất nhà mất đất "khiếu
kiện đông người", chủ ý tìm hỏi nhà
ngoại cảm có khả năng đối thoại được
với thần linh. Dĩ nhiên, tôi không dám
nói với ai. Để lấy can đảm, tôi lại lấy
tâm thế của một điệp viên nhị trùng
đang bị bám, chơi trò đi vòng vèo, khi
taxi khi xe ôm, tưởng tượng mình "cắt
đuôi" địch. Đến gần vườn hoa, tôi tản
bộ như một kẻ nhàn du, vào quán cháo
giáp dãy nhà bỏ hoang. Dân oan giấu
màn chiếu chăn mền ở đấy, mắt trước
mắt sau, lúi húi xách về vườn hoa, lưng
gò xuống tưởng có thể bé đi như con
giun cái kiến. Đi theo họ, tôi bước vào
một kịch trường kỳ dị, nhìn quanh
quẩn. Dưới một gốc cây, nhà ngoại
cảm tên Tiểu Hằng đầu quấn khăn
vàng ngồi đấy, mô đất bên cạnh cắm
một bó nhang đỏ lập loè trong gió. Tôi
đến ngồi trước mặt cô, cô ngước lên,
hỏi tôi muốn hỏi gì, người âm hay
người dương. Thuật lại chuyện tôi đi
tìm thằng anh chết tiệt với một thứ đầu
đuôi nói ra khó ai tin, cô ta chỉ cười,
bảo tôi đặt quẻ đi. Cô nhắm mắt trầm
ngâm, thì thào với những đấng thần
linh còn phù trợ đám người trần mắt
thịt, khoảng đâu mươi phút. Khi mở
mắt nhìn tôi, mắt cô vô cảm, ánh mắt
đến từ một thế giới khác, bí ẩn, dọa
nạt. Tôi đợi, lòng hồi hộp, tự hỏi bao
nhiêu năm tưởng mình duy lý mà tại
sao nay đang ngồi chờ những lời phán
từ một cõi siêu linh không kiểm chứng
được. Lát sau, cô Hằng lên tiếng, ngắn
gọn, nhưng quả quyết:
"Đi đâu nghe tiếng gào tìm Đào Hạ
Trang thì chính là hắn, kẻ hóa rồ nhận
mình là một người bạn triều Lý..."
*
* *
Tôi là một kẻ chẳng ra gì. Vô cảm.
Ích kỷ. Tôi ngơ vấn nạn của mọi người,
chăm chăm hỏi nhà ngoại cảm chỉ một
câu, ngẫm lại mới thấy ngớ ngẩn, là
cái thằng anh chết tiệt của tôi ở đâu.
Nó ở đâu thì ở, việc gì đến tôi. Thật mà
nói, tôi chưa bao giờ coi nó như một
người bạn. Nó khác tôi, tất cả. Nó hão
huyễn, tôi thực tế. Nó may mắn có cha
có mẹ. Tôi, một đứa con hoang. Nó
tham vọng đổi đời. Tôi, quần quật với
chỉ đời mình cũng đã quá sức. Nó chỗ
nào cũng có người yêu. Nhưng tôi, chỉ
có độc một người vợ. Hắn làm thơ, còn
tôi, tôi là anh chuyên viên kế toán,
ngày ngày ghi chép những con số vô
hồn, cộng cộng trừ trừ những bài toán
sơ cấp giả hình làm dáng quan trọng.
Hắn có những người bạn được thần
nhân mách bảo cách Bảo Quốc Hộ
Dân. Tôi chẳng quen biết ai, cô độc như
một con sâu. Một con sâu róm vì chẳng
biết cười hiền hoà, lại lông lá dị kỳ tởm
lợm. Ấy thế, tại vì sao mà tôi lại chỉ hỏi
được nhà ngoại cảm tên Hằng cái câu
hỏi khốn nạn, và được biết có một
thằng điên đi tìm Đào Hạ Trang. Lại
một con đàn bà, chắc chắn nó phải có
gì mới quyến rũ thằng kia đến độ đổ
khùng đi réo tên để cả nước cùng biết.
Không, cả nước thì e hơi quá, nhưng lọt
đến tai cư dân quanh đây hẳn là có
thật.
Lẩn về khách sạn, tôi nằm dài, mở
TV, chắc chắn thế nào cũng có tin về
vụ "khiếu kiện đông người" ở vườn hoa
Mai Xuân Thưởng. Nhưng không, chỉ có
hình ảnh thi hoa hậu Việt Nam duyên
dáng, tin ta được ủng hộ gia nhập "đúp
bờ vê tê u", tin Việt kiều "vinh danh"
đóng góp với đất nước, tin cúm gà, tin
heo tai xanh, bò long móng... đều được
những cơ quan có chức năng giải quyết
kịp thời. Tôi thiếp ngủ trong tiếng í éo
rôm rả một phim Đài Loan, lại chuyện
yêu nhau mà oái oăm chia tay vì chàng
cảm thấy trách nhiệm với hai đứa con
riêng. Và nàng, vừa trẻ vừa đẹp, đi qua
San Francisco để quên duyên tình lỡ
dở. Nhưng thật bất ngờ, nàng gặp lại
người yêu thời còn là sinh viên, nay
đang làm giám đốc một công ty lớn
bên Mỹ, mặc đồ bộ, đi xe Mercedes,
đeo kính dâm, mồm nhai suynh-gôm...
Sáng dậy, tôi điện thoại ngay cho
Ban Mai sau giờ hành chính. Sau khi tự
giới thiệu và kể tôi đi tìm thằng chết
tiệt, Ban Mai vui vẻ, giọng như chim:
"Anh ấy lên Mường Lát cách đây hai
tuần, chính em đưa lại giới thiệu nường
Phin. Trưa mai em có việc về Hà Nội, tối
phải đi nghe hát xẩm. Nếu anh tò mò
muốn đi xem nét văn hóa truyền thống
dân tộc này, em xin mời, em sẽ cho
anh thêm chi tiết..."
Thì ra Ban Mai phải đi nghe hát xẩm
vì nàng chuyên trách phần văn hóa
dân gian cho Ty Thông tin Văn hóa.
Nhưng hát xẩm, theo cái kiến thức nhỏ
bằng hạt đậu của tôi, là hát khi đi ăn
mày, ê a con cá nó sống nhờ nước, tôi
sống nhờ ông đi qua bà đi lại, ngửa nón
đợi bố thí của những kẻ động lòng.
Chẳng lẽ đi ăn mày nay thành truyền
thống? Tôi nghĩ quanh, bật cười về cái
dớ dẩn của một anh dở ngô dở ngọng
trước những tình tự dân tộc.
Trước khi gặp Ban Mai, tôi có cả một
ngày, không biết phải làm gì cho hết.
Ra Bờ Hồ, tôi sợ gặp lại con bé con, mẹ
nó, và nhất là hình ảnh bà cụ bị xe chẹt
chết. Vả lại, cái dòng xe gắn máy rú rít
nhả hơi xăng chạy vòng vòng chẳng có
tác động gì khác là căng bựt cân não
đến một lúc thì thần kinh nhão ra vô
cảm. Hỏi cô tiếp viên khách sạn, cô
mỉm cười: "Thế anh đã đi thăm lăng Bác
chưa? Đi sớm, chứ không thì đông lắm
đấy!". Tôi ngần ngừ: "Quanh lăng có cây
xanh không?". Cô ta vui vẻ: "Muốn cây
xanh thì phải đến chỗ Bảo tàng, gần
nhà sàn Bác Hồ và chùa Một Cột. Chỗ
ấy du khách nhiều, đông vui lắm!".
*
* *
Đến Bảo tàng, tôi theo chân dòng
người, xem những bức ảnh phóng lớn
từ một lịch sử hoành tráng đầy dâu bể
thời cận đại, có hang Pác Bó, chiến khu
Việt Bắc, Đại tướng Giáp trong chiến
dịch Điện Biên Phủ, Bác Hồ cưỡi ngựa
trong rừng, Bác Hồ và thiếu nhi, Bác Hồ
tiếp các sắc tộc thiểu số... Rồi nhà sàn,
cuốn sách mở ngửa của bác sĩ Spock
về giáo dục trẻ em, cái bàn con con
của một nhân vật vĩ đại nhưng giản dị.
Và chùa Một Cột. Chùa nay được trùng
tu lại, chắc khác với ngôi chùa cổ xây
từ thời Lý, lớp sơn đỏ có thếp vàng còn
mới toanh chói chang dưới nắng trưa
gay gắt. Tìm một bóng râm, tôi ngồi, đưa mắt
nhìn quanh. Gốc cây ngay bên cạnh, một cụ già
đeo kính đen thầy bói, tay ôm một cái thúng nhỏ
trên đậy bằng mẹt, sờ soạng như mù. Cụ nghe tiếng
sột soạt, quay về phía tôi, nói:
‘’ Mua giúp cho tôi thẻ hương nhé! Chùa này
linh thiêng lắm, cầu được ước thấy!’’
‘’ Cám ơn cụ, cháu chẳng cầu gì cả!’’
‘’ Ông không cầu gì à? Quái lạ, đám quan
quyền cầu giầu sang danh vọng, lũ ăn mày cầu của
bố thí hầu no bụng… Ông không có tiền cứ nói
thật, tôi biếu nén hương vào lễ Thánh.’’
‘’ Cám ơn cụ, có cầu, cháu chỉ cầu những điều
người làm được mà Thánh Thần thì không!'’
‘’ Cái gì mà Thánh Thần không làm được!’’, cụ
già hỏi, giọng có chút ngạc nhiên.
‘’ Chẳng hạn như khi đi xe máy quanh hồ Hoàn
Kiếm, đừng đạp ga lao đi mà chẳng kể đến chuyện
gây tai nạn chết người!’’, tôi đáp rồi chậm rãi kể
lại việc bà cụ qua đường bị xe đâm. Cụ già thở dài,
ngước mắt nhìn lên, thủng thẳng :
‘’ Những chuyện nghịch lý ngược đời ở đây
nhiều lắm, kể không hết đâu! Trông ông như người
Sài Gòn…Sài Gòn thì thế nào?’’
‘’ Cháu chưa đi Sài Gòn nhưng nghe nói
nay cũng thế…’’
‘’ Ờ, cái xấu lây nhanh hơn hủi, người ta bây
giờ cứ sống chết mặc bay. Thế ông ở đâu?’’
Nghe tôi đáp tôi từ Canada về, cụ già bật cười,
miệng thốt ‘’ …thì ra khúc ruột ngàn dặm, may
nhỉ… ‘’. Cụ bưng thúng đến, ngồi xổm, miệng thì
thào :
‘’Thế thì ông phải coi hàng xịn mua làm kỷ
niệm…Gặp khách tôi mới dám cho xem!’’
Tay giở cái mẹt đậy thúng, cụ chìa vào mắt tôi.
Trong thúng, toàn những huân chương. Cụ lục
thúng tìm, rồi giơ lên, cao giọng:
‘’ Cái này, Huân chương Điện Biên, cổ nhất,
hơn sáu mươi năm rồi. Đây là huân chương của
anh bạn nối khố của tôi, người cùng làng, lại cùng
đơn vị đi đánh đồi Béatrice. Tôi để ông giá rẻ, ông
giữ cho bạn bè quốc tế xem…’’
Không đáp, tôi hỏi, giọng không dấu được kinh
ngạc:
‘’ Cụ lấy đâu ra mà nhiều huân chương đến
thế này?’’
‘’ Ấy, chết hay chưa chết thì con cháu cũng
mang bán để lấy cái đút vào mồm, ông ạ! Nhà quê
chúng tôi chẳng còn gì, ngoài đống huân chương
và bảng Liệt Sĩ. Tôi mang lên nơi có du khách bán,
lấy tiền mang về cho họ để có cái mà ăn. Thường
thì bán khó lắm, và mỗi lần bán được, tôi đều thắp
hương khấn vái vong hồn bạn bè đồng ngũ…’’
Cổ tôi nghẹn lại. Nhổm dậy, tôi đi như
chạy, chẳng hiểu sao nước mắt ứa ra.
Lẩn dưới những tàn cây che nắng, đầu
óc tôi chập chờn hư thực. Cứ thế, tôi
bước, hoang mang không còn biết mình
ở đâu, và đang sống ở thời nào. Thời Lý,
thời thằng anh chết tiệt của tôi quay về
trong bức e-mail có chiếu dời đô? Tiếng
hát Đào Hạ Trang, mùi cứt trâu trên bờ
sông Nhị, chuyện đi tìm vật quí hiếm
Bảo Quốc Hộ Dân? Tất cả những rối rắm
đó quậy lộn vào nhau thành thứ hiện
thực rời từng mảng lềnh bềnh trong tâm
thức. Tôi giụi mắt. Không được. Phải bám
vào ngày hôm nay.
Tìm một bóng râm, tôi ngồi. Thời Lý,
thời thằng anh chết tiệt của tôi quay về
trong bức e-mail có chiếu dời đô, tiếng
hát Đào Hạ Trang, mùi cứt trâu trên bờ
sông Nhị, chuyện đi tìm vật quý hiếm
Bảo Quốc Hộ Dân. Tất cả những rối
rắm đó quậy lộn vào nhau thành thứ
hiện thực rời từng mảng lềnh bềnh
trong tâm thức. Tôi giụi mắt. Không
được. Phải bám vào ngày hôm nay. Tối
này, tôi sẽ gặp Ban Mai, hỏi ai là nường
Phin, và phải tìm cho bằng được thằng
chết tiệt nay bặt tin.
*
* *
Đi dọc Hàng Đào khi phố vừa lên
đèn, tôi chưa đến chợ Đồng Xuân đã
nghe nhịp phách lẫn vào tiếng nhị văng
vẳng. Người đông, đi phải lách, và
trong cái đám chen chúc đủ thứ mùi tôi
bỗng thò tay giữ chiếc ví trong túi
quần, cụm từ ăn cắp chợ Đồng Xuân từ
thời xa xưa rập rình đe dọa. Đến dãy
cửa hàng ăn uống giữa chợ, tiếng chào
mời dưới ánh nê-ông nhợt nhạt vang
lên tứ phía. Chỗ nào cũng đặc sản của
hàng chục địa danh, mùi dầu mỡ mắm
muối gia vị sực vào mũi. Cạnh đó, một
sân khấu dàn dựng sơ sài với khoảng
ba chục cái ghế nhựa đặt đúng hàng
đúng lối ở vòng trong. Vòng ngoài,
người xúm nhau đứng. Trẻ nít chạy
vòng vòng. Kẻ cười kẻ nói. Dăm thanh
niên chen vai thích cánh chen vào
chiếm chỗ. Tiếng bà già càu nhàu.
Tiếng gái nạ dòng chua loét cất lên
chửi. Rồi người can ngăn, yêu cầu nếp
sống văn minh, đừng cậy khoẻ ức hiếp
yếu, cậy trẻ bắt nạt già, phải có trước
sau tôn ti trên dưới. Trong không khí
nháo nhào, tiếng mi-crô rè rè cất lên,
giới thiệu đêm văn hóa này do Trung
tâm Phát triển Âm nhạc Việt Nam tổ
chức phục vụ đồng bào. Theo lời dặn
của Ban Mai, tôi hỏi một anh phụ trách
trật tự. Lát sau, một người trạc đôi
mươi ra, hồn nhiên chào rồi đưa tôi vào
chỗ sau sân khấu, tay chỉ một người
con gái. Chưa chắc có phải là Ban Mai
không, tôi định hỏi nhưng nàng đưa
một tay lên môi khẽ suỵt, tay kia chỉ ra
sân khấu. Nàng cười bằng mắt, nhẹ
nhàng: "Anh ra ngồi ghế ngoài sân xem
cho thoải mái!".
Một cụ già khăn đóng áo dài, tay
cầm giấy, trịnh trọng đọc. Cụ giải thích
xưa vào thời phong kiến thực dân người
mù hát xẩm xin ăn là do bức bách vật
chất, nhưng nay nước ta kinh tế thị
trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa đã
xóa đói giảm nghèo, hát xẩm được
nâng cấp thành nghệ thuật đáp ứng
một nhu cầu tâm linh quần chúng. Về
làn điệu, xẩm có rất nhiều bài, nhưng
có 8 bài đặc trưng là Xẩm chợ, Chênh
bong, Riềm huê, Ba bực nhịp bằng,
Phồn huê, Hò bốn mùa, Hát ai Xẩm
thập ân... Người hát xẩm trước đây là
những người mù. Họ phải học thuộc làn
điệu, phải biết chơi đàn, chơi phách,
nắm được hát đến chỗ nào thì dạo đàn,
chỗ nào được đánh phách vào, chỗ nào
đàn chỉ có đệm mà không chêm giai
điệu, tạo được những âm điệu đặc sắc
do cảm nhận cuộc sống qua đôi tai.
Khuyết tật giác quan của họ khiến mọi
người dễ cảm thông. Đặc tính nổi bật
trong nghệ thuật hát xẩm là tính hài
hước, đả kích sâu cay, châm biếm, phê
phán thói đời và tiếng oán than những
nỗi buồn da diết, khổ đau của kiếp
người.
Cụ dứt lời, chẳng thấy ai phản ứng
gì, vài kẻ vỗ tay cho lịch sự. Thế là mọi
người không ai nhìn ai cùng vỗ tay hồ
hởi. Đám nghệ sĩ bậc thầy ra trước
chào khán giả. Có cả nghệ sĩ nhân dân,
nghệ sĩ ưu tú. Họ đứng tuổi, quần trắng
áo the, đầu đội khăn xếp, tay ôm đàn
ôm nhị, mắt đeo kính đen giả như mù
cho đậm đà bản sắc. Có cả lớp trẻ,
thường đã tốt nghiệp bộ môn nhạc
truyền thống dạy ở Nhạc viện, trang
phục rất chỉn chu, nhất là đám thanh
nữ thướt tha trong những vạt áo tứ
thân sặc sỡ che quanh giải yếm đào.
Nhưng buổi tối trình diễn hôm nay
nhằm mục đích vinh danh cụ Hà Thị
Cầu, nghệ nhân từ Ninh Bình, người đã
truyền dậy "nghề" cho đám hậu sinh.
Nghệ sĩ trẻ Tuyết Hoa dìu cụ ra. Cụ lòa,
móm mém, đầu đội khăn mỏ quạ, cúi
chào khán giả rồi vào. Thật lạ, không
hiểu vì sao tiếng vỗ tay ran dội như
pháo. Cụ phải ra sân khấu thêm một
lần, cũng vẫn chẳng cất lời, chỉ chắp
tay vái khán giả. Sau khi đó, Ban Mai ra
ngồi cạnh tôi, dịu dàng bảo:
"Sau buổi hát này, ta mới nói chuyện
dài được..."
Hiểu ý, tôi ngẩng nhìn sân khấu, chỉ
kịp nhận biết Ban Mai có một mái tóc
thật dài, dài có lẽ chấm gót. Điều này
hiếm. Vào thời buổi này, ai nấy háo hức
Đổi Mới đến cả chân mày kẽ tóc, để tóc
dài là hơi bị xưa.
Tiếng đàn bầu chẳng khác tiếng
người nỉ non khóc, từng chặp nấc lên
theo nhịp phách nấc nghẹn, đệm
những lời thương thân oán phận, từ
Tiễn anh khóa, đến Xẩm chợ... rồi Lỡ
bước sang ngang... Nghệ sĩ trình diễn
ngồi hát, tay sử dụng một loại nhạc cụ,
nhập vào hồn vía quá vãng còn luẩn
quất tựa những linh hồn lạc lõng một
thời chưa hẳn khuất. Người nghe im
lặng. Không còn tiếng rao hàng. Không
cả tiếng trẻ con hò hét. Và họ vỗ tay
như đoạn kết cho mỗi bài hát thường
kể lại những lỡ làng dang dở. Sau, khán
giả hò tên cụ Cầu.
Cụ lại ra, Tuyết Hoa vẫn ở bên. Cụ
ngồi xuống, tay quơ cây đàn nhị, lẳng
lặng so dây, bật khẽ một tiếng, rồi
dặng hắng lấy giọng. Như một phép lạ,
khi cụ cất tiếng hát, giọng thanh hẳn
chứ không có chút gì mỏi mệt của một
người ở tuổi trên dưới tám mươi. Cuối
câu, cụ luyến láy tự nhiên như người
nói, tiếng vang vang trong một phiên
tối chợ:
Sáng trăng suông vằng vặc cái
đêm rằm
Nửa đêm về sáng trăng nằm
nơi ngọn tre
Anh có yêu em cho trọn một
bề,
Để em thơ thẩn ngồi kề bên
trăng.
Sự tình này ai thấu cho chăng?
Để em chỉ nguyện bóng trăng
chịu sầu.
Tương tư nối một nhịp đôi ba
cầu,
Bắc Nam đôi ngả, chịu sầu đôi
nơi.
Con chim khôn chết mệt về
mồi.
Con chim khôn. Là mẹ? Chết không
phải vì mồi, chết vì lũ chim non đợi
chim mẹ về mồi? Cụ Cầu hát xong,
khán giả im như bị hớp hồn đến cả
phút, lát sau mới cất tiếng hoan hô đến
vỡ chợ. Cụ mỉm cười, nắm tay Tuyết
Hoa, nét mặt rạng rỡ, ân cần: "Tôi hát
cái gì cho vui nhé! Nẫy giờ, toàn những
bài buồn, buồn quá. Muốn vui một tí,
thời nào cũng phải kể chuyện ngược
đời...". Tuyết Hoa so dây cây nhị. Cụ
Cầu cầm phách gõ từng tràng lách
cách. Thình lình cụ cất lời, giọng dí
dỏm:
Hỡi người trai trẻ kia ơi,
Muốn nghe lại đây
em kể bài ngược đời cho
nghe...
Chuột kia cắn cổ con mèo,
Một đàn châu chấu đuổi theo
đá gà.
Trạch chấu cắn cổ ba ba,
Một lũ đàn bà bóp vú đàn ông.
Người nằm xuống để lợn cạo
lông.
Một chục quả hồng nuốt bà lão
tám mươi.
... Thớt kia chực nghiến con
dao,
Một đàn cóc chực đớp sao trên
giời.
... Dế mèn thức suốt đêm
khuya,
Hát xẩm không tiền nên nghèo
xác xơ...
*
* *
Ban Mai cắn môi, quả quyết:
"Anh hỏi em có thấy gì lạ không, em
nghĩ lại, không anh ạ. Anh ấy bản chất
là người đam mê, chứ ngoài ra thì bình
thường như em hiểu. Duy có chuyện
cái vật anh ấy gọi là Bảo Quốc Hộ Dân,
nói ra chắc ít người tin. Nhưng có điều
người đời tin hàng mấy chục năm, chịu
cực chịu khổ, mất con mất cái, đổ
xương đổ máu cho nó mà nay mở mắt
nhìn ra thì như vỡ một cơn mộng
hoang. Vậy anh bảo, bây giờ ai dám tin
gì? Buồn hơn nữa, ai dám tin ai? Anh
ấy có lạ là ở chỗ anh ấy vẫn dám tin.
Vào em chẳng hạn. Sau dăm câu
chuyện, anh ấy kể cho em chuyến
xuống núi Nùng với người dẫn đường.
Vất vả lắm. Phải đấm hàng chục triệu
làm tiền mãi lộ, xuống thì trong đường
hầm toàn rắn với chuột lộn nhộn lao
nhao. Đến gần chỗ thông ra sông, anh
ấy bảo khi đó con đường hầm nước
ngập đến bụng, toàn là rết chẳng biết
ở đâu chui ra, con nào con nấy to bằng
chiếc đũa, bám vào đầu vào tóc, chui
xuống cổ xuống vai, lách vào bụng vào
ngực. Đến gần đích, thì dơi bay ra hàng
đàn, cứ nhằm người lao đến cắn. Anh
ấy bảo, chắc pháp thuật của Cao Biền,
kẻ đã trấn yểm long mạch khiến nước
ta cứ yên bình là kiệt dân khí... Theo
đúng lời thần nhân, anh ấy tìm nửa
ngày mới thấy cái chày đá cắm vào cối,
nhưng ngược đời, cối ở trên chầy ở
dưới, chặn đúng vào một mạch nước
phun bọt lên. Đào nhấc được vật đó thì
có tiếng phì phì ngay bên tai. Anh ấy
quay lại, eo ôi, một con rắn dưới cái
chầy chui ra, có sáu con mắt, lè lưỡi to
bằng bàn tay, xông lại. Đã được dặn
cách chống, anh ấy niệm... câu gì như
a la ba ha om nít ràng... mà nay em
quên mất. Con rắn liền gục đầu xuống,
theo lối ra sông trườn đi, và lúc quẫy
đuôi, nó hóa thành rồng bay lên trời.
Anh ấy bảo nay Hà Nội sẽ lại hóa thành
Thăng Long, nếu giải được vật trấn
yểm bằng cách giam nó vào núi Nà
Mèo ở gần Mai Châu trên Hòa Bình.
Anh ấy nhờ em đưa đường, nhưng em
không phải người Mai Châu, em mới
nhờ nường Phin vốn người Mường Lát
cạnh đấy đưa anh ấy đi. Tính ra đến
nay hai tuần rồi, nhưng em chẳng được
tin tức gì. Trước khi đi Hà Nội, biết sẽ
gặp anh, em có điện thoại cho nường
Phin. Cô ấy cũng chưa về, anh ạ!"
"Nhưng nường Phin là ai?", tôi hỏi.
Ban Mai cười:
"Nhưng anh là ai đã chứ! Bây giờ cho
em hỏi anh tìm anh ấy làm gì?"
Hình như đây là lần đầu có người hỏi
tôi là ai. Hình như đây cũng là lần đầu
tôi nói về tôi, nhưng tôi nói cả giờ thì
cũng cứ loanh quoanh lẩn quẩn những
chuyện lung tung. Tôi liệu có thực biết
tôi là ai không, ngoài những chuyện
chán mớ đời như công ăn việc làm, vợ
con, nhà cửa, xe cộ... Thú thực như vậy
với Ban Mai, tôi im lặng, không biết nói
gì hơn. Lát sau, tôi ngập ngừng xin Ban
Mai đưa tôi đi tìm nường Phin và thằng
anh chết tiệt chẳng biết đã giam được
cái vật trấn yểm kia chưa. Chắc Ban
Mai từ chối, tôi cúi đầu di chân xuống
đất. Có lẽ vì thương hại, Ban Mai cười
hiền hòa, bảo: "Cũng được, và thế là
anh có thời giờ nói cho em biết anh là
ai đấy nhé!"

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: TRĂNG NGUYÊN SƠ - NAM DAO - 07.04.2009 14:36:23
BỐN
 
Người thanh niên ngửa mặt hú một
tiếng thật dài. Tiếng hú rít gió
khiến mặt hồ Dâm Đàm gợn sóng,
chim chóc hoảng hốt đập cánh bay lên
trời. Vị sư già trụ trì chùa Phổ Độ tham
thiền nhập định liền chín tuần trăng
giật mình mở mắt. Sư buột miệng niệm
A di đà Phật, nhìn tượng Mầu Ni thếp
vàng, dùng phép Truyền âm nhĩ mật,
miệng mím chặt, mắt nhắm nghiền,
tay bắt quyết chữ Tâm. Tượng mấp
máy môi, thanh âm nửa hư nửa thực
"Tình là bể khổ, chúng sinh nay quy
về... Cái đó... là hết ý!". Đạo Hạnh ngộ
ra, thỉnh một tiếng chuông, cúi đầu lĩnh
ý.
Với tay lấy thiền trượng tùy thân thời
giặc dã nhan nhản, vị sư già vận sức
vào đan điền. Hít ba hơi nguyên khí
hạo nhiên, chân bước theo phép Đào
tẩu khinh công, bóng áo vàng xẹt đi
như một chớp lửa. Thanh niên chưa hú
hết hơi vị sư đã liệng một vòng đáp
xuống, miệng mỉm cười:
"Vô lượng thọ Phật. Kẻ xuất gia này xin
chào thí chủ!".
Thanh niên cúi đầu đáp lễ, kín đáo
thò tay vào nắm chắc giấy tờ và một
cuộn tiền mặt, dè dặt: "Kính chào đại
sư! Kính xin đại sư cho biết tính danh!"
Vị sư già đủng đỉnh: "Bần tăng họ Từ,
Phương trượng chùa Phổ Độ. Nghe
tiếng hú của thí chủ, bần tăng đoán thí
chủ đang phẫn chí khổ tâm..."
Thanh niên mừng ra mặt, vội vã:
"Chắc chùa ở quanh đây. Đệ tử dám
hỏi một lời, xin đại sư giải đáp cho!"
Nhích nhẹ, Từ đã đến trước mặt
thanh niên, đáp: "Chùa bần tăng ở khá
xa, sau núi Tản. Nhưng thí chủ cứ
hỏi...".
Thanh niên ngập ngừng:
"Dám thưa Phương trượng, đệ tử lấy
Vietnam Airlines đáp xuống Nội Bài, đi
được đâu mười dặm thì hóa ra mình
đang trên xe trâu trên đường dời đô từ
Hoa Lư đến đây. Đợi trên bờ tả ngạn
sông Nhị, đệ tử có biết một thiếu nữ
tên Đào Hạ Trang, người gốc Đông Hải,
dặn đến Dâm Đàm tìm. Đệ tử đã hú ba
ngày ba đêm, nhưng bặt vô âm tín. Đệ
tử rập đầu kính thỉnh Phương trượng
giúp cho...".
Từ nhăn mặt:
"Dây oan đây. Người cởi ra, kẻ buộc
vào trong cái bể khổ này. Nhưng để bần
tăng hỏi thí chủ một câu đã!"
Thanh niên ngước nhìn, nét mặt băn
khoăn như khi nhập cảnh ở phi cảng.
"Dám hỏi, thí chủ từ đâu đến?"
Thanh niên đáp hệt như khi khai báo
ở hải quan. Từ Phương trượng bấm đốt
tay, lắc đầu:
"Gia Nã Đại, ở đâu mà bần tăng
bấm không ra thế này?"
Điểm cây thiền trượng xuống đất, Từ
bay lên, tay che mắt nhìn quanh. Khi hạ
xuống nhẹ như một ngọn cỏ, Từ hỏi:
"Thí chủ có lỡm bần tăng không đấy?".
Thanh niên lượm một cành cây khô,
vạch chữ X, thưa:
"Giả dụ ta đứng đây, nhỏ như con
kiến, thì Gia Nã Đại ở tít Bờ Hồ bên kia,
và Dâm Đàm này trở thành Thái Bình
Dương, một trong tứ hải trên thế giới
có năm châu này..."
Từ ngắt:
"... À, thì ra thế. Phép Viễn Nhãn của
bần tăng chỉ đến Cảng Hải Phòng là
hết! Tứ hải giai huynh đệ. Bốn phương
vô sản đều là anh em, thí chủ cứ tin
thế đi".
Thanh niên chưa hẳn yên lòng, đang
định đãi bôi một câu cho êm thì Từ
nhẩy thoắt lên chạc ba cây sung mọc
ven hồ. Sợ rắn cắn, thanh niên lùi vào
gốc cây, mắt nhìn xuống đám cỏ dại.
Khinh thân nhẩy xuống, Từ ghé vào tai
thanh niên thì thào:
"Tổng Nhị cục đang tiến đến bao
vây... Chúng dùng roi điện, búa tạ, lưỡi
tầm sét cứ bạ nghe tiếng đồn nào cũng
đến vây bủa. Ta phải đi thôi, ở lại thì
bần tăng mắc tội tiếp xúc với một khúc
ruột ngàn dặm học phép Biễn Diến Bòa
Hình đang bị Nội Mật viện cấm! Đi
thôi!"
Thanh niên chưa kịp trả lời thì người
bốc lên trong tấm cà sa vàng xẹt đi
mất tăm, chắc chắn còn nhanh hơn vận
tốc siêu âm. Tai ù, mắt nhắm tịt, thanh
niên vẫn đủ tỉnh táo tự nhủ, cái gì ở Đại
Việt cũng ưu việt, đúng với lời đồn của
rợ Đài Loan, rợ Singapore và rợ Kim ở
Đại Hàn đang qua đây lấy giống tốt về
trồng người.
*
* *
Lạng một vòng xem xét bằng thủ
pháp Ó Cập Kiến, Từ Phương trượng
kẹp thanh niên vào nách, yên tâm từ từ
đáp xuống một vạt đất bằng phẳng trải
gạch mầu gụ. Thình lình, trống ầm ầm
nổi lên. Trong không trung, tiếng gió
xoáy u u dọa nạt. Từ quát, tay xoay
vòng, chéo áo cà sa găm hàng trăm
mũi tiêu, mỗi mũi nhỏ bằng ba mũi kim
khâu. Thật lạ, những mũi tiêu uốn éo
chuyển động hệt sinh vật sống, đầu
rướn cong ngúc ngắc. Thanh niên rú
lên, giọng hoảng loạn. Nghe tiếng rú,
những con trùng lớn dần, ngọ nguậy
nhìn như sán lải. Từ chặc lưỡi:
"Thế này thì gốc là Thảo trùng tiêu
pháp của Đông Tà Hoàng Dược Sư trong
Võ Lâm ngũ bá đây!"
Chúm miệng nhổ nước bọt, Từ tiếp
tục xoay vòng, nước bọt bay toé những
hạt li ti như mưa bụi. Thảo trùng lả tả
rụng xuống, cong queo như bị đốt.
Ba tiếng chiêng đánh dóng dả, tiếng
reo hò ầm ầm tứ phía. Một thiếu nữ
mặt bịt bằng voan trắng, áo xường
xám mầu lục, giơ tay lên. Đợi tiếng reo
lắng bặt, nàng cất tiếng, giọng êm như
mây bồng bềnh:
"Chẳng hiểu thế nào mà Sư quấy
phá Tiện nữ thế này. Tiểu tử đây, để
lại thì xin bái biệt Sư trong tình thân
hữu, còn không thì Tiện nữ bảo thật,
máu sẽ đổ trên thềm chùa Phổ Độ đến
ba đời sau vẫn chưa khô..."
Từ cười ha hả, hắng giọng:
"Dám hỏi danh tính cô nương, tại
sao bần tăng quấy phá, và lý do tại
sao cô nương muốn giữ tiểu tử này?"
Thiếu nữ nhỏ nhẻ:
"Tiểu nữ là Hân Ly, vẫn cứ đi tìm Đồ
Long đao. Tiểu tử đây có sứ mệnh truy
lùng một vật Bảo Quốc Hộ Dân, tiểu nữ
nghĩ chắc đó là thanh đao vì nó tiểu nữ
suýt oan mạng. Nếu không, thì chí ít
vật đó cũng phải là kiếm Ỷ Thiên...
Nhưng còn một lý do khác, riêng tư
hơn, tiểu nữ không tiện nói ra!"
Từ ngạc nhiên:
"Theo cái biết nông cạn chốn giang
hồ của bần tăng thì cô nương phải là
người đầu triều Minh, tức là sau Tống,
rồi Nguyên. Bần tăng hiểu là ta đang
sống đời Tống, vậy khi ấy làm gì có Đồ
Long đao và Ỷ Thiên kiếm mà cô nương
tìm?" Còn chuyện riêng tư, Từ dùng
phép Truyền âm nhĩ mật, hỏi, là chuyện
gì?
Hân Ly đưa tay lên chấm nước mắt,
giọng run run:
"Bực cao tăng hỏi, Tiện nữ không
dám giấu... Ấy là Tiện nữ vẫn trinh
trắng, chẳng một ai đoái hoài vì một
bên mặt bị rạch ở đảo Long Sà, lúc nào
cũng cứ phải lấy khăn che, nói lảng là
mình theo đạo Hồi. Thời gian thì như vó
câu qua cửa, Tiện nữ phòng không gối
chiếc, mùa xuân cứ chậm chạp như
què. Tiện nữ lại nghe bên châu Mỹ
người ta có kỹ thuật ghép da mặt, phục
hồi và chỉnh trang được nhan sắc ngoại
hình, quảng cáo trên rất nhiều báo chợ
ở quận Cam. Tiểu tử đây nói được tiếng
Anh, có thể bảo lãnh cho Tiện nữ xin hộ
chiếu xuất dương, làm thông ngôn cho
Tiện nữ vì nói thật, Tiện nữ rất kém
ngoại ngữ. Trong khi chờ đợi giấy tờ
xuất cảnh, biết đâu Tiện nữ lại chẳng
tìm được đao Đồ Long hay kiếm Ỷ
Thiên, một công đôi ba việc..."
Từ Phương trượng thở dài:
"... Sắc sắc, không không! Sếch sếch
cũng không không cô nương ạ! Còn
như đao kiếm, quý báu gì thì cũng chỉ
đưa đến sát sinh mà thôi."
Lúc đó, thanh niên ghé vào tai Từ, thì
thào "...sau 11 - 09, nhập cảnh vào Mỹ
khó lắm vì chuyện chống khủng bố". Từ
gật đầu, thủng thẳng:
"Cô nương khiến bần tăng mủi lòng,
xót xa cho thân gái dặm trường, đặng
chẳng đừng phải kiếm cách lưu vong
hòng sửa mặt cho đúng gu nam tử.
Nhưng xin hỏi, bần tăng trao tiểu tử
đây cho cô nương thì cô nương cho lại
bần tăng cái gì?"
Hân Ly đáp ngay:
"Tiện nữ xin để lại toàn bộ âm binh
phò Tiện nữ cho Phương trượng sai bảo.
Xin nói ngay, ngày sinh thời Mao Chủ
Xí, chính Lâm Bưu nguyên soái gạ đổi
lấy toàn bộ lúa gạo trong kế hoạch
năm năm mà Tiện nữ cũng không chịu
đấy!"
Từ cười hềnh hệch, nhưng nhẹ
nhàng:
"Ngay bần tăng thì bần tăng cũng
chẳng đổi thế. Ai chẳng biết vì duy ý
chí mà năng suất kém, sản phẩm nông
nghiệp chẳng có là bao, lại không giá
trị gì trên thị trường quốc tế!".
Chưa dứt lời, Từ bế thốc thanh niên,
tay khoa thiền trượng, vù lên đỉnh cây
rồi dùng phép Đào Tẩu công lướt đi,
hình dáng chỉ còn là một vệt khói vàng
nhạt. Hân Ly quát the thé:
"Không cho chúng nó thoát! Bắt lại
cho ta!".
Âm binh ùa ra tám phương trời, tiếng
binh khí chát chúa chạm vào thiền
trượng nghe đinh tai nhức óc. Từ thoát
vòng vây chẳng mấy khó khăn. Khi Hân
Ly đằng vân tới thì nàng chỉ thấy một
chấm vàng ở cuối trời, biết không hy
vọng gì bắt lại được. Tức tối, Hân Ly
quắc mắt quát âm binh:
"Ma chúng bay là đồ ăn hại. Lễ rằm
tháng bảy này cấm trại, không cho lê
la đi ăn cháo lá đa nữa! Bây giờ, vật
chết tất cả sư sãi rồi đốt chùa, nghe
không!".
Chùa Phổ Độ cháy bừng bừng trong
tiếng kêu khóc của đám sư sãi đã bị âm
binh đột nhập bắt trói vào giờ Tị. Từ
Phương trượng ngoái nhìn, lẩm nhẩm:
"A di đà Phật, sau này ta sẽ xây
dựng lại bằng mười cho mà xem!"
*
* *
Khi thanh niên mở được mắt, chàng
chỉ thấy một màn đêm đặc sệt. Giơ tay
lên, chàng chạm vào vách đá ẩm ướt
rêu phong. Khí lạnh thấm vào buốt đến
xương. Chập choạng đứng lên men ra
chỗ có chút ánh sáng hiu hắt, chàng lờ
mờ thấy Từ Phương trượng ngồi xếp
bằng tròn, tay chắp trước ngực, mắt
nhắm nghiền, huyệt Bách Hội đỉnh đầu
bốc một lớp khói trắng. Ngồi xệp xuống
nền đất ẩm thấp, thanh niên im lặng
chờ.
Được dăm tuần hương, có tiếng thở ra.
Rồi tiếng Phương trượng:
"... Nam mô Phật, nam mô Pháp,
nam mô Tăng... Tiểu tử thế mà khoẻ
hơn ta! Chắc tuổi trẻ, khí lực còn nhiều,
tốt! Ta cứu được mạng ngươi, chắc do
duyên tiền định mà thôi".
Thanh niên rập đầu cảm tạ, và hỏi
ngay:
"Bạch thầy, thầy tinh thông quán
thế, nhưng tại hạ vẫn chưa được thầy
chỉ giáo cho biết Đào Hạ Trang nay ở
đâu. Lậy thầy ba lậy, tại hạ không thấy
nàng thì chết không nhắm mắt được,
xin thầy làm phúc chỉ cho..."
Nói đến đấy, thanh niên òa lên khóc
như cha chết. Từ bực mình gắt:
"... Yên nào, hơi tí là khóc. Để ta ăn
cái gì cho ấm bụng rồi ta quán tưởng
tìm con ranh cho con. Có thực mới vực
được đạo! Đi bắc cho ta nồi nước sôi.
Nồi ta giấu sau Nhục bồ đoàn... Chỗ
này!".
Theo ngón tay chỉ, thanh niên cúi
xuống, lôi ra một cái nồi đất, nghẹn
ngào không một lời. Từ lẩm bẩm "Cái
tình là cái chi chi? Ta chịu! Không thể
nào hiểu nổi đám chúng sanh này cứ
như một bầy khỉ!".
Sau khi ăn một tô mì ăn liền giội
nước sôi, Từ Phương trượng rứt chiếc lá
bách soi trên ngọn bạch lạp, miệng
khấn tên Đào Hạ Trang, rồi nhắm mắt
thiền quán. Đâu dăm phút sau, Từ mở
mắt nhìn thanh niên, nói:
"Quẻ Lữ, thế là đi rồi, hiện ở thôn
Đào Xá..."
Thanh niên rập đầu, tức tưởi:
"Kẻ hậu sinh ngu tối, chẳng biết
Đào Xá ở đâu, xin thầy chỉ đến nơi
đến chốn, kiếp này không đền ơn
được thì xin đến kiếp sau..."
Từ nhỏ nhẹ:
"Thí chủ khỏi nghĩ chuyện ân huệ
cho nhọc lòng. Đào Xá lập từ Thuận
Thiên năm thứ 16, do Đào thị, một ca
nương nổi tiếng hát hay, khiến đám
con hát nay đều gọi là Đào nương. Bần
tăng không biết Hạ Trang đích xác là ai,
nhưng chắc chắn nàng trú ở Đào Xá,
thí chủ cứ tìm hỏi, hẳn sẽ biết".
Văng vẳng lại yêu nhau, cởi áo cho
nhau... vang vọng như một tiếng gọi
sâu thẳm. Thanh niên đứng lên vái một
vái, thốt: "Muôn vàn cảm tạ thầy, nay
xin xuống núi để...".
Từ ngắt:
"Không phải xuống núi mà là leo lên
hang... Nhưng đừng đi vội thế. Bần
tăng biết duyên nghiệp của thí chủ
nặng lắm, mong giúp được thí chủ một
chút trước khi bần tăng lên làm vua!"
Thanh niên nhảy thót lên:
"Thầy là người tu hành, sao lại lên
ngôi vua được?".
Từ mỉm cười:
"Sao lại không? Trước khi bần tăng
kể cho thí chủ nghe, để bần tăng hỏi
một câu đã"
Thanh niên ngước lên chờ đợi. Từ
đủng đỉnh:
"Nãy, Hân Ly cô nương có nói là thí
chủ đi tìm một vật Bảo Quốc Hộ Dân.
Đó là vật gì vậy?"
Thanh niên kể chuyện ba người, gồm
Rậm-ria, Tiểu-quỷ và chàng có thần
nhân mách bảo, rủ nhau về tìm với
mục đích làm sao để con dân Đại Việt
đỡ khổ ải nhục nhằn sau hai cuộc
chiến, nhưng nay vẫn chưa biết vật đó
là gì và ở đâu.
Từ chép miệng:
"Hơi hâm một tí đấy, nhưng được cái
tâm trong sáng! Không tìm, tất không
thấy. Có tìm, may mà thấy thì cứu được
cả thiên hạ!"
Thanh niên quỳ xuống ôm chân Từ,
giọng tha thiết:
"Kẻ ngu tối này đã thấy phép thần
thông của thầy, xin thầy mách cho cái
vật quý hiếm kia là gì?"
Khẽ nâng thanh niên lên, Từ niệm
nam mô rồi nói, giọng như đinh đóng
cột:
"Thì là cái khiến đoạt được ngôi vua
chứ gì nữa! Có quyền là có tiền. Quyền
tuyệt đối, thì tiền không thèm đếm,
cưu mang ai chẳng được! Cũng vì thế
mà bần tăng sẽ lên ngôi trong mười
lăm năm nữa!"
Thanh niên còn sững sờ thì Từ chậm
rãi:
"Bần tăng thuộc hệ phái tu dấn thân,
đã từng khuyên Ngô Tuấn thiến đi để
gần gũi Lý Nhân Tông, tên đổi ra Lý
Thường Kiệt, vào Thái Ninh năm thứ 4
được vua sai đi đánh Tống, cùng với
Tông Đản chiếm châu Khâm, châu
Liêm, châu Ung. Năm sau, Tống hợp
quân với Chiêm và Chân Lạp sang xâm
lấn nước ta, bần tăng lại cùng Lý tướng
quân đón đánh giặc ở bờ sông Như
Nguyệt. Ở đền hai vị tướng họ Trương
trung nghĩa, chính bần tăng vận Truyền
Thông thần công để Lý tướng quân
phát thanh:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên
thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại
hư.
nhằm động viên quân ta giữ sơn hà.
Bần tăng biết vua Lý Nhân Tông không
có con trai nối dõi, sẽ lấy cháu lập làm
Vua. Sùng Hiền hầu là em Vua đang
cầu con trai. Bần tăng dặn báo cho bần
tăng khi Đào phu nhân lâm bồn, bần
tăng sẽ trút xác nhập hồn vào thành
Thái tử Dương Hoán kế vị Nhân Tông.
Bần tăng lên ngôi Vua là vậy, và sẽ lấy
hiệu là Thần Tông..."
Thanh niên hoảng hốt, van xin:
"Kẻ ngu tối này xin thầy nghĩ lại.
Trước khi làm vua, ai cũng nghĩ mình sẽ
Bảo Quốc Hộ Dân. Nhưng thưa thầy,
khi làm vua rồi thì chuyện hộ dân lắm
vị vua quên béng, đâm ra hại dân thì
nhiều. Vả lại, đi thêm mười thế kỷ,
chuyện tách thần quyền ra khỏi thế
quyền là trào lưu chung của loài người.
Và rồi thế quyền cũng không tập trung
vào một người, hay một nhóm người,
mà phải dựa trên tính đồng thuận liên
đới của mọi người trong một quy ước
xã hội. Vậy thầy đã tu, tu cho trọn kiếp
thanh cao, có phải thế mới là phương
án tối ưu không?"
Từ lắc đầu, nhỏ nhẹ:
"Bần tăng cám ơn thí chủ đã chân
thành khuyên ngăn, nhưng hai điều thí
chủ nói thì bần tăng chẳng hiểu điều
gì, cho nên thôi, để bần tăng bói thêm
một quẻ xem cát hung trước mắt thế
nào..."
Nói xong, Từ nhắm mắt, người lặng
vào một thế giới khác. Khi Từ mở mắt,
vẻ trầm tĩnh cố hữu biến mất. Giọng ảo
não, Từ thốt:
"Thái sư Lê Văn Thịnh mưu đồ thoán
nghịch, Nhân Tông mệnh hệ nào thì
làm sao bần tăng triển khai kế hoạch
nhập hồn vào Dương Hoán còn chưa
thụ thai? Cái đám họ Lê này đặt mồ đặt
mả thế nào mà đời này qua đời kia hễ
cứ nhăm nhe Tể tướng là lại nghĩ ngay
đến chuyện chiếm lấy Lộc Đỉnh của
thiên hạ. Thế này thì bần tăng phải cầu
thí chủ giúp một tay mới được!"
"Giúp thế nào?", thanh niên bỡ ngỡ
hỏi.
Từ ghé vào tai, dặn như vầy, như
vầy... đọc hồi sau sẽ rõ.
*
* *
Rậm-ria và Tiểu-quỷ hiện sáng nào
cũng ăn phở Thìn ven hồ Hoàn Kiếm
đợi bạn, ba ngày sau thì sốt ruột, lắm
lúc văng tục không khác gì trẻ bụi
đường Hà Nội. Bảnh mắt, Tiểu-quỷ cư
ngụ thành Luân Đôn, nơi rượu đỏ ê hề
nhất nhì thế giới nên sớm nghiện chất
cồn, đòi ngay một ly đế quốc lủi. Nâng
lên miệng, Tiểu-quỷ nhõng nhẹo nhại
thơ Quang Dũng "Uống đi cho đỏ mũi.
Cho lên hương cuộc đời", tay vuốt mũi,
miệng cười khì khì. Rậm-ria húp cạn
bát phở váng mỡ, nhếch ria phán:
"Nói cho bạn biết, phải bốn nghìn
năm mới làm được bát nước phở thế
này đấy, tự hào đi! Này nhé, mùi thì
mùi hành thơm nhưng không hắc, nồng
nhưng không gây, lại thoáng cái hương
gừng gợi vị cay... Gợi thôi nhé, thế mới
tài tình. Dân tộc ta là thế, tinh tế..."
Tiểu-quỷ ngắt:
"... và nghèo rớt mùng tơi, huynh
ơi!"
Cười hinh hích, - Tiểu-quỷ tiếp -
"nhưng được cái nghèo mà ham, cái gì
cũng đòi là nhất, là đỉnh cao!"
Rậm-ria bực bội:
"Nghèo không phải là xấu, giầu
không cứ là hay! Bạn phải hỏi, nghèo
là vì gì, và giàu thì làm thế nào mà
giàu. Và hãy can đảm đối mặt với sự
thật, dẫu đau cắt lòng".
Đưa tay lên vê ria, Rậm-ria búng tay
gọi tính tiền phở, trầm giọng:
"Quái thật, sao hắn vẫn chưa tới. Email
hắn dặn sẽ đi ngay, lẽ ra là đã đến
từ hôm kia chứ!"
"Chắc lại có cái bóng hồng nào đó.
Em biết tính hắn nên mới đặt là Lơ-mơ
lãng tử. Và cứ thấy nhan sắc là hắn
động lòng, rồi đi đến đâu thì đi, chết
bỏ!"
"Nhưng chuyện chúng ta là chuyện
đại sự... Thần nhân lại bảo chú là cả ba
người chúng ta hợp lại thì mới có cơ
may. Đèo thêm một bóng hồng nào đó
vào rồi nhỡ lỡ việc thì sao!"
Người phục vụ, một cậu bé độ mười
bốn mười lăm, đến tính tiền với Rậmria.
Tay này vốn người Hà Nội, trước ở
phố Hàng Lược, sau giải phóng thì vào
Nam, rồi vượt biên, nổi tiếng hải ngoại
với một tập truyện khá hiện thực về cái
thực trạng xã hội miền Bắc. Sau đó,
Rậm-ria mở một tiệm ăn ở
Copenhagen bên Đan Mạch nhưng vừa
đóng cửa vì kinh tế Âu Châu đang tuột
dốc. Làm ăn bên ngoài khó, Rậm-ria
lần này tính kế hồi hương nhưng không
nói ra cho ai biết ngoài Tiểu-quỷ. Rậmria
tay đưa mấy tờ giấy 10.000 đồng
nhàu nát bẩn thỉu, mắt nhìn cậu bé,
hỏi:
"Ông Thìn đâu, mấy ngày tao ra đây
ăn mà không thấy. Tao là khách cũ, hai
mươi năm mới quay lại đây. Mày nhắn
ông ấy là phở vẫn cứ như xưa, ngon
lắm..."
Cậu bé cười cười:
"Ông cháu về hưu từ sau Đổi Mới,
bây giờ ốm nằm nhẹp ở nhà, mỗi lần ra
quán là lại lầu nhầu chửi chúng cháu là
phá gia cang, mất truyền thống, cứ
kêu nước phở bỏ quá nhiều mì chính.
Ông cháu có biết đâu là xương bò đắt,
nấu thì phải tăng giá, mà tăng là ế
liền... Cháu sẽ nói với ông cháu là
khách cũ vẫn khen ngon, để ông cháu
yên lòng!"
"Ừ, - Rậm-ria đằng hắng, - cứ nói thế
cho tao. Bảo ông mày là Phở và Chả
Giò thành món ăn quốc tế, nổi tiếng
còn hơn Điện Biên Phủ và chiến dịch
Đại thắng mùa Xuân đấy!"
Tiểu-quỷ phá lên cười ằng ặc, đứng
dậy bước khỏi quán nằm ngay đầu một
cái ngõ hẹp đâm ra đường, nóng đến
chẩy mỡ với ba nồi phở đặt trên than
hồng, khách đông ngồi chen như ngồi
lên lòng nhau, húp nước xì xà xì xụp
đồng tấu bản giao hưởng đầu ngày. Ra
đến ngoài, Tiểu-quỷ móc máy:
"Huynh khéo thật, người Hà Nội có
khác. Em ăn phở Thìn, thấy thua xa phở
Hòa ở Paris. Còn so với phở Nguyễn Huệ
ở quận Cam Cali thì phở Thìn vừa ít
bánh, vừa ít thịt, nhưng được cái là
người ăn phở hơn xa nơi khác ở chỗ đói,
húp hết nước rồi mà láo liên như sắp
liếm cả bát... Ô, đất ngàn năm văn vật
ta ơi, đừng tuyệt vọng!"
"Này bạn, - Rậm-ria khoa tay như
dọa - xin chớ mỉa mai cái đất này! Bạn
sinh sau đẻ muộn, lại yên ổn ở Sài Gòn
nên nào biết 12 ngày đêm bom B52
cầy xuống đất mà không lay động được
lòng người Thăng Long. Nhưng thôi,
chúng ta hòa giải với nhau vì công việc
chung là phải tìm cho ra cái vật quý
hiếm Bảo Quốc Hộ Dân kìa!"
"Thế nước có chông chênh thế nào
mới phải Bảo Quốc, dân còn lầm than
ra sao nên mới lo chuyện Hộ Dân -
Tiểu-quỷ trề môi - Còn nếu cứ ca cẩm
bài ca lạc quan tếu thì, ô hô ai tai, lại
ru ngủ kiểu ta phở ngon nhất bốn ngàn
năm lịch sử, ta đỉnh cao của lương tri
thời đại, ta bách chiến bách thắng,
đánh ngã nào là Đế Quốc, Thực Dân,
rồi Bành Trướng... Nói vậy để huynh vui
lòng, đệ nói ngay, nhưng thật tình vẫn
không khỏi xấu hổ...".
Đứng sựng lại, Rậm-ria kìm nóng
giận, giọng nghẹn như có ai thò tay
bóp cổ:
"Chính tôi là người cảnh báo sự việc
"con khỉ không đuôi" ngày còn thời bao
cấp, bạn quên rồi ư? Giờ khác, ta có
điều kiện hội nhập vào kinh tế toàn
cầu, xuất khẩu lao động hầu huấn
luyện tay nghề. Cứ xem con em của
chúng ta thì biết tôi không thể lầm.
Mấy đứa cháu tôi, chúng học từ sáng
đến tối, chăm chỉ, biết lo đến tương lai.
So với con tôi sống bên Đan Mạch, tôi
công nhận chúng hơn nhiều, và tương
lai là ở chúng..."
Nói đến đó, Rậm-ria vùng vằng sang
lề đường bên kia ven hồ. Tiếng xe
Honda thắng gấp, bánh nghiến mặt
đường ken két, rồi tiếng chửi: "ĐM
mày, thằng dở người, định chết à!".
Tiểu-quỷ theo chân, nhưng nhìn trước
nhìn sau, mắt la mày lét. Khi hắn đặt
chân lên hè con đường gạch lát quanh
Bờ Hồ, Rậm-ria bảo, giọng vẫn cứ ấm
ức:
"Tôi đi tiên phong cho bạn, bạn
suýt vừa giết tôi đấy!"
*
* *
Thanh niên hứa giúp nếu Từ Phương
trượng nói rõ đầu đuôi, vái rồi khẳng
khái:
"Cứ chuyện gì có tình có lý, lại khoa
học, vừa đúng hướng tất yếu của lịch
sử vừa thể tất được cả nhân nghĩa đạo
Khổng thì tại hạ đây sẵn lòng".
Bấy giờ Từ mới kể. Khi nhập định bói
cát hung, Từ dùng độn Tàng tâm liên lạc
với Tiểu Hằng tiên cô hiện đang trụ ở
vườn hoa Mai Xuân Thưởng cứu giúp
dân oan đang cùng nhau "khiếu kiện
đông người". Tiểu Hằng, đóng vai nhà
ngoại cảm để phù hợp với thời đại,
đúng lúc ấy phải đối phó với truyền
thống khủng bố, chỉ kịp gửi e-mail báo:
"Hai đạo hắc bạch sẽ xuất đầu lộ diện
phía tây hồ Dâm Đàm, lực lượng
nghiêng ngửa, phần thắng vẫn là
chuyện thiên cơ!". Rầu rĩ, Từ tự nhủ, có
ta vào thì ta cũng không thay đổi được
cán cân lực lượng. Làm Gì? What is to
be done? Que Faire? Что делать? Bỗng
nhớ còn tiểu tử đa tình bên cạnh, ta
chợt thấy cái duyên trời định.
"Trời định thế nào?", thanh niên thắc
mắc.
Khi ấy, Từ chậm rãi:
"Thí chủ đến với bần tăng là có xếp
đặt cơ huyền như giải trình điện toán vi
tính. Giúp một tay, cán cân sẽ nghiêng
về phần bạch, đám tà đạo chẳng thể
nào bách hại được Lý Nhân Tông! Xin thí
chủ giúp cho..."
Thanh niên vươn vai, giọng cương
quyết:
"Cứu người, dĩ nhiên tại hạ đâu dám
từ nan! Nhưng xin nói thật với Phương
trượng: từ ấu thơ, tại hạ chuyên việc
sách đèn, chân mềm tay yếu, cùng lắm
sự nghiệp chỉ có chục bài thơ lục bát
đăng điện báo hải ngoại, tại hạ làm gì
được?"
Từ Phương trượng thốt lên "Thiện tai,
thiện tai!", rồi mỉm cười: "Thí chủ chớ
lo!". Vòng tay ra sau lưng, Từ rút theo
chiều sống lưng một thanh kiếm dài
mười tấc, han rỉ, ngoại hình ngòng
ngoèo. Chìa trước mặt thanh niên, Từ
nghiêm giọng:
"Quỳ xuống làm lễ bái sư, ta sẽ
truyền cho Thanh Công kiếm pháp, lúc
ấy thì mi chẳng còn phải sợ ai trên
chốn giang hồ! Đây là kiếm Thanh
Công, xưa của Tào Tháo, Triệu Tử Long
cướp được ở cầu Trường Bản, nhờ thế
cứu đặng Ấu Chúa A Đẩu mang về cho
Lưu Huyền Đức, mi không biết à?"
Lẽ thì phải quỳ xuống, nhưng thanh
niên lùi ba bước, vòng tay thưa:
"Bạch thầy, kẻ ngu tối này từng đã
phát thệ hòa bình rồi tham gia phong
trào phản chiến ở Berkeley chống chiến
tranh, không thể dùng kiếm đổ máu
được! Vả lại, kẻ ngu tối này tự nghĩ
không có cái cơ duyên xuất gia đầu
Phật, lòng còn tơ tưởng Đào Hạ Trang,
nay xin kiếu để đi tìm nàng ở Đào
Xá..."
Nói xong, thanh niên ba chân bốn
cẳng quay mình chạy. Từ Phương
trượng chỉ khẽ nhấc mình, thân đã rơi
xuống chặn ngay cửa hang, từ tốn:
"Đi đâu mà vội mà vàng? Nếu không
muốn tu chùa thì còn phương án Cư sĩ,
tu tại gia, muốn vợ con vẫn được Phật
phê chuẩn đăng ký! Chê kiếm gây đổ
máu, thì còn thứ khí giới hiền lành như
côn, như bổng. Xưa, các vị tổ chùa
Thiếu Lâm cũng đã thu thập bí kíp võ
công thiên hạ, thập bát ban võ nghệ
đều tinh thông, kể cả phép Đả Cẩu
Bổng của lão ăn mày Hồng Thất Công.
Thí chủ không dùng kiếm thì ta dậy cho
dùng bổng, gọn, nhẹ, lại không bị Viện
Nội Mật xếp vào tội tàng trữ vũ khí...
Tính danh thí chủ là gì, ta chưa biết!"
"Bằng hữu gọi kẻ ngu tối này là Lơmơ
lãng tử..."
"Không được, đệ tử nhà Phật tên
phải nghiêm chỉnh hơn... Để ta nghĩ
xem! Nhưng trước khi bái sư mi còn
điều gì muốn hỏi không?"
Thanh niên lúng búng:
"Bạch thầy, kẻ ngu tối này như vào
một cơn mộng du. Bắt đầu là xuống
máy bay thì còn kỷ XXI, thoắt một cái,
quay lại thời Lý Thái Tổ dời đô 10 kỷ
trước từ Hoa Lư về Đại La. Thành này
nay gọi là Thăng Long bởi lẽ các vì vua
từ Thái Tổ, qua Thái Tông, Thánh Tông,
vị nào cũng thấy rồng lộn, khi thì ngồi
thuyền vượt sông Nhị, khi thì cưỡi ngựa
thị sát trên đê Yên Phụ, cả đêm lẫn
ngày, năm này qua năm nọ, không hề
mệt mỏi. Đến lúc kẻ ngu tối này đi tìm
Hạ Trang thì thình lình đến thời Nhân
Tông, gọi Thái Tổ bằng cụ. Nay thầy ban
kiếm, lại kiếm Thanh Công có từ loạn
Tam Quốc bên Tầu... Đùng một cú, thầy
e-mail cho nhà ngoại cảm tên Hằng
trong vụ "khiếu kiện đông người" thì ta
lại rất hiện đại..."
Cười lên ha hả, Từ Phương trượng
đáp:
"Tiểu tử thắc mắc thế, kể cũng đúng!
Ta đồ vậy là mi có căn duyên, học với
ta thành đạt chắc nhanh thôi. Vấn đề
mi đặt ra là cơ bản đấy. Đó là câu hỏi
Thời gian là gì? Hà hà, trả lời thì ắt có
kẻ đã thử trả lời rồi, và thậm chí đoạt
giải Nobel Vật lý pháp. Nghe ta lập
ngôn đây: Thời gian có là do vật chất
chuyển động. Năng lượng cấu thành
chuyển động, cho nên thời gian là năng
lượng, mà năng lượng chẳng qua cũng
là một dạng của vật chất. Đấy, mi thấy
cái lẽ huyền nhiệm tuần hoàn chưa?
Năng lượng thì luôn được bảo tồn, cho
nên thời gian cũng vậy. Cái ta gọi là
trước, là sau đều là chuyện bề mặt của
thứ thời gian thẳng tắp do sinh tử gây
ấn tượng. Thật ra, không có gì trước,
không có gì sau, tất cả chuyển dịch
tuần hoàn. Tức là, từ khởi duyên mà đi,
không có gì... Cho nên khi mi bảo "thì
ta lại rất hiện đại" là chẳng có cơ sở.
Nếu mi muốn, ta sẽ đưa mi đến thời
hậu hiện đại như trong văn chương
chẳng hạn. Nhưng ta bảo trước, ở đoạn
này thì gập ghềnh, gẫy khúc, hỗn
mang, đột biến nhiều đến nỗi độc giả
tẩu hỏa nhập ma, tác giả thì chết, chỉ
còn độc văn bản trên giấy vụn hoặc
trên màn hình phù du..."
Thanh niên quỳ xuống rập đầu:
"Thầy đã giải đáp cho kẻ này cái
nghi vấn đó, vậy nay chỉ còn một điều
bất cập...". Nhìn Từ Phương trượng
đang ngước mắt hấp háy ngó ngang,
thanh niên thở dài, tiếp: "... số là cứu ai
thì cứu, chứ cứu vua lắm khi lại thành
họa cho chúng sinh..."
Đập tay xuống Nhục bồ đoàn, Từ
chặn, nghiêm khắc:
"Dù xây chín bậc phù đồ, cũng
không bằng làm phúc cứu cho một
người... Vua thì cũng là người, cứu là
cứu một người mà thôi!"
Nghe đến đó, thanh niên ngộ ra lẽ từ
bi bao la, liền sụp xuống, đầu đập vào
nền đá lát hang, miệng rên rỉ:
"Vì cứu lấy một con người, dẫu hắn
là vua, đệ tử nay xin lậy ba lậy bái sư,
lòng nhủ lòng, một miếng cũng là thầy,
nửa miếng cũng là thầy. Dám mong Sư
phụ truyền cho phép Đả Cẩu, và xin
cho đệ tử được phép tu tại gia, đúng
phương án Cư sĩ, không kiêng khem gì
cả..."
Từ Phương trượng hài lòng, ánh mắt
nhân từ nhìn thanh niên:
"Khen cho tiểu tử ngộ được lẽ cơ
huyền, hiểu ra căn cơ bản thể của
chuyển động là tuần hoàn. Để tránh
hỗn mang, một chuyển động vòng với
chỉ một tâm điểm là ổn định tối ưu. Vậy
ta ban cho tiểu tử pháp danh Nhất
Tâm! Từ nay, bỏ cái tên cà chớn đầy
bụi là Lơ-mơ lãng tử đi!"
Thanh niên lại rập đầu bái tạ.
Quả như mong đợi của Từ Phương
trượng, Nhất Tâm học một hiểu mười,
tinh tiến mau vô cùng, nhất là khi
luyện phép Lăng Ba Vi Bộ của nước Đại
Lý, chạy nhanh, tránh né thật vô song
trên chốn giang hồ. Đến giai đoạn học
bổng pháp, Từ Phương trượng bẻ một
gốc tre già, vuốt đến đâu thì thân
thẳng ra, uốn lượn như loại Hắc Thiên
Trúc chỉ thấy ở nước Liêu thời Đông
Châu. Nhất Tâm xin học đúng ba chiêu
pháp, sợ học nhiều, cậy có võ mà động
tâm quyền lực thì thường chỉ gây sát
sinh. Từ Phương trượng bước đầu
truyền cho Nhất Tâm chiêu thức Đả Dã
cẩu bổng, chuyên đánh chó dân dã,
chó hoang, loại chó Ta nhiều kinh
nghiệm đời, thường đói, biết nhu biết
cương, lẩn tránh tài tình. Chiêu thức
thứ hai là Đả Thị cẩu bổng, dùng để trị
chó giữ nhà trong thành phố. Loại này
thường là chó Tây Dương, giống từ
nước Đức bên Âu Châu, chỉ đám nhà
giầu từ trung lưu cấp cao trở lên mới
đủ tiền mua. Thị cẩu thường gầm gừ
nhe nanh, có cái thuật nhảy lên cắn cổ
người như hổ báo, lại nói ngoại ngữ nên
lắm khi cần phiên dịch mới ra lệnh
được, vì thế không thật đáng kinh.
Chiêu thức thứ ba là Đả Quyền cẩu
bổng, dùng đánh chó nhà quyền quý.
Loại này đủ thứ, có chó Ta, chó Tây, chó
Tầu, chó Nhật. Chúng được chọn lựa rất
kỹ, phân loại ra chó kiểng, chó săn, chó
canh ma, chó kề mệnh phụ để giải sầu
khi đức lang quân đi công tác dài ngày,
vv... Chống mỗi loại, là phải theo đúng
chiêu thức, khi mạnh khi yếu, lúc
hoành tráng bung ra, lúc ẩn thân co
cụm, học khá lâu mà Nhất Tâm vẫn còn
quờ quạng, nhất là khi đối phó với chó
canh ma. Loại này không sủa. Chúng
thường liên hợp với đám cảnh vệ có
điện thoại cầm tay để liên lạc với Trung
ương đài chủ. Đám cảnh vệ thường
được huấn luyện nghiệp vụ theo
phương pháp ngậm máu phun người,
chất độc ngấm có thể đến ba đời sau
còn tác động trên lục phủ ngũ tạng của
nạn nhân.
Sau dăm ngày khổ luyện, đầu choáng
tai ù, mình xuất hạn dầm dề nhưng vẫn
không nhuần nhuyễn, Nhất Tâm nản chí
thì Từ Phương trượng an ủi, bảo loại chó
canh ma chỉ loanh quanh ở Thủ Đô nên
bất tất phải cực lòng, hễ gặp thì dùng
phép Lăng Ba Vi Bộ để toàn thân. Còn
muốn thắng chúng, chắc phải đánh
theo Liên Hiệp đa phong trào với các
phái như Côn Luân, Nhân Quyền, Tung
Sơn, Dân Chủ, Đại Ngôn. Và bởi mãnh
hổ nan địch quần cẩu, phải niệm chú
đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết mới
mong đắc thủ.
Nhất Tâm cúi đầu lĩnh ý.
*
* *
Lại nói về Rậm-ria và Tiểu-quỷ loanh
quanh trên 36 phố phường chờ Lơ-mơ
lãng tử. Hai chàng hơi bị buồn, liền
nhắc những chuyện tình nghĩa. Cách
đây gần một thập niên, Tiểu-quỷ rủ Lơmơ
sang Copenhagen thăm Rậm-ria.
Buổi trưa, khi tiệm ăn hết khách, ba
người ra vườn sau bù khú. Rậm-ria
nghiêm trang:
"Chẳng phải lúc nào cũng có cái
duyên hội ngộ này, nhớ tích kết nghĩa
vườn đào của Lưu-Quan-Trương, sao
nay ta không uống một chén thề, thề
rằng sao đổi vật dời, ta vinh nhục có
nhau, như anh em ruột thịt?"
Tiểu-quỷ cảm động, nước mắt rưng
rưng, cầm ly lên ực ngay rồi rót thêm
một ly cho mình, thốt: "Sẵn sàng!". Ôm
vai Tiểu-quỷ, Rậm-ria quay nhìn Lơ-mơ:
"Còn ông anh, ông phải là Lưu Bị mới
được!"
Lơ-mơ nguây nguẩy:
"Kết nghĩa thì number one rồi,
nhưng vườn không cây, chỉ có độc một
chậu quất làm kiểng... Và Lưu Bị thì kẻ
hèn này chẳng dám nhận..."
"Thì kết nghĩa vườn quất, trượng phu
ai đi câu nệ chuyện lặt vặt! Nhưng tại
sao huynh chê chức Lưu Bị?"
"Lý do... có tính bản chất. Lơ-mơ
hắng giọng- Hai vị huynh đài còn nhớ,
khi Triệu Tử Long bế được ấu chúa A
Đẩu về trao tận tay cho Lưu Bị thì hắn
đối xử ra sao không? Hắn quăng đứa
con còn ẵm ngửa xuống đất, kêu vì mi
mà ta suýt mất một chiến tướng rồi ôm
lấy Tử Long khóc mùi. Đệ cho thế là
hoặc Bị giả dối làm màn biểu diễn ân
nghĩa chủ tướng trước ba quân, hoặc
hắn chẳng có chút tình gì ngay với đứa
con hắn đẻ ra. Vậy thì đệ không cam
tâm làm Lưu Bị đâu!"
Rậm-ria thở dài nhưng Tiểu-quỷ nhẩy
quẫng lên vỗ vai Lơ-mơ:
"Nếu huynh chê Lưu Bị thì đệ cũng
chẳng hợp gì với Quan và Trương. Vân
Trường thì phò nhị tẩu mà không lăn
tăn, hẳn khác tạng đệ. Còn Trương Phi
thì đen thùi lùi, lại nóng nẩy hay làm
càn. Phần đệ, huynh nhìn xem. Đệ
trắng trẻo thế này - Tiểu-quỷ uốn éo
đứng lên - lại cơ trí hơn hắn nhiều. Nếu
hai vị đồng ý, cho đệ làm Triệu Tử Long
đi, oách hơn hai tên kia nhiều!"
Rậm-ria gật:
"Muốn làm ai thì làm, quan trọng là
nội dung. Và nội dung là chuyện kết
nghĩa với nhau. Nào, nâng ly!"
Tiểu-quỷ vui vẻ, nhắc nào, nào, và
hào hứng:
"Ba anh em ta phải làm một cái gì
chung với nhau mới được! Nhìn hai vị
huynh đài ngơ ngác, Tiểu-quỷ cười hà
hà, đề nghị - ta viết chung một tiểu
thuyết chẳng hạn. Văn chương mà chỉ
thuần truyện ngắn thì "đoản" lắm. Nhị
vị huynh đài thấy thế nào?"
Lơ-mơ giật mình, khép chân lại thủ
thế, tự nghĩ mình mới có chục bài thơ
lục bát, hổ thẹn thầm nhủ chớ đánh đu
với tinh. Rậm-ria cười cười hỏi, nhưng
viết gì cơ chứ? Tiểu-quỷ vỗ vào đầu
bình bịch, kêu toáng lên:
"Cái viết thì trong này rồi. Ta lấy tít
là Bạn Triều Lý. Đệ nghĩ cả năm nay
mới được hai câu đầu vào truyện.
Nghe đây: Mặt hồ Dâm Đàm chao
nghiêng khi chim báo bão đập cánh
trên đầu rừng cây cơm nguội gập
mình trong gió đầu đông se sắt lạnh
hơi đồng. Lúc ấy, đoàn di tản từ Hoa
Lư về Thăng Long dừng lại trên bờ
sông Nhị, ngơ ngác nhìn về phương
Nam, luyến nhớ quê cha đến cất chân
không được, tay đưa lên chùi những
giọt lệ ròng ròng chảy trên má trên
môi..."
Dĩ nhiên, tiểu thuyết ấy chưa sinh
thành để đánh động văn hóa Giao Chỉ,
gần đây lạm phát thơ và truyện chớp,
rất phù hợp với xu thế nghe-nhìn, ăn
fastfood, uống coca. Lý do thì nhiều, kể
ra làm gì, lực bất tòng tâm là chuyện
bình thường đối với lớp đặc tuyển một
dân tộc thông minh, cần cù và hiếu
học. Chỗ nào cũng vậy, ấy cái nước
mình nó thế, từ Đông sang Tây, từ Nam
chí Bắc!
Đợi đến ngày thứ năm, cả hai sốt
ruột, phải uống bia liên tục. Ngà ngà,
Rậm-ria nhìn Tiểu- quỷ, hỏi:
"Thần nhân có mách bảo thêm điều
gì trong mơ nữa không? Hay là chuyện
mơ mộng lại là chuyện nhà văn đi tìm
hứng?"
Nghe đến đấy, vốn mơ ước làm
chuyện lớn, Tiểu-quỷ nghiến răng nhẫn
nhục nhìn ra dòng xe máy chạy vòng
vòng quanh Bờ Hồ. Quả thật thời gian
sau này Tiểu-quỷ than mất phong độ,
loay hoay tìm đường Đổi mới, đang âm
mưu thành trưởng môn phái Z. Phải nói
ngay, mười năm trước, khi Tiểu-quỷ
xuất hiện thì giang hồ nổi sóng, hải
ngoại kêu nếu trong nước có ông
truyện ngắn Hua Tát với thủ pháp hiện
thực trần trụi thì ở ngoài ta có Tiểuquỷ,
nhà văn trẻ dùng thủ pháp hiện
thực huyền ảo, nhìn ra cái chết sau
quá khứ dập vùi vì pháo thuyền trên
dòng Dương Tử. Văn phái Z chủ trương
đổi D và cả GI thành Z, ziải phóng chị
em, tranh đấu cho nữ quyền, đòi hỏi
bạch hóa zâm zục, zia ziết, ziậm ziật.
Một số nhà văn gốc Bắc nói ngọng R
thành D, tuyên bố thực sự cách tân, đòi
biến cả R sang Z, chẳng hạn zun zẩy,
zùng zợn, vv... Miền Nam thành đồng,
cũng nói ngọng, đi vô thành đi zô, đề
nghị đổi V thành ZZ, thí zụ, đi về thành
đi zzề, vẩn vơ thành zzẩn zzơ. Tiểu-quỷ
yêu cầu trật tự, ra nghị quyết bỏ ZZ,
chủ yếu zùng đúng ba tiêu chí, đứng
hàng đầu là Zâm Zục, sau mới đến
Zùng Zợn, và chót cùng là Zạo Zực. Lý
zo đưa ra, zăn chương miền Bắc có
truyền thống nên thủ cựu phải lên
hàng đầu, còn miền Nam, đứng sau, bù
lại được hai tiêu chí đổi R thành Z, vì
tiền nhân dặn miền Nam "đi sau nhưng
về trước".
Thấy Tiểu-quỷ im lặng, Rậm-ria cười
cười:
"Sao tôi hỏi mà bạn không đáp,
khinh nhau thế! Rậm-ria mỉa - Thần
nhân mách bảo trong mơ cũng huyền
ảo lắm đấy chứ! Nhưng đâu cứ phải đợi
Trăm năm cô đơn của châu Mỹ Latin!
Tây du ký, rồi Liêu trai chí dị mà không
huyền ảo à? Nhà văn đâu cứ phải học
ngoại ngữ rồi đi bắt chước như khỉ
đâu..."
Trúng chưởng, Tiểu-quỷ hộc một
đống máu bầm, người cong xuống, mắt
đỏ lừ ngước lên, trả miếng:
"Nhà văn cũng không cứ phải thật
dốt, và viết lách như pha mắm muối,
làm mãi một món Tự lực văn đoàn!
Cuối cùng, đóng cửa tiệm vì thế thì...
ăn mãi phải chán!"
*
* *
Thuyền ngự ra đến giữa hồ. Lý Nhân
Tông ngửng mặt nhìn lên trời, thầm
khấn: "Kính lạy Hoàng Thiên, kẻ xác
phàm mắt thịt này đã xây 21 chùa,
dựng 16 tháp, đổi hoàng hậu 6 lần, ăn
nằm trước sau với 105 thị tần cung nữ,
tha chém cho hơn 300 tên đầu giặc
đuôi cướp làm phúc, thế mà sao không
có lấy một mụn con. Nay xin phát thệ
xuống tóc nếu ước nguyện nối dòng họ
Lý này được chứng giám...". Trời bỗng
sáng rực lên từ phương Bắc. Một chiếc
thuyền câu vùn vụt lao tới khiến Thái
sư Lê Văn Thịnh đi thuyền sau quát thủ
hạ đề phòng, binh khí rút ra, tiếng
loẻng xoẻng nghe rợn người. Chiếc
thuyền câu đảo một vòng. Trên thuyền
có ba người. Một người cúi sụp xuống,
miệng thưa: "Muôn tâu Thánh Thượng,
kẻ tiện dân tình cờ biết đấng Cửu Trùng
hạ giá nên đến lạy chào, kính chúc
Thánh Thượng an khang!". Nhân Tông
chưa đáp thì Lê Thái sư quát:
"... Không có giấy tờ đi lại mà đến tất
là mang lòng tà ám, không cho chúng
nó thoát, bắt lại!".
Nheo mắt nhìn xuống thuyền câu,
Nhân Tông giơ tay chặn lại, giọng
khoan hòa:
"Ngừng lại! Ai như Từ Đạo Hạnh, phải
không?".
Lúc ấy Từ Phương trượng ngửng lên,
miệng hô: "Thánh Thượng vạn, vạn
tuế!". Lê Thái sư phất tay cho đám thủ
hạ thu binh khí, giọng thân mật:
"Thì ra là Từ đạo lão. Từ ngày chia
tay trên bến Như Nguyệt, xa mặt
nhưng chẳng cách lòng, đệ luôn nhắc
huynh với Thánh Thượng, nào ngờ hôm
nay lại có cái duyên kỳ ngộ này!"
Từ thầm nhủ, khi ấy Lê mới chỉ là
một trung úy Viện Nội Mật chuyên lo
an ninh một bến sông quèn, nhưng sau
hắn luồn lách thế nào mà Lý tướng
quân từng bình Chiêm phá Tống phải
về hưu non để hắn tiếm cái chức Thái
sư, quần thần từ đó chỉ còn là lũ hình
nhân không tim không óc. Rạp đầu
xuống, Từ bấm bụng, thốt:
"Thiện tai, thiện tai. Bần tăng kính
chào quan Thái sư. Vô lượng thọ
Phật..."
Lê đáp lễ, hỏi: "Những ai cùng đi với
Từ lão đạo đấy?". Từ đáp: "Bẩm Thái
sư, đây là Mục Thận và Nhất Tâm, đều
là đệ tử tục gia của bần tăng!". Cả hai
thấy Từ nháy mắt, liền rập đầu lạy.
Thình lình một vòng sáng xuất hiện
từ phương Bắc, xoay như lốc trên mặt
hồ khiến sóng nổi nhấp nhô. Lê Thái sư
tái mặt quay hỏi viên phụ chính, nhưng
hắn bảo việc lạ này đột xuất chứ không
nằm trong kế hoạch. Chính ngọ, tiếng
reo hò nổi lên. Xa xa, ba chiến thuyền
buồm sơn đen lao tới. Chiếc đầu, chăng
phướn đỏ, góc trái vẽ một chùm sao,
bên dưới là hình chiếc búa tạ vắt chéo
một cái câu liêm, hai loại khí giới có
tính quần chúng ở những vùng có
nhiều thợ rèn và cư dân đậm đà truyền
thống văn minh lúa nước. Chiếc thuyền
ở chính diện nổi trống. Một người to
lớn, bệ vệ, má trái có nốt ruồi to bằng
đồng chinh, sừng sững hiện ra ở đầu
mũi, đằng sau là một biểu ngữ viết chữ
vàng: "Chủ Xí Sống Mãi Với Chúng Ta".
Trên thuyền, đội Hồng Vệ trang phục
đỏ tuyền phất cờ, hô: Tinh Tú lão tiên
muôn năm. Thuyền bên phải, đội Hắc
Vệ quần áo đen hò: Tinh Tú lão tiên
muôn năm. Rồi thuyền bên trái, đội
Bạch Vệ quần áo trắng, cũng gào lên
Tinh Tú lão tiên muôn năm. Từ Phương
trượng vốn đi lại võ lâm lâu năm nhận
ngay ra là Đại Chưởng Môn họ Đinh ở
Nam Hải đảo, sử dụng một cây đinh ba,
võ nghệ thượng thừa, lại dùng Hồng
Thư pháp và Tiêu Dao tán, hai loại kịch
độc khiến khách giang hồ chỉ nghe mà
hồn xiêu phách lạc. Pháp Hồng Thư là
pháp hớp hồn, kẻ bị độc mất khả năng
tư duy, bảo gì làm nấy bất kể sống
chết. Còn Tiêu Dao tán là một thứ bột
vô hương vô ảnh, ai hít vào thì chỉ một
phút sau người nhũn ra, công lực tiêu
tán. Khi đó phải dùng Hồng Thư mới có
thể giải độc Tiêu Dao, nhưng thế là bị
hớp hồn, tất vong thân, thành công cụ
của quyền lực họ Đinh.
Đợi tiếng hò reo lắng xuống, Đinh lão
tiên cất tiếng hỏi: "Thằng nào xưng đế
ở An Nam quận?". Lúc ấy, Lê Thái sư
run giọng quát:
"Hỗn láo! Thấy Vua mà mất dậy thế
à? Mi chưa bao giờ nghe Nam quốc sơn
hà Nam đế cư ư?"
Đinh cười hà hà, phất tay thì những
mũi câu liêm từ ba chiến thuyền phóng
ra móc vào thuyền ngự của Nhân Tông,
thuyền Lê Thái sư và thuyền Từ Phương
trượng. Đinh lão ra lệnh:
"Tìm một rẻo đất cao để ta hỏi cái
bọn Nam man này, tìm cho ra ngọn
ngành cớ sự!"
Thế là thuyền lại vùn vụt rẽ nước, cái
nọ kéo cái kia, hướng phía Đông lướt đi
như bay.
Đám vệ quân Hồng, Hắc, Bạch vây
quanh, vua tôi Đại Việt biết lâm vào
thế nên ngoại giao, tính kế tìm cách
trao đổi hai bên cùng có lợi. Đinh lão
tiên chỉ Lê Thái sư, hỏi:
"Mi là thằng xưng Đế?"
Nhìn Nhân Tông mặt xám ngoét, Lê
đáp:
"Không! Nhưng hiện tại hạ điều
khiển được triều đình nước này, các hạ
muốn thì tại hạ lo, ngàn vàng cũng
chẳng đáng là bao!"
Bật cười ha hả, Đinh lão trề môi:
"Mi định đút lót ta à? Ừ, hiện ta cần
cái đồng bằng sông Nhị cắm dùi, ở đảo
mãi cũng chán... Hà hà, chỉ phơi nắng
với tắm biển và đợi khách du lịch đi
tua, ngán lắm!".
Từ Phương trượng khi đó gầm lên rồi
cất tiếng:
"Hỡi Đinh lão ma, vua tôi ta sa vào
tay ngươi nhưng còn ngươi, rồi ngươi
không lọt được lưới trời. Tiệt nhiên định
mệnh tại thiên thư, cho nên cái hạng
đức mỏng như ngươi làm gì mà với tới
được ngôi Thiên Tử... Đẻ ra ngươi, chỉ
là loài cóc..."
Giơ đinh ba lên trời, Đinh thét một
tiếng lộng óc, hô hoán "Con cóc là cậu
ông Trời...", tay thình lình phát chưởng
đập vào đầu Từ. Nghe tiếng gió ào ào,
Từ vung thiền trượng, dùng thủ pháp tá
lực, lách qua một bên, áo cà sa phồng
gió căng như một cánh buồm. Đinh
gầm gừ:
"Khá khen cho thằng trọc, võ công
mi cũng vào loại khá đấy. Ta hỏi, mi là
đồ đệ chùa Thiếu Lâm hay Tung Sơn?".
Chưa dứt lời, bất ngờ Đinh chỉa đinh
ba ra đánh ngón Sát Ngư thủy phục,
thường sử dụng đâm cá hồi trên biển
khi chúng cỡn lên sóng vào mùa đẻ
trứng. Từ lùi một bước, rồi tiến ba
bước, tay xòe ra dùng Cầm Nã thủ bắt
ba mũi đinh ba. Cười nhạt, Đinh hô
"Biến!" thì ba mũi đinh ba thành ba con
rắn hổ mang cong cổ, thở phì phì, lưỡi
thụt ra thụt vào, nhe răng nhắm cổ tay
Từ mổ. Không kịp ứng phó, Từ buột
miệng than, mệnh ta tuyệt rồi chăng...

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: TRĂNG NGUYÊN SƠ - NAM DAO - 07.05.2009 10:10:46
NĂM
 
Tiếng than của Từ Phương trượng
chưa dứt, một ánh quang xanh biếc
lóe lên chém xuống như sét đánh. Ba
tiếng choeng choeng rền rĩ, Đinh lão
thảng thốt rú:
"Ta mất cha nó ba cái đầu đinh ba
rồi!"
Ngay cạnh Từ Phương trượng, một
tráng sĩ mặt bịt bằng vải đen, chỉ cặp
mắt sáng quắc lộ ra, tay thu kiếm bỏ
vào vỏ trong một sát na, thủ pháp
nhanh hơn ánh sáng. Đinh lão vứt cây
đinh ba xuống đất, nhìn hổ khẩu mình
toạc ra, thầm sợ kình lực của kẻ vừa
xuất hiện. Lấy lại bình tĩnh, Đinh lão rút
cây nhuyễn tiên giắt lưng, giọng xuống
một ốc-ta, khen:
"Hảo kiếm pháp, hảo kiếm pháp...
Danh tính tại hạ là gì? Cớ sao lại dây
vào chuyện tanh hôi chốn giang hồ?"
"Ta là Độc Cô Cầu Bại núi Tung Sơn
đây. Tay chỉ Từ Phương trượng, tráng sĩ
tiếp - thấy vị này đã nương cửa Phật mà
mi còn hà hiếp nên ta phải ra tay cứu.
Có phải mi chính là Đinh Xuân Đông,
truyền thừa của Đinh Xuân Thu trưởng
môn phái Tinh Tú không?"
"Đúng thế. Sư phụ ta lìa dương thế
này ba năm nay..."
"Ta lại nghe mi là kẻ ám toán Sư phụ
mi bằng Tiêu Dao tán mà mi học mót
được Đệ Tứ ác là Cùng Hung Cực Ác,
đúng không?"
Đinh chột dạ. Tội gì chứ tội phản sư
diệt tổ là tội không ai, kể cả chính lẫn
tà, trong giang hồ khoan thứ. Nuốt
nước bọt, Đinh lấy giọng khoan thai:
"Bọn mồm mắm tôm trong võ lâm thì
thiếu gì. Các hạ nghe chúng thì là ăn
lúa giống đấy. Chuyện ta được sư phụ
truyền chức chưởng môn, thiên hạ ai
chẳng biết. Phải không?"
Tức thì ba đội Hồng, Hắc và Bạch vệ
đồng thanh:
"Phải rồi! Tinh Tú Đinh lão tiên muôn
năm!"
Tráng sĩ đưa tay lên miệng huýt gió.
Một con ngựa bạch xông ra, trên lưng
ngựa một đống bầy nhầy cọ quậy.
Ngựa hí lên tung vó, đống bầy nhầy rơi
xuống đất nghe đến bịch, chửi:
"Bá ngọ mày Bạch Thần mã, tao mà
chết thì chó nó cắt cỏ cung phụng
mày!"
Tráng sĩ thu hai tay vào bụng, tạo ra
hấp lực kéo đống bầy nhầy tới gần, rồi
vòng tay đẩy tới. Bầy-nhầy đến trước
mặt Đinh lão, ngẩng lên rồi hoảng hốt
thối lui ba bước, định chạy. Tráng sĩ vận
kình lực dùng phép Cách Không Lưu Vũ
giữ Bầy-nhầy lại, hất hàm:
"Lão ma, ngươi chưa nhận ra người
này là ai à? Đây chính là AQ, sư đệ
ngươi, chẳng lẽ có mươi năm mà ngươi
đã quên sạch nghĩa sư môn sao?"
Khi ấy AQ mới nhìn ra Đinh lão ma,
lồng lên:
"A, ra là thằng phản thầy diệt tổ này.
Mi hạ thủ cho ta thân tàn ma dại, mất
hết khí lực đến cắt cỏ cho ngựa ăn
cũng chẳng nên thân! Ta định chết thì
gặp Chí Phèo làng Vũ Đại, dậy ta phép
Vạ Thực Cấu Diện mà cào mặt ăn vạ.
Ta học cả tháng nhưng không thành
đại công, thôi phép trả thù trong tưởng
tượng, tính nhịn đói để qua thế giới
bên kia diện đoàn tụ với Lệnh sư thì
gặp được tráng sĩ đây. Nghe xong
chuyện, tráng sĩ hứa giúp ta đi trả thù
cho Lệnh sư bị ngươi ám hại..."
Đinh lão quát: "Im miệng! Đừng nói
bậy...". Thình lình một tay vận mười
thành công lực xuất chưởng đánh
thẳng vào huyệt Bách Hội của AQ, tay
kia Đinh quật nhuyễn tiên vào thanh
kiếm Độc Cô Cầu Bại vừa rút ra. Nhìn
thế công bất ngờ này, Từ Phương
trượng chỉ kịp đảo mình nhắm cặp giò
họ Đinh quét thiền trượng theo thế
Trảm Sà Thủ khiến hắn phải nhẩy lên
cao tám trượng, thu nhuyễn tiên lại,
miệng chửi: "Hai đánh một chẳng chột
cũng què, không biết xấu!"
Đầu AQ vỡ vụn, óc phòi ra trắng hếu,
chân tay vẫn tiếp tục co giựt thấy mà
kinh. Độc Cô Cầu Bại lửa giận phừng
phừng, quát: "Giết người để nhẹm
tiếng, tội ác của mi chất chồng, ta
không thể bỏ qua được! Ác giả ác báo!
Coi kiếm của ta đây..."
Bay lên như chim ưng, Độc Cô uốn
mình lộn vòng, kiếm khí phát thành
tiếng xì xì, nhắm Đỉnh đầu của Đinh lão
chụp xuống một cái lưới làm bằng ánh
quang sắc tía. Đinh lão rú lên, chân
điểm xuống đất nhưng thân chưa cất
lên thì lại phải hạ xuống, cây nhuyễn
tiên lượn trên đầu chỉ mong thủ, mỗi
lúc một chậm chạp, phần thua coi như
trước mắt. Trong khi Đinh lão lùi dần,
đám vệ quân nhao nhao: "Đã bảo mà,
Đinh chưởng môn thần công cái thế,
tiểu tử không chịu quỳ xuống thì chỉ có
tán mạng. Tinh Tú muôn năm, muôn
năm...".
Đánh được ba khắc, thình lình Đinh
lão lăn ra đất, tay áo phát một luồng
kình lực lạnh ngắt. Độc Cô cười ha hả,
rút khăn bịt mặt ra phẩy liên tiếp về
phía đám vệ quân của phái Tinh Tú,
phẩy đến đâu thì chúng nhũn người
ngồi xệp xuống hoặc ngã bổ chửng ra,
kêu khóc váng lên. Độc Cô quát:
"Lão ma thu Tiêu Dao tán lại đi, đừng
giết đệ tử như vậy nữa". Đinh lão tái
mặt rút tay áo, lại nghe Độc Cô cười,
bảo: "Cái phép đánh bằng Tiêu Dao độc
tán vô ảnh vô hương bây giờ người ta
dậy cách chống ngay trong những lớp
bổ túc văn hoá cấp 3, hay ho gì mà thi
thố. Coi đây!"
Vừa nói, Độc Cô ném kiếm lên trời,
lưỡi kiếm không rơi thẳng mà lại đảo
một vòng rồi ngòng ngoèo như rắn vây
bọc chụp xuống. Đinh lão cảm thấy
một áp lực nặng như núi ập lên đầu,
vận công đẩy lên, hai chân lún sâu vào
đất, cứ một, rồi hai, rồi ba tấc như sắp
bị chôn sống. Lão thét lên, mồm thổi
một cục đờm mầu xanh vào mặt Độc
Cô, mùi thối bốc lên khiến ai nấy bịt
mũi. Bị đánh ám khí bất ngờ, Độc Cô
buộc phải thu kiếm, nhẩy sang một
bên tránh. Lúc bấy giờ, Đinh lão đã vận
dụng gần hết công lực, thở hổn hển,
giơ tay như xin thua.
Chợt có tiếng trẻ khóc ré lên, rồi
tiếng ru the thé: "Con ơi con ngủ đi
con. Để mẹ đuổi bọn lon ton làm hề..."
Từ Phương trượng tái mặt, lẩm
nhẩm: "Thế là Nhị ác họ Diệp tái xuất
giang hồ. Phen này không biết cát
hung ra sao..."
*
* *
Thiếu phụ trang phục trắng toát,
ngoại hình rất chuẩn theo tiêu chí
những cuộc thi hoa hậu, chỉ lạ là mặt
một nửa trẻ măng như độ trăng tròn,
nửa kia da lại nhăn nheo như một lão
bà tuổi thất thập. Ghé răng cắn cổ đứa
trẻ hút máu, Diệp Nhị nương nhắm
mắt, miệng loe loét đỏ, hút xong một
ngụm rồi dỗ:
"Con mẹ ngoan, vì cái bọn chó heo
này mẹ mới phải thế. Sau, nghỉ dăm
bữa nửa tháng thì con sẽ hồi sức
thôi..."
Đứa bé không còn sức khóc, lả trong
tay Diệp như một chiếc lá. Hút máu là
bước sửa soạn Huyết Công tuyệt kỹ,
gốc gác từ bên xứ Ba La Tư, chưởng
âm hàn đánh ra có thể khiến máu địch
thủ đông lại tức khắc, tác dụng chẳng
thua gì Cửu Âm Chân Kinh chưởng
pháp nổi tiếng võ lâm. Diệp Nhị nương
đứng thứ nhì trong tứ ác. Đệ nhất ác là
Thái tử Đoàn Diên Khánh nước Đại Lý,
võ công quái dị, hai chân bị liệt nên di
chuyển bằng tay nhưng còn nhanh hơn
beo hổ. Đệ tam ác, tên Nam Hải Ngạc
Thần, công lực còn đứng trên Tinh Tú
Đinh lão chưởng môn một mức, học
được cả Hàm Mô công của Tây độc Âu
Dương Phong lẫn phép Sư Tử hống của
Tạ Tốn Đại Hiệp, oai lực xô núi đẩy
biển. Đệ tứ ác, nhân vật chỉ nhắc đến
tên là phụ nữ nhà nhà đóng cửa. Y cần
cái ấy một ngày đến bẩy bận, không
được thì cương cứng đến phát khùng,
lý do là hệ điều tiết hóc-môn trục trặc
bẩm sinh. Y có chữa chạy với Hoa Đà,
vị danh y này cũng bó tay, đề nghị cắt
bỏ nhưng bệnh nhân không chịu.
Thường, tứ ác đi đâu có nhau, trừ Đệ
tứ ác thường xuyên tạm vắng vì lý do
bệnh lý.
Diệp Nhị nương vẫy Đinh lão, mắng:
"Thấy cô nương mà không đến lạy chào
thì ta nọc ra đánh cho biết thế nào là lễ
độ, nghe chưa!" Thật lạ, Đinh líu ríu cúi
đầu vái ba vái. Quay sang Độc Cô Cầu
Bại, kẻ chỉ mong có người đánh bại
mình, Diệp cao giọng:
"Mi quả thật lớn lối, võ nghệ chỉ thế
mà ngông nghênh tự cho mình một cái
tên thật... là cao ngạo. Rút kiếm ra ta
chỉ điểm võ công cho!"
Thoáng một cái, Diệp Nhị nương lạng
mình đến bên Độc Cô, tay đưa ra tát
yêu, miệng nở một nụ cười duyên
dáng. Độc Cô cúi đầu, cảm thấy má
mình lạnh ngắt, biết âm kình của đối
phương vào hạng nhất nhì giang hồ.
Rùng mình, tay phải hoành kiếm, tay
trái bấm vào huyệt Dương Hoa điều
khiển thân nhiệt, Độc Cô lùi ba bước.
Thình lình, một tiếng khoan hoà cất
lên, âm lượng nhỏ nhưng xoáy vào tai,
nghe như tiếng muỗi:
"Thí chủ ngừng tay ngay, chớ manh
động!"
Mọi người ngửng lên nhìn. Một nhà sư
áo nâu đến tự lúc nào mà không ai hay,
đứng trên mô đất cao, tay lần tràng,
mắt nhắm nghiền, lông mi bạc thếch rủ
xuống như hai con rết. Độc Cô Cầu Bại
reo lên:
"Huyền Từ Vô Thượng Sư, thật duyên
hạnh cho tiểu tử được diện kiến, xin
nhận một lậy này".
Mở mắt nhìn, Huyền bước sang một
bước tránh cái lậy, từ tốn: "Đại hiệp
khách khí làm gì!". Đảo nhìn một lượt,
Huyền Từ vái Lý Nhân Tông, giọng
cung kính:
"Ngài là Vua nước Nam, xin cẩn
trọng giữ mình, nuôi rắn trong tay áo
thì nguy lắm!"
Nói xong Đại sư nhìn vào mắt Thái sư
Lê Văn Thịnh, chặc lưỡi ngửa mặt nói
trống không: "Cầm tinh con cọp mà lòng
dạ con heo, tiếc thay, tiếc thay!".
Khi đó, Diên Khánh và Nam Hải Ngạc
Thần khinh công đáp xuống. Diệp Nhị
nương ré lên:
"Đại ca, tam đệ... Lại cái thằng thầy
chùa này đến phá bĩnh..."
Chưa dứt lời, hai người y phục mầu
chàm cũng từ trên mây rơi xuống như
hai chiếc lá. Một người râu quai nón
nói sang sảng:
"Côn Luân nhị hiệp kính chào Huyền
Từ Đại Sư và Độc Cô Cầu Bại đại hiệp!
Thế này thì bên tà có bốn, bên chính
cũng bốn, giao đấu thế nào xin Đại Sư
chỉ giáo..."
Nhị hiệp núi Côn Luân danh trấn
giang hồ hai chục năm nay, chuyên
dùng đao, thường đánh theo phép xa
luân chiến, trận mạc kể hàng trăm mà
chưa lần nào thua, nổi tiếng là chính
trực và cơ trí. Huyền Từ và Độc Cô đáp
lễ. Lúc bấy giờ, Nam Hải Ngạc Thần
người cao tám trượng, mặt mũi sần sùi,
bắp tay bắp chân cuồn cuộn như sắt
nguội, cười lên ha hả:
"Vậy là hai vị núi Côn Luân quên mất
thằng đầu trọc tay xách thiền trượng
kia ư. Nó lại mang theo hai thằng đệ
tử, tay chân múa máy cũng có vẻ là
con nhà võ. Bốn chống bốn là thế ư?"
Từ Phương trượng đáp, giọng bình
thản:
"Vậy thì đám Hồng Vệ, Hắc Vệ, Bạch
Vệ của Tinh Tú lão ma sờ sờ ra đấy mà
thí chủ không tính ư?"
Diệp Nhị nương ngắt, khích bác:
"Chuyện nước Nam chúng bay,
không có người nước Nam lo mà lại
phải cầu xin người phương Bắc chúng
ta ra tay hộ, không biết nhục à?"
Xách thiền trượng lên, Từ tính nhẩy
ra nhưng Huyền Từ nắm áo giật lại.
Nam Hải Ngạc Thần vênh vang ra đứng
giữa vạt đất bằng, miệng nhếch lên
kiêu ngạo, quát:
"An Nam chúng bay chỉ là thỏ cáo
hay sao? Đứa nào giỏi ra đây!"
Từ lại định nhẩy ra nhưng Huyền Từ
vẫn nắm lại, nói nhỏ vào tai: "Sư đệ
nghe ta. Mi mệnh mộc, nó mệnh hỏa
nên mi ra là chết cháy, không được!".
Diệp Nhị nương khinh khỉnh:
"Thế mà rao Nam quốc sơn hà Nam
đế cư, thật một lũ mặt dầy!"
Không nhịn nhục được nữa, bất ngờ
Nhất Tâm xông ra. Từ vội vàng thưa với
Huyền Từ:
"Bẩm Sư huynh, Nhất Tâm mới học
võ công có bốn buổi, chỉ biết đúng ba
miếng Đả Cẩu và ngón võ Lăng Ba,
chống thế nào được?"
Nheo mắt, Huyền Từ ngắm Nhất
Tâm. Vòng tay áo cà sa, Huyền Từ dùng
kình lực kéo Nhất Tâm về phía mình,
miệng nói lớn: "Thí chủ đánh trận đầu,
để ta nhắn nhủ đôi lời...". Khi Nhất Tâm
đến cạnh, Huyền Từ thì thào vào tai.
Ngoảnh lại nhìn Thái tử Diên Khánh,
Huyền Từ từ tốn:
"Thái tử và ta không nên động thủ,
cứ để bọn trẻ nó vần nhau cho vui. Hai
ta làm trọng tài, ai đánh mà chạy khỏi
cái vòng tròn hai ta vạch ra là thua, chỉ
cần đánh một trận để bớt hao tổn chân
khí. Thái tử nghĩ thế nào?"
Diên Khánh biết động thủ thì tất
Huyền Từ là địch thủ, phần thắng
chẳng thể chắc được. Về phần Diệp
Nhị nương, chắc chắn Côn Luân nhị
hiệp ứng chiến, cũng không biết cơ sự
sẽ ra sao. Còn Tinh Tú lão ma, qua vài
ngón thử tài vừa rồi hẳn dưới tay Độc
Cô Cầu Bại một mức, thua không tránh
được. Nhìn Nhất Tâm, Diên Khánh tự
nhủ, thằng bé con này dẫu có học võ
từ lúc lọt lòng thì cũng chỉ một cái đập
của Ngạc Thần là thừa sức đưa nó về
đoàn tụ gia đình với ông bà ông vải.
Không nói không rằng, Diên Khánh tót
lên không, tay chống một cây thiết
cương, quay người xoay đi, mặt đất
cầy lên nửa vòng tròn bán kính đúng
năm thước. Huyền Từ, miệng nói "Đa
tạ, đa tạ", tay phất lên, kình lực cắm
xuống mặt đất vẽ tiếp nửa vòng tròn
còn lại. Từ Phương trượng mặt tái
ngoét, nắm tay dặn Nhất Tâm, đánh
không được thì chạy vòng, rồi dùng
phép Đả Thị Cẩu chứ đừng phân tâm
đánh ngón khác. Huyền Từ giọng độ
lượng, nói nhỏ: "Thí chủ mệnh Thủy, ắt
dập được Hỏa, nhưng tập trung vào
phép chạy..."
Nam Hải Ngạc Thần chân dậm xuống
đất thành những vết sâu cả tấc, tay
vung ngang đầu, hét tướng lên:
"Dặn dò gì mà lâu thế hả thằng nhãi
ranh miệng còn hơi sữa. Ông nội mày
chờ, ra đây lậy, ông tha cho".
Nhất Tâm run lên như cầy sấy, không
kìm được nỗi kinh khiếp khiến răng
đánh vào nhau nghe lập cập. Huyền Từ
phất chưởng đẩy. Nhất Tâm chân không
chạm đất, bay là là ra, tay cầm bổng
Đả Cẩu không chặt. Vừa đặt chân
xuống, Ngạc Thần tức thì bay lại phóng
Phi Hoàn Quỷ Cước ra một lúc tám thế
đá vây bủa đối phương, bụi cát bốc lên
mờ mịt. Huyền Từ quát:
"Chó cắn, chạy đi!"
Nhập tâm phép Lăng Ba Vi Bộ, Nhất
Tâm bước ba bộ bên trái, tiến tới bốn
bộ, rồi quay sang bước bảy bước bên
phải theo phép tính của Phục Hi. Ngạc
Thần thét lên rồi chuyển bộ pháp dùng
Cầm Nã chiêu dương pháp tóm lấy ngực
Nhất Tâm. Thoắt một cái, Nhất Tâm lạng
sang phải, Ngạc Thần lấy chân ngáng,
nhưng Tâm đã vòng đến trước mặt song
vì hãi quá nên nhắm nghiền mắt lại. Cứ
thế, một đánh một chạy cho đến khi
Huyền Từ quát, đánh chó cứ đánh vào
đuôi thì Nhất Tâm phạng một phạng,
Ngạc Thần rú lên, nhưng lại thấy kình
lực gần như không có gì. Nhẩy ra xa,
Ngạc Thần hỏi:
"Cớ sao mi lại phủi bụi chứ không
thực sự đánh ta?"
Bất ngờ, Nhất Tâm còn ấm ứ chưa trả
lời thì Huyền Từ thốt:
"Bần tăng dặn tiểu tử rằng thiện căn
ở tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba
chữ tài, tha người thì được tha, đánh
người thì rồi có ngày người đánh, ân
oán sẽ chập chùng!"
Bỗng Ngạc Thần như chợt nhớ lại
điều gì, thất thanh:
"Có phải các hạ dùng phép Lăng Ba
Vi Bộ không?"
Nhất Tâm vừa gật thì Ngạc Thần quỳ
xuống:
"Nếu các hạ là Đoàn Dự thì cho đệ tử
lạy một lạy cho đúng nghĩa thầy trò.
Còn nếu như các hạ là đệ tử Đoàn Dự
thì ta là anh em huynh đệ đồng môn, lẽ
gì lại đi đánh lẫn nhau!"
Nói xong Ngạc Thần tung mình lên
cao chạy biến đi như một vệt khói.
*
* *
Sự việc đến đây đã rõ, trừ chi tiết
sau. Biết Nhân Tông có thể bị ám hại,
Từ Phương trượng cầu cứu với sư huynh
là Huyền Từ Vô Thượng Sư. Phần Lê
Văn Thịnh, Thái sư đã liên lạc với Tinh
Tú lão ma, thúc cho vị chưởng môn họ
Đinh tập kích thuyền ngự trên hồ Dâm
Đàm. Tinh Tú lão ma bàn với Nam Hải
Ngạc Thần, toan tính chiếm Đại Việt
làm kế lâu dài vì địa thế nằm trên
đường giao lưu nối Trung Quốc với khối
Đông Nam Á và Ấn Độ nên khá chiến
lược trong phát triển kinh tế toàn cầu.
Nhưng sức cô, Ngạc Thần thỉnh Đoàn
Diên Khánh nước Đại Lý vốn sát Đại
Việt hiện vẫn còn lang bang chưa đoạt
lại ngôi vương bị anh em Đoàn Chính
Thuần tiếm mất. Qua Tiểu Hằng, Từ
báo rằng đám tà đạo khá đông, Huyền
Từ tức tốc mời Côn Luân nhị hiệp. Hai
vị này đang luận võ công với Độc Cô
Cầu Bại, nhân tiện liền rủ cùng đi hành
hiệp. Để đối phó với đám vệ quân Tinh
Tú, Từ đã gọi đệ tử là Mục Thận, có
phép La Võng thần công, quăng lưới
một lúc bắt được hàng trăm con cá hồi,
thị trường tiêu thụ chính là Phù Tang
hải quốc có tục ăn cá sống sashimi.
Còn sở dĩ Từ dạy võ cho Nhất Tâm là vì
đã định giao cho Nhất Tâm nhiệm vụ hộ
giá, chứ có ngờ đâu vì tự ái dân tộc mà
Nhất Tâm xông ra đối đầu với Nam Hải
Ngạc Thần danh chấn võ lâm. May, vì
thanh niên ngờ nghệch này chẳng biết
đối phương là ai. Và nhất là vì chàng
dùng phép Vi Ba Lăng Bộ thì Ngạc Thần
cứ ngỡ chàng là Đoàn Dự mà hắn buộc
phải bái làm thầy như truyện kể trong
Lục Mạch Thần Kiếm của đại văn hào
Kim Dung.
Lại nói sau khi Ngạc Thần chạy thì
Diên Khánh chẳng nói chẳng rằng cũng
vọt mình lên ngọn cây, để lại một tiếng
cười gằn. Diệp Nhị nương phi thân bám
sau, biết nay không làm gì được. Chỉ
còn Tinh Tú lão ma, hắn bần thần nhìn
Lê Văn Thịnh, vẫy tay chào trước khi hò
đệ tử lên thuyền. Thịnh lơ đi nhưng
Thần Tông đã thấy rõ đầu mối vụ việc
phục kích này, lạnh lùng ra lệnh chèo
về. Ra đến giữa hồ, trời bỗng mù mây,
gió ù ù thốc khiến đàn quạ đập cánh
bay lên nháo nhác. Biết việc đã bại lộ,
Thịnh làm liều, rút đoản kiếm nhẩy qua
thuyền Vua. Bất thình lình, ai nấy thấy
một con cọp lông vàng giơ móng vuốt
vồ Thần Tông. Nhất Tâm vội xoay bổng
điểm vào mõm cọp theo chiêu thức Đả
Dã cẩu, miệng la oai oái. Từ Phương
trượng chưa kịp hành động thì Mục
Thận quăng lưới. Cọp vùng vẫy, nhưng
không sao gỡ ra được, thở khò khè mặc
cho Nhất Tâm cứ nhè đít mà đánh đến
cả trăm hèo. Lát sau, có tiếng người
thốt lên: "Thôi, đừng đánh nữa, tôi đau
quá rồi!". Trong lưới cá, Thái sư Lê Văn
Thịnh nằm chèo queo, tay ôm mặt, tay
ôm đít. Chuyện này được ghi trong Đại
Việt Sử ký toàn thư, nói rõ Vua tha tội
chết cho Thịnh, đánh xuống làm thứ
dân, đầy lên trại Thao Giang. Còn Mục
Thận thì được Vua ban cho đất Tây Hồ
làm thực ấp. Sử thần Ngô Sĩ Liên đời
sau bàn: Kẻ làm tôi (phạm tội) thí quân
cướp ngôi mà được miễn tội chết, thế
là sai trong việc hình, lỗi ở Vua tin sùng
đạo Phật.
Nay nói về Từ Phương trượng và
Nhất Tâm. Về đến Kinh, Vua hỏi muốn
thưởng gì thì Từ quỳ xuống xin cho xây
một ngôi chùa lấy tên là Phật Tích, đời
đời ghi đức giáo hoá lẽ sắc - không của
đức Thích Ca Mầu Ni. Về phần Nhất
Tâm, chàng chỉ xin đưa chàng đi Đào
Xá. Vua thấy lạ gặng hỏi nhưng chàng
đỏ mặt lên cười bẽn lẽn.
Từ Phương trượng tiễn Nhất Tâm đến
Gia Lâm thì dừng chân, nói:
"Vui duyên mới chớ quên nhiệm vụ
nhé!"
Nhất Tâm ngạc nhiên hỏi: "Nhiệm vụ
gì, thưa Sư phụ?". Từ nhắc:
"Thì đi tìm cái vật Bảo Quốc Hộ Dân
ấy, quên rồi à!"
Nhất Tâm ứa nước mắt, ôm lấy chân
thầy. Đỡ đệ tử lên, Từ thì thào:
"Có thể vật ấy ở đáy núi Nùng, nơi
thông ra sông Nhị. Nó mang hình dạng
cái chày thọc vào cối, tức là Nõn-
Nường trong truyền thống phồn thực.
Ta nghe thời Bắc thuộc Cao Biền chôn
vật đó để trấn yểm dân khí An Nam,
khiến trong đất nước này người người
tham lam, nhà nhà gian dối, ai nấy lo
no cơm ấm cật cho mình chứ chẳng
thèm biết đến người khác, đời đời kiếp
kiếp cãi cọ tranh giành đánh đấm lẫn
nhau. Lấy được Nõn-Nường, con tế trời
đất rồi khiến cho âm thuận dương hòa,
diệt mầm làm con dân Đại Việt không
mở mày mở mặt ra được! Nhưng muốn
âm thuận dương hòa thì phải đến núi
Nà Mèo gần Mường Lát ở Hòa Bình - Từ
ghé vào tai Nhất Tâm -... và làm thế
này, thế này..."
Nhất Tâm lĩnh ý thầy, lậy tạ rồi nhẩy
lên con ngựa trắng Vua ban, ra roi chạy
về phương Nam.
*
* *
Tiểu-quỷ không dằn được nữa, nói
thẳng:
"Tưởng anh vì cái vật Bảo Quốc Hộ
Dân, rủ đi dò hỏi, nhưng suốt thời gian
về đây anh chạy qua Bát Tràng xem
cái khả năng xuất đồ gốm bán sang Âu
Châu, lại rằng dò hỏi thì có thể rầy rà
mang tội danh gián điệp..."
Rậm-ria tái mặt, nhưng bình tĩnh
đáp:
"Bạn biết không, bây giờ khác thời
cấm chợ ngăn sông, ta đã mở ra hội
nhập với cả thế giới. Thế thì, xuất khẩu
lấy ngoại tệ là cần lắm chứ. Với lại tôi
tìm gốm Bát Tràng vì đó là sản phẩm
truyền thống, chắc chắn sẽ làm vẻ
vang cho văn hóa ta, đâu phải chuyện
thường!"
"Tiệm ăn đóng cửa, anh kẹt không
biết xoay xở thế nào nên mới vẽ
chuyện ra chứ đừng nói kiểu vẹt là làm
giầu tức yêu nước, đúng theo khẩu
hiệu dân giầu nước mạnh. Về đây, anh
thấy anh em họ hàng ai cũng bán nhà
trong phố cổ lấy cả năm ba trăm cây
vàng, anh mới tiếc, anh nghĩ anh xưa
vượt biên là một lầm lẫn... Bây giờ, cái
gì trong nước cũng tốt, cũng đẹp. Cha
mẹ thì tảo tần găm hầu bao đợi ngày
Việt Nam lên sàn thị trường chứng
khoán, con em thì học đến mụ người
ra, ngày không dưới 10 giờ, học trường
rồi đi học bổ túc, để hướng tới tương
lai... Anh có biết hôm qua vụ nổ ở Hồ
Tây là do dân oan "khiếu kiện đông
người" không? Hiện nay, mỗi năm như
vậy trung bình có 200.000 vụ đòi nhà
đòi đất, đòi cả năm mười năm mà
chính quyền lơ đi trong khi một ngàn
năm trước, Lý Thái Tông cho phép
người khiếu kiện có quyền gõ mõ vào
thẳng cung Vua, và xử thì chỉ trong 10
ngày là giải quyết! Xã hội công bình
sống theo nếp sống văn minh ở đâu?"
Rậm-ria bị Tiểu-quỷ dập pháo liên
tục, ngạc nhiên nhưng lấy vẻ mặt
nghiêm và buồn, chép miệng:
"Thời kỳ quá độ, chỗ nào chẳng
vậy! Chuyện ba chúng ta về đây, làm
sao tôi quên được, nhưng phải chờ Lơmơ
có mặt, mà hắn thì thế là 5 ngày
nay trốn biệt chẳng hiểu ở đâu! Còn
chuyện phê phán xã hội, bạn cứ chờ,
chúng ta sẽ làm cho ra lẽ..."
Một chiếc Honda ghé vào lề. Người
ngồi trên vẫy Rậm-ria, ới:
"Doanh nhân yêu nước ơi! Lên ngồi
sau ngay, ta đi, trễ giờ đến nơi rồi!"
Nhẩy lên xe, Rậm-ria hẹn về ăn trưa.
Tiểu-quỷ trề môi:
"Chắc đàn anh lại sang Bát Tràng
làm cái việc vẻ vang cho văn hoá ta
chứ gì!"
*
* *
Nhất Tâm cắm một bó nhang, vái ba
vái, rồi phủ phục trước nấm mộ trên
cắm một cái bia đá khắc chữ ngoằn
ngoèo. Trăng bán khai thuở nguyên sơ
lấp ló e thẹn sau những đám mây bạc
lởn vởn vờn quanh chọc ghẹo. Không
kìm được, chàng nức nở buột miệng:
"Ta đến đây nhưng nàng nay đâu?
Gào tên nàng đến rách họng ở Dâm
Đàm, rồi trải qua một cuộc phân tranh
chính-tà khiến mạng ta tưởng đã đến
chỗ tuyệt, ta mới biết nàng ở Đào Xá.
Nhưng, thật đau đớn cho ta, nấm mồ
này là nơi nàng vùi xác tục để hồn
phiêu diêu về chốn Niết Bàn... Đào Hạ
Trang nàng hỡi, mối tình này thác
xuống tuyền đài cũng chẳng thể nào
tan..."
Nhất Tâm đập đầu vào thành mộ,
máu toé ra có vòi. Thiếu nữ quỳ đằng
sau nhẩy xổ lại lôi áo, miệng hốt
hoảng:
"Công tử, chớ liều mình, mệnh hệ có
thế nào là liên lụy đến cả làng Tiện
nữ!"
Đó là Đào Nhí, người gặp Nhất Tâm
chiều hôm nay. Nghe Nhất Tâm hớn hở
hỏi: "Cho tôi hỏi cô Đào Hạ Trang,
người làng bảo nhà ở đây!", Đào Nhí
ngạc nhiên: "Dạ đúng, nhưng bà cô tổ
dòng họ Đào chúng tôi đã mất từ đầu
triều Lý Thái Tông rồi!". Nhất Tâm tưởng
mình bị lỡm, cười: "Cô nương đùa? Tôi
mới được đức Vua Lý Nhân Tông, cháu
gọi Thái Tông bằng ông, cho con ngựa
trắng này hôm qua để đi đến đây...".
Đào Nhí, mặt nghiêm trang, vòng tay
ngắt: "Công tử chê chúng tôi là người
cầy sâu cuốc bẫm, nhưng dẫu ngu hèn
đến đâu chúng tôi cũng biết năm nay
là năm Nhâm Tý, Thiên Thuận năm thứ
năm tức năm 1132 sau Công nguyên.
Ngày sinh nhật vua Lý Thần Tông được
17 tuổi, Vua vừa ban chiếu báo rồng
vàng từ điện Vĩnh Quang bay ra cung
Lệ Quang, miễn sưu thuế cho toàn dân
một năm...". Nhớ đến lời Từ Phương
trượng báo sẽ trút xác để nhập vào
Dương Hoán lên làm Vua, Nhất Tâm vội
vã: "Có phải Thần Tông kế vị Nhân Tông
không, thưa cô nương...". Nhìn Đào Nhí
gật đầu, Nhất Tâm tính nhẩm rồi thốt:
"Ta đi từ sáng, chiều đến đây nhưng
thế mà lại mất đến trên 17 năm...".
Thất thanh kêu: "Thế Đào Hạ Trang
đâu?". Nhìn Đào Nhí lắc đầu, Nhất Tâm
ngã vật xuống đất, nằm hôn mê cho
đến đêm. Khi tỉnh dậy, Đào Nhí báo bà
cô tổ họ Đào nổi tiếng ca ngâm từ thời
Lý Thái Tổ đã quy tiên được 133 năm
rồi. Nước mắt đầm đìa, Nhất Tâm khẩn
khoản xin Đào Nhí đưa mình ra viếng
mộ. Không ngờ người đàn ông đa tình
này liều mình đập đầu quyên sinh, Đào
Nhí lấy lá nhai ra đắp vào trán rách
toạc một đường, nắm quần Nhất Tâm,
giọng run run: "Công tử chớ dại, Tiện
nữ xin lấy thân này đền duyên cho bà
cô tổ, chứ nói dại công tử chết thì...
thì...". Bất chợt, có tiếng cười, rồi tiếng
hát lảnh lót vẳng lại từ trăm năm trước:
Yêu nhau, cởi yếm í à cho nhau
Về nhà dối cha dối mẹ, dối rằng ơ à
qua cầu mà gió bay, í a...
*
* *
Rậm-ria và Tiểu-quỷ nhẩy nhổm lên
reo khi Lơ-mơ lãng tử thò mặt vào quán
phở Thìn. Kéo Lơ-mơ ngồi xuống, Tiểuquỷ
ngạc nhiên hỏi:
"Ủa, ăn mặc thế này? Anh làm thầy
chùa từ khi nào vậy?"
Dựa cây Đả Cầu bổng vào chân bàn,
Lơ-mơ nhỏ giọng:
"Từ thời Lý, chuyện ngàn năm nay,
tìm chỗ vắng vẻ tôi sẽ từ từ thuật lại
cho các bạn, thề không giấu diếm gì
cả. Vả lại...". Lơ-mơ nhìn khách ăn phở
xung quanh, im bặt.
Ba người kéo nhau ra ngồi trên ghế
đá bắc dưới cây đại thụ rễ sần sùi trườn
lên khỏi mặt đất cạnh đền Ngọc Sơn.
Tiểu-quỷ vừa châm thuốc, hút chưa
được một hơi thì tiếng xe bình bịch chí
ít cũng cỡ 300 phân khối đập vào màng
nhĩ chói chang. Có tiếng cười ngạo
nghễ: "Ba anh giai đi bụi...".
Lời chưa dứt, xe đã vọt qua, đen trùi
trũi như một con ngựa không cương
hóa dại lồng lên. Rậm-ria lắc đầu:
"Dân Hà Nội nay giầu, ăn chơi cũng
hạng nhất!"
Quay đi ngoảnh lại, chàng kỵ mã
cưỡi chiếc xe đã sáp lại:
"Một vòng Bờ Hồ, mất đúng 3 phút
26 giây, anh giai nghĩ thế nào? Thi
quốc tế được chứ?"
Tiểu-quỷ ngắm thanh niên thân cao
mười thước, vai ngang tám tấc, tay dài
như tay vượn, mặt vuông vắn chữ điền,
nhếch miệng cười thiện cảm, ỏn ẻn:
"Quá được! Nhanh hơn cả công an
giao thông. Con xích thố này mua đâu
mà giống tốt thế?"
"Khá khen kẻ mắt xanh nhìn ra ngựa
quý. Mượn của Vân Trường làm dăm ba
phi vụ, nhưng nếu anh giai muốn,
thương lượng thuận mua vừa bán thì
cũng có thể để cho anh giai dùng..."
Rậm-ria chen vào:
"Phi vụ gì mà cần ngựa tốt thế này?"
"Chẳng nói giấu gì ba anh, kẻ hèn
này kinh doanh với thương hiệu "Ân Trả
Oán Đền", tiền trao thì bảo đảm giao
hàng trong ba ngày. Bảng giá như sau.
Chém chân hoặc tay phải: 300.000$,
Chân hoặc tay trái: 200.000$. Thanh
toán phần xác, bằng dao: 2.000.000$,
bằng súng: 1.500.000$. Tạt acid (vào
mặt để đánh ghen): 1.000.000$... Công
ty có giá khuyến mại vào dịp Tết,
Giáng sinh và ngày lễ Độc lập... Các
anh có cần dịch vụ nào không?"
Trời bỗng tối sầm xuống. Thanh niên
một tay che mắt, tay kia chỉ lên không,
mồm nói:
"Anh giai xem gấu đang gặm mặt
trời kìa!"
Quả thế, một chớm đen như mõm
chó lấn vào vòng sáng khiến mặt trời
lẹm đi, lát sau chỉ còn là một lưỡi liềm
có viền sáng như lửa bắt quanh. Bóng
tối ngay giữa ban ngày khiến chim
chóc chíu chít nháo nhác, gà hoảng hốt
o e, chó tru lên từng hồi tựa chừng hóa
dại. Thế gian chìm vào một chậu mực
tím khổng lồ. Tiếng ngựa hí. Tiếng
quát: "Chẩu, chẩu". Ba người níu vào
nhau. Lơ-mơ bảo: "Đừng buông tay ra,
kẻo lạc!".
Gấu ăn no, nhả dần con mồi. Mặt
trời ló dạng, thiên nhiên như lột xác
nhưng lơ ngơ như một đứa bé dở người
đang lớn. Tiểu-quỷ chợt rú lên: "Tháp
gươm biến đâu mất rồi?". Rậm-ria
ngoảnh lại, hoảng hốt: "Cái đồng hồ
trên nóc Bưu Điện cũng không còn...".
Lúc bấy giờ, Lơ-mơ sống lại cảm giác
ngày chàng vào Hà Nội, xe chở khách
của Vietnam Airlines hóa thành xe trâu
trên con đường dời đô từ Hoa Lư về
theo chiếu chỉ của Lý Thái Tổ. Nhìn
quanh, đám phụ nữ đều mặc yếm
trắng váy thâm chứ không còn điệu
đàng quần xệ áo thun môi đỏ má
hồng. Đám đàn ông kẻ đóng khố người
cởi trần mình mẩy xăm hình rồng rắn
chứ chẳng hoành tráng vét-tông cà-vát
mặc dầu trời nóng xấp xỉ 30 độ C. Lơmơ
thốt:
"Chưa biết năm nay là năm nào,
nhưng chắc chắn chúng ta đã quay về
triều Lý!"
Nhẩn nha, Lơ-mơ thuật lại chuyện đi
tìm Đào Hạ Trang, bái Từ Đạo Hạnh
làm thầy, đụng độ với Nam Hải Ngạc
Thần, cứu giá Lý Nhân Tông và cuối
cùng, khóc trên mộ Đào Hạ Trang đã
ra người thiên cổ, rồi từ chối ước
nguyện xe duyên của Đào Nhí, cô bé
gọi Hạ Trang bằng cố tổ. Nhỏ nhẹ, Lơmơ
chắp tay vái bạn:
"Xin hai vị huynh đài từ nay gọi tại
hạ là Nhất Tâm, pháp danh do Sư phụ
ban cho đệ!"
Chưa biết Rậm-ria và Tiểu-quỷ đáp
thế nào thì vó ngựa cồm cộp đập trên
đá lát, và tiếng ồm ồm: "Nỉ hảo, nỉ
hảo!". Đó là thanh niên ba người gặp
trước Nhật Thực, cưỡi xích thố chạy
ngang, vừa ra roi vừa thét:
"Mại zô, mại zô dịch vụ Ân Đền Oán
Trả. Chính Tổng giám đốc là Triệu Tử
Long đi khuếch mại, mua một cho một,
bảo đảm không vừa lòng sẽ hoàn trả
tiền. Mại zô..."
Về chuyện đi tìm vật quý hiếm Bảo
Quốc Hộ Dân, Nhất Tâm không giấu
giếm, kể ngọn ngành cho bạn nghe.
Rậm-ria trầm ngâm:
"Xuống đáy núi Nùng chỗ thông ra
sông Nhị thì phải nhờ ông chú mình
trong chiến tranh chống Mỹ nguyên
phụ trách hệ thống địa đạo trong nội
thành để bảo vệ những yếu nhân khi bị
bom. Nói, chắc ông cụ sẽ giúp, nhưng
chắc chắn ít nhiều cũng phải có tí thù
lao. Đất nước ta còn nghèo, nhất là
những người trót về hưu! Đồng ý như
vậy nhé."
Dĩ nhiên. Ba người bạn triều Lý
ngoéo tay nhau, cách ký hợp đồng
mười kỷ trước thời hiện đại.
*
* *
Chuyện không thể ngờ nổi khiến
Nhất Tâm choáng váng ngã ngồi xuống
đất. Rậm-ria đỡ Nhất Tâm lên, giọng
hậm hực:
"Tiểu-quỷ thuê Triệu Tử Long đến dậy
cho tôi một bài học, bạn ạ! Nhưng tôi
chạy được! Bây giờ, tôi nâng giá để
Triệu Tử Long dậy lại cho Tiểu-quỷ cũng
bài học ấy..."
Thấy Rậm-ria còn đủ cả chân tay,
mặt mũi nguyên vẹn chưa bị a-xít tàn
phá, Nhất Tâm yên lòng, can:
"Không thế được! Hưu chiến để bàn
bạc. Chúng ta đã kết nghĩa vườn quất
năm nào, thề sinh tử có nhau, một
thằng chết thì hai thằng kia chết theo.
Phần tôi, chưa tìm ra vật quý hiếm thì
tôi còn muốn sống, bạn hiểu chứ!"
Nói xong, Nhất Tâm đi tìm Tử Long,
đề nghị:
"Tôi trả ngài giá gấp ba, nếu như
ngài để cho chúng tôi bình yên, tránh
được nội chiến!"
Tử Long cười, không nói yes, không
nói no, chỉ buông thõng "để xem!".
Trước cái thế lơ lửng con cá vàng kiểu
gươm treo trên cổ nền Hòa Bình đang
bị đe doạ, Nhất Tâm quyết định tìm hỏi
Tiểu-quỷ cho ra lẽ.
"Hiền đệ, sao mà đến cơ sự này?"
"Đệ không muốn trả cái giá 3 triệu
cho ông chú Rậm-ria làm hướng đạo
xuống đáy núi Nùng, chê đắt thì Rậmria
bảo đệ không có lòng với những
công thần chống Mỹ cứu nước, tính
toán như một thằng tài phiệt rẻ tiền
kiểu lũ tư sản mại bản miền Nam trước
75... Đệ đáp, tư sản thế còn hơn bọn lợi
dụng nhân công trong nước làm đồ mỹ
nghệ như gốm Bát Tràng bán đổ bán
tháo cho Tây phương, giá trả cho người
lao động chỉ 2 đến 3% giá bán lẻ bên
Âu Châu. Rậm-ria bảo thế cũng còn hơn
bọn thầu khoán ở Sài Gòn thời Thiệu-Kỳ
ăn cắp để có tiền gửi con đi học trường
Tây như đệ... Huynh bảo, chửi đến cha
đệ mà đệ không phản ứng thì đệ là cái
giống gì?"
Đợi Tiểu-quỷ dằn xúc động xong,
Nhất Tâm dịu dàng:
"Thế Tiểu-quỷ phản ứng thế nào?"
Nuốt nước bọt, Tiểu-quỷ nói một thôi:
"Đệ bảo, thứ nhất Rậm-ria về đây là
đi kiếm mối làm ăn, và làm thì phải
móc nối với những kẻ có thế lực, có
tiền, chứ cái quán ăn ở Copenhagen
chẳng đáng một đồng chinh. Để "sửa
soạn tâm lý thuận lợi", Rậm-ria nay nói
ngược tất cả những điều đã nói cái thời
"con khỉ không đuôi", huyễn tưởng nào
là tương lai qua lớp trẻ hiếu học mà
thật ra học chỉ vì cha mẹ ham bằng
cấp, học thật thì ít, cái học thuộc lòng
sau này biến mình thành vẹt thì nhiều.
Thứ hai, nói đến ăn cắp thì thời Thiệu-
Kỳ có, nhưng so với thời "đúp bờ vê tê
u" này thì hơi bị lép, và nay chẳng chỉ
ăn cắp mà còn ăn cướp, rút ruột đến
40% ngân sách những công trình phải
vay quốc tế thế này thì chẳng khác gì
bán nước vì con cháu sẽ nợ đời đời kiếp
kiếp, đành bán đất, bán trôn nuôi
miệng. Thứ ba, Rậm-ria cứ cho mình là
nhà văn, nhưng thật mà nói, 15 năm
qua chẳng viết được một cái gì đáng
viết. Đồng thời, Rậm-ria ấm ức với cái
nghề "nhà bếp", chê bai dè bỉu mọi
người, mở mồm là giọng điệu làm cha
thiên hạ bắt chước kẻ Rậm-ria tâm
phục, một nhà văn hiếm đẻ, bế tắc,
uống rượu, làm dáng quên mình..."
Nhất Tâm giơ tay ngăn, miệng nói
"thôi, thôi!" nhưng Tiểu-quỷ tiếp:
"Để đáp đệ, Rậm-ria đi và độ hai
mươi phút sau thì công an đến tìm đệ
"làm việc". Huynh biết về việc gì
không? Họ hỏi cái vật quý hiếm ta đi
tìm là vật gì, huynh là ai, vân vân và
vân vân?"
Nhất Tâm rùng mình. Cục diện bây
giờ khác rồi. Tiểu-quỷ thở dài:
"Đệ nghĩ đệ thôi cái việc đi tìm..."
Nhất Tâm thấy mình bỗng thật cô
đơn. Không, không thế được! Dẫu một
mình, chàng tự nhủ, sống chết ra sao thì
cũng bất cần, ta phải tìm cho bằng được
cái vật Bảo Quốc Hộ Dân, tìm như tìm ý
nghĩa chính đời mình. Vả lại, cơ may đến
thế, bỏ lỡ thì có ai thay ta mà làm cái
việc sinh tử này. Cố kìm tiếng thở dài,
chàng nói nhỏ:
"Dẫu gì thì cũng chớ hợp đồng với
Triệu Tử Long. Biết đâu nó lừa, trúng kế
là thân bại danh liệt. Rậm-ria cũng liên
lạc rồi điều đình với Tử Long dậy cho
đệ một bài học. Chuyện mỗi ngày một
rách, cũng chỉ vì... Phần ta, ta đi dàn
xếp với Rậm-ria cho êm thắm... Ta hẹn
đệ mai ở đây!"
Đúng hẹn, Nhất Tâm cùng Rậm-ria
đến Thủy Tạ, nơi bán nước giải khát
ven hồ trông sang bên kia là đền Ngọc
Sơn. Tiểu-quỷ đã có mặt, đang uống
bia với hai người con gái. Một tên Đài
Trang, trán dô, răng khấp khểnh, mắt
ma quái, dáng cao cao, người mình
dong. Tiểu-quỷ giới thiệu đây một
thành viên của Văn phái 3Z đang độ
tiếng nổi như cồn. Người kia, tên Ban
Mai, tóc dài, mặt trái xoan, mũi thanh
thanh, miệng lúc nào cũng như đang
cười. Chuyện trò một lát, Ban Mai đứng
dậy nói:
"Chúng em biết các anh bận việc, xin
phép đi trước, hy vọng có dịp gặp lại".
Đúng lúc đó thì Thụy, một người bạn
của Đài Trang, xuất hiện. Anh ta cũng
chào rồi cùng đi với Trang và Mai, hẹn
ba người bạn triều Lý nếu rảnh tối đến
ăn bò tùng xẻo trên đường Cổ Ngư sát
Hồ Tây.
Bây giờ, chỉ còn ba người. Nhất Tâm
xin phép nói trước, tóm tắt sự việc và
kết luận: "Chúng ta về đây với những
nỗi niềm bức xúc, mỗi người một khác,
nhưng chẳng ai thật sự vui được! Vậy
thì, nghĩ đến mối thâm kình kết nghĩa,
tạm chia tay nhau, ký hiệp định hòa
bình, ngưng gửi quân hay khí giới nhằm
chiếm thế thượng phong nhưng thật mà
nói, chỉ có lợi cho Triệu Tử Long mà thôi.
Còn chuyện Bảo Quốc Hộ Dân, thôi cứ
để đó. Chuyện này bây giờ lộ rồi, cục
diện đã đổi, sẽ phức tạp hơn nhiều..."
Cả Rậm-ria và Tiểu-quỷ đều gật đầu.
Nhất Tâm vui vẻ:
"Để kỷ niệm cuộc hàn huyên không
đổ vỡ, xin mừng chúng ta một chai
rượu tình..."
Đi ra quầy, Nhất Tâm gọi một chai
Napoleon VSOP và xin 3 cái ly pha lê.
Đến lúc quay lại bàn, Nhất Tâm nghe từ
xa tiếng Tiểu-quỷ và Rậm-ria nổi lên
như đánh nhịp cho nhau:
Tao bế tắc
Mày bế tắc
Nó bế tắc
Chúng ta bế tắc
Các anh bế tắc
Chúng nó bế tắc
Nhìn mặt Tiểu-quỷ xanh lè, mũi đỏ
hẳn lên vì xúc động, mắt đục ngầu.
Nhìn mặt Rậm-ria tái ngắt, gân xanh
thái dương co giật, ria quặp xuống.
Nhìn mình thoáng qua trong bức gương
choán nửa bức tường, cô đơn, hụt hẫng,
Nhất Tâm ứa nước mắt. Khi đến cạnh
hai người bạn nay như hai hình nhân chỉ
biết chia nhau một động từ, Nhất Tâm
nghẹn ngào:
"Cả thế gian này bế tắc!".