Cửa nào là cửa khôn?
meta4954 31.03.2009 11:59:44 (permalink)
Cửa nào là cửa khôn?
Quay nhanh vòng Bát Quái
Muốn hoà tan Lưỡng Nghi thành Thái Cực
Cửa nào là cửa Khôn ?
(Thơ Hài Cú)


Đây là một đoạn trong Hậu Hán Thư後漢書:
"Phàm giao chỉ sở thống, tuy trí huận[QUẬN] quyền[HUYỆN], nhi ngôn ngữ các dị, trọng dịch nãi thông. Nhân như cầm thú, trường[TRƯỚNG] ấu vô biệt. Hạng kế đồ tiễn, dĩ bố quán đầu nhi trứ chi. Hậu pha tỉ trung quốc tội nhân, sử tạp cư kỳ gian, nãi sảo tri ngôn ngữ, tiệm kiến lễ hóa"


Dịch: Về việc cai trị xứ Giao Chỉ, dù là quan quận huyện, ngôn ngữ đều khác, có dịch cũng khó hiểu. Con người như cầm thú, già cả trẻ con không phân biệt. Đầu tóc không cắt, rồi lấy vải mà quấn đầu. Và cũng không bằng người tù tội bên Trung Quốc, họ ở chung lẫn lộn với nhau, lại ít biết về ngôn ngữ, chậm hiểu lễ hóa.

Người ta nhân danh lòng tốt để dạy cho chúng ta biết thế nào là lễ nghĩa để mở đầu cho công cuộc hàng ngàn năm đô hộ nước ta. Cuộc chiến tranh Pháp Việt cũng bắt đầu bằng việc đem ánh sáng văn minh của người da trắng đến cho chúng ta. Đế quốc Nhật cũng tung quân đi khắp nơi để xây dựng một "Thịnh vượng chung Đông Nam Á", Cộng Sản Quốc Tế cũng hô hào chém giết để giải phóng con người nhưng thực chất là gieo rắc gông xiềng cho con người, Cộng Sản Việt Nam cũng bám theo đuôi Cộng Sản Quốc Tế tiến chiếm miền Nam để mang lại cơm no áo ấm cho nhân dân mà theo quan điểm nhân văn, chỉ là cố liều chết của một bầy đoàn ở nơi cạn kiệt thực phẩm tìm về nơi dư thừa thực phẩm. Tiếc thay cuộc thiên di của một khối người đói cuộc thiên di về miền Nam chỉ đem lại no ấm cho một số bọn lãnh đạo. Gần đây hơn, người ta xâm lấn lãnh thổ của Việt Nam chỉ vì "sự thực khách quan" rằng Tây Sa đã từng là của họ hàng ngàn năm về trước trong lịch sử. Hỏi ngược lại, dân tộc Việt đã từng ở Động Đình Hồ hàng ngàn năm về trước, có chứng cớ hẳn hòi, ta có quyền đòi Trung Quốc trả khu vực tỉnh Hồ Nam cho ta không? Hoàn cảnh ta chắc là không dám đòi. Kampuchia dám đòi Sài Gòn không? Cũng không.  Thì ra, cái "sự thực khách quan" chỉ là cái cớ của kẻ mạnh. Người ta nhân danh "Sự thực khách quan"(Chân) để thôn tính lẫn nhau. Người ta nhân danh đem văn minh lễ nghĩa (Thiện) cũng để thôn tính nhau. Và cuối cùng trong các diễn đàn,  người ta nhân danh Mỹ Thuật để áp đặt quan điểm của mình lên kẻ khác, hoặc khinh thị kẻ khác cũng chỉ nhân danh tính khách quan của nghệ thuật.
Ngoại trừ dã tâm của kẻ mạnh nặng óc thống trị, hầu hết con người bảo vệ "lẽ phải" đều không rõ thế nào là chân thiện mỹ. Họ chỉ hiểu một phần nào đó hoặc không hiểu gì hết nhưng lại tưởng rằng mình hiểu một cách quán triệt để nhân một lúc nào đó khi mà thời thế sẵn có, họ áp đặt quan điểm của họ lên kẻ khác không ngoài mục đích: Lòng tham. Lòng tham đây gồm óc thống trị, óc chiếm đoạt. Biết bao xương máu đổ ra, biết bao thương đau gieo rắc chỉ vì cái chân thiện mỹ được hiểu một cách mông lung để rồi tùy tiện dùng nó như một cái cớ buộc người khác phải cúi đầu khuất phục.
Sau vườn nhà Meta có một cái ao nuôi cá Koi, một loại cá kiểng của Nhật. Đối với cá Koi, thế giới của chúng là 3 chiều thủy quyển và những giề lục bình rải rác trong ao. Suốt đời bị giam hãm dưới ao, chúng không thể nào mường tượng ra rằng có một vũ trụ khác trên mặt nước cũng có 3 chiều không gian và có những sinh vật đi bằng 2 chân hoàn toàn khác chúng. Meta tưởng tượng dứng trên bờ ao, cách bờ ao có vài tấc nhưng vũ trụ của Meta và của cá khác nhau một trời một vực. Meta và cá không hề xâm lấn vũ trụ của nhau dù cái ngăn cách chỉ là một biên giới tầm thường: cái mặt nước.
Rồi Meta tưởng tượng rằng có một con cá "khoa học gia" trong số những con cá tầm thường khác. Nó luôn chế giễu bất kỳ một con cá tầm thường nào nói đến  một vũ trụ song song với vũ trụ của cá  bên trên mặt nước. Nói khác đi, một vũ trụ có 6 chiều, 3 chiều thủy quyển công với 3 chiều khí quyển  là điều nhảm nhí của những kẻ thất học. Lẽ giản dị là một sự kiện khoa học phải được tái tạo trong phòng thí nghiệm của cá khoa học gia. Cá khoa học gia đã cố gắng tạo một dấu vết chứng tỏ rằng có một vũ trụ "khô" kề cận bên vũ trụ của nó mà không bao giờ thành công, bởi nó đòi hỏi phải có một năng lượng vô tận mới có thể biến "vũ trụ nước" thành "vũ trụ khô". Đối với khoa học chỉ những gì có thể sờ, nếm, thấy, nghe và tái tạo trong phòng thí nghiệm mới có thể trở thành sự kiện khoa học và do đó trở thành chân lý. Một thế giới không thể thấy bên trên mặt nước là điều phản khoa học.
Một hôm sau khi ngó quanh không có ai, đặc biệt không có mụ vợ bé người nhưng to mồm, Meta vạch quần đái xuống nước. "Dòng thác cách mạng" của Meta đẩy các giề lục bình theo những hướng không thể định trước. Đối với cá, các giề lục bình tự nó di chuyển, không có gì đẩy hay lôi kéo. Hiện tượng này được con cá khoa học gọi là "lực" để khỏa lấp cái không biết của nó. Nó đưa ra một số ngôn từ đao to búa lớn như vũ trụ cong, trọng lực,  hay lượng tử gì đó để thuyết phục các con cá khác. Cái "lực" di chuyển những khóm lục bình trở thành chân lý. Muôn đời chúng không biết rằng ở một kích thước cao hơn, một năng lượng phát xuất từ giữa 2 cái cẳng của một sinh vật kỳ quái làm nhiễu động vũ trụ của chúng. Nói theo kiểu khoa học là có một giao động ở chiều kích thứ tư phát sinh ra lực. Bất cứ con cá nào nghĩ khác, nói khác đều là hạng ngu dốt, ít học.
Chân lý là gì? Là một sinh vật tù túng trong những chiều kích có sẵn của mình, ta chỉ có thể quan sát và suy ra từ những hiện tượng xảy ra trong vũ trụ của ta. Chúng ta thấy được một phần nhỏ của chân lý qua việc khảo sát hiện tượng. Nhưng hiện tượng không phải bản chất. Hoàn toàn chúng ta không thể  nắm bắt được bản chất qua việc khảo sát hiện tượng. Đặc biệt những bản chất phát sinh từ chiều kích khác.
Chân, thiện, mỹ nằm ở chiều kích khác. Bởi nếu nó hiện diện trong vũ trụ chúng ta, sẽ không có khoa học mà cứu cánh của nó là tìm tòi chân lý. Sẽ không có những tôn giáo khác nhau luôn băn khoăn về cái thiện và sẽ không có những tranh cãi không hề dứt về thế nào là cái mỹ trong nghệ thuật. Ở mọi diễn đàn, chẳng ai đồng ý với ai thế nào là hay dở, lành ác, đúng sai. Chúng ta chỉ cãi vì mỗi tranh luận viên nắm được một phần nào đó suy ra từ vài hiện tượng đơn lẻ.
Làm thế nào thấy được toàn diện chân thiện mỹ? Câu trả lời dễ nhất là phải đứng trên một chiều kích cao hơn. Vậy thì làm thế nào có thể đứng trên một chiều kích cao hơn? Phải biết những lực lôi kéo chúng ta khiến ta không thể rời khỏi vũ trụ của chúng ta. Những Pion (hạt lực giữ vai trò kết hợp những vật tử khác nhau, kể cả những vật tử tương phản nhau) níu kéo chúng ta không thể thăng hoa để chiêm ngưỡng cái vẻ đẹp của vũ trụ trên một bục nhìn bao quát. Những hạt Pion đó ở đâu? Nó ở ngay chính trong lòng chúng ta. Một chiều nào đó ta vui vẻ móc túi bố thí, một hôm nào đó ta xởi lởi bắt tay chị hàng xóm lắm điều, một lúc rảnh rỗi nào đó ta bắt gặp ta nghe hết một bài hát từ lâu ta không ưa chỉ vì có nhiều người ta ưa, ưa những bài hát ta không ưa. Dần dà ta thấy lực ràng buộc của Pion không to lớn như ta vẫn tưởng. Nó vẫn có thể bị triệt tiêu, bị vô hiệu bằng lực của tình người. Lúc ấy ta nghiễm nhiên vượt lên trên chính mình, quan sát mọi sự trên chiều kích cao hơn.
Mời các bạn cùng với Meta trở ngược dòng lịch sử để theo dõi quá trình nhân văn con người trong cuộc hành trình tìm chân thiện mỹ hay sự chuyển đổi thế giới quan song song với bước tiến hóa văn minh nhân loại.

Cuộc cách mạng khoa học thứ nhất.
 
Cuộc cách mạng khoa học - Cái chúng ta gọi là cuộc cách mạng đầu tiên của khoa học - Bắt đầu trong thế kỷ 15 và 16 bằng công trình của những nguời như Copernicus và Galileo, nguời khám phá ra sự vận hành của trái đất và thái duơng hệ; Johannes Kepler, nguời thiết lập những luật chuyển động của hành tinh; và Francis Bacon, nguời xác định phuơng pháp khoa học. Nhưng phải đến năm 1687 khi Isaac Newton ấn hành cuốn Nguyên lý mới đánh dấu sự tiến bộ thực sự của cuộc cách mạng tư tuởng về thế giới khoa học. Ba luật về động tử của Newton (sẽ có bài nói về 3 nguyên lý này) tổng hợp những buớc dọ dẫm về quan điểm khoa học và đặt nền tảng cho tân cơ học cổ điển đã từng thống trị tư tuởng khoa học qua 2 thế kỷ.
Vật lý cổ điển hay Newton sở đắc một bộ nguyên lý vững chãi làm nổi bật từ những gì đã qua. Triết lý và tôn giáo đặt căn bản vào chân lý qua suy tuởng và mặc khải (tiết lộ huyền nhiệm); khoa học Newton đặt căn bản trên sự khảo sát. Thế giới đã đuợc thiết tuởng gồm những dữ kiện có thể khảo sát, phân tích, loại suy thành vài định luật, nguyên lý đơn giản hay vài thành phần căn bản. Định luật và nguyên lý trở nên căn bản cho mọi lý thuyết và những hệ tiên liệu có thể trắc nghiệm qua những thử nghiệm, đuợc thực hiện trong sự chấp hành triệt để với phuơng pháp khoa học mới là ngăn cách toàn bộ hệ thống khỏi môi truờng xung quanh, tháo rã chúng thành những bộ phận đơn giản nhất và dùng cách chuyển vận của các cơ phận ấy để tiên liệu tuơng lai chưa tới của hệ thống.
Sự đơn giản, định luật thuyết, và tiên liệu là những trụ cột chính của phuơng pháp Newton . Bất cứ hệ thống hay vật thể nào bắt đầu từ vài tình trạng, vị trí cho sẵn và bị tác động bởi vài lực nào đó luôn có phản ứng giống nhau một cách chính xác. Nguyên nhân và hậu quả lên ngôi chí tôn, luôn luôn có sự liên hệ trực tiếp, liền lạc giữa lực tác động (nguyên nhân)lên vật thể và sự lệch huớng của vật thể ấy khỏi con đuờng ban đầu (hậu quả).
Lý học Newton cũng phát triển nhị nguyên thuyết (dualism) đã hiện diện trong văn hóa Tây phương từ 2000 năm . Triết lý Hy Lạp, Plato phân biệt giữa suy nghĩ và kinh nghiệm. Giáo hội Ki Tô sau này nhấn mạnh thuyết nhị nguyên qua hình ảnh con nguời và Thuợng Đế, thể xác và linh hồn và ở thế kỷ 17, Rene Descartes nhấn mạnh đến sự phân chia sắc bén giữa trí tuệ và thể xác. Cùng chiều huớng ấy, các khoa học gia thời Newton nhấn mạnh đến sự phân biệt giữa quan sát viên và đối vật (the observer and the observed). Các khoa học gia tự tách rời mình ra khỏi dữ kiện, giống như họ đã ngăn cách dữ kiện từ môi truờng xung quanh. Tách rời sự vật để khảo sát trở nên một tiêu chuẩn mới của tính khách quan. Khoa học gia qua khoa học gia, vuợt lên trên mọi hệ lụy, tách rời khỏi những gì mình khảo sát, chiêm nguỡng thế giới lý học từ một tháp ngà.
Bởi vì năng lực cũng như vẻ tráng lệ của sách luợc đơn giản Newton và với khóe nhìn táo bạo về chân lý, kinh nghiệm của phuơng pháp khoa học mới, khoa học Newton gây một ảnh huởng tức khắc lên văn hóa, vuợt khỏi phạm vi vật lý. Nét đặc trưng, phuơng pháp, giá trị, và kỹ thuật bao la bát ngát nó mang lại, chủ đạo trên toàn thể trí tuởng Tây phương. Đối với lãnh vực vĩ đại hơn, khoa học thay thế giáo hội Ki Tô như tiêu điểm cho sáng tạo trong văn minh Tây phương. Thế giới quan này thống trị Tây phuơng từ thế kỷ 17 cho đến đầu thế kỷ 20. Nó hiện thực hóa tiến bộ kỹ thuật trong cuộc cách mạng kỹ nghệ. Song song, nó phù hợp với sự nở rộ của cá nhân chủ nghĩa Tây phuơng và kinh tế kinh doanh tự do. Nó mang lại phép lạ của y học hiện đại, nó dẫn đến suy luận, phê phán giải phóng con nguời từ dốt nát, mê tín.
Khảo sát sự việc hay sự vật bằng cách tách rời nó khỏi mọi ảnh hưởng đạt được tính khách quan, được mọi người chấp nhận như một quy luật khoa học tìm hiểu về chân thiện mỹ. Nó đưa đến những giá trị tuyệt đối như chân/giả, thiện/ác và đẹp/xấu. Có những định nghĩa máy móc về chân thiện mỹ. Và mối đau khổ của con người là chiến tranh xảy ra. Anh ác quá, anh xấu quá, anh giả dối quá tôi phải tiêu diệt anh. Chúng ta không hề có khái niệm về đối xứng. Mọi sự việc mâu thuẫn với nhau đều có cùng một nguyên nhân ở trên một đẳng cấp cấu trúc cao hơn. Không có ác thì làm sao biết được giá trị của thiện? Không có xấu làm sao phân biệt với đẹp?

Lẽ biến dịch của sự việc.


Một cách nói dễ hiểu hơn, sự tan vỡ đối xứng chính là sự chuyển pha (phases), hay quá trình tiến hóa từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Trong Passages, Gail Sheehy nhấn mạnh rằng đời sống không phải là một dòng liên tục những kinh nghiệm như chúng ta lầm tưởng mà là tiến trình chuyển đổi qua vài giai đoạn khác nhau qua những xung đột cá biệt phải được thanh thoả và những mục tiêu phải được đạt.
Hơn thế nữa, nhà tâm lý học Erik Erikson còn đề xuất một lý thuyết  về những giai đoạn phát triển tâm lý học. Một mâu thuẫn căn bản là đặc tính chính cho mỗi giai đoạn. Khi mâu thuẫn này được giải quyết, chúng ta tiến đến giai đoạn kế. Nếu nó không được giải quyết, nó có thể băng hoại hay thoái hóa về thời kỳ trước đó. Lấy cuộc tiến chiếm miền Nam năm 1975 của Việt Cộng làm ví dụ. Lúc đó, ta thụt lùi về thời xe hơi chạy bằng than, dùng phân súc vật hay phân người trong nông nghiệp, và ta ăn thực phẩm gia súc như bo bo. Khi mâu thuẫn ý thức hệ không được giải quyết một cách khôn khéo và khoa học, ta không tiến lên một giai đoạn mới mà thụt lùi về thời kỳ tệ hại hơn hiện tại. Đó là bước sai lầm của con người. Con người phải thụt lùi để tìm ra giải pháp mới.
Cũng như thế, nhà tâm lý học Jean Piaget cho thấy rằng sự phát triển trí khôn thời thơ ấu cũng không là một tiến trình lãnh hội tiệm tiến mà là những giai đoạn đột ngột trong khả năng tạo ý niệm trong đầu em bé. Một tháng tuổi, một em bé không nhìn theo trái banh lăn khỏi tầm mắt vì nó không hiểu rằng một vật vẫn hiện hữu dù em không còn trông thấy. Qua tháng sau, em nhận biết điều này.
Đây là cốt lõi của biện chứng. Theo triết lý này, tất cả sự vật (kể cả con người và vũ trụ) phải đi qua một chuỗi giai đoạn. Mỗi giai đoạn đều chứa một  xung đột giữa 2 lực đối nghịch. Bản chất cuộc xung đột quyết định bản chất của giai đoạn kế. Khi cuộc xung đột được giải quyết, sự vật tiến lên một giai đoạn cao hơn, gọi là tổng hợp. Lúc đó một mâu thuẫn mới lại bắt đầu và tiến trình lập lại trong một đẳng cấp cao hơn.
Các triết gia gọi sự kiện này là sự chuyển đổi từ lượng sang phẩm. Sự thay đổi nhỏ về lượng rốt cuộc sẽ tích lũy cho tới khi có một cuộc "đoạn tuyệt" về phẩm với quá khứ. Lý thuyết này áp dụng cả về mặt xã hội. Những căng thẳng trong một xã hội có thể tăng tiến rất nhanh như ở Pháp cuối thế kỷ 18. Nông dân trước hiểm họa đói, tự phát một cuộc nổi loạn khiến bọn quý tộc co cụm lại trong thành lũy của họ. Khi căng thẳng  lên cao đến cực điểm, một sự chuyển pha từ lượng qua phẩm xảy ra. Nông dân võ trang chiếm Paris và phá ngục Bastille.
Sự chuyển pha cũng có thể biểu hiện một cách dữ dội. Ví dụ một đập nước trên một con sông.  Một hồ chứa mau chóng tích tụ áp lực khi nước tràn đầy.  Vì sự bất ổn nội tại, hồ nước ở trong một trạng thái gọi là chân không giả (false vacuum) Nước có xu hướng tìm một chân không thiệt, nghĩa là nó sẽ làm vỡ đập để đạt được một trạng thái ổn định hơn ở chỗ thấp nhất.
Thế kỷ 20, trải qua bao cuộc chiến, con người thấy được cái chân lý khách quan của Newton đã đến lúc tích lũy quá nhiều mâu thuẫn không thể giải quyết. Nhu cầu tìm một quan điểm mới bắt đầu nhen nhúm. Đâu là chân thiện mỹ?  Giá trị đích thực của chân thiện mỹ cần có thêm một yếu tố nữa. Đó là sự đóng góp của chủ quan. Chính con người đẽo gọt nên diện mạo chân thiện mỹ qua mỗi giai đoạn tiến bộ của văn minh nhân loại.

Nhu cầu tư duy mới.
 
Buớc tối quan trọng của phuơng pháp khoa học là xây dựng lý thuyết. Khoa học gia khảo sát dữ kiện và cố tâm ráp nối chúng vào trong toàn cảnh nhằm cắt nghĩa những gì đã khảo sát. Một khi lý thuyết hoàn chỉnh, nó cần đuợc trắc nghiệm qua một chuỗi thí nghiệm và nếu hiệu lực, nó đuợc sử dụng để tiên đoán những dạng thức trong các khảo sát sau này, hay để xác định các phản ứng trong những trạng huống nào đó.
Khoa học gia tìm nguyên nhân sinh bịnh sốt rét, cho ví dụ, ghi nhận rằng bịnh nhân luôn sinh sống hay mới lui tới vùng bùn lầy nuớc đọng, nơi suơng lam chuớng khí mịt mờ khắp nơi . khảo sát dẫn đến lý thuyết cho rằng bịnh sốt rét là do hít thở cái gì đó trong không khí . Những biện pháp ngăn ngừa tập trung vào việc tránh xa không khí tù hãm . Thuyết này cứu giúp đuợc một số nguời, đặc biệt những kẻ tránh lai vãng nơi bùn lầy, nhưng không phải mọi nguời hít thở "khí độc" đều mắc bịnh và cũng không phải mọi nguời tránh xa vùng chuớng khí (các thị dân ở những nơi quang đãng) đuợc an toàn. Vừa khi những dịch bịnh do côn trùng, thú vật lây truyền và cách sinh sản, thói dinh duỡng của muỗi đuợc hiểu rõ, thuyết "chuớng khí" bị bỏ rơi nhuờng chỗ cho một thuyết nào đó liên can muỗi với bịnh sốt rét.
Thế giới quan, giống như mọi lý thuyết khoa học cắt nghĩa kiến thức và kinh nghiệm. Lý thuyết đuợc đem ra trắc nghiệm; một thế giới quan nhào nặn bởi kinh nghiệm qua những thử nghiệm đó, ra đời. Sau đó các vấn nạn đuợc nêu lên . Những lý thuyết đó có giải quyết đuợc vấn đề và giúp ta đối phó với những thử thách đang đe dọa? Nó có thích hợp với những sự kiện ta đang nắm ? Nó có trợ giúp ta trong việc cắt nghĩa thái độ kẻ khác và tìm ra ý nghĩa đời sống chúng ta? Một khi những giải đáp cho những vấn nạn trên mang tính phủ định, hay không thỏa đáng, ta lại bắt đầu tìm kiếm một viễn ảnh mới, hứa hẹn hơn hoặc tốt hơn.
Năm 1880, Triết gia Đức tên Friedrich Nietzsche cho ra đời tác phẩm " Thus Spake Zarathustra, trong đó ông tuyên bố :" Thuợng Đế đã chết" . Ông ta không nói rằng một đấng tối cao đã chết mà chỉ là nền văn hóa của chúng ta đã không còn ý nghĩa, mọi giá trị đều vô nghĩa, mọi khái niệm đều băng hoại . Thế giới quan của chúng ta đã chết.
Nietzsche, giống như các hiền triết khác, đã thấy xa hơn thời ông ta đang sống . Chỉ đến bây giờ, vào thời điểm thiên niên kỷ chúng ta mới nhận chân giá trị sở kiến của ông . Nhưng ngay sau khi nguời khùng Zarathustra vừa chạy vừa la trên đuờng phố với ám ảnh cơn ác mộng rằng Thuợng đế đã chết, một thế giới quan cơ học nhiều tự chế hơn, đã bắt đầu đuợc cảm nhận trong văn học và nghệ thuật . Trong khi chủ thuyết Dada (1916 - 1923, phong trào văn chuơng, nghệ thuật tìm kiếm thực tại qua việc bãi bỏ các hình thức thẩm mỹ cùng văn hóa cổ truyền) hoan nghênh sự suy tàn của hình thức và truyền thống, xu huớng lập thể trong một mạch nguồn tích cực hơn, đã đánh một dấu chấm dứt cho góc nhìn cố cựu, vốn cố định và nhàn chán - (ám chỉ dự kiến của Newton), mà thi sĩ William Blake mô tả . Thế chiến thứ nhất huỷ diệt tận cội rễ thiết tưởng của con nguời về bản chất và sự ổn định của văn hóa Tây phuơng. Cuốn Đất hoang (The waste land của T. S. Eliot in năm 1922) thay thế cái vinh quang của kỹ thuật và cơ khí với vẻ ảm đạm, vô vị của thiên nhiên và tinh thần. 20 năm sau, thế chiến thứ 2 bùng nổ, triết gia Susanne Langer viết : Dòng suối tư tuởng Âu châu đã cạn kiệt ... Suốt lục địa Âu châu, những triết gia hiện sinh ngờ vực giá trị cũng như sự hữu hiệu của lý lẽ và tính khách quan, triết lý về sự khai phóng con nguời đã cùng với cuộc cách mạng khoa học trở nên một vấn nạn bức thiết.
Trên phạm vi rộng lớn hơn, văn hóa thế kỷ 20 đã từ từ chỉnh đốn lại, tỉnh ngộ ra với những giá trị, những thể loại tư duy đã làm ruờng cột cho văn minh nhân loại gần 3 thế kỷ. Nhưng chỉ đến bây giờ, ở cuối thế kỷ 20, sự bừng tỉnh này mới trở nên rõ nét trong mọi khía cạnh của đời sống cá nhân, trí thức, chính trị và thuơng nghiệp. Chính trị đã mất ý nghĩa của nó đối với đại đa số nguời trong các nuớc dân chủ Âu Tây và trong thuơng truờng, những mô hình cũ của các tổ chức hoạt động thành công không còn phù hợp với thực tế của thợ thuyền hay kỳ vọng thị truờng nữa. Trong nhiều lĩnh vực tư duy, chúng ta đang kinh qua cái đuợc mô tả là nạn đói kém suy tuởng hiện đại.
Cuộc cách mạng khoa học hứa hẹn giải phóng con nguời khỏi ngu dốt và mê tín. Cuộc cách mạng cơ khí thành công trong việc làm suy vi hầu hết đức tin tôn giáo cổ truyền Tây phuơng, nhưng nó không thay vào đó bằng một niềm tin nào khác. Không có vai trò của đời sống hay ý thức trong dự kiến Newton của "guồng máy", vũ trụ vận hành theo định luật, viễn ảnh về sự phấn đấu của con nguời . Nghĩa là dù chúng ta muốn hay không, vũ trụ vẫn lạnh lùng vận hành con đuờng đuợc an bài của nó. Chúng ta bất lực truớc thiên nhiên. Khoa học vị khoa học này không chỉ đạo hành vi. Ngày nay chúng ta có nhiều tự do hơn truớc nhưng chúng ta hãy còn mù mờ lắm về nguyên ủy của sự khai phóng này. Ta không biết ta tự do từ những gông xiềng gì.
Sự phân biệt rõ rệt giữa nguời quan sát và đối vật trong cơ học và những cảnh tuợng kèm theo của một thế giới vật lý sáng tạo ra bởi những vật chất không hồn, lãnh đạm đặt loài nguời và dự phóng của họ ra ngoài bối cảnh của thiên nhiên. Thiên nhiên trở nên một vật thể, một đối vật bị khảo sát hay một mẫu vật để thí nghiệm, một thử thách để chinh phục, một dụng cụ để sử dụng. Kỹ thuật là phuơng tiện đạt tới cứu cánh này. Khủng hoảng môi truờng hiện tại phần lớn là sản phẩm của tư duy này nhưng chúng ta vẫn chưa có một tổng quan mới về thiên nhiên cũng như mối tuơng quan giữa con nguời và thiên nhiên, để từ đó chúng ta có thể đúc kết, rút ra tư duy mới.
Mọi việc, mọi vật trong vũ trụ Newton bị tiết giảm thành nhiều nguyên tử và lực tuơng tác giữa chúng. Ngày nay, phần lớn nhờ vào tiến bộ kỹ thuật, chúng ta đuợc sống trong một thế giới của độc lập kinh tế, chính trị, xã hội ngày càng lớn mạnh. Nói theo ngành điện tử, chúng ta sống trong một "làng" thế giới . Những kiểu mẫu chính trị, kinh tế dựng xây trên sự thiết tưởng con nguời , chính phủ, công ty là những đơn vị riêng biệt mà mỗi một đơn vị hành động để đạt được thành công nhất trong việc theo đuổi lợi nhuận riêng biệt, đã trở nên khó khiển dụng và bất ổn định. Chúng ta còn thiếu một mô thức chặt chẽ, mạch lạc mới cho mối tuơng quan nhiều tính sáng tạo hơn giữa thành phần và toàn thể, cá nhân và đoàn thể. Chúng ta thiếu những kiểu mẫu làm sao các thành phần hay thành viên của bất cứ hệ thống hay tổ chức nào có thể hoạt động để gia tăng tiềm năng của nó.
Khoa học Newton có đẳng trật. Thế giới vật lý đuợc cấu trúc trong sự phân tích các đơn vị nhỏ dần : Phân tử căn bản hơn hợp chất, nguyên tử căn bản hơn phân tử . Mô thức Newton về tuơng quan và tổ chức cấu trúc quyền năng và sự hữu hiệu gồm nhiều nấc thang cao thấp. Quyền lực lan tỏa từ trung tâm hay đi xuống từ trên đỉnh. Chúng ta thiếu những khuôn mẫu mới trong đó mọi quyền quyết định có thể trải ra theo hàng ngang đều khắp một tổ chức. Chúng ta thiếu những mô thức tư duy phi đẳng cấp.
Khoa học Newton nhấn mạnh sự tuyệt đối, chuẩn xác và bất biến. Những định luật khắc nghiệt về nhân quả dẫn đưa đến thay đổi khả dĩ tiên liệu đuợc . Những mô hình tổ chức dựa vào những phẩm trật cố định và vai trò cứng nhắc, đặt căn bản trên sách luợc b luôn luôn đi theo a, thì thiếu uyển chuyển và không năng động. Chúng không thể ứng phó với đột biến, mà chúng ta qua kinh nghiệm, phải đuơng đầu mỗi ngày.
Trong bối cảnh thời gian và không gian Newton, chỉ có một cách độc nhất để khảo sát bất kỳ mọi trạng huống. Chân lý Newton là chân lý hoặc nọ hoặc kia (either/or). Nhưng tư duy hoặc nọ hoặc kia (either/or) không thể đối phó với nghịch lý và sự mơ hồ (sẽ nói về nghịch lý và mơ hồ trong phần luợng tử). Nó không thể khiển dụng khi đuơng đầu với sự đa dạng (diversity). Vâng, chúng ta cần một mô thức chặt chẽ, mạch lạc trong đó đặt căn bản một tư duy mới : cả nọ và kia (both/and).

Cuộc cách mạng khoa học thứ hai.
 
Cuối thế kỷ 19 nhà khoa học gia nguời Anh Lord Kelvin khuyên những học sinh xuất sắc nhất của ông nên tránh theo đuổi ngành vật lý." Mọi công việc đáng lưu ý đã hoàn tất". Ông nói thế. Vật lý cổ điển rõ ràng đã giải đáp các bí ẩn của vũ trụ lý học. Mọi việc đã đuợc hiểu và tóm luợc gọn trong những đẳng thức tiền định, ngoại trừ 2 bất thuờng thực nghiệm nhỏ - Kết quả thực nghiệm không thích ứng với quang cảnh cổ điển. Kelvin, giống như các đồng sự, tin rằng những bất thuờng này chỉ là các vấn đề tạm thời và sẽ sớm lọt vào trong toàn cục diện các sự việc.
Kết quả lạ lùng đầu tiên trồi lên từ cuộc thí nghiệm bởi khoa học gia Albert Michelson và Edward Morley nhằm đo luờng tốc độ trái đất di chuyển trong khí "ether" (lúc đó nguời ta còn tin mọi thiên thể đuợc treo lơ lửng và di chuyển trong một thứ khí gần giống như không khí). Cuộc thí nghiệm cho ra đáp số thậm vô lý về vận tốc của trái đất di chuyển trong ether là zero kí lô mét một giờ. Bất thuờng thứ hai là thí nghiệm về bức xạ của những vật thể đen. Một vật thể đen là bất cứ vật thể nào tỏa nhiệt một cách đồng đều, không tỏa thêm hay bớt trong bất kỳ màu sắc ánh sáng riêng biệt nào. Trong thí nghiệm, một đuờng cong hình cái chuông trong đồ thị đuợc ghi nhận trong khi đo màu sắc bức xạ này với các cuờng độ ánh sáng khác nhau. Những đẳng thức cổ điển tiên đoán rằng mức sáng sẽ trở nên vô tận khi màu sắc ánh sáng đạt đến màu cực tím trong quang phổ. Hiển nhiên có một điều sai lầm nào đó. Xin đọc thêm về bức xạ những vật thể đen ở trang :

http://www.egglescliffe.org.uk/physics/astronomy/blackbody/bbody.html
http://hyperphysics.phy-astr.gsu.edu/hbase/mod6.html 




Từ những nỗ lực tìm hiểu hai bí ẩn thực nghiệm nhỏ này mà 2 cây trụ cột của khoa học thế kỷ 20 ra đời. Thí nghiệm Michelson-Morley là động lực cho sự chào đời thuyết tuơng đối và cái bí mật bức xạ của vật thể đen dẫn đưa đến những buớc đầu công thức hóa thuyết cơ học luợng tử. Khoảng 60 năm sau, gần cuối thiên niên kỷ, lại một bất thuờng nhỏ cản trở con đuờng mà hệ thống lý học đuợc kỳ vọng là sẽ phô bày tính trật tự khi phản ứng với các biến đổi tiên liệu mang lại sự phát sinh ra thuyết gọi là hỗn loạn và phức tạp (CHAOS and COMPLEXITY). Tất cả thuyết kể trên không có cái nào dựa vào lý học cổ điển. Cũng không thuyết nào đuợc hiểu trong bối cảnh khoa học Newton hay cổ điển. Chúng hoàn toàn là những thiết tưởng mới lạ về thiên nhiên và cách vận chuyển của thực trạng vật lý. Mỗi một thuyết đòi hỏi một tư duy mới, một chuỗi thể loại cấu trúc mô tả làm thế nào sự kiện này kéo theo sự kiện khác hay sự vật đuợc cấu tạo ra sao và một đợt những nguyên lý, sáng kiến toán học nhằm mô tả những thể loại này.
Bài viết này trình bày những ý tuởng chính của các khoa học thế kỷ 20 và phô bày mỗi khoa học ấy thách đố nền tư duy cũ. Chúng ta có thể cảm nhận cái tàn bạo của cuộc cách mạng mang lại bằng cách đối chiếu những đặc điểm lớn giữa 2 cái cũ và mới. Khoa học cũ nhấn mạnh đến sự phân biệt giữa nguời quan sát và đối vật. Trong mọi khoa học mới, sự phân biệt này không rõ nét, đôi khi trở nên vô nghĩa. Khoa học mới thì tuơng tác, tức là tác động lẫn nhau - Khoa học gia tuơng tác hoặc tham dự vào hệ thống để nghiên cứu. Thay vì lùi lại và khảo sát một cách độc lập, khoa học gia trở nên một phần trong tiến trình ông ta nghiên cứu. Sự khảo sát của khoa học gia - điểm nhìn, cách nhìn, mục đích - tự chúng là những thành phần của dữ kiện cần tìm hiểu. Điều này đúng trong truờng hợp thuyết tuơng đối, luợng tử, hỗn loạn phức tạp học. Trong vài bộ môn khoa học trí tuệ, nguời quan sát và đối vật không chỉ là 2 khía cạnh khác nhau của cùng một sự việc, phải đuợc đặt vấn đề.
Trong khi khoa học cũ nhấn mạnh đến sự liên tục, sự thay đổi tiệm tiến, khoa học mới lại chuyên chú vào những biến chuyển đột ngột, nhanh chóng, đầy bi tráng vuợt hẳn những khuôn thuớc cũ. Những trang sau nói về cú nhảy luợng tử, tai họa và hỗn loạn đột xuất . Trong khi khoa học cũ quan niệm thay đổi tuân theo định luật nào đó hứa hẹn sự có thể tiên đoán thì khoa học mới nhấn mạnh đến tính bất định và nhuợc điểm của tiên đoán. Với các khoa học gia mới, guồng máy vũ trụ của Newton trở nên một sòng bạc nơi mà các phuơng pháp khoa học đôi khi phải nhượng bộ cho phuơng pháp Monte Carlo, một thảy súc sắc vi tính và các tính toán về cơ may rủi.
Khoa học cũ phác họa một vũ trụ vật lý của những thành phần gắn bó chặt chẽ với nhau bằng những luật cứng nhắc của nhân quả, một vũ trụ của sự việc hay sự vật liên hệ lẫn nhau bằng lực hay ảnh huởng. Khoa học mới cho chúng ta cái khải tuợng của một vũ trụ rối rắm trong đó mọi vật kết nối vào nhau. Ảnh huởng đuợc cảm nhận dù không có sự hiện diên của lực và tín hiệu; những tuơng quan tự phát triển; Những dạng thức nẩy sinh từ một trật tự nội tại. Khi khoa học gia thời Newton giản luợc mọi sự thành những thành phần và vài lực đơn giản tác động lên chúng thì khoa học gia luợng tử hay hỗn loạn tập trung vào những đặc tính mới hay dạng thức mới khi các thành phần kết hợp thành một toàn thể. Một vũ trụ quen thuộc và không có gì gây ngạc nhiên bị thay thế bằng một vũ trụ tự tổ chức không ngừng những sáng tạo. Khoa học gia biết sự kiện này hay thành phần kia không thể bị cô lập từ môi truờng hay bối cảnh của nó, cách thức duy tổng thể quan thay thế duy nguyên thuyết (holism replaces reductionism), chủ truơng toàn thể luôn lớn hơn tổng số các thành phần gộp lại. Trong khoa học mới, sự đơn giản có tổ chức nhuờng chỗ cho sự phức tạp tự sắp đặt.

Một chuyển đổi tư duy.
 
Nhiều nguời ngày nay thuờng nói về hệ tư duy và sự chuyển huớng của tư duy. Ý nguời ta muốn nói gì khi khoa học mới tiêu biểu cho khuôn thuớc mới? Hay tư duy thế kỷ 20 đang trải qua một chuyển đổi khuôn thuớc toàn diện hơn khi chúng ta sắp buớc qua thiên niên kỷ mới?
Từ "khuôn thuớc" đã đuợc triết gia Thomas Kuhn dùng đầu tiên trong cuốn "Cấu trúc của cách mạng khoa học", nay đã trở nên lỗi thời. Ông ta dùng nó để mô tả cái khung của những thiết tưởng căn bản dùng bởi các khoa học gia khi họ phân tích và phiên dịch dữ kiện. Sự thiết tưởng này, nếu một vật thể di chuyển, nó buộc phải dời chỗ bằng tác dụng của vài lực nào đó ẩn nấp trong cái khuôn thuớc lớn hơn của cơ học Newton và thiết tưởng của nó là tất cả mọi di động đuợc khống chế bởi luật nhân quả. Nếu một khoa học gia cổ điển khảo sát vài chuyển động không có nguyên nhân rõ rệt, ông ta xác nhận rằng có nguyên nhân và dụng tâm tìm nó. Trong nhiều truờng hợp, tư duy này dẫn đến những khám phá mới mà tự nó nâng đỡ khuôn thuớc ban đầu.
Luật động tử Newton, cộng với trọng lực của ông, tiên liệu đuợc sự vận hành của các hành tinh. Khoảng giữa thế kỷ 19, một sai lệch nhỏ đã đuợc cảnh báo trong việc khảo sát hành tinh thứ 7 của thái duơng hệ, hành tinh Uranus. Dựa vào thiết tưởng (khuôn thuớc) rằng vài vật thể khác tác dụng lên vận hành của Uranus, các nhà thiên văn tìm và khám phá năm 1846 một hành tinh khác - Neptune - Khuôn thuớc tổng quát của khoa học Newton dễ dàng thấm nhập vào sự khám phá ấy. Một sự kiện khoa học đuợc thêm vào nhưng sự thiết tưởng không thay đổi.
Kuhn chứng tỏ rằng từ truờng hợp này đến truờng hợp khác, các khoa học gia khư khư bám víu vào khuôn thuớc, vào nền tảng thiết tưởng ấy để đối phó với những ngoại lệ bất khả khắc phục. Dữ kiện thách đố khuôn thuớc bị làm ngơ hay đuợc giải thích như những bất thuờng thực nghiệm cho đến khi chứng cớ vài viễn ảnh mới ngày càng áp đảo. Điều này trong truờng hợp bất bình thuờng của quỹ đạo các hành tinh, sự sai lệch nhỏ ở quỹ đạo Mercury không thể đuợc cắt nghĩa cùng một kiểu như Uranus đuợc. Không có hành tinh nào tác động trọng lực lên Mercury. Sự thiên lệch này giữ nguyên tình trạng bất bình thuờng cho đến khi thuyết tuơng đối tổng quát của Einstein ra đời. Thuyết này tiêu biểu cho sự chuyển đổi khuôn thuớc mới - Nó yêu cầu các khoa học gia phải chấp nhận một cách táo bạo toàn bộ tư duy mới để hiểu dữ kiện. (Xin đọc thuyết tuơng đối hẹp, rộng trong Google - SPECIAL RELATIVITY; GENERAL RELATIVITY).
Cuộc cách mạng khoa học thứ hai mà chúng ta vừa tóm luợc, tiêu biểu cho một chuyển đổi khuôn thuớc tư duy. Nó buộc chúng ta bỏ rơi những xác tín và thể loại quen thuộc để tiếp nhận một phuơng thức hoàn toàn mới dùng chiêm nguỡng thế giới vật lý. Ý tuởng khoa học mô tả trong những bài sau sẽ theo đuổi những vấn đề bắt nguồn từ vài lý thuyết chính yếu và các khoa ngành nghiên cứu. Tuơng đối, cơ học luợng tử, hỗn loạn và phức tạp, thuyết mới về trí tuệ và vũ trụ học mới. - Tất cả phù hợp một cách vừa vặn vào trong một khuôn thuớc mới phô bày những nét đặc thù rộng lớn của duy tổng thể luận - Holism, phi nhân quả- Acausality, sự tham dự của quan sát viên (trái nguợc với thuyết nhị nguyên - dualism) và sự đứt quãng, bất liên tục - nonlinearity, discontinuity. Khi những chi tiết về chuyển đổi khuôn thuớc này rõ nét hơn, nguời đọc sẽ thấy sự liên hệ và sự chế ngự thực thụ một chuyển đổi lớn hơn trong thế giới quan toàn diện của văn hóa chúng ta, đã và đang diễn ra song song.

Kết luận.

Meta không muốn nhắc lại thí nghiệm mà nhiều trong chúng ta ai cũng biết. Thí nghiệm dưới đây cho thấy vật tử mang cả tính sóng và hạt.


Hạt.

 
Sóng.

Ánh sáng đôi khi giống như sóng và đôi khi mang tính hạt tùy theo hoàn cảnh hay, nói đúng hơn, nó tùy theo chúng ta muốn thấy gì ở nó. Giống như vậy, hãy coi chân, thiện, mỹ như một vườn hoa muôn màu muôn sắc, nhãn quan của chúng ta đóng góp phần lớn vào bản chất của nó. Bạn tìm hoa lan, bạn sẽ thấy hoa lan. Tôi tìm lá thúi đ ịt, tôi thấy lá thúi đ ịt. Ai đúng, ai sai? Ai cũng đúng vì quan điểm con người khác nhau. Không thể có cái đẹp, cái tốt cho muôn người mà chỉ cho mỗi người.
Hãy chấp nhận nhau để bước lên một kích thước khác. Trên kích thước ấy, ta dễ dàng nhận ra, chỉ có 1 thái cực sinh lưỡng nghi, tức âm dương, tượng trưng cho khác biệt hay mâu thuẫn. Rồi thì thái cực mới sinh ra vạn vật. Chỉ tìm về thái cực, ta mới thấy được cửa nào là cửa khôn trong muôn trùng bát quái.

Metamorph
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.03.2009 12:15:39 bởi meta4954 >
#1
    ngày mai 18.04.2009 12:48:07 (permalink)
    .
     
    sao lại tự giam mình bằng cách đi tìm một cửa?
     
    .
    #2
      Chuyển nhanh đến:

      Thống kê hiện tại

      Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
      Kiểu:
      2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9