RE: TRĂNG NGUYÊN SƠ - NAM DAO
-
01.04.2009 16:05:39
BA
Sáng tinh mơ hôm sau, tôi lại đi vòng
Bờ Hồ. Một vòng, rồi hai... Đến
vòng thứ ba, con bé hôm qua ở đâu xô
ra lẽo đẽo theo sau. Thêm một vòng,
nó rướn đến cạnh tôi, chạm nhẹ vào
tay tôi, mủm mỉm cười. Làm như không
biết, tôi nhìn thẳng, rảo bước. Nó đi
như chạy, thỉnh thoảng lại khều khều.
Cho đến khi tôi ngừng chân, mắt nhìn
phía xe chạy, nhấp nhổm qua đường,
nó nói "Cháu đi mở đường cho!". Nhớ
hình ảnh bà cụ bị xe đụng hôm qua, tôi
rùng mình, không trả lời.
Sang đến hè đường bên kia, con bé
chìa tay:
"Cho cháu tiền phở như hôm qua đi,
công cháu mở đường cho chú. Nhé, chú
nhé!"
Gạt tay con bé, tôi leo lên tam cấp
vào khách sạn. Mở vòi nước lạnh, tôi
lẩm bẩm một mình, sao mãi chẳng
thấy Trang điện thoại. Tắm táp xong,
tôi mở máy gọi Thụy. Không nói chuyện
được, tôi đành để tin nhắn, ra ngoài tìm
quán ăn điểm tâm. Con bé đứng chờ
ngay cửa khách sạn, nhưng làm như
ngẫu nhiên, thờ ơ: "Cháu chào chú". Tôi
đi thẳng lại cái quán gần Nhà Chung,
ngồi vào chiếc bàn kê cạnh cửa kính.
Húp đến thìa thứ hai bát bún thang còn
bốc khói, con bé đến sát bên, mắt
chòng chọc. Thế này thì còn ăn uống gì
được hả Trời! Con bé chỉ tay vào mồm,
vào bụng, nước giãi ứa ra khoé miệng,
ánh mắt khẩn cầu. Chắc nó đói, tôi tự
nhủ. Miếng bún nghẹn ở cần cổ, tôi
quay đi. Đứng lên, tôi ra cửa quán ăn,
vẫy. Khi nó đến cạnh, tôi đút vào tay nó
năm nghìn. Con bé lẩm nhẩm:
"... vẫn như hôm qua, còn vật giá thì
leo thang!"
Tôi gần phát điên, hỏi "Ai bảo mày
vậy?". Nó thản nhiên "...mẹ cháu chứ
còn ai. Rồi đài, báo... chỗ nào cũng nói
thế cả!".
Nắng đầu ngày mỗi lúc một gắt.
Tiếng xe gắn máy rầm rầm, còi bóp inh
ỏi. Trong lòng những con đường trung
tâm Hà Nội, khói xe bay mù, mùi xăng
bốc lên. Tần ngần, tôi chẳng biết đi
đâu, lớ ngớ nhìn quanh hệt một kẻ đi
lạc đang tìm đường. Con bé đến gần.
Tôi hỏi, có chỗ nào vắng xe ở quanh
đây không? Nó đáp, ra Văn Miếu, cháu
đưa. Tôi lắc đầu, lôi bản đồ thành phố
ra. Nửa giờ sau, tôi chẳng nhìn đống
văn bia tiến sĩ, tìm một gốc cây tỏa
bóng mát, ngồi thật im. Tôi nhắm mắt.
Để chiếm hữu lại cái hiện tại tôi không
chọn lựa. Để mò mẫm trong một cuộc
kiếm tìm kẻ đã ngược dòng thời gian
quay về triều Lý.
*
* *
26-02
Khi tôi tỉnh, Trùm A ngồi bên cạnh.
Tôi thều thào hỏi "Cái vật quý hiếm đó
đâu?". Hắn giúi vào tay tôi một ống
kim loại lạnh ngắt. Nắm chặt lấy nó
như níu vào đời này, tôi mỉm cười, sung
sướng tự nhủ, thì nó đây, cái vật quý
hiếm mà tôi đã sẵn sàng hy sinh cái
thân xác tôi trước nguy cơ phân hóa
đến độ vô tướng vô hình trong cái lỗ
đen không năng lượng - vật chất mà
các nhà khoa học đương đại gọi là
black hole. Trùm A văng tục, giọng bực
bội:
"Nó là cái đèn pin của thằng chết bất
đắc kỳ tử hai tháng trước. Thế thì bán
cho chó cũng chẳng được! Thế là xong,
quả này toi rồi. Nay trả lại anh cái hộ
chiếu và những vật tùy thân. Tiền đô
tươi thì chúng tôi giữ để thanh lý chi
phí..."
Trùm A đứng dậy, nói với lại:
"Sáng ra, có xe đưa anh về Hội An,
sau anh tìm xe đi đâu thì đi. Nhớ là
cấm khai báo. Đừng quên cánh tay
chúng tôi đủ dài để đến đâu với cũng
tới, đi là đi, đánh là đánh, giết là giết,
nghe chưa..."
Vứt cái đèn pin xuống đất, tôi lặng
người, đưa tay quệt nước mắt không
biết chảy ra từ lúc nào. Ensara thay
quần áo, thu xếp đồ nghề, khinh khỉnh
không thèm nhìn ai. Tôi ngoảnh về phía
gốc cây, nơi có hình bóng một vị sư
đưa tay bắt quyết khi tôi thò tay vào
cái chum cuối cùng, thấy một vòng
khói trắng như sương đang loãng ra,
tai nghe, vẫn cái giọng Huế ngọt ngào
"... Bữa mô tìm thấy thì về đây với
em!"
Xe rời địa phận Mỹ Sơn, chồm khỏi
cơn ác mộng và nỗi thất vọng khiến
não bộ tôi đóng băng, người mất hết
cảm giác, chân tay đơ cứng hầu mất
mọi khả năng điều khiển. Đến thị xã
Hội An, tôi chỉ còn sức xuống xe, đứng
lớ ngớ, hồn vía bay tuốt đến một cõi
nào đó vô minh. Tôi mò ra Cửa Đại,
thuê căn phòng nhìn ra biển trong
một mini-hotel. Mở cửa sổ, tôi im lặng
ngắm những con sóng bạc đầu cho
đến khi chiều tà. Mặt trời đỏ tía lơ
lửng chìm nơi biển lẩn vào trời, ánh
sáng quết một vết loang loáng mầu
huyết dụ, lịm dần, chuyển sang mầu
đen thẫm. Tiếng đứa bé tôi gặp khi
vào đăng ký thuê phòng chí choé. Nó
dị dạng, mồm méo, răng chìa ngoài
vành môi sưng vều, tay lêu nghêu,
chân ngắn chân dài, thổi phì phò qua
kẽ răng hở thứ âm điệu ngọng nghịu
của những đứa trẻ lên ba học nói. Ông
chủ khách sạn, chắc quãng lục tuần,
cười cười:
"Cháu nội tui đấy... Đang chờ bồi
thường nạn nhân chất độc da cam".
Chỉ một thiếu phụ đang lau bàn, ông
tiếp "Còn đây là dâu tui, lo công
chuyện quản lý... Chú cần chi cứ nói
nghen"
Thiếu phụ ngước lên nhìn, ánh mắt
lạnh lẽo, vô cảm.
Ra ngoài bãi biển, tôi tìm một quán
ăn vắng người. Quán xập xệ, bàn phủ
khăn plát-tích hoen ố, ghế đẩu, ngay
cạnh là bếp đốt bằng những bình ga,
thực đơn nhàu nát kẹp trong hai mảnh
giấy nhựa đùng đục. Bà chủ quán đon
đả:
"Chú ở khách sạn mini, phải hông?"
Gục gặc, tôi chỉ mấy thân dừa trốc
gốc. Chưa kịp hỏi, bà chủ quán đã nói:
"Trận bão tháng trước Tết đó chú. Mấy
tháng rồi mà hổng ai tới kéo đi. Chẳng
bù với mấy cái khách sạn quốc tế, ba
ngày là dọn sạch bưng! Nhà gạch
mà... Xóm "nhà lá" tụi tui thì đợi, trên
xã nói còn đang "quy hoạch", chú
hà...". Không thấy tôi nói gì, bà tiếp
tục:
"Nếu cái ông chủ khách sạn chú ở
còn là Chủ tịch thì chắc quy hoạch lẹ
hơn bởi nếu không, ổng mất khách du
lịch. Nhưng ổng "về" rồi, bị dân kiện vì
lấy đất người ta ra chia cho quan chức
mà hoàn trả không công bằng đó chú!
Giá đền bù của Ủy ban chỉ năm, mười
phần trăm giá thị trường, giải thích thì
thị trường định hướng này nọ, dân tụi
tui nghe hổng hiểu gì ráo, chỉ thấy vậy
là người ta trả giá rẻ mạt... Kêu lên
Huyện, Huyện biểu kêu lên Thị xã. Rồi
Thị xã biểu không giải quyết, kêu lên
Tỉnh. Tỉnh lại bảo kêu lên Trung ương.
Rồi Hội đồng Bộ trưởng, rồi Quốc hội,
rồi ông Thủ tướng, ông Chủ tịch Nước...
Thiệt cực, chưa thấy ai kêu chi mà
được, chú à... Phải chi có gì cứu được
dân oan, chắc nhiều người xin chết để
đánh đổi đó chú!".
A, cái chi cứu được dân oan! Bà quán
ơi, tôi cũng đang đi tìm nó đây. Nó có,
hay không có?
Nếu nó có thì thất bại ở Mỹ Sơn vừa
qua là chuyện Tái ông mất ngựa. Vì tìm
được, thì dưới áp lực của bọn Trùm là
phải bán cho những bọn còn tham
vọng đế quốc, bá quyền. Cứ nhìn
chuyện chúng nó nói chống khủng bố
bên Iraq nhưng thực tâm nhằm kiểm
soát dầu lửa để khống chế Âu Châu
khắc biết.
Nhưng vật quý hiếm Bảo Quốc Hộ
Dân đó, nó có, hay không có? Trước
Tết, Rậm-ria điện thoại từ Đan Mạch,
giọng nghiêm trọng: thần nhân mách
bảo ta, thế là trao nhiệm vụ cho ba
chúng ta, cứ gọi hỏi Tiểu-quỷ bên Anh
xem. Tiểu-quỷ rành rọt, em cũng thấy
một con bướm trắng bay vào nhà, rồi
đêm đó, một vị áo nâu sồng lay em,
bảo cái vật quý hiếm kia đã "về" đất
nước, kẻ nào có cơ duyên sẽ tìm thấy.
Thế thì phải về, cơ duyên ngàn năm
một thuở. Lên kế hoạch, tôi đi ngay vì
không công ăn việc làm trói buộc, dặn
Rậm-ria và Tiểu-quỷ về sau, càng sớm
càng tốt. Nhưng đến hôm nay, chúng
vẫn biệt tăm hơi! Mở máy Palm bấm
vào mục nhắn tin, vẫn chẳng có gì. Thế
là sao? Hỏi bà chủ quán, quanh đây có
cái cà-phê internet nào không? Bà chỉ
tay vào con đường hun hút không một
bóng đèn, đáp: "Chú đi bộ chừng nửa
giờ, có... Nhưng tối trời thế này, chú là
người lạ, không nên đi". Cám ơn bà.
Đúng thế. Tôi phải bảo vệ thân mình để
còn đi tìm cái vật quý hiếm Bảo Quốc
Hộ Dân chứ.
Giật nẩy người khi đẩy cửa khách
sạn bước vào, tôi giụi mắt, tưởng mình
quáng gà. Trong tranh sáng tranh tối,
thiếu phụ tóc tai rũ rượi nhảy nhổm từ
lòng một người đàn ông rồi lẻn vội ra
sau. Ông chủ khách sạn bật đèn, vẻ
bẽn lẽn, cười cười. Khi đó thằng bé tật
nguyền xô ra. Nó quơ một chiếc gậy,
miệng ngọng nghịu hét toáng lên "ĐM
mày, ông nội!".
*
* *
Hỏi cô tiếp viên khách sạn, tôi mới
biết Thụy đến tìm, không gặp và để vài
chữ nhắn lại, bảo Trang đã vào thành
phố Hồ Chí Minh công tác ngắn ngày,
tuần sau mới về Hà Nội, nhưng sẽ cố
liên lạc qua điện thoại. Thốt nhiên, tôi
cảm thấy bơ vơ. Và bất lực. Thấy mặt
tôi chảy dài, cô tiếp viên thì thào:
"Khi ở đây, ông anh của anh hay ra
vườn hoa gần Quốc hội, lắm khi tối mới
về... Anh ra đấy thử xem, lắm khi may
là gặp..."
Tôi gật đầu cám ơn. Đúng như mò
kim đáy bể. Vô vọng. Tôi thốt nhiên sợ
lên phòng khách sạn, chỉ một mình,
giữa mười mét vuông lặng lẽ. Ra Bờ
Hồ, tôi tìm tiếng động. Dẫu là tiếng xe,
vẫn còn yên ổn hơn một sự im ắng có
gì giống như khi đầu óc chập choạng
lạc vào cõi u mê. Ngồi dưới bóng cây
liễu, tôi nhắm mắt lơ tiếng chào hàng
của những đứa bé bán thuốc lá, bật
lửa, post card, ảnh khiêu dâm... cho du
khách. Ăn mặc thế này, tôi nghĩ, chúng
tưởng tôi là người Đại Hàn, Singapore,
hay Đài Loan... qua đây mua đàn bà về
làm... vợ chăng? Nghe đâu giá vợ - gọi
cho chính xác, giá một nô lệ tình dục -
khoảng năm nghìn đô cộng chi phí
máy bay vu quy, bảo đảm vệ sinh,
không aid, bán đứt với toàn bộ giấy tờ
kết hôn và xuất cảnh chính thức.
"Chú ơi, chú..."
Con bé khều tay tôi. Mở mắt ra, chưa
phản ứng thì tai nghe:
"Em chào anh... Em đến cám ơn anh
lại cho cháu tiền ăn quà sáng nay!"
Mùi nước hoa đâm thốc vào mũi
khiến tôi ngửng lên. Kề mông ngồi
xuống băng đá bên cạnh tôi, mẹ con
bé giả lả:
"Nói thật, thấy anh thương con bé
nhà em, em mừng lắm... Cái việc hôm
nọ, anh bỏ qua cho em, thực tâm em
chỉ muốn phục vụ anh mà thôi. - Giọng
nửa đùa nửa thực, mẹ con bé vừa cười
vừa nói - Anh muốn thì em cho con bé
nhà em là con nuôi anh! Còn em, em
già rồi, anh chẳng cần quan tâm đúng
mức. Con bé nhà em sắp mười bẩy tuổi
rồi, cái tuổi bẻ sừng trâu đấy..."
Thực không hiểu ý, tôi ngớ ra,
nghếch mắt nhìn mẹ con bé, mồm há
hốc. Mụ véo vào tay tôi:
"Ấy, em quý bác vì... bác thật thà.
Này nhé... con nuôi bác, bác muốn làm
gì thì làm. Bắt ngồi, ngồi. Bắt đứng,
đứng!"
Mụ hinh hích, nháy mắt:
"Rồi bắt nằm, phải nằm, sấp ngửa
thế nào cũng được, muốn gì có nấy. Em
không phải khuyến mại mà chân thành
nói với bác là cháu nó "còn nguyên si",
em phải tìm người xứng đáng cho nó.
Thật tình, em bảo cháu, mẹ già sắp về
hưu mất rồi, con phải cáng đáng cái
cuộc sống chỉ có mẹ với con. - Im tiếng
như lấy đà, mụ cao giọng, hất hàm nhìn
con bé: - Con phải sửa soạn đi làm, lao
động là vinh quang, phải không nào?"
Con bé cười, miệng toác ra, răng hở
lợi, gật gật. Nhìn nó, tôi thấy thương.
Nó chỉ độ mười bốn mười lăm là cùng,
hiểu gì mà lắc với gật! Mẹ con bé đổi
giọng, hạ xuống một ốc-ta, thầm thì:
"Tình thật, đời con gái ai rồi cũng
qua một lần... Như em, em không may.
Lần trước chưa thân, em dối bác, bảo
chồng em ở bên Đức. Thật ra, nó ở đây
nhưng lang chạ với con mụ Giám đốc
hơn nó hai giáp, bỏ bê mẹ con em gần
chục năm nay. Em về quê ở Vĩnh Phú,
thầy bu em đuổi, lại phải ôm con lên
Hà Nội... Mà em thì chẳng nghề chẳng
nghiệp gì, anh bảo sống bằng cái gì
đây..."
Thình lình mẹ con bé nghẹn ngào,
nước mắt ứa ra hoen vào lớp mascara
kẻ mi chảy xuống. Không biết làm gì,
tôi lúng túng đứng lên. Mẹ con bé nắm
tay tôi lại, mặt căng cứng, nói qua kẽ
răng:
"Em hiến nó cho anh, xin anh hai
nghìn đô, lấy vốn làm ăn lương thiện
chứ chẳng thể kéo dài thế này mãi. Giá
này bọn đại gia ở đây có thể trả gấp
đôi, nhưng em sợ cho con em, vì lắm
khi chúng nó đến ba bốn thằng... khổ
cho con bé! Được không anh?"
Tôi giằng tay ra. Tôi vùng chạy,
không rõ tại sao. Bất lực? Hay xấu hổ?
Hay phản ứng cuối cùng trước khi có
thể phạm tội? Cứ thế cắm đầu chạy, tai
tôi nghe tiếng huýt còi. Rồi tiếng thét
chát chúa:
"Bắt lấy nó!"
Bóng áo xanh rêu túa ra. Một người
mặc thường phục chặn đầu tôi. Hắn
cong mình vòng tay ôm lấy bụng, xoay
thế nào mà tôi ngã bịch xuống đất, tay
tức thì bị khóa trái. Tôi kêu "bỏ tôi ra"
thì người đó quát "câm miệng". Công an
ùa đến trong một chớp nhoáng. Người
mặc thường phục, cũng là công an, giao
tôi cho đồng đội. Chà, công an hữu hiệu
thật. Lại có võ, chắc võ Tầu, bắt người
ta dễ dàng. Tay bị bẻ quặt sau lưng,
công an đẩy tôi vào một chiếc xe bít
bùng nhanh chóng sịch tới. Về đến trụ
sở công an quận Hoàn Kiếm, người trực
là một trung úy đeo kính trắng hất hàm
hỏi "cướp giật hả?". Tôi lắc đầu. Trong
người tôi không có giấy tờ, hộ chiếu thì
khách sạn giữ. Thành khẩn khai báo lý
lịch xong, tôi nghe ông ta lạnh lùng:
"Tại sao anh lại chạy?". Chết, nói thế
nào bây giờ? Tôi ngập ngừng tìm kế
hoãn binh câu giờ:
"Nói ra thì... xấu hổ..."
Viên trung úy nhìn xuống, tay vân
vê ria mép, chờ đợi.
"Thưa... tôi bị đau bụng, vội chạy về
khách sạn để..."
Đưa tay ngăn tôi nói tiếp, viên trung
úy chun mũi. Được thể, tôi xin cho vào
toa-lét ngay. Thế là một công an mặt
non choẹt dẫn tôi đi qua một cái hành
lang, tay kè kè súng (tại sao, tôi không
biết), mặt mũi khẩn trương. Trong toalét,
tôi định thần, và phát hiện tôi chạy
ngược chiều lối về khách sạn. A, giấu
đầu hở đuôi, làm thế nào lấy vải thưa
che mắt thánh đây?
*
* *
28-02
Gõ xong "hai thằng chết tiệt, bay ở
đâu, báo cho ta hiện ở Hội An hay
ngay", tôi bấm nút gửi, đứng dậy thanh
toán tiền. Vừa từ quán cà phê Internet
cạnh chợ bước ra, tôi thoáng thấy thiếu
phụ quản lý khách sạn. Người đàn bà
đó trên dưới ba mươi, da đen giòn, và
nếu bỏ đi cái nhìn lạnh căm của cô ta
thì phải công nhận nàng mặn mà
quyến rũ. Đi xăm xăm về phía tôi,
người đàn bà chợt nhận ra, ngượng
ngùng cúi chào. Mỉm cười, tôi đáp lễ,
quay người tiếp tục đi. Hình ảnh ông bố
chồng ôm con dâu tối qua khiến tôi lờm
lợm, đầu lại hàng chục con sâu chúi
xuống đào khoét mảnh đất đầy cảnh
ngược đời này. Đi dăm bước, tôi nghe
tiếng gọi giật giọng: "Chú ơi, khoan đi...
Chờ chút, chú!"
Quay lại, người đàn bà tất tả chạy
theo, mặt hớt hải. Tôi ngừng chân.
Người đàn bà nhìn tôi, ánh mắt nay vài
vỉ chứ không còn lạnh lẽo, miệng bấp
búng: "Chú làm phước cho tui được nói
đôi lời!". Bỏ chiếc giỏ xuống, cô tay
chắp tay vái tôi.
"Thôi, chị ơi! Đừng làm vậy, người ta
nhìn...", tôi nói vội, bước qua tránh cái
vái giữa chợ. Tay chỉ quán giải khát
trước mặt, tôi ngập ngừng "... Mời chị
vô đây nói chuyện cho tiện!".
Người đàn bà ngồi xuống, mặt quay
vào tường, dáo dác nhìn quanh sợ
người đi chợ nhận ra mình. Trôi sạch
ánh căm hận, mắt cô ta nay sâu xuống
buồn bã như nước sông Hàn xẻ dọc thị
trấn. Cô ta đằng hắng, nhỏ nhẻ:
"Tui tên là Chót, Út-chót. Nhà tui năm
anh chị em, có chị Út Năm và ba người
anh trai. Thời mặt trận Quảng Trị, khi
tui mới sanh được ba tháng, ngày là
quân bên này, đêm là du kích bên kia.
Ba tui và anh Hai bị bắn, tội là ác ôn có
nợ máu với nhân dân. Kế đó chừng năm
sau, anh Tư và chị Út Năm bị bom, chết
mất xác. Giải phóng xong, gia đình tui
trông cậy vào anh Ba đã tuổi lao động,
còn mạ con tui buôn qua bán lại lặt vặt
sống qua ngày. Thời chiến tranh với
Campuchia, mạ sợ anh Ba bị bắt đi
nghĩa vụ, biểu "con à, mi là thằng con
trai nối dõi tông đường, đi đâu được
thời đi mà sống!". Anh Ba vượt biên,
đến lần thứ ba thì thoát. Ảnh được
Canada nhận cho định cư, ban đầu ở
Montreal, sau đi Toronto kiếm việc. Ảnh
gửi tiền về giúp, mạ con tui có cái mà
ăn, nhưng ở địa phương, bà con nói ra
nói vô, công an tới làm khó dễ. Chồng
tui, hơn tui một giáp, làm công tác an
ninh huyện. Ảnh thuộc gia đình cách
mạng, từng nhảy núi, cha ảnh chỉ huy
đội du kích Bầu Bính. Thấy tui, ảnh ưng
con mắt, tối ngày qua lại gạ gẫm lấy tui
về làm vợ. Phần tui, mới mười sáu, tui
đâu có biết chi đâu, biểu má tui quyết
định thế nào tui làm vậy. Khi báo tin
cho anh Ba, ảnh nổi hung, biểu thằng
cha sắp thành xui gia đó chính là thằng
đã kết tội cha tui và anh Hai, quyết
chống lại tới cùng. Ảnh đâu biết mạ con
tui cơ cực thế nào, nhà cửa cha ông để
lại bị khiếu kiện là cướp đoạt tài sản
nhân dân, lời ong tiếng ve tới độ chẳng
dám ra đường. Khi biết tui lấy chồng,
anh Ba cắt nguồn viện trợ. Từ đó, thư
viết ảnh không trả lời. Riết về sau, thư
bị trả lại. Ảnh bặt tin, mạ tui và tui hổng
biết ảnh ở đâu... Ít lâu sau, mạ tui chết,
dặn "... Tau đi nhưng mi đã có chỗ yên
thân, tau yên lòng. Ráng tìm anh Ba,
làm sao cho ảnh hiểu, cứ oán hận mãi
thì biết khi nào cho xong. Biểu ảnh, mạ
không giận ảnh đâu, ráng có vợ con là
mạ vui lòng rồi...".
Người đàn bà nghẹn lời, bưng mặt
khóc một chập. Lát sau, cô ta tiếp:
"... Lấy chồng được hơn năm tôi
sanh cháu. Chú thấy đó, nó dị dạng.
Đem lên bệnh viện Tỉnh, bác sĩ chẩn là
nó bị chất độc da cam. Chồng tui khóc
ròng hai ngày hai đêm, ôm tui kêu
"Bây chừ làm sao? Anh thương em mà
không làm chi được, em ơi!". Cha
chồng tui rầu rĩ bảo con "Mi là đứa trai
duy nhất, thế này thì bất hiếu, vô hậu
vi đại...". Tui nói với chồng "Dẫu sao thì
nó là máu mủ của mình, ráng nuôi cho
nó lớn lên, nó lấy vợ đẻ con thì có cái
chi mà sợ mất dòng mất giống!". Ảnh
nghe, lại khóc, cương quyết không ăn
nằm với tui vì sợ. Cha ảnh lên bệnh
viện Tỉnh khám nghiệm, hớn hở nói
mình không bị chất độc. Ảnh biểu, cha
sợ không người nối dõi thì nay đi tìm
một bà còn tuổi sanh đẻ đi, mạ chết từ
lâu rồi mà. Cha ảnh trừng mắt: "Mi nói
dễ vậy, tau còn lãnh đạo nhân dân thì
phải giữ đạo đức cách mạng, đâu có
thế được! - Chỉ tui đứng xớ rớ, cha ảnh
biểu: Sẵn đây, tau cho mi thằng em,
gột được cái tiếng nhà mình vô phúc,
mi bị nhiễm độc da cam. Sau, mi làm
cha nó, giấy tờ khai sanh đàng
hoàng...". Ảnh điếng người, lắc đầu. Từ
đó ảnh canh tui như canh mồ canh mả,
lắm bữa bỏ không đi làm trên huyện.
Nhưng đâu cứ mãi thế được. Ảnh tính
mua một căn hộ đưa tui đi, chưa kịp thì
cha ảnh thừa cơ ảnh vắng nhà hãm tui.
Thấy thân tui bầm dập thâm tím, anh
hiểu ra, vào bếp tìm con dao phay
chạy lên. Tui ôm chân ảnh tui khóc, án
mạng thế này thì chết hết. Cha ảnh
bung cửa chạy lên cơ quan, tối không
dám về. Đêm đó, ảnh ra ngoài, chẳng
biết đi đâu. Sáng ra, công an xã tới báo
ảnh treo cổ ở miếu Thần hoàng đầu
thôn..."
Người đàn bà gục mặt xuống thổn
thức, khi ngửng lên, lại nhìn với ánh
mắt căm hận cố hữu:
"Sau đó, cha ảnh cứ thế, dọa nếu tôi
không chịu mà đi tố cáo thì ổng sẽ giết
đứa con tật nguyền của tui... Thằng
nhỏ nó biết, đêm đêm nó quặp chặt lấy
tui. Ổng mò vô, là nó chửi ĐM mày, ông
nội. Ổng đánh, nhưng nó không ngán.
Khi ổng bị mất chức vì cướp đất thì ổng
xây cái khách sạn mini, bề ngoài là cha
chồng, nhưng... chú thấy đó, ổng làm
tới như tối qua. Bây giờ, chú à... Xem
hộ chiếu đăng ký ở khách sạn thì chú là
Việt kiều Canada. Tui nhờ chú giúp tui
tìm anh Ba, giấy tờ tên... sanh năm...
tại Quảng Trị, năm... còn ở Toronto.
Liên lạc được ảnh, may ảnh thương mà
cứu mẹ con tui khỏi cái cảnh khốn nạn
này. Được không chú?"
Nhìn ánh mắt người đàn bà khẩn
cầu, tôi gật đầu, nhưng biết là khó, vô
cùng khó. Còn nước còn tát, biết thế
nào hơn được. Để vá lại từng mảnh đời
rách nát. Để cuộc đời này bớt đi tiếng
khóc.
Trời ơi, giá mà tôi tìm được cái vật
quý hiếm Bảo Quốc Hộ Dân kia nhỉ!
*
* *
29-02
Đây, đây rồi. Mở máy, tôi có tin nhắn
của hai thằng chết tiệt:
"Hai ta đang ở Hà Nội, hẹn mi vào 8
giờ mỗi sáng ở phở Thìn cạnh Bờ Hồ,
hỏi ai cũng biết. Vật quý hiếm ở Thăng
Long đây, ra ngay, hai ta chờ. Tiểu-quỷ
đêm qua lại mơ thấy thần nhân, dặn
hiện thực nào mà chẳng huyền ảo, chỉ
cần viết lên giấy tất chuyển tải nhục
cảm, sờ được, ngửi được, nếm được...
ha ha. Rậm-ria và Tiểu-quỷ".
Điện thoại cho hãng Vietnam
Airlines, tôi đặt vé bay ra Hà Nội và
phải đến ngay phi trường Đà Nẵng lấy
chuyến bay chiều nay. Càng hay, tôi
thanh toán tiền khách sạn, nhìn ông
chủ, rồi nhìn cô quản lý. Thằng bé dị
dạng đến nắm tay tôi, miệng bí bô gọi:
"Chú, chú!". Ông chủ quát: "Đi chỗ
khác chơi!". Nó nhìn lên, mắt xéo xẹo,
mồm lẩm bẩm điều gì không rõ, nhưng
tôi vẫn nghe "ĐM mày, ông nội!".
*
* *
Số tôi may. Vị trung úy công an
không để ý đến cái chi tiết chạy ngược
hướng về khách sạn, nhưng kiểm tra
đăng ký của khách sạn, xem xét hộ
chiếu, và khi biết không có ai bị cướp
giựt trưa hôm đó trên Bờ Hồ thì cho tôi
về. Tất cả, mất ba giờ. Ra khỏi trụ sở
công an, trời đã nhá nhem. Trút được
một gánh nặng, tôi hớn hở như kẻ nhặt
được tiền rơi, cười một mình khi tưởng
tượng cảnh kể lại cho đám người quen
rủ rê tôi tranh đấu cho dân chủ ở hải
ngoại cái cuộc ở tù (chỉ ba giờ, nhưng
tạm cứ lửng lơ) như một thành tích. Họ
hẳn ao ước chứng cớ (được) tù tội hẳn
hoi để có khả năng vươn lên lãnh đạo
phong trào.
Về đến khách sạn, tôi điện ngay cho
Thụy. Hắn hỏi: "Nghe nói công an đưa
anh về trụ sở, có việc gì vậy?". Dĩ
nhiên, tôi kể hết, nhưng không nói
chuyện bà mẹ định bán trinh con bé
kiếm vốn làm ăn, và lặp lại lý do đau
bụng, với những chi tiết rất thuyết
phục. Thụy dặn tôi ở đây ăn uống phải
cẩn thận, gà thì gà cúm, heo thì heo tai
xanh... Thụy bảo đã liên lạc được với
Trang, và nàng dặn Thụy đi tìm một
người bạn tên Ban Mai, là người cũng
đã từng gặp hắn, thằng anh trời đánh
của tôi. Chính Thụy cũng chỉ mới gặp
Ban Mai, chỉ biết cô ta công tác trong
ty văn hóa tỉnh Hòa Bình, nhưng hứa sẽ
tìm giúp số điện thoại.
Tôi ra ngoài ăn tối. Cô tiếp viên
khách sạn chặn tôi ở cửa, thì thầm:
"Lúc công an đến làm việc, em cứ sợ
là anh bị bắt ở vườn hoa..."
Lắc đầu, tôi không nói gì thêm. Cô
tiếp viên đoán: "Thế chắc anh bị đứa
nào nó móc túi hay cướp giựt, phải
không?". Tôi lại lắc. Tai vách mạch
rừng, ngay với cô tiếp viên này cũng
nên khai báo thành khẩn. Thế là tôi kể
lại, ngắn gọn thôi, cái lý do tôi đã trình
bầy cho công an, và kết luận:
"Công an ta thật hữu hiệu, lại đối đãi
rất lịch sự, không đánh đập nạt nộ gì,
xử lý đúng nếp sống văn minh, theo
hiến pháp và pháp luật".
Không hiểu sao, cô tiếp viên cười
bẽn lẽn. Còn tôi, tôi chợt giật mình. Bây
giờ tôi cũng nói dối được. Và vô tư, cứ
như thật.
Tôi đi ăn phở. Nhớ lời Thụy, tôi không
dám đến phở Thìn có tiếng là ngon,
nhưng xập xệ bình dân. Tôi chọn phở
44, một quán phở nhìn ra hồ, có máy
lạnh và bàn ghế hẳn hoi, dành cho
những người có tiền như bọn du khách
ngoại quốc và đám Việt kiều. Phở thì
chắc là bò, mà bò nước ta thông minh
cần cù, chẳng phải như bò điên lở mồm
long móng bị cấm ở Âu Châu đâu. Vừa
húp nước phở, tôi vừa tự hỏi, lý do gì
mà cô tiếp viên khách sạn cứ nhắc đến
một cái vườn hoa, rõ là có ý dò hỏi xem
tôi có gì dính líu đến đấy không. Thằng
bé chơi trò điệp viên trong tôi thức
giấc. Cộng hưởng với nỗi đớn hèn khiến
tôi nói dối như thật, thằng bé đó đâm
ra liều lĩnh, sống lại giấc mơ điệp viên
thuở thiếu thời. Nó điều tra. Rất dễ, vì
ai cũng biết. Đó là vườn hoa Mai Xuân
Thưởng.
Trưa hôm sau, len lỏi giữa những tán
lá trụi nắng, tôi lần đến góc cái vườn
hoa đó. Bạt chăng chắn gió che cho
đám người kẻ ngồi kẻ nằm. Một bà cụ
móm mém ngước lên nhìn, miệng mấp
máy: "Ông hỏi ai?". Tôi đáp: "Thưa cụ
cháu tìm anh cháu", mô tả hình dạng
hắn, nhưng chẳng một ai nói gì. Bà cụ
lại gặng: "Cậu ấy từ đâu đến? Ở đây thì
Bắc có, Nam có, Trung có. Tôi từ Thái
Bình. Còn bà này, - tay chỉ một phụ nữ
xồn xồn, cụ thều thào - đến từ Kiên
Giang. Ông cụ đây thì Đồng Tháp, ông
kia từ Hà Tĩnh... Toàn người có tuổi cả.
Hiện còn một cô người Thái Bình, lại là
một nhà ngoại cảm nên người ta còn
e... Cô ấy bảo nhờ ơn trên, biết sớm
muộn chúng tôi sẽ được cứu rỗi, oan
khiên gì cũng giải được!". Tôi thầm nhủ,
với cái khả năng siêu nhiên ấy, cô ta có
thể giúp tôi tìm ra cái thằng anh trời
đánh kia không? Hỏi cô ấy ở đâu thì bà
cụ bảo cứ đến khi mặt trời lặn cô ta
mới ra đây, đầu đội khăn vàng, nhìn
không lẫn được.
Tối nhá nhem, mây nặng trĩu chỉ
chực đè xuống Hà Nội nóng như lên
sốt. Điện cho Thụy, tôi xin được số Ban
Mai ở Hòa Bình, nhưng là số cơ quan,
tôi gọi không ai trả lời vì quá giờ hành
chính. Ăn qua loa, tôi quyết định quay
lại vườn hoa đang đươm độc với những
người dân oan mất nhà mất đất "khiếu
kiện đông người", chủ ý tìm hỏi nhà
ngoại cảm có khả năng đối thoại được
với thần linh. Dĩ nhiên, tôi không dám
nói với ai. Để lấy can đảm, tôi lại lấy
tâm thế của một điệp viên nhị trùng
đang bị bám, chơi trò đi vòng vèo, khi
taxi khi xe ôm, tưởng tượng mình "cắt
đuôi" địch. Đến gần vườn hoa, tôi tản
bộ như một kẻ nhàn du, vào quán cháo
giáp dãy nhà bỏ hoang. Dân oan giấu
màn chiếu chăn mền ở đấy, mắt trước
mắt sau, lúi húi xách về vườn hoa, lưng
gò xuống tưởng có thể bé đi như con
giun cái kiến. Đi theo họ, tôi bước vào
một kịch trường kỳ dị, nhìn quanh
quẩn. Dưới một gốc cây, nhà ngoại
cảm tên Tiểu Hằng đầu quấn khăn
vàng ngồi đấy, mô đất bên cạnh cắm
một bó nhang đỏ lập loè trong gió. Tôi
đến ngồi trước mặt cô, cô ngước lên,
hỏi tôi muốn hỏi gì, người âm hay
người dương. Thuật lại chuyện tôi đi
tìm thằng anh chết tiệt với một thứ đầu
đuôi nói ra khó ai tin, cô ta chỉ cười,
bảo tôi đặt quẻ đi. Cô nhắm mắt trầm
ngâm, thì thào với những đấng thần
linh còn phù trợ đám người trần mắt
thịt, khoảng đâu mươi phút. Khi mở
mắt nhìn tôi, mắt cô vô cảm, ánh mắt
đến từ một thế giới khác, bí ẩn, dọa
nạt. Tôi đợi, lòng hồi hộp, tự hỏi bao
nhiêu năm tưởng mình duy lý mà tại
sao nay đang ngồi chờ những lời phán
từ một cõi siêu linh không kiểm chứng
được. Lát sau, cô Hằng lên tiếng, ngắn
gọn, nhưng quả quyết:
"Đi đâu nghe tiếng gào tìm Đào Hạ
Trang thì chính là hắn, kẻ hóa rồ nhận
mình là một người bạn triều Lý..."
*
* *
Tôi là một kẻ chẳng ra gì. Vô cảm.
Ích kỷ. Tôi ngơ vấn nạn của mọi người,
chăm chăm hỏi nhà ngoại cảm chỉ một
câu, ngẫm lại mới thấy ngớ ngẩn, là
cái thằng anh chết tiệt của tôi ở đâu.
Nó ở đâu thì ở, việc gì đến tôi. Thật mà
nói, tôi chưa bao giờ coi nó như một
người bạn. Nó khác tôi, tất cả. Nó hão
huyễn, tôi thực tế. Nó may mắn có cha
có mẹ. Tôi, một đứa con hoang. Nó
tham vọng đổi đời. Tôi, quần quật với
chỉ đời mình cũng đã quá sức. Nó chỗ
nào cũng có người yêu. Nhưng tôi, chỉ
có độc một người vợ. Hắn làm thơ, còn
tôi, tôi là anh chuyên viên kế toán,
ngày ngày ghi chép những con số vô
hồn, cộng cộng trừ trừ những bài toán
sơ cấp giả hình làm dáng quan trọng.
Hắn có những người bạn được thần
nhân mách bảo cách Bảo Quốc Hộ
Dân. Tôi chẳng quen biết ai, cô độc như
một con sâu. Một con sâu róm vì chẳng
biết cười hiền hoà, lại lông lá dị kỳ tởm
lợm. Ấy thế, tại vì sao mà tôi lại chỉ hỏi
được nhà ngoại cảm tên Hằng cái câu
hỏi khốn nạn, và được biết có một
thằng điên đi tìm Đào Hạ Trang. Lại
một con đàn bà, chắc chắn nó phải có
gì mới quyến rũ thằng kia đến độ đổ
khùng đi réo tên để cả nước cùng biết.
Không, cả nước thì e hơi quá, nhưng lọt
đến tai cư dân quanh đây hẳn là có
thật.
Lẩn về khách sạn, tôi nằm dài, mở
TV, chắc chắn thế nào cũng có tin về
vụ "khiếu kiện đông người" ở vườn hoa
Mai Xuân Thưởng. Nhưng không, chỉ có
hình ảnh thi hoa hậu Việt Nam duyên
dáng, tin ta được ủng hộ gia nhập "đúp
bờ vê tê u", tin Việt kiều "vinh danh"
đóng góp với đất nước, tin cúm gà, tin
heo tai xanh, bò long móng... đều được
những cơ quan có chức năng giải quyết
kịp thời. Tôi thiếp ngủ trong tiếng í éo
rôm rả một phim Đài Loan, lại chuyện
yêu nhau mà oái oăm chia tay vì chàng
cảm thấy trách nhiệm với hai đứa con
riêng. Và nàng, vừa trẻ vừa đẹp, đi qua
San Francisco để quên duyên tình lỡ
dở. Nhưng thật bất ngờ, nàng gặp lại
người yêu thời còn là sinh viên, nay
đang làm giám đốc một công ty lớn
bên Mỹ, mặc đồ bộ, đi xe Mercedes,
đeo kính dâm, mồm nhai suynh-gôm...
Sáng dậy, tôi điện thoại ngay cho
Ban Mai sau giờ hành chính. Sau khi tự
giới thiệu và kể tôi đi tìm thằng chết
tiệt, Ban Mai vui vẻ, giọng như chim:
"Anh ấy lên Mường Lát cách đây hai
tuần, chính em đưa lại giới thiệu nường
Phin. Trưa mai em có việc về Hà Nội, tối
phải đi nghe hát xẩm. Nếu anh tò mò
muốn đi xem nét văn hóa truyền thống
dân tộc này, em xin mời, em sẽ cho
anh thêm chi tiết..."
Thì ra Ban Mai phải đi nghe hát xẩm
vì nàng chuyên trách phần văn hóa
dân gian cho Ty Thông tin Văn hóa.
Nhưng hát xẩm, theo cái kiến thức nhỏ
bằng hạt đậu của tôi, là hát khi đi ăn
mày, ê a con cá nó sống nhờ nước, tôi
sống nhờ ông đi qua bà đi lại, ngửa nón
đợi bố thí của những kẻ động lòng.
Chẳng lẽ đi ăn mày nay thành truyền
thống? Tôi nghĩ quanh, bật cười về cái
dớ dẩn của một anh dở ngô dở ngọng
trước những tình tự dân tộc.
Trước khi gặp Ban Mai, tôi có cả một
ngày, không biết phải làm gì cho hết.
Ra Bờ Hồ, tôi sợ gặp lại con bé con, mẹ
nó, và nhất là hình ảnh bà cụ bị xe chẹt
chết. Vả lại, cái dòng xe gắn máy rú rít
nhả hơi xăng chạy vòng vòng chẳng có
tác động gì khác là căng bựt cân não
đến một lúc thì thần kinh nhão ra vô
cảm. Hỏi cô tiếp viên khách sạn, cô
mỉm cười: "Thế anh đã đi thăm lăng Bác
chưa? Đi sớm, chứ không thì đông lắm
đấy!". Tôi ngần ngừ: "Quanh lăng có cây
xanh không?". Cô ta vui vẻ: "Muốn cây
xanh thì phải đến chỗ Bảo tàng, gần
nhà sàn Bác Hồ và chùa Một Cột. Chỗ
ấy du khách nhiều, đông vui lắm!".
*
* *
Đến Bảo tàng, tôi theo chân dòng
người, xem những bức ảnh phóng lớn
từ một lịch sử hoành tráng đầy dâu bể
thời cận đại, có hang Pác Bó, chiến khu
Việt Bắc, Đại tướng Giáp trong chiến
dịch Điện Biên Phủ, Bác Hồ cưỡi ngựa
trong rừng, Bác Hồ và thiếu nhi, Bác Hồ
tiếp các sắc tộc thiểu số... Rồi nhà sàn,
cuốn sách mở ngửa của bác sĩ Spock
về giáo dục trẻ em, cái bàn con con
của một nhân vật vĩ đại nhưng giản dị.
Và chùa Một Cột. Chùa nay được trùng
tu lại, chắc khác với ngôi chùa cổ xây
từ thời Lý, lớp sơn đỏ có thếp vàng còn
mới toanh chói chang dưới nắng trưa
gay gắt. Tìm một bóng râm, tôi ngồi, đưa mắt
nhìn quanh. Gốc cây ngay bên cạnh, một cụ già
đeo kính đen thầy bói, tay ôm một cái thúng nhỏ
trên đậy bằng mẹt, sờ soạng như mù. Cụ nghe tiếng
sột soạt, quay về phía tôi, nói:
‘’ Mua giúp cho tôi thẻ hương nhé! Chùa này
linh thiêng lắm, cầu được ước thấy!’’
‘’ Cám ơn cụ, cháu chẳng cầu gì cả!’’
‘’ Ông không cầu gì à? Quái lạ, đám quan
quyền cầu giầu sang danh vọng, lũ ăn mày cầu của
bố thí hầu no bụng… Ông không có tiền cứ nói
thật, tôi biếu nén hương vào lễ Thánh.’’
‘’ Cám ơn cụ, có cầu, cháu chỉ cầu những điều
người làm được mà Thánh Thần thì không!'’
‘’ Cái gì mà Thánh Thần không làm được!’’, cụ
già hỏi, giọng có chút ngạc nhiên.
‘’ Chẳng hạn như khi đi xe máy quanh hồ Hoàn
Kiếm, đừng đạp ga lao đi mà chẳng kể đến chuyện
gây tai nạn chết người!’’, tôi đáp rồi chậm rãi kể
lại việc bà cụ qua đường bị xe đâm. Cụ già thở dài,
ngước mắt nhìn lên, thủng thẳng :
‘’ Những chuyện nghịch lý ngược đời ở đây
nhiều lắm, kể không hết đâu! Trông ông như người
Sài Gòn…Sài Gòn thì thế nào?’’
‘’ Cháu chưa đi Sài Gòn nhưng nghe nói
nay cũng thế…’’
‘’ Ờ, cái xấu lây nhanh hơn hủi, người ta bây
giờ cứ sống chết mặc bay. Thế ông ở đâu?’’
Nghe tôi đáp tôi từ Canada về, cụ già bật cười,
miệng thốt ‘’ …thì ra khúc ruột ngàn dặm, may
nhỉ… ‘’. Cụ bưng thúng đến, ngồi xổm, miệng thì
thào :
‘’Thế thì ông phải coi hàng xịn mua làm kỷ
niệm…Gặp khách tôi mới dám cho xem!’’
Tay giở cái mẹt đậy thúng, cụ chìa vào mắt tôi.
Trong thúng, toàn những huân chương. Cụ lục
thúng tìm, rồi giơ lên, cao giọng:
‘’ Cái này, Huân chương Điện Biên, cổ nhất,
hơn sáu mươi năm rồi. Đây là huân chương của
anh bạn nối khố của tôi, người cùng làng, lại cùng
đơn vị đi đánh đồi Béatrice. Tôi để ông giá rẻ, ông
giữ cho bạn bè quốc tế xem…’’
Không đáp, tôi hỏi, giọng không dấu được kinh
ngạc:
‘’ Cụ lấy đâu ra mà nhiều huân chương đến
thế này?’’
‘’ Ấy, chết hay chưa chết thì con cháu cũng
mang bán để lấy cái đút vào mồm, ông ạ! Nhà quê
chúng tôi chẳng còn gì, ngoài đống huân chương
và bảng Liệt Sĩ. Tôi mang lên nơi có du khách bán,
lấy tiền mang về cho họ để có cái mà ăn. Thường
thì bán khó lắm, và mỗi lần bán được, tôi đều thắp
hương khấn vái vong hồn bạn bè đồng ngũ…’’
Cổ tôi nghẹn lại. Nhổm dậy, tôi đi như
chạy, chẳng hiểu sao nước mắt ứa ra.
Lẩn dưới những tàn cây che nắng, đầu
óc tôi chập chờn hư thực. Cứ thế, tôi
bước, hoang mang không còn biết mình
ở đâu, và đang sống ở thời nào. Thời Lý,
thời thằng anh chết tiệt của tôi quay về
trong bức e-mail có chiếu dời đô? Tiếng
hát Đào Hạ Trang, mùi cứt trâu trên bờ
sông Nhị, chuyện đi tìm vật quí hiếm
Bảo Quốc Hộ Dân? Tất cả những rối rắm
đó quậy lộn vào nhau thành thứ hiện
thực rời từng mảng lềnh bềnh trong tâm
thức. Tôi giụi mắt. Không được. Phải bám
vào ngày hôm nay.
Tìm một bóng râm, tôi ngồi. Thời Lý,
thời thằng anh chết tiệt của tôi quay về
trong bức e-mail có chiếu dời đô, tiếng
hát Đào Hạ Trang, mùi cứt trâu trên bờ
sông Nhị, chuyện đi tìm vật quý hiếm
Bảo Quốc Hộ Dân. Tất cả những rối
rắm đó quậy lộn vào nhau thành thứ
hiện thực rời từng mảng lềnh bềnh
trong tâm thức. Tôi giụi mắt. Không
được. Phải bám vào ngày hôm nay. Tối
này, tôi sẽ gặp Ban Mai, hỏi ai là nường
Phin, và phải tìm cho bằng được thằng
chết tiệt nay bặt tin.
*
* *
Đi dọc Hàng Đào khi phố vừa lên
đèn, tôi chưa đến chợ Đồng Xuân đã
nghe nhịp phách lẫn vào tiếng nhị văng
vẳng. Người đông, đi phải lách, và
trong cái đám chen chúc đủ thứ mùi tôi
bỗng thò tay giữ chiếc ví trong túi
quần, cụm từ ăn cắp chợ Đồng Xuân từ
thời xa xưa rập rình đe dọa. Đến dãy
cửa hàng ăn uống giữa chợ, tiếng chào
mời dưới ánh nê-ông nhợt nhạt vang
lên tứ phía. Chỗ nào cũng đặc sản của
hàng chục địa danh, mùi dầu mỡ mắm
muối gia vị sực vào mũi. Cạnh đó, một
sân khấu dàn dựng sơ sài với khoảng
ba chục cái ghế nhựa đặt đúng hàng
đúng lối ở vòng trong. Vòng ngoài,
người xúm nhau đứng. Trẻ nít chạy
vòng vòng. Kẻ cười kẻ nói. Dăm thanh
niên chen vai thích cánh chen vào
chiếm chỗ. Tiếng bà già càu nhàu.
Tiếng gái nạ dòng chua loét cất lên
chửi. Rồi người can ngăn, yêu cầu nếp
sống văn minh, đừng cậy khoẻ ức hiếp
yếu, cậy trẻ bắt nạt già, phải có trước
sau tôn ti trên dưới. Trong không khí
nháo nhào, tiếng mi-crô rè rè cất lên,
giới thiệu đêm văn hóa này do Trung
tâm Phát triển Âm nhạc Việt Nam tổ
chức phục vụ đồng bào. Theo lời dặn
của Ban Mai, tôi hỏi một anh phụ trách
trật tự. Lát sau, một người trạc đôi
mươi ra, hồn nhiên chào rồi đưa tôi vào
chỗ sau sân khấu, tay chỉ một người
con gái. Chưa chắc có phải là Ban Mai
không, tôi định hỏi nhưng nàng đưa
một tay lên môi khẽ suỵt, tay kia chỉ ra
sân khấu. Nàng cười bằng mắt, nhẹ
nhàng: "Anh ra ngồi ghế ngoài sân xem
cho thoải mái!".
Một cụ già khăn đóng áo dài, tay
cầm giấy, trịnh trọng đọc. Cụ giải thích
xưa vào thời phong kiến thực dân người
mù hát xẩm xin ăn là do bức bách vật
chất, nhưng nay nước ta kinh tế thị
trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa đã
xóa đói giảm nghèo, hát xẩm được
nâng cấp thành nghệ thuật đáp ứng
một nhu cầu tâm linh quần chúng. Về
làn điệu, xẩm có rất nhiều bài, nhưng
có 8 bài đặc trưng là Xẩm chợ, Chênh
bong, Riềm huê, Ba bực nhịp bằng,
Phồn huê, Hò bốn mùa, Hát ai và Xẩm
thập ân... Người hát xẩm trước đây là
những người mù. Họ phải học thuộc làn
điệu, phải biết chơi đàn, chơi phách,
nắm được hát đến chỗ nào thì dạo đàn,
chỗ nào được đánh phách vào, chỗ nào
đàn chỉ có đệm mà không chêm giai
điệu, tạo được những âm điệu đặc sắc
do cảm nhận cuộc sống qua đôi tai.
Khuyết tật giác quan của họ khiến mọi
người dễ cảm thông. Đặc tính nổi bật
trong nghệ thuật hát xẩm là tính hài
hước, đả kích sâu cay, châm biếm, phê
phán thói đời và tiếng oán than những
nỗi buồn da diết, khổ đau của kiếp
người.
Cụ dứt lời, chẳng thấy ai phản ứng
gì, vài kẻ vỗ tay cho lịch sự. Thế là mọi
người không ai nhìn ai cùng vỗ tay hồ
hởi. Đám nghệ sĩ bậc thầy ra trước
chào khán giả. Có cả nghệ sĩ nhân dân,
nghệ sĩ ưu tú. Họ đứng tuổi, quần trắng
áo the, đầu đội khăn xếp, tay ôm đàn
ôm nhị, mắt đeo kính đen giả như mù
cho đậm đà bản sắc. Có cả lớp trẻ,
thường đã tốt nghiệp bộ môn nhạc
truyền thống dạy ở Nhạc viện, trang
phục rất chỉn chu, nhất là đám thanh
nữ thướt tha trong những vạt áo tứ
thân sặc sỡ che quanh giải yếm đào.
Nhưng buổi tối trình diễn hôm nay
nhằm mục đích vinh danh cụ Hà Thị
Cầu, nghệ nhân từ Ninh Bình, người đã
truyền dậy "nghề" cho đám hậu sinh.
Nghệ sĩ trẻ Tuyết Hoa dìu cụ ra. Cụ lòa,
móm mém, đầu đội khăn mỏ quạ, cúi
chào khán giả rồi vào. Thật lạ, không
hiểu vì sao tiếng vỗ tay ran dội như
pháo. Cụ phải ra sân khấu thêm một
lần, cũng vẫn chẳng cất lời, chỉ chắp
tay vái khán giả. Sau khi đó, Ban Mai ra
ngồi cạnh tôi, dịu dàng bảo:
"Sau buổi hát này, ta mới nói chuyện
dài được..."
Hiểu ý, tôi ngẩng nhìn sân khấu, chỉ
kịp nhận biết Ban Mai có một mái tóc
thật dài, dài có lẽ chấm gót. Điều này
hiếm. Vào thời buổi này, ai nấy háo hức
Đổi Mới đến cả chân mày kẽ tóc, để tóc
dài là hơi bị xưa.
Tiếng đàn bầu chẳng khác tiếng
người nỉ non khóc, từng chặp nấc lên
theo nhịp phách nấc nghẹn, đệm
những lời thương thân oán phận, từ
Tiễn anh khóa, đến Xẩm chợ... rồi Lỡ
bước sang ngang... Nghệ sĩ trình diễn
ngồi hát, tay sử dụng một loại nhạc cụ,
nhập vào hồn vía quá vãng còn luẩn
quất tựa những linh hồn lạc lõng một
thời chưa hẳn khuất. Người nghe im
lặng. Không còn tiếng rao hàng. Không
cả tiếng trẻ con hò hét. Và họ vỗ tay
như đoạn kết cho mỗi bài hát thường
kể lại những lỡ làng dang dở. Sau, khán
giả hò tên cụ Cầu.
Cụ lại ra, Tuyết Hoa vẫn ở bên. Cụ
ngồi xuống, tay quơ cây đàn nhị, lẳng
lặng so dây, bật khẽ một tiếng, rồi
dặng hắng lấy giọng. Như một phép lạ,
khi cụ cất tiếng hát, giọng thanh hẳn
chứ không có chút gì mỏi mệt của một
người ở tuổi trên dưới tám mươi. Cuối
câu, cụ luyến láy tự nhiên như người
nói, tiếng vang vang trong một phiên
tối chợ:
Sáng trăng suông vằng vặc cái
đêm rằm
Nửa đêm về sáng trăng nằm
nơi ngọn tre
Anh có yêu em cho trọn một
bề,
Để em thơ thẩn ngồi kề bên
trăng.
Sự tình này ai thấu cho chăng?
Để em chỉ nguyện bóng trăng
chịu sầu.
Tương tư nối một nhịp đôi ba
cầu,
Bắc Nam đôi ngả, chịu sầu đôi
nơi.
Con chim khôn chết mệt về
mồi.
Con chim khôn. Là mẹ? Chết không
phải vì mồi, chết vì lũ chim non đợi
chim mẹ về mồi? Cụ Cầu hát xong,
khán giả im như bị hớp hồn đến cả
phút, lát sau mới cất tiếng hoan hô đến
vỡ chợ. Cụ mỉm cười, nắm tay Tuyết
Hoa, nét mặt rạng rỡ, ân cần: "Tôi hát
cái gì cho vui nhé! Nẫy giờ, toàn những
bài buồn, buồn quá. Muốn vui một tí,
thời nào cũng phải kể chuyện ngược
đời...". Tuyết Hoa so dây cây nhị. Cụ
Cầu cầm phách gõ từng tràng lách
cách. Thình lình cụ cất lời, giọng dí
dỏm:
Hỡi người trai trẻ kia ơi,
Muốn nghe lại đây
em kể bài ngược đời cho
nghe...
Chuột kia cắn cổ con mèo,
Một đàn châu chấu đuổi theo
đá gà.
Trạch chấu cắn cổ ba ba,
Một lũ đàn bà bóp vú đàn ông.
Người nằm xuống để lợn cạo
lông.
Một chục quả hồng nuốt bà lão
tám mươi.
... Thớt kia chực nghiến con
dao,
Một đàn cóc chực đớp sao trên
giời.
... Dế mèn thức suốt đêm
khuya,
Hát xẩm không tiền nên nghèo
xác xơ...
*
* *
Ban Mai cắn môi, quả quyết:
"Anh hỏi em có thấy gì lạ không, em
nghĩ lại, không anh ạ. Anh ấy bản chất
là người đam mê, chứ ngoài ra thì bình
thường như em hiểu. Duy có chuyện
cái vật anh ấy gọi là Bảo Quốc Hộ Dân,
nói ra chắc ít người tin. Nhưng có điều
người đời tin hàng mấy chục năm, chịu
cực chịu khổ, mất con mất cái, đổ
xương đổ máu cho nó mà nay mở mắt
nhìn ra thì như vỡ một cơn mộng
hoang. Vậy anh bảo, bây giờ ai dám tin
gì? Buồn hơn nữa, ai dám tin ai? Anh
ấy có lạ là ở chỗ anh ấy vẫn dám tin.
Vào em chẳng hạn. Sau dăm câu
chuyện, anh ấy kể cho em chuyến
xuống núi Nùng với người dẫn đường.
Vất vả lắm. Phải đấm hàng chục triệu
làm tiền mãi lộ, xuống thì trong đường
hầm toàn rắn với chuột lộn nhộn lao
nhao. Đến gần chỗ thông ra sông, anh
ấy bảo khi đó con đường hầm nước
ngập đến bụng, toàn là rết chẳng biết
ở đâu chui ra, con nào con nấy to bằng
chiếc đũa, bám vào đầu vào tóc, chui
xuống cổ xuống vai, lách vào bụng vào
ngực. Đến gần đích, thì dơi bay ra hàng
đàn, cứ nhằm người lao đến cắn. Anh
ấy bảo, chắc pháp thuật của Cao Biền,
kẻ đã trấn yểm long mạch khiến nước
ta cứ yên bình là kiệt dân khí... Theo
đúng lời thần nhân, anh ấy tìm nửa
ngày mới thấy cái chày đá cắm vào cối,
nhưng ngược đời, cối ở trên chầy ở
dưới, chặn đúng vào một mạch nước
phun bọt lên. Đào nhấc được vật đó thì
có tiếng phì phì ngay bên tai. Anh ấy
quay lại, eo ôi, một con rắn dưới cái
chầy chui ra, có sáu con mắt, lè lưỡi to
bằng bàn tay, xông lại. Đã được dặn
cách chống, anh ấy niệm... câu gì như
a la ba ha om nít ràng... mà nay em
quên mất. Con rắn liền gục đầu xuống,
theo lối ra sông trườn đi, và lúc quẫy
đuôi, nó hóa thành rồng bay lên trời.
Anh ấy bảo nay Hà Nội sẽ lại hóa thành
Thăng Long, nếu giải được vật trấn
yểm bằng cách giam nó vào núi Nà
Mèo ở gần Mai Châu trên Hòa Bình.
Anh ấy nhờ em đưa đường, nhưng em
không phải người Mai Châu, em mới
nhờ nường Phin vốn người Mường Lát
cạnh đấy đưa anh ấy đi. Tính ra đến
nay hai tuần rồi, nhưng em chẳng được
tin tức gì. Trước khi đi Hà Nội, biết sẽ
gặp anh, em có điện thoại cho nường
Phin. Cô ấy cũng chưa về, anh ạ!"
"Nhưng nường Phin là ai?", tôi hỏi.
Ban Mai cười:
"Nhưng anh là ai đã chứ! Bây giờ cho
em hỏi anh tìm anh ấy làm gì?"
Hình như đây là lần đầu có người hỏi
tôi là ai. Hình như đây cũng là lần đầu
tôi nói về tôi, nhưng tôi nói cả giờ thì
cũng cứ loanh quoanh lẩn quẩn những
chuyện lung tung. Tôi liệu có thực biết
tôi là ai không, ngoài những chuyện
chán mớ đời như công ăn việc làm, vợ
con, nhà cửa, xe cộ... Thú thực như vậy
với Ban Mai, tôi im lặng, không biết nói
gì hơn. Lát sau, tôi ngập ngừng xin Ban
Mai đưa tôi đi tìm nường Phin và thằng
anh chết tiệt chẳng biết đã giam được
cái vật trấn yểm kia chưa. Chắc Ban
Mai từ chối, tôi cúi đầu di chân xuống
đất. Có lẽ vì thương hại, Ban Mai cười
hiền hòa, bảo: "Cũng được, và thế là
anh có thời giờ nói cho em biết anh là
ai đấy nhé!"