Chữ Thời - Kim Định
Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 28 trên tổng số 28 bài trong đề mục
Trương Củng 30.03.2005 16:01:18 (permalink)
Chương XV. Xây, Nhà, Ở

1. Kiến-dựng Hoàng-Cực.
Bình luận về nền văn-minh hiện-đại Bernard Shaw cho đó là căn bệnh phát sinh do sự dùng cật-liệu mục nát để kiến-tạo xã-hội.
La civilisation est une maladie produite par la pratique de bâtir des sociétés avec des matériaux pourris.
Sở dĩ có sự đổ vỡ tan hoang vì người ta không hiểu và áp dụng được câu "Kiến-dụng hoàng-cực"**
"Kiến-thiết phải dùng hoàng-cực", và chỉ nên dùng hoàng cực làm tiêu chuẩn. Đó là ý câu nói trong Hồng-Phạm: "duy-hoàng tắc cực", cái đạo con người chỉ nên tìm trong sự làm việc cho tới chỗ cùng cực dựa trên thẩm cung lòng mình. Phải, muốn kiến-thiết bất kỳ là đạo làm người, văn-hóa, tinh-thần, quốc-gia, chính-trị v.v… nếu không đào sâu xuống tận hoàng-cực mà lấy vật-liệu, thì rồi cũng là làm việc vô ích. Vì nói theo cung Hồng-Phạm thì chỉ có vào vòng trong, vào tận Hoàng-cực mới tìm ra những vật-liệu kiên-cố "des matériaux si solides" (như W.Durant nói về nho-giáo) Vì chỉ sự trung-tâm vô-hình đó mới có kho minh-triết phong-phú. Đấy mới là kho uy-linh huyền-diệu luôn luôn nổ lên, tung tóe ra sức mạnh làm thành muôn vật mà Kinh Dịch gọi là "sinh sinh chi vị dịch". Dùng hai tiếng sinh sinh để chỉ sinh liên tiếp, liên tục sinh: và vạn-hữu sở dĩ trường-tồn được chẳng qua là do nguồn sinh sinh khởi phát tự trung-tâm Hư-linh Huyền-diệu đó tiếp-tế nhiên-liệu căn-cơ, nếu không thì sẽ sụp đổ, tuy dầu những người kiến-thiết văn hóa có đầy thành tâm thiện-chí đi tìm "nền móng bất khả di chuyển" (funddamentum inconcussum nói như Descartes, Kant, Hegel, Marx … ) mặc lòng, nên văn-minh duy-lý của họ đang nghiêng ngả và bị lay tận gốc rễ để rồi chắc chắn sẽ theo gót bao nền văn-minh lý-trí trước kia đã chui vào mồ: La-Mã, Hi-Lạp, Ai-Cập, Babylon, Chaldée, Mésopotamie… Ngược lại trong số gần ba mươi nền văn-minh các sử-gia lên sổ được thì đến nay còn lại có vài ba, trong đó có nền văn-hóa của Viễn-Đông. Khi khảo-cứu thấu triệt để tìm ra thứ xi-măng nào có sức nối kết bền bỉ nọ thì ta nhận ra đó là thứ xi-măng của hãng "Nhân Bản tâm-linh". Chính tâm-linh mới là chất-liệu bền vững cho đời sống xã-hội cũng như cá-nhân.
Phải đến một tuổi nào đó khi chúng ta đã sống đủ để nhận thức được rằng trên đời này không có cái chi hoàn toàn tuyệt đối cả: cái dở cũng như cái hay thường mung-lung khó phân-định giới mốc, nên bao nhiêu xây đắp kiên-cố đều sụp đổ… Cuối cùng chúng ta nhận ra chỉ có cái nội Tâm là đáng chú-ý, đáng y-cứ như cái tiêu-chuẩn và lúc đó chỉ còn có nó mới có thể ban cho ta an-lạc và tiếp nhiên liệu cho ta hăng say vui sống: gây cho ta những phút thần-tiên, sảng khoái, khiến cho ta như sờ thấy chân-lý ẩn trong câu "Hoàng cực chi phu ngôn, thị di thị huấn"!Vu Đế kỳ huấn". Hồng-Phạm IV, 14 ** những lời phô bày quả diễn lý lẽ về đạo chí trung chính là đạo thường, là lời dạy trung thực, lời dạy từ Thượng-Đế tuyên dương ra". Đó là ý lời "Duy hoàng tác cực" chỉ có đi vào tới chí Trung mới đạt được Cực. Hoàng là vàng là màu của Trung cung, chỉ có Trung mới đạt được Dung, chỉ có trở lại với nội-tâm mới tìm ra tiêu chuẩn vững chắc.
Đây là một chân lý căn-cơ nhắc nhở trước những đổ vỡ tan hoang đang diễn ra khắp nơi nơi. Bao nhiêu giá-trị cũ đang bị lay chuyển. Đột nhiên con người nhận ra sự xa lạ giữa mình với vũ-trụ, với tha-nhân, với Thượng Đế và bi đát hơn nữa là với chính mình: je suis étranger au monde, à Dieu, aux hommes et à moi-même! Và lý do xa lạ đó là vì tất cả nền văn-minh hiện đại đã được kiến-tạo bằng những vật-liệu nông cạn vòng ngoài, cục hạn, không thấy mối đại-đồng, mà chỉ toàn thấy tiểu-dị-đa-tạp, làm sao không cảm thấy xa lạ hoang vắng?
Để thoát nạn đó cần phải trở lại với căn-cơ của Thời-Không nội tâm lòng mình, đi vào cho đến lúc cảm nghiệm được câu "ngô tâm tiện thị vũ trụ" thì sẽ đủ khả năng khai quật lên những nhiên-liệu tâm-linh để xây nền văn-minh mới, xây ngôi nhà văn-hóa giúp con người đạt nhân tính thái thất.

2. Thái Thất
Triết-học lý-niệm khác triết Nho ở chỗ hầu không nói đến "nhà". Đấy cũng là quan-niệm què quặt về chữ thời. Vì Nhà trong Triết chỉ nhân tính, mà quan niệm thời đã bị không-gian-hóa còn đâu là nhân tính vì nhân tính là tương dịch không Thời bao gồm cả ngang cả dọc. Với quan-niệm hàng ngang thì cho dù có cộng hết các mặt phẳng trên vũ hoàn lại không trông làm nên được nhà là cái gì từ bản-chất đòi phải có yếu-tố dọc, yếu tố đi lên, dựng đứng vertical: Hiện tượng luận nói rằng: "nhà được mường tượng ra như cái gì đứng thẳng. Chính sự đứng thẳng đó làm cho cái nhà khác biệt, nó kêu gọi chúng ta ý-thức đến chiều dọc tức là sự thâu dồn lại, chữ "nhà" thúc đẩy chúng ta phải nhận-thức được sự qui hướng vào nội tâm.
Sự tập trung vào hàng dọc được bảo tồn do lưỡng-cực là kho hầm-gác-lương, nó mở vào hai chiều hướng rất sâu xa và khác biệt: những tư-tưởng minh bạch thì ở nóc thượng-lương nơi mà người ta thích thú nhìn ra được bộ sườn vững chãi, như được tham dự vào cơ-cấu bền chặt của hệ-thống cột xà. Còn dưới hầm thì ngoài những lương thực được tích chứa, trước hết nó là một hữu-thể âm u, ăn thông với những năng lực nằm ngầm ở dưới, tức là tiềm-thức". Mấy dòng trưng lại trên đây gíup chúng ta nhìn nhận ra căn-do tại sao triết-học lý-niệm không nói đến nhà, chính vì không thể nói tới, bởi nhà có "gốc rễ vũ-trụ" thì phải có trục gọi là "tí ngọ" (thủy hỏa): phải hội được cả hầm chứa tức chiều sâu của tiềm thức và cái dọc tâm-linh là hai chiều-kích vắng bóng trong triết cổ-điển. Thiếu những yếu-tố đó (thuộc Hoàng cực) làm sao nói được về nhà, và giả có nói thì làm sao nói được cách trung-thực.
Sự kiện không nói về nhà có những hậu quả sau đây:
Trước hết vì không nói đến nhà, nên không có nền móng đích đáng cho gia-đình (xã-hội dựa trên cá-nhân chứ không trên vợ chồng âm-dương); bởi thế trước đây nổi lên trào lưu ghét bỏ gia đình mà chúng ta được nghe chẳng hạn trong câu nói của André Gide: "Oh famille ! je vous haðs". Hỡi gia-đình ta ghét ngươi (Tự-lực văn-đoàn chịu ảnh hưởng này đến đâu? Đó có thể là một đề tài).
Thứ đến tiếp vào sự ghét bỏ là chối tuột gia-đình vào câu "vô gia-đình" đứng đầu trong thuyết "tam vô" của người mác-sít là phát-nguyên tự triết-học lý-niệm vốn không có nền tảng gia-đình..
Sau cùng cứ kể chung ra thì con người thời nay cảm thấy một trạng-huống bất an và tiếng la bi thảm của con người hiện-đại là không có nhà. Đó là một tâm-trạng thường xuất hiện mỗi khi có cuộc khủng hoảng tinh-thần như thời chiến-quốc Khổng-tử nói về tình trạng đó rằng ôi con người không bằng con chim huỳnh điểu sao? Chim biết chỗ đậu, còn con người không tìm ra chỗ an trị sao?"ư chỉ, trikỷ sớ chỉ, khả dĩ nhân nhi bất như điểu hồ" Đại học 3 ** Con chim có tổ con người không có chỗ.
Vì những lý do trên nên ta thấy triết-học hiện đại nhất là nơi Heidegger năng nói đến nhà (Heimat) về bi trạng con người khong nhà (Đức ngữ kêu là heimatlosigkeirt). Vì thế chúng ta được hoan hỉ biết bao khi trở lại nền cổ học nhận thấy tiền-nhân đã đề cập đến nhà rất nhiều và một cách khúc chiết qui-mô đến độ gọi là Thái thất: nhà trên hết các nhà.
Bachelard viết rằng: "nhà là một trong những khả năng thâu hóa mạnh mẽ": "une des plus grandes puissances d'intégration" thì huống chi là thái thất nó là một sức sâu hóa trên hết đến nỗi che được cả Đất, Trời. Người không chịu để cho vật lâm cảnh màn trời chiếu đất: heimatlosigkeirt.
Paul eluard viết: (Póetique de l'espace p.5).
"Quand les cimes de notre ciel se rejoignent ma maison aura un toit": "Kkhi hai cực của Trời Đất giao nhau (Thời không đúc kết) thì nhà tôi sẽ có mái". Có mái thì nhà hết dột, tức hết mâu thuẫn kình chống và trở nên nơi an toàn cho tứ hải đồng cư.
Nhà như thế mới bảo toàn được cả thân tâm, để người ở không bị đánh mất gốc "vong thân, vong bản".
Vậy chúng ta xin phép được vào thăm nhà. Nhưng nhà này không tiếng không hơi: vô thanh vô xú, xem không thấy, lắng không nghe, không thể giới thiệu từng căn.
Thái thất không có ngăn phòng. Thấy trên giấy có phòng và đặt tên thì đó chỉ là phương tiện biểu-tượng cụ-thể phải làm thế, không lẽ viết tất cả mọi chữ vào một lô, và mọi hình vào một chỗ, có khác gì viết ra rồi xoá đi nên đành phải vẽ rời ra từng ô: bó buộc phải không-gian-hoá spatialiser. Nhưng chớ bao giờ quên đây là nhà vượt không gian, nhà lý tưởng chỉ bản tính đồng nhiên của con người tạm gọi là nhà Minh đường, chứa "minh đức" mà người vào đại học phải làm cho "sáng" ra.
**
Hình trên cho ta thấy nhà chia năm căn, nói lên đường đi của ngũ hành, là hình "thập-tự nhai" là đường đi "của mặt trời" nên cũng gọi là thiên đạo gồm bốn hướng: Bắc, Nam, Đông, Tây.
1._ Căn bắc hành thuỷ cũng là đêm gói muôn vật vào cái màn âm u gọi là Huyền Đường.
2._ Căn Nam hành hoả sáng soi gọi là Minh-Đường .
3._ Căn Đông hành mộc màu xanh nên gọi là Than Dương .
4._ Căn tây hành kim phân cắt rõ rệt nên gọi là Tổng Chương .
5._ Căn giữa là cột trụ của thời không, của vũ-trụ, nơi hội-thông của Đất-Trời-Người nên gọi là Thái thất.
Như vậy Thái Thất chỉ người đã thực hiện được nhân tính lý-tưởng, không còn chi ngăn cách dù là cái chết của xác thân, nên tuy chết mà tinh anh vẫn còn hiện diện, nên Thái-Thất cũng là Thái-Miếu, là nơi thờ Tổ Tiên, nơi thờ Văn-tổ: nơi biểu thị sự vượt không-thời-gian, để cho các thế-hệ thông-giao trong mối tình linh-diệu. "Nhập ư thất" như vậy cũng có nghĩa như là tận kỳ tính, mà tận kỳ tính là "tri thiên, tri địa tri nhơn cập vật giả". Là vì Tam-Tài nhưng qui lại Nhất-Thể. Cảm thông được tức là thấy được chốn hội-thông của "tam gia tương kiến": ba nhà xem thấy nhau có ý chỉ tam tài quán thông, hoặc nói như Kinh Dịch là "thiên địa chi tâm" cái tâm của thiên địa, cái ý-thức rộng như vũ trụ: conscience cosmique. Tất cả đều đập theo một nhịp, nhịp của một âm một dương, một ra một vào, một động một tĩnh. Hễ khi nào tâm mình nhịp được với cái tiết điệu Thái-hoà đó thì nó sẽ cảm-thông với vạn vật, sẽ "cùng lý, tận tính dĩ chí ư mạnh". (Thuyết quái 1). Câu ấy có ba chữ lý, tính, mệnh cùng với ba đợt nhà Minh-Đường giúp ta suy tư về ba trạng thức của con người trên quá-trình tiến-hoá được biểu thị trong đồ biểu nhà Minh-Đường vì thế ta thử khai triển ở đây.
Nhà Minh-Đường có ba tầng là Huyền-Đường, Thái-Thất, Minh-Đường. Đó là khung tiên thiên đễ biểu-thị quan-niệm nhân bản ba từng là:
Cá nhân ở Huyền-Đường **
Nhân sĩ ở Thái Thất **
Thánh nhân ở Minh Đường **
Với đợt có ba đợt tâm-thức đi kèm theo mà chúng ta lần lượt tìm hiểu.
1. Bước đầu tiên là Huyền-Đường. Huyền-Đường đây theo nghĩa là đen tối, vì còn bị nhiều che lấp của cá-nhơn nên nghĩa vụ ở chặng này là phải vượt ra khỏi những cái nhỏ bé là những bước đầu tiên mở rộng tâm-thức để chiếu tỏa yêu thương ra chung quanh mình. Đây là đợt còn dày đặc cá-biệt-tính tức là tư-duy tư-dục (vòng tròn bị chia ra 64 độ) nên còn lờ mờ đen đặc, muốn trút bỏ dần cần phải trút bỏ dần á-biệt-tính. Cơ-cấu xã-hội cũng giúp vào đó phần nào thí dụ như đợt đầu tiên là lập gia-đình, con người ra khỏi cá-nhân riêng rẽ để mang lấy trách nhiệm của một tập thể đầu tiên là gia-đình. Ta có thể nhận thấy sự ngăn cách giữa hai cá nhân lúc này đã là vợ chồng. Trước hết là thuộc xác thân: "cả hai nên một xương một thịt", với những sự thân mật "cấm ngoại thuỷ không ai được biết"… người yêu nhau như tan hoà vào một chủ-thể: như những kiểu nói hồn-nhiên đột-khởi: ai, mình, nhà tôi, không có đường phân ranh rõ rệt. Ai nào? Mình nào? Đừng có hỏi. Đấy là chủ-thể lờ mờ rất dễ biến mất trong nhiều câu. Thí-dụ chàng hỏi: canh ngọt quá ai nấu vậy? Nàng thưa: nấu đấy… Những câu kiểu đó không chủ-từ mà dễ hiểu hơn có chủ-từ (subjet) vì chủ-từ đã dồn lại khá sâu hết còn gì che lấp. Đôi khi có thể đi lên nữa cho đến một độ người nghĩ gì người kia hiểu được như một số vợ chồng cùng tu luyện một phương-pháp. Tuy số này hiện nay còn họa hiếm, nhưng chúng ta có thể thấy lờ-mờ khả-năng trong những hiện tượng thần-thông cách cảm: mẹ nhớ con quá, thì con ở xa hàng vạn cây số có thể thấy rạo rực băn khoăn có khi nấc… Mẹ thầy Tăng tử cắn ngón tay ở tại nước Sở mà thầy Tăng đang ở nước Lỗ động tâm. Khổng Tử có cái thành của trò Sâm tinh cảm vạn lý. Tâm lý hiện nay gọi là "empathie" tức sự cảm thông với người khác. Communication affective avec autrui như mẹ hiểu con cần gì. Đó là những dấu bên ngoài còn kèm theo cảm xúc như rạo rực để chỉ một trạng-thái tinh-lọc hơn mà con người sẽ cảm thấy khi lên đến Thái Thất.
2. Thái-Thất là tầng của Nhân-giả, con người vượt qua những công-hội nhỏ bé như gia đình, làng mạc để đi đến quốc-gia và quốc-tế. Cho được thế thì tâm-thức cần đạt tới nền tảng của nhân-tính (nên nói tận tính) là cái nền nhân bản chung cho hết mọi người.
Trạng-thái thứ hai này được biểu thị trong hình Phục-Hi-Nữ-Oa quấn lấy đuôi nhau. Đuôi là chỗ cùng cực của sự vật mà theo Trang-Tử thì là Đạo. "Đạo vật chí cực"** : Đạo là chỗ chí cực của sự vật, tức là đợt Minh-triết, vì Minh-triết là cách vật: đi đến cái cùng cực của sự vật. Khi lý đã cùng thì tất tận tính hay là đạt trạng-thái thứ hai là hiểu được bản-tính, đồng nhiên của con người muôn thuở, con người Đại Ngã tâm linh.
Đấy chính là lý-tưởng mà các nhà chính-trị thấm nhuần đạo-lý theo đuổi nhằm biến người trong nước nên như một nhà, và bao dung khắp nhân-loại trong mối tình huynh-đệ phổ-biến. Lễ-Vận nói: Thánh nhơn họp thiên hạ thành một nhà, hợp Trung Quốc thành một người". Đó không phải là do ý vậy. Ắt phải biết cái tình, hiểu tinh tường cái nghĩa, biết rõ ràng cái lợi, đạt đến được sự lo, sau đó mới hành động được". **
Thánh nhân nại dĩ thiênhạ vi nhất gia, dĩ Trung quốc vi nhất nhơn giả, phi ý chi dã. Tất tri kỳ tình, tỷ ư kỳ nghĩa, minh ư kỳ lợi, đạt ư kỳ hoạn, nhiên hậu năng vi chi". Đó là một trong những tang chứng của một cố gắng trên đường tiến-hoá, đi từ cá-biệt tư riêng cho tới thế-giới đại-đồng, để rồi cuối cùng, cảm thông được cả thiên địa vạn vật là nhất thể. Tuy nhiên muốn có trung-thực tính thì không thể bên ngoài đòi một thể trạng cân xứng. Não trạng cần mở dần để có thể bao dung trước hết là đồng-bào rồi đến nhân-loại được biểu thị trong tầng hai bằng Thái-Miếu, nơi tâm-hồn gặp gỡ ông Bàn-Cổ tức là tính bản-nhiên con người uyên-nguyên. Với những tâm-thức đang tiến về đợt này thì câu "tứ hải giai huynh đệ" có một nội-dung thâm thiết. Nó gây cho tâm-hồn cùng rung nhịp với Đại ngã tâm-linh. Cho nên thánh nhân thường hiểu được ngôn-ngữ khác nhau, không phải là qua âm thanh bên ngoài nhưng từ tiếng nói nét mặt mà có thể hiểu được trình-độ tâm-trạng của người nghe không những hiểu mà còn cảm thấy hứng-khởi hăng say yêu đời. Được như thế là do nguồn sống của bậc thánh-nhân truyền sinh lực sang cho.
Trạng-thức này xa biết bao với những hạng bị tù túng trong tư kiến, tư dục mà nho-giáo kêu là "Ma mộc bất nhân" trơ cứng như gỗ bất nhân; nhẫn tâm xây hạnh-phúc trên đau khổ của đồng bào mà lòng trơ trơ khô cạn co quắp trong cái kén tiểu-ngã.
Là người đó còn quá bị ngăn che do những ý nghĩ nhỏ nhen nên thiếu sự thông-cảm huynh-đệ, mà Kitô giáo kêu là communion des saints và ngày nay hay chỉ thị bằng những chữ koinonia: Communion fraternelle, và chắc chắn đó sẽ là một đức được chú trọng nhất trong những thế-hệ đang tới. Dầu sao thì đó cũng là quá-trình tiến-triển của tâm-thức nhân-loại mà chúng ta cần phải đẩy mạnh đà tiến.
Triết-lý nhân-sinh khác triết-học lý-niệm ở chỗ trọng tâm tình, coi tâm tình như những bậc trước thềm nhà giúp cho con người nương theo đó để bước lên đặng "nhập ư thất". Vì thế nên có những phương-thức gọi là tâm-thuật, tức là những đường lối đưa đến cái Tâm, đại đồng cái thiên địa chi tâm. Đường lối đó là những tâm tình thông-cảm hoặc thấp hơn nữa là những xúc cảm có tính chất cộng thông, đều được nuôi dưỡng ấp ủ. Mạnh Tử gọi là "trắc ẩn, nhân chi đoan dã": lòng cảm xúc động tình thương xót chính là đầu mối dẫn tới cái Tâm bao la. Vì không phải cái biết trí-thức trừu tượng có thể biến đổi tâm-trạng con người nhưng chính là sự biết đi kèm với những tình tứ nóng hổi mới chuyển hoá được tâm trạng mà sự biến-chuyển tâm-trạng là cốt yếu của triết-Đông là nền triết đi từ tâm trạng này đến tâm trạng khác (d'état en état et non de la pensée en pensée như trong triết-Tây): chứ không từ ý-niệm này đến ý niệm khác vì đó chỉ là ý hệ một sự chạy trên cùng một chỗ. Vì vậy mà cần chú ý đến mối-tình đầu, phải bảo toàn chăm sóc, kẻo sau này mất rung cảm.
Có những kẻ lần đầu thấy máu người hay là máu con vật chảy ra thì lòng xốn xang bứt rứt, đó là những tiếng lương-tri phát-xuất từ mối tình huynh đệ ẩn sâu trong lòng và lẽ ra phải được nuôi dưỡng (gọi là tồn âm dưỡng tính), nhưng nếu không chịu giữ gìn hoặc vì nghề nghiệp chẳng hạn làm công-an qua mấy lần tra tấn tù nhân nên không giữ được tâm-thuật thì lòng đâm ra dạn dũa và cuối cùng trở thành "ma mộc": không còn biết cảm thương. Mà mối tình cảm thương đã tê-liệt, thì những lý lẽ về đại-đồng có còn gây rung cảm nổi chăng. Bà mẹ Mạnh Tử phải rời nhà xa chợ để tránh cho con không thấy súc vật bị giết tỏ ra là một nhà giáo dục có tâm lý sâu xa vậy. Đái Chấn tỏ ra trung-thành với Truyền-Thống khi viết: "Lý dã giả tình chi bất sảng thất da. Vị hữu tình bất đắc nhi lý đắc giả dã. Vị hữu tình bất đắc nhi lý đắc giả dã" ** (Thục V.408). "Lý là tình không sai lầm, chưa từng có tình không đạt mà lại đạt lý vậy"… Bởi đó nên triết nhân-sinh mới đặt quan trọng vào tình nhiều hơn vào lý. Và tìm cách hàm dưỡng những tình cao-thượng không bám lấy lý chỉ được coi như sự quan sát ở vòng ngoài, còn dính liền với màu sắc đa-tạp, nhưng cố-gắng đôn-hậu tình trong hầu: "tinh nghĩa nhập thần" tức đạt trạng-thức mà Vương-dương-Minh gọi là "chiêu minh linh giác xứ", là nơi "chúng vật chi biểu lý tinh thô vô bất đáo, nhi ngô tâm chi toàn thể đại dụng vô bất minh hỹ. Thử vị vật cách" (Đ.H.5): khắp hết vạn vật ngoại nội, tinh thô không còn chi thấu triệt, mà cái tâm ta lúc đó dùng ra muôn sự vật đều được minh bạch cả. Đó gọi là "cách vật" cũng chính là bước vào đợt thứ ba biểu-thị bằng Minh Đường, cũng chính là đạt tới Đại-ngã "Le moi cosmique" tức cái Ngã vô-biên-cương, bao hàm muôn loài, tất cả chúng vật đều là huynh đệ như Saint François gọi "em heo chị bò" hoặc như phật Tổ gọi tất cả chúng sinh hay như Christ lý-tưởng trong tư-tưởng của Teilhard de Chardin; vì mọi biên-cương phân ranh biệt giới như bị xoá bỏ hết. Với người trần tục thì mới có liên-hệ: nó và tôi "moi et cela". Vào chuyến Huyền-Đường thì ra: Tôi và nhĩ (Je-tu) lên tới Thái-Miếu thì cả hai đúc lại một là chúng ta: "Lạy cha chúng tôi". "Không còn là tôi như là chúng tôi", là nous, là nhân-sinh tứ hải. Cuối cùng vào đến Minh-Đường thì chỉ còn là một luồng sống mênh mông không cục hạn phân ranh ngăn cách nữa, nhưng chỉ còn là dòng sống đại-đồng lưu thông khắp hết, nên Mạnh-tử gọi là thiên dân: citoyen de l'univers. Đấy là lúc mà kinh dịch gọi là "Thánh nhơn dữ thiên địa hợp kỳ đức" (quẻ kiền).
"Thánh nhơn cùng với trời đất dự vào một luồng sinh lực, một tính thể mà theo Hệ từ nói": "nó bao quát khắp cuộc biến hoá của thiên địa mà không sai quá, kết tinh vào muôn vật đặc thù mà không sót mảy may, biết thấu suốt cả đường lối vận hành ngày đêm sáng tối. Do tính chất phổ-biến dường ấy nên nói thần không có phương, mà dịch không có hình để nhất-định: "phạm vi thiên địa chi hoá nhi bất quá, khúc thành vạn vật nhi bất di, thông hồ trú dạ chi đạo nhi tri. Cố thần vô phương, nhi dịch vô thể" (H.T.4)
**
Đại để đó là mấy nét nói lên bề thế cao sâu và rộng dài của ba tầng Thái-Thất hợp cho quan- niệm nhân bản ba tầng. Nhà mà dung thông được cả Đất, Trời, Người, sáng tối, quỷ thần thì quả là rộng xiết bao, hợp lý chừng nào. Khiến người ở hết bị cảnh cô-đơn trống-trải. Quả đáng tên là Thái-Thất vậy.
Để tóm lại mà nói thì tính tự dưới trở lên ta có trước hết.
1. Căn Huyền-Đường là chăng đầu tiên trút bỏ những tư ý tư lợi của tiểu-ngã cá nhơn, bậc mà Khổng-Tử gọi là "thăng đường" khi nói về Tử Lộ mới thăng đường mà chưa nhập ư thất. Đó là độ nhằm xoá bỏ sự xa cách giữa người với người.
2. Đợt nhì là "nhập ư thất" gọi là Thái thất chỉ sự mở rộng tâm-thức để dung thông tất cả loài người bằng một mối tình nhân-ái chân-thực, không môt phân cách nào. Vào tới đây thì không còn óc khai-thác bóc lột của tâm-trạng chiếm-đoạt: Avoir là tâm não thường của người ở ngoài nhà, nhưng đi vào Être của tâm trạng nhân-giả.
3. Đợt ba là Minh-Đường của thần-hoá của cách vật trí tri, xem thiên địa vạn vật là Nhất-Thể với Nội-tâm đại-ngã, hay là "thiên địa chi tâm" tức là ý-thức vũ-trụ: conscience cosmique. Đó là đợt của Thánh nhân, Thần-nhân, Chí nhân. Từ đây vạn vật hết còn li cách, nhưng tất cả đều hỗ tương thẩm thấu, hợp với căn Tổng chương có nghĩa là biết thấu vạn-vật (trí tri tại cách vật). Đó là hậu quả của căn đông hánh mộc, màu xanh nên gọi là Thanh Dương, chỉ sự thanh- lọc, tinh-luyện tâm hồn là điều kiện thiết-yếu để đạt chốn hội-thông Trời-Đất-Người để cảm thấy rõ ràng "Vũ-trụ tiện thị ngô tâm" và "vũ-trụ nội sự nãi kỷ phận nội sự, Kỷ phận nội sự vãi vũ trụ nội sự"**
Việc trong vũ-trụ tức là việc phận mình, mà việc trong phận mình cũng là việc trong vũ-trụ, không thấy phân-biệt, và chính trong bầu khí này mới hiểu được những câu "học dĩ tế thiên nhơn" hay như lời Trương Tái sau đây:
Vị thiên địa lập tâm **
Vị sinh dân lập mệnh **
Vị vãng thánh kế tuyệt học **
Vị vạn thế khai thái bình **
(Cận tự lộc thập quí): vì thiên hạ mà lập tâm. Vì dân sinh mà quyết cải-thiện đời sống xã-hội.Vì tiên thánh mà quyết nối cái học xưa bị đứt quãng. Vì vạn-vật mà khai mở ra căn để cho cuộc thái-bình". Cái dự-phóng đó thật là bao trùm khắp vũ-trụ, nó là tâm-trạng những người cư-ngụ trong thái-thất.
Đó là vài ý-tưởng nhằm khai-triển cái lược-đồ đã nêu trên kia: cùng lý ở Huyền-Đường, tận tính con người ở Thái-Thất. Khi vào cùng cực thì "dĩ chí ư mệnh" ở Minh-Đường, đạt chí-trung nên có thể chí-hoà: hoà trời, đất, người vào trong nhất-thể.
Đó là đại-ý:Tam Tài Nhất-Thể" một chân-lý phổ-biến của Truyền-thống nhân-bản tâm-linh mà xưa kia đã cùng xuất-hiện trong nhiều tôn-giáo: ba Ngôi trong Ki-tô-giáo, Trimurti trong Ấn-giáo, tam thân trong Phật-giáo, và biểu-tượng cách đồ sộ ở đền Đế-Thiên bằng những tượng khổng lồ "Ba mặt một đầu", để cụ-thể-hoá "Tam vị Nhất-thể", nhưng không đâu giữ được vị trí cho người bằng ở Tam tài vậy.

3. Ở đời
"Quand Holderlin parle "habiter" (vohnen), il a en vue le trait fondamental de la condition humaine". Khi nói "Ở Đời" thì Holderlin nhắm tới cái nét căn-bản của thân phận con người."
Heidegger
Ở đời bao hàm ở với, ở đâu, ở cách nào.
Ở đời vì thế trở nên một nghệ thuật đòi lắm công phu. Thi sĩ Holderlin nói: "Con người mà giầu không nghiệp thí chính vì ở đời như một thi sĩ". Riche en mérites, c'est poétiquement pourtant. Que l'homme habite sur cette terre".
Ai chả muốn giầu danh nghiệp, nhưng ở đời như thi sĩ là ở làm sao thưa thi bá Tiên-Thiền".
Đáp "Đội trời, đạp đất ở đời"
Ủa! Hỏi cụ ở đời sao lại có kiểu thơ mộng trời đất chi đây?
A! hiểu ra rồi: cũng cái kiểu của Khổng Tử chứ gì? Khi "Nhan Uyên vấn "Vi Nhân", thì Tử viết: khắc kỷ, phục lễ vi nhân. L. n XII. 1: **
Con người đâu phải chỉ có cái thân bé nhỏ này, nhưng còn một chiều kích mênh mông như "thiên địa chi đức", mà đó là điều con người hay quên đi. Vì thế mà cần phải "chinh phục lại mình: cần phải khắc kỷ" nghĩa là trước hết phải nhận thức ra mình là "thiên địa chi đức", rồi sau phải cố gắng để thâu hoá về cho mình cái đức đó để cái tiểu ngã nhường chỗ cho Đại-ngã. Thiếu việc khắc-kỷ đó là giam mình trong lao tù chật hẹp, thì còn đâu nữa mà "ở đời" cách thanh thoát như thi nhân. Muốn ở như thi nhân thì trước hết phải phá hàng rào tiểu ngã, cái đó các cụ xưa người thì gọi là khắc-kỷ, người thì gọi là đạp đất. Khắc-kỷ là chinh phục lại cái kỷ chân thực của mình đã bị sự vật cướp đoạt đi và thay vào đó là cái kỷ giả tạo, cái "ích kỷ hại nhân" thế mà mình không hay biết, lại cứ dương dương tự đắc ra phết ta đây là kỷ là người, mà thực chỉ là cái ngợm. Cần nhận thức ra việc tráo "vút chân rùa đó" để chinh phục lại cái kỷ gọi là "khắc kỷ". Như thế khắc kỷ cũng chính là tận kỳ tính. Tận kỳ tính khác hẳn với việc khuấy động trên bề mặt của "con vật biết suy lý". Cho mãi tới thế-kỷ này mới nhận ra con người không chỉ có thế, mà còn có cả tiềm-thức ăn sâu vào "lòng đất" và thân xác cũng chính là Người …
Từ đó mới mọc lên những sách viết về xác thân, và "thần học của các thực-tại trần-thế" (théologie des réalités terrestres de Gustave Thills. Desclée de Brower 1949). Nhờ đó ta mới hiểu rõ "Đạp đất" ra sao, nó cũng cùng một dòng tư tưởng như "an thổ đôn hồ nhân" vậy. Phải mất từng vài ba ngàn năm mới lại hiểu ra chỗ thâm thuý của người xưa. Chả trách Hồng Phạm nói: "là sẽ giúp cho biết ở chỗ của mình! Tương hiệp quyết cư" ** (Hồng phạm tiết 3).
Mới đọc ta có thể phát cáu nói:"việc chi mà phải giúp, cất nhà lên mà ở chứ có khó chi đâu mà phải giúp. Nhưng nhìn sâu vào mới nhận ra con người hiện đại toàn một giống tu hú ở nhờ tổ quạ, chứ có phải ở nhà của mình, của chính con người đâu. Thế mà chỗ ở định-tính con người: "ở bầu thì tròn, ở ống thì dài"! Dài hay tròn đều không phải là con người. Vì người là một giống lưỡng-thê: có tròn mà cũng có dài, nay đầu không đội được trời, chân không đạp được đất thì hoá ra loài "đầu không chít mà đít không chằng" một loại trốc gốc đã mất khả năng "giao lạc hồ thiên, giao thực hồ địa" thì còn chi nữa mà gọi là ở đời. Chỉ còn là một "tĩnh vật" ù lì, nằm trải dài sát bụng tim gan vào đất. Nằm đất thì đâu có phải ở đời. Vì vậy mà phải đạp đất, cho thấu đến chỗ thâm sâu "bác hậu khả dĩ phối địa" T.D.26.
Còn trời thì phải đội được cho dính sát vào đầu vào óc như một chiều kích thâm sâu của con người. Trời không đội được là khi coi trời như cái chi xa tắp tít ở đâu, và trời chỉ còn là một tiếng trống rỗng thiếu âm vang sinh-động. Cái thứ trời đó đâu có vừa tầm với của tay nữa mà gọi là trời. Chỉ là đội trời khi trời linh-động được tôi, khi tôi đi thấu vào trời đến chỗ cao sáng phối hiệp với"cao minh phối thiên" T.D 26. Có thế mới gọi được là ở đời. Câu nói của cụ Tiên Điền thật đáng suy nghĩ xiết bao.
Tuy nhiên vì câu nói của Thi hào nên nhiều người chỉ đứng dừng lại ở vòng văn-hoá nghệ-thuật mà không chịu đi sâu, để đào cho ra nội-dung triết-lý. Nếu làm vậy chúng ta sẽ thấy nó hợp với câu của Khổng-Tử "khắc kỷ, phục lễ" mà ta cần xét lại theo một khía cạnh nữa. Khắc-kỷ là gì? Thưa là chinh phục lấy cái tôi. Ai bắt mà chinh phục. Thưa là Đất hiểu theo nghĩa vật chất không gian. Khi con người không biết đạp đất để mình chìm dần xuống thì đất lấn lên làm ngạt thở tâm thức, làm tắt lịm đi những mối tình cao khiết. Khi tình người đã tê-liệt thì người tất trở thành những người máy tiếp xúc với nhau toàn bằng da mỏng da dầy, mà mối tình thâm chân thực đã cạn khô. Có gì hàm-dưỡng tình mà tình chả cạn khô. Khi tình đã cạn khô thì làm sao gây nổi âm vang trong tâm thức. Con người trở thành những cơ-khí tuân theo trọn vẹn biện-chứng duy-vật của ích-dụng, hoàn toàn trong vòng-hiện-tượng, dính sát vào cuộc sống sinh-lý để quên hẳn đi bản-gốc của mình. Như thế gọi là Vong thân. Khi thân đã vong đã mất thì cần được chinh phục trở lại, cần được "khắc kỷ". Muốn khắc kỷ thì làm thế nào? Thưa phải "phục lễ". Phục lễ phải hiểu phục cái Tiết-Điệu căn-cơ sinh, sinh bất tức. Nói Tiết-Điệu căn-cơ là có ý gảy ra ngoài lối hiểu hẹp-hòi khi đồng nhất lễ với phong tục này tập-quán nọ như nhóm hương-nguyện quen làm.Trái lại với triết-lý phải hiểu chữ Lễ theo nghĩa uyên nguyên mà đọc thấy trong dạng tự chữ Lễ kép bởi chữ thị ** chỉ thần Đất hoặc "chỗ thông hội của cả tư bề" như một nghĩa khác của chữ thị. Muốn giữ lễ cho cân xứng trình độ triết-lý thì phải vươn tới đó, tới đợt mà Kinh Dịch gọi là Hội Thông, thì mới hiện-thực đúng câu phục lễ. "Quan kỳ hội thông dĩ hành kỳ điển lễ" H.T VII **. Phải đạt tới chỗ Tam-Tài thì mới hiện thực được cái Lễ lý-tưởng (điển-lễ) của mình, tức là của Người viết hoa và như vậy tức là "vi nhân" rồi đó.
Bởi chưng "vi nhân" chímh là đạt tới chỗ "tam gia tương kiến", hiểu được máy tạo-hoá huyền-vi có tròn khuyết đầy vơi, nóng lạnh "đắp đổi", để mà "giá" mà "sắc" gieo ra cũng như gặt vào: triển nở cũng như tàng ẩn, như đã được biểu-tượng trong hình hai chữ Vạn Vãn ** hàm tàng trong khung Hồng Phạm. Xem hai chữ đó chúng ta mới hiểu ra "Vi nhân" cũng như "ở đời" cốt cán là thiết lập được mối tương-quan căn-để giữa thời không, giữa trời đất sao cho Người cùng được phần tham dự như một đấng làm Vua, có quyền "dữ thiên địa tham". Xếp đặt cho cả Trời-Đất-Người ổn thoả: được như vậy là "thiên địa vị yên" và "vạn vật tịnh dục nhi bất tương-hại". Trời đất được đặt đúng vị trí thì vạn vật đều cùng nhau chung sống an vui mà không trở lại làm hại nhau. Ngược lại Bắc Nam tương diệt tương sát như nay thì truy căn ra cũng vì thiên địa chưa có vị yên. Và con người chưa biết ở đời. Vì ở-đời là hiện-diện khắp vũ-trụ (habiter c'est être présent au monde) chứ không ngưng đọng ở Trời hay Đất: Duy- vật hay Duy-linh: ở ù lì một bên sẽ dẫn đến tương-oán, tương-thù, tương-khắc, tương-diệt còn đâu là thanh-thoát như thi-sĩ: ở đời như con bướm bay lượn giữa muôn hoa đầy hương sắc, như kiểu "cái thân ngoại vật là tiên trên đời". Đây là một chân-lý nền tảng, cho nên chúng ta lại trở về với nhà Thi-hào của chúng ta để tìm hiểu thấu triệt thêm chân-lý đó. Và chúng ta sẽ đọc thấy thêm rằng: "Ở ăn thì nết cũng hay" "Nói Lời-Ràng-Buộc thì tay cũng già". Thực là rõ ràng, nhưng khi trích ra chúng ta xin được phép đổi đi vài chữ và đặt sau câu hỏi: muốn ở ăn cho hay thì phải làm sao thưa cụ.
Nguyễn-Du-tử viết:
"Ở ăn muốn nết phải hay.
Nói Lời-Ràng-Buộc thì tay phải già.
Thật là quý hoá: lời lời châu ngọc. Nhưng thế nào là Lời-Ràng-Buộc và trước hết là ràng buộc cái chi? Thưa là ràng buộc Đất Trời lại với Người cho Tam-tài làm nên Nhất thể, khỏi xa lạ nhau. Hỏi Đất Trời xa cách muôn trùng làm sao mà ràng buộc? Thưa muốn ràng buộc thì tay phải già tay chỉ tác động: chữ thủ trong danh từ triết, chỉ việc làm và việc làm chí cực là phải vào đến Chí ** thuộc đợt tâm linh mới có sức ràng buộc thâu tóm tất cả mọi thực thể mâu thuẫn, trở nên mối liên hệ ràng buộc vạn vật với nhau. Đó cũng là ý nghĩa uyên nguyên của chữ legein (gốc của chữ Logos) có nghĩa là gặt hái thâu thập như nghĩa chữ gia trong Hồng Phạm đi liền theo chữ sắc là gieo ra. Về sau triết lý tây sa đoạ đánh mất phần thâu vào mà chỉ còn có gieo ra nên Logos đoạ lạc ra Logique là khoa luận lý vòng ngoài đánh mất trọn vẹn tính chất ràng buộc, nên không nói lên được Lời ràng buộc nguyên ngôn Logos. Lời khai thị căn cơ mà Hồng phạn gọi là "di luân du tự" le rapport fondamental des choses, mối dây liên-hệ ràng buộc sự-vật mãi từ đợt căn cơ cũng được gọi là cương thường của văn-vật. Muốn hiểu thêm nên xem lại ý nghĩa hai chữ Vạn Vãn ở trên, liền nhận ra Ở đời là ở trong thế giao-liên căn để giữa trời với đất; và
Ở ăn muốn nết được hay
Thì phải biết thiết-lập sự căng thẳng giữa hai đối-cực là thiên địa. Làm người chính là duy trì cho cuộc vận hành đó được sinh-động.
Đấy gọi là Nói Lời-Ràng-Buộc. Có ràng buộc mới có ý-nghĩa, nói khác đi ý nghĩa cuộc đời sự vật chỉ có thể hiểu khi qui-chiếu vào cái toàn thể biến dịch mà ở đây gọi là thiên địa, nếu không thì tất cả là vô-nghĩa, ngoài Lời-Ràng-Buộc đều là phi-lý và con người không nói được Lời-Ràng-Buộc thì trở thành cái chi cô-độc, thiếu nhân-phẩm, nhân-tước và sẽ bị cuốn trôi vào hố u tịch hoang vắng như mảnh sao băng đặc-sịt, tối om, câm lặng, không cònlà môi trường thuận-tiện cho sự vang lên của Lời-Ràng-Buộc, lời khải-thị, lời tự sự của muôn loài gọi là Lời-bộc-lộ chân-như: Đấy là ý-nghĩa nguyên Ngôn. Một khi Nguyên ngôn đã không vang dội trong hồn thì con người biết y-cứ vào đâu để tìm thấy ý-nghĩa sáng soi đặng "gieo ra" khắp vũ-hoàn. Hoá cho nên vũ-hoàn trở thành vô-lý. Lời-Ràng-Buộc không còn âm vang thì còn biết "gặt" vào cái chi mà bỏ cái chi, đành để mặc cho gốc rạ, cỏ hoang cũng tràn ngập để diệt trừ cho tận gốc chút thiên-lý còn sót lại và làm cho tê cóng tình người. Cho nên dầu miệng có hô thông cảm, nhưng cảm còn đâu nữa để mà thông. Nói Lời-Ràng-Buộc thì tay phải già. Nhưng tay già ở đâu? Cả bắc cả nam suốt 20 năm đều "già cái chi mà non cái hột". Cái hột cái nhân đã non thì nói sao nên Lời-Ràng-Buộc mà chỉ còn toàn là bì phu, phân tán, chia ly: Việt-nam chia hai, mỗi miền lại chia ra nhiều đảng phái, mỗi đảng phái lại chia ra ba bốn nhóm nhỏ: thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ quái, bát tặc, biến hoá chi vô cùng, tràn ngập cả vào những nơi lẽ ra là chốn thâm-cung của Lời-Ràng-Buộc, cũng lại trở nên loa truyền những lời li gián, xách động để xua đuổi Lời-Ràng-Buộc của tiên-tổ Bi phù!

4. Một thời gian ở một không gian đời
Tôi muốn chấm hết khoá giảng này bằng thuật-ngữ kỳ-lạ đó: "một thời-gian ở một không-gian-đời" mà tôi coi sẽ là tên của đứa con tinh-thần chúng ta đang muốn tác tạo, nhưng chưa rõ thành phần phối hợp. Hầu hết trí-thức mới có học biết về tây-phương (hoặc có đọc sách Đông-Phương nhưng hiểu qua phạm-trù Tây-phương thì cũng kể như chưa đọc) mà văn-hoá tây-phương xây trên không-gian thời-gian li-biệt, mãi cho tới nay mới khởi đầu nhận ra và Heidegger một triết-gia vào số tiền phong mới đưa ra mẫu người gọi là Tại-thế-thể Être-au-monde: in-der-Welt-Sein, để làm như gạch nối không thời lại một. Thành ngữ đó có thể gọi là Ở đời. Tuy nhiên "Ở đời" bao hàm một nội-dung quá mới mẻ đối với nền văn-hoá duy-lý Tây Âu, thành ra chữ "Ở đời" bị hiểu sai đi hầu hết, và điều đó ngay ở cả những tay hướng đạo như Sartre, Marcel, Merleau Ponty, Ricoeur, Ade Waelhens… hầu hết còn hiểu theo kiểu không-gian ở đời là như ở trong hộp, thuốc trong bao… tức trong không gian và thời gian, như trong cái chứa mà chưa là nối kết, chưa là Lời-ràng-buộc cả ý tình chí. Hiểu như thế thì ở đời chưa trở thành gạch-nối hai yếu-tố không-gian thời-gian lại một. Vậy nếu ta chỉ biết theo tây thì cùng đi vào đường bế-tắc đó: cho nên bó-buộc phải thêm yếu-tố Đông-phương, để hiểu hai chữ "Ở đời" một cách thâm hậu đến "bác hậu phối địa, cao minh phối thiên" ** . Có hiểu "Ở đời" kiểu "đội trời đạp đất" thì mới nối được không thời thành nhất-phiến: một thời-gian ở một không-gian-đời: tâm mình với vũ trụ là một.
Thật ra nếu hiểu được nguyên nghĩa thì hai chữ Vũ-trụ đã đủ . Chữ đó đã có lâu đời trước nhà Hán và nói lên sự đúc kết không thời lại một.
Nhưng vì lâu ngày ý nghĩa đã bị lu mờ đi nên cần lại một thuật-ngữ mới để khua động lại tâm-thức, để chúng ta thấy lại được cái ý-nghĩa sâu xa của nó và chúng ta sẽ nhận ra là nó có đầy đủ khả năng để hứng khởi lên một nền tổng hợp mới giữa Đông-Tây Kim-Cổ. Chính trong viễn tượng đó mà khoá giảng Chữ Thời muốn đặt nền móng cho nền triết lý nhân sinh: nghiã là những nguyên-lý phổ biến, đó là một thiết yếu khi muốn đặt nền móng cho một công cuộc nghiêm túc. Có làm như thế mới trông kiến tạo được một cái chi vững bền, nhưng cái phiền của lối này là rất khó khăn. Tuy nhiên nếu đọc giả chịu nghiền ngẫm nhiều lần lúc ấy ý-nghĩa thâm sâu của cảo-luận này sẽ dần dần hiện lên. Và khi đó chúng ta sẽ thấy rõ chữ "chí trung hoà" với vài câu giải nghĩa lưa thưa "Ngô tâm tiện thị vũ-trụ. Vũ-trụ tiện thị ngô tâm", Hoặc vài câu định nghĩa vũ-trụ "hữu thực nhi vô hồ xứ giả"… hiện lên trong ánh sáng huy hoàng chiếu hào quang rực rỡ vào nhuững khám phá khá phong phú nhưng lẻ tẻ (vì thiếu nhất quán) của các triết-học gia tây Âu, để xâu lại một thời-gian-ở một không-gian-đời, tức là như Heidegger nói (sz 104 … ) một không-gian tinh tuyền (espace pur) chưa chia cắt ra những không gian hạn-hẹp của đồ vật đặc-thù, nhưng hãy còn là một Đại-thông Đại-thời mà ta chỉ cảm thấy phát hiện khi sống cái sống thật sung-mãn, cái sống của Con Người Đại-Ngã theo nhịp đập của "Thiên Địa chi tâm". Ngoài cái sống tâm-linh đó có nói đến hai chữ Đại-Thời Đại-Không cũng chẳng qua là lắp một chuỗi danh từ rỗng. Cho nên điều quan trọng là phải làm phục sinh được cái sống Ở-Đời viết hoa, cái thực tại uyên-nguyên trong tâm-hồn, lúc đó chúng ta sẽ thấy ý-nghĩa thâm-thiết của câu Nguyễn-Công-Trứ: "Trong vũ-trụ đâu chẳng là phận sự": "cũ-trụ nội mạc phi phận sự" ** cũng như câu "Vũ trụ chính là tâm tôi, mà tâm tôi cũng chính là vũ-trụ" của một Đại diện Việt Nho là Lục-cửu-Uyên. Và lúc đó hy vọng chúng ta sẽ hiểu thêm câu "Ở đời" là hiện diện với vũ trụ nghĩa là duy trì mối giao liên thân mật với sự vật bằng cách xoá bỏ quãng-xa, bằng "Cách vật" = tới đến tính-lý vạn-vật bằng hiện diện toàn triệt không những bằng lý-trí mà cả bằng tình cảm lẫn tâm linh. Sự hiện diện thật thâm sâu như vậy cũng chính là biết thấu triệt (trí tri). Cho nên "cách vật tại trí tri" cũng như "trí tri tại cách vật". Biết là hiện diện. Muốn hiện diện với vũ-trụ là muốn hiểu thấu vũ-trụ (cực kỳ chí giả sát hồ thiên địa). Muốn vậy ta phải khởi sự Người (quân tử phi đạo tạo giang hồ phu phụ… ) (xem lại bài khởi đoan ở Nhân Bản) để khi biết được Người thì tất biết Trời biết Đất (tận kỳ tính tất tri thiên, tri địa). Đã tri thiên tri địa thì tức có một thời-gian-ở, tức là có-mặt-với "Être-avec", mitsein, Être-présent au-monde. Không khác chi "cách vật" khi hiểu là vật-hoá: khiến cho vật khách-quan đối tượng như biến đi để cho cái ngã-quan-sát cảm nghiệm trở thành Đại-ngã "huyền đồng" với vũ-trụ kiểu như Mạnh-Tử nói "Người quân tử trên với trời dưới với đất cùng lưu linh trong nguồn sống bát ngát vô biên không phân ranh giới. Phù quân tử thượng hạ dữ thiên địa đồng lưu VII 14 **
Đó là cấp bậc cao nhất trong việc học hành tu luyện của nền Đạo học Đông-phương. Người đạt tới đó rồi thì không còn sự giam tù trong nơi này lúc nọ, nhưng "cư chi quảng cư" trong khắp vũ-trụ: coi phận sự trong vũ trụ là phận sự của mình. Ngược lại khi không hiện diện trong vũ-trụ là lúc tự đóng khung vào một thời điểm bé nhỏ thì phận sự cũng bị khuôn hẹp vào cái cá-nhân, cái gia đình nhỏ bé, và có lan ra nữa cũng đến với người một nước, một màu da một tôn giáo là cùng cực. Làm sao gọi được là thời-gian-ở? Vì Ở có nghĩa là không vắng mặt. Đó là hạng présent-absent: xa mặt vì bởi cách lòng. Như thế thời-gian-ở không-gian-đời là lối ở của Con Người được định-nghĩa như "Thiên Địa chi đức, âm dương chi tú khí, quỉ thần chi hội" nghĩa là một con người không còn đóng khuôn vào một sự hiện-diện khách-quan trong một không gian nào mà thôi, vì đó mới là phần vũ của thân xác mà chưa có trụ tâm linh. Đó là không-gian nhỏ hẹp, phân cách, còn xa lắm mới gọi được là không-gian-đời, khi hiểu đời là vũ-trụ là qui hướng về một (l'univers, c'est s'orienter vers un). Và chỉ ở trên thời-gian-ở và không-gian-đời đó mới tìm ra điểm Thái Nhất "Summum Unum" là chỗ qui tụ cho cuộc linh-phối Tây-Đông để sinh hạ một đứa con tinh-thần hiện chưa ai biết khuôn mặt ra sao nhưng có thể dự đoán khi ra chào đời sẽ được đặt trong cái nôi gọi là "Một-thời-gian ở một-không-gian-đời".

#16
    Trương Củng 30.03.2005 16:05:33 (permalink)
    Tổng quan

    1. Cái núm của vấn đề
    Muốn ước lượng phần nào chính xác về số độ cao thấp của một nền Văn hoá thì tiên thiên nên dùng quan niệm Chữ THỜI, còn hậu thiên nên dùng hiện thực. Những hiện thực này cần thiết cho việc kiểm chứng. Và để cho những suy luận tiên thiên bớt chủ quan thì phải đi lối kiểm chứng trước. Muốn cho kiểm chứng làm tròn vai trò của nó thì đừng lôi cả vào những hiện thực thuộc Văn Minh. Vì Văn Minh khác với Văn Hoá.
    Văn Minh chủ Trí.
    Văn Hoá chủ Nhân.
    Văn Minh nhằm ăn người.
    Văn Hoá nhằm yêu người.
    Vậy không nên thấy Tây Âu hùng cường hơn ta đến độ cướp đoạt được ta mà có thể kết luận rằng văn hoá Tây Âu cao hơn của ta.
    Bởi khi đứng hẳn vào cương vị Văn Hoá mà nói thì ta thấy Văn Hoá Việt Nho đã lập được những thành tích lớn lao cho nhân loại:
    1_ Phá chế độ nô lệ và đặt nền tảng cho tình huynh đệ phổ biến.
    2_ Thiết lập chế độ bình-sản
    3_ Và rất nhiều bình quyền như đi học, đi thi, phát biểu tư tưởng v.v…
    Ngược lại Văn Hoá Tây Âu đã sản ra ba cái nọc độc hiện đang còn gieo máu nước mắt khắp nơinào mà nó lan tỏa tới. Đó là kỳ thị chủng tộc, thực dân chủ nghĩa tiêu diệt bao triệu người, và Cộng sản nô-lệ-hoá con người cách tàn bạo (xem lại bài khủng hoảng trong quyển Triết Lý Giáo Dục).
    Đó là những sự kiện được chính những học giả Tây Âu ghi nhận trước và hiện còn đang phơi bày ra trước mắt mọi người, cho nên khi nói Văn Hoá Viễn Đông cao hơn thì không phải là truyện vội vã hay chủ quan chi cả. Nói ngược lại như thường thường người ta tin tưởng đấy mới là cận thị, mới là thiếu khoa học: lẫn lộn Văn minh với Văn Hoá. Thấy Văn Minh cơ khí cao thì cho mọi cái đều cao, đã từ xa xưa như vậy.
    Nếu đó chỉ là sự tin tưởng thường nghiệm của người dưới phố thì không đáng bàn. Đàng này cả giới trí thức, cả triết học gia cũng tin như vậy nên mới là hùa nhau theo gió, hùa nhau uống thuốc độc. Muốn tránh tai hại đó cần phải bàn thấu triệt cách tiên thiên bằng trở lại với quan niệm thời gian của Triết Tây. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận thấy một hiện tượng kỳ lạ mà Neitzsche kêu là "hiện tượng hoán đổi giá trị": transmulation des valeurs. Nó đang diễn ra cách cụ thể bên nước ta như thế này. Tất cả các giá trị Tây Âu mà thế hệ đàn anh chúng ta đã ca ngợi thì nay đang sụp đổ cách thảm hại như ý hệ, danh-lý, sự phồn-thịnh của triết học (các trường phái tràn ngập)… Chúng ta nhận thấy những triết gia lớn của Tây Âu, một Neitzsche, một Heidegger đang giồn hết nỗ lực vào việc phá bình địa nền triết học cổ điển của họ. Tại sao vậy? Nếu muốn nói một cách thông thường là tại tất cả những cái hào nhoáng của triết học cổ điển ý hệ, danh lý, sự phồn thịnh (tức có rất nhiều trường phái) là do đặt sai nền tảng, tức nền tảng đã đặt trên cùng bình diện tai mắt như người dưới phố. Đó là bình diện lương tri ban ra cho con người xài đỡ trong khi chưa tìm ra lối vào tâm linh. Thế mà triết học lại xây đại nhân sinh quan trên đó. Vì thế không lạ chi ngày nay khi khoa học thực nghiệm tiến đến sát bờ cõi siêu hình như vi thể học thì mới nhận ra cái hỏng của triết cổ điển.
    Thế là những cái hay đẹp mà thế hệ trước đã dựa vào để khinh bỉ tiền nhân thì chỉ là những giá trị giả tạo. Đó là cái lầm tiên thiên cộng với cái lầm hậu-cứ ở lại lẫn lộn Văn hoá với Văn minh.
    Bây giờ đến lượt chúng ta phải kiến thiết lại tất cả tự đầu. Và vì thế chúng ta chú ý đến vấn đề tiên thiên mà phần nền tảng hơn hết là vấn đề Thời gian, nên đó là đối tượng quyển Chữ Thời. Sách gồm ba phần thì phần nhất bàn đến những sự đổ vỡ tưng bừng bên trời Tây. Cốt tuỷ của nó giồn vào sự quan niệm Chữ Thời cách sai lầm. Và sự sai lạc đó ở tại chỗ đã để cho không gian nuốt trôi thời gian, hay thời-gian bị không-gian-hoá cũng vậy. Heidegger gọi đó là "đánh mất nét gấp đôi" tứ c là một lối khác nói lên cái bệnh nhị nguyên: ở tại nhận một bỏ một, nhận không gian mà bỏ thời gian. Nói đúng hơn không phải chối bỏ thời gian nhưng là để cho thời-gian bị không-gian-hoá, điều đó còn tai hại hơn là thiếu thời gian vì nó làm cho người ta không nhìn nhận ra chỗ hỏng: cứ tưởng chỉ có thời gian mà thực ra chỉ là không-gian. Điều đó dẫn tới tai hại trầm trọng: nhận là thần cái không phải thần, nhận là siêu hình những cái có hình tích đầy đủ.
    Như vậy là thiếu thần, thiếu siêu mà không hay biết nên không lo đi tìm thần linh, tìm siêu hình nữa. Nói theo Việt Nho là không lo Tuấn Triết, cũng gọi bóng là Tuấn Xuyên.

    2. Lên tới ngọn cái con sông Đào
    Đặng chữa bệnh nhị nguyên. Nhị nguyên là cái gì? Thưa là một thứ tâm bệnh làm cho con người mắc phải xem sự vật nào cũng đều có một cách tuyệt đối, tự lại, như một bản thể cô lập: nước là nước, lửa là lửa, hai bên riêng biệt hẳn, đến nỗi đối kháng tiêu diệt nhau, nghĩa là y như con người dưới phố xem kiểu thường nghiệm cũng thấy như vậy. Chính vì nhị nguyên mà triết học đã sai lầm hàng mấy chục thế kỷ không một ai mò ra.
    Bạn sẽ hỏi thì xem như vậy đã là sao đâu. Mọi người đều xem như vậy và vẫn sống nhăn răng kia, như vậy đã gây nên tội vạ gì mà gọi là bệnh? Thưa tội vạ lắm lắm, nhưng nó rất tế vi không dễ gì nhận ra được. Số là ý niệm trên khi được dùng làm nền tảng cho quan niệm hữu vi, thì nó sẽ dẫn đến cá-nhân chủ nghĩa, coi mọi người là một thực thể riêng biệt, không có một mối liên hệ ngầm nào. Đó là lối nhìn đã đưa đến việc coi lân nhân như cừu nhân cần sát hại, hay bóc lột hoặc chinh phục. Ba cái nọc độc nói trên: kỳ thị, thực dân, cộng sản đều phát xuất từ cái nhìn một chiều đó chứ không phải truyện xa xôi chi cả.
    Ngược lại khi đạt cái nhìn lưỡng nghi thí lúc ấy bất cứ sự việc chi cũng được coi như đầu mối của một thực thể lớn lao hơn nhiều mà Việt Nho kêu là Nhất Thể. Chính cái đó mới là bổn gốc còn những việc chống đối nhau như nước lửa, trời đất chỉ được kêu là lưỡng đoan, là hai đầu, hay là đối cực. Theo lối nhìn lưỡng nghi này thì nước lửa không còn là hai thực thể cô lập nhưng là lưỡng đoan, là hai đầu của cùng một thực thể và thực thể đó vô hình, và chính vì vô hình nên nó có thể hoà giải nối kết những đối cực. Vì thế gọi là CÁI-NỐI: Mysterium Conjunctionis, Lão Tử kêu là HUYỀN ĐỒNG. Cái nối ấy là chữ Nhân của Việt Nho. Trong Ngũ hành nó chiếm hành THỔ. Hành Thổ là hành vô hành, niệm vô niệm. Và phải là chỗ an trú của tâm hồn, gọi là "an thổ". Con người không được an kim, hay mộc, thuỷ, hoả, nhưng phải an thổ vì nó là "hành vô hành" nên mới trở thành nơi Hội Thông cho vạn vật và nơi hội thông đó phải tìm ở ngoài: ở nước hay lửa, ở kim hay mộc nhưng phải tìm ngay ở nơi lòng mình. Vì thế mà Việt Nho kêu là "KỲ TRUNG". Mọi tác động con người phải hướng vào kỳ trung, chứ không vào lưỡng đoan. Lưỡng đoan có được đếm kể tới chữ Nho kêu là chấp kỳ lưỡng đoan. Chấp đây không có nghĩa là chấp nhứt, mà là "chấp kỳ lưỡng đoan". Nhưng còn dụng thì phải đặt vào kỳ trung: "chấp kỳ lưỡng đoan, dụng kỳ trung ư dân" ** Nói ư dân là với nhà cai trị còn với người là ư nhân.

    3 Muốn ăn sim chín
    Dân là con người sống trong hàng ngang xã hội, nằm trong những mối nhân luân, trong đó có luân vua-tôi, nên vua phải nói dụng ư dân mà không ư nhân **. Vì Nhân là con người xét trong liên hệ hàng dọc với trời đất "Nhân giả kỳ thiên địa chi đức". Nó là cái vòng trong đối với dân là vòng ngoài. Khi đi vào chiếu kích Nhân đến cùng thì sẽ gặp sim chín là Hoàng Cực (có 9 số gọi là cửu trù). Đấy là miền của "sinh sinh bất tức", đấy là cái đỉnh chót vót của nền Văn hoá nông nghiệp. Vì thế nó cũng dùng hai chữ căn bản của nông nghiệp mà gọi cái Nhân đó là Giá Sắc: Giá là gieo ra. Sắc là gặt vào.
    Vì đây là nơi cùng cực nên giá sắc không còn hiểu ở đợt hiện tượng, nhưng phải hiểu đến đợt sinh sinh bất tức. Đó là hai vòng trời đất làm nên con sông Tương căn để. Giữa trong và đục. Giữa giá và sắc. Giữa sinh và diệt.
    Nơi mà Diệt cũng cần bằng Sinh. Không diệt thì Sinh cũng hết. Nên Sinh vừa ló dạng thì Diệt chụp ngay để Sinh có thể sinh nữa. Trong một khoảnh khắc có cả tỷ lần sinh diệt, có cả tỷ lần giá sắc. Cả Giá cả Sắc, cả Sinh cả Diệt chảy miết như hai dòng bất tận. Vì thế mà ngạn ngữ Việt Nho mới nói là Sông Tương nước chảy hai chiều thì hai chiều ở đây phải hiểu là hai dòng sinh diệt căn để. Không thể đào sâu hơn được nữa. Có đạt sâu như thế mới gọi là sông Tương. Muốn đạt thì phải lên ngọn cái con sông Đào, cũng là đào sông, Việt Nho kêu là Tuấn Xuyên. Tuấn Xuyên là Tuấn Triết. Ông Cổn đắp đê là để dừng lại đợt ý-hệ nhị-nguyên thường nghiệm. Ông Vũ biết đào sông là vượt qua thường nghiệm để đạt tâm linh. Vì thế mà được Cửu trù cũng gọi là Hồng Phạm. Sách nói rằng ông Vũ biết tuấn xuyên nên trời động lòng liền ban cho một giỏ sim chín mọng gọi là cửu trù:
    "Thiên nãi tích Vũ Hồng Phạm cửu trù".
    Vì ông đã ăn sim chín mọng vào rồi thì liền trở nên thông minh duệ trí, xem thấu đến tận căn cơ gọi là cách vật. Đấy là chốn sơ đầu, với cái nhìn khác hẳn lúc còn bám sát trần ai. Bên này thấy Hữu sinh ư hữu. Bên kia lại thấy Hữu sinh ư vô. Nhưng đấy mới là Cái Hữu Căn Để. Cái Hữu trào vọt, dùng hoài không hết. Đấy mới là cái hữu tràn đầy biến dịch: tự sinh tới diệt tự hữu tới vô. Và chính vì thế mà nó mới là Thời-Tính. Và chính ở đợt này tâm trạng con người mới đạt tới cái Cơ: Cái "Động Chi Vi" tức là chỗ nào không biết đào sâu tới đó thì đánh mất Chữ Thời. Nói theo Heidegger đó mới là chỗ mà Thời-Tính khởi đầu thời-gian-hoá bằng biến dịch. Tác động biến dịch đầu tiên gọi là sinh sinh. Đó là đợt phải có mắt tâm linh của hiền triết để "Cách vật" tức là thể nghiệm mới thấy. Còn nếu chỉ nhìn với mắt, dù là mắt lý trí đi nữa thì chỉ là một Hữu thể nối dài. Không có Vô thể cắt giữa. Nhìn mà toàn thấy có Hữu thể không thấy đặng vô thể thì đó gọi là con sông "Lục đầu sáu khúc nước chảy một chiều anh ơi!". Anh uống vào thì sẽ đau bụng "lục cựa" kinh niên. Đó là hậu quả của bệnh nhị nguyên. Chữ Nguyên có nghĩa là đầu, là cái gì cùng cực không thể giản lược được (irréductible) tức không đẩy xa hơn. Nếu vậy mà nhị nguyên thì tức là nhận có hai đầu, hai chủ làm sao chịu nhau. Nên cuối cùng là nhận một bỏ một. Đó là nguồn suối mọi mâu thuẫn cũng như mọi tranh đấu ý hệ trong Văn hoá Tây Âu.

    4. Những con số biết định phận
    Nói đến nhị nguyên là nói đến con số: số hai. Cũng như sẽ nói tới các con số khác. Và những con số đó có một cương vị rõ rệt trong Ngũ hành. Mà Ngũ Hành là cơ cấu của Việt Nho. Nói đến cơ cấu là nói đến cái gì giáp ranh với tiềm thức cộng thông. Vì thế không còn là những suy luận suông, nhưng là những con số biết định phận, biết nói tiên tri về định mệnh của những người theo nó đến độ có thể xem sự hiện diện của những loại số nào mà đoán ra được định mệnh của một nền Văn hoá. Vì thế mà cần cứu xét đắn đo những con số trong ngũ hành.
    Theo Ngũ hành thì hai số Đông Nam là: 3-2
    Hai số Tây Bắc là: 4-1.
    Căn cứ vào tính chất các số (số lẻ chỉ trời, tinh thần, nên cũng gọi là Số Hoá. Số chẵn chỉ đất, cũng gọi là số phá). Bởi vì trời ba mà đất có hai: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số". Còn Văn hóa Tây Bắc thì đất 4 mà trời 1 nên hướng sức mạnh, về lượng số theo câu nhận xét:"Thiên bất túc tây bắc, địa bất mãn đông nam".
    Xét về địa đông nam thua 2 (4 -2=2)
    Xét về trời thì tây bắc thua 2 (3 -1=2).
    Như trên đã nói đó là những con "số phận": nombres faditiques, tức là những con số biết định phận. Vì thế mà số 3 -2 sẽ dẫn đến những số cùng loại là 5 -9
    Còn số 4 - 1 sẽ dẫn đến 7 - 8
    Nếu vậy không phải truyện ngẫu nhiên mà hai thần căn bổn của Hi lạp là DIONYSOS và APOLLON chia li, mà cốt là để nổi bật lên con số 2, một con số sẽ đè nặng lên nền triết học Tây Âu như một nhát cắt đôi dầy máu rỉ. Số hai sẽ dẫn tới số 4. Số 4 cũng là con số chủ chốt của Tây Âu đến độ Thần Minh cũng thường được biểu thị bằng số 4.
    Rồi đến cơ cấu Ngũ hành thì ta cũng thấy Tây Âu xài mạnh tứ hành. Đôi khi có dùng ngũ hành như Arirtote nhưng Hành năm lại bằng Ether cùng một bình diện như bốn hành kia nên không khác gì với bốn hành thì đó chỉ là con đường Cộng Công tất sẽ "súc bất chu chi sơn". Không may đó lại là điều đã lặn sâu vào tiềm thức người Tây Âu, nên nay khoa Phân tâm nhận thấy các người mắc kinh bệnh hay thấy hình vuông (xem JUNG)… Đến nay Heidegger cũng trình bày cuộc chơi vũ trụ không bằng "tam tài" hay "ngũ hành" mà bằng tứ trụ! Có lẽ vì vậy mà văn hoá Tây Âu không ưa số lẻ. Số 7 tuy có xuất hiện nhiều lần nhưng Việt nho cho đó là số nam vì số 3 phải đội số 4.
    Ngược lại thì Văn hoá Viễn Đông vận hành qua các số lẻ 3 -5 - 9
    Số ba thì đi với tam tài - Tam Miêu
    Thắp ba nén hương, _ Đặt ba bàn thờ…
    Còn Ngũ hành là Thập tự nhai là Ngũ lĩnh là ngũ cốc.
    Số 9 là chính số 3 đẩy đến cùng nói lên chỗ cùng cực của đường tiến, nên gọi là "Hoàng Cực". Cực là không đi xa hơn được nữa. Bàn Cổ nhất nhật cửu biến nên đưa đến Cửu Lê, Cửu Trù, Cửu Đỉnh, Cửu Giang, Cửu Long.

    5. Dị biệt căn bản giữa hai dòng số
    Sự khác đó ở chỗ bên số lẻ 3 - 5 - 9 nói lên cái nối giữa 2 - 4 - 8, còn bên chẵn (2, 4 - 7, 8) thì không. Thoạt nghe không thấy nét đặc trưng hiện lên rõ, nhưng xét sâu mới hay rằng rặng số lẻ là một tác động họa hiếm vì nó vận hành với số ZERO. Sở dĩ triết La Hi không vươn tới những số kim tự tháp hay ba chiều (nombres pyramidaux et cubiques. Xem lịch sử triết Tây. Lê Tôn Nghiêm tr. 103) là vì không tìm ra số ZERO. Chính tại đó nên tỏ ra rất ái ngại trước những gì gọi là VÔ. Triết Tây gọi là thiếu phần VÔ, hay nói đúng hơn chỉ có lẻ tẻ đôi người chủ trương vô, nhưng không được truy nhận để trở nên một nét căn bổn (Xem định hướng Văn Học, trang 156 …). Chính vì thế mà triết Tây thiếu mối cầu bắc vào cõi vô, cõi Tâm Linh.
    Văn Hoá Ấn Độ trái lại đã có công khám phá ra con Zero, do đó một đàng đẩy toán học đi thật xa, đàng khác hướng triết mạnh vào Vô. Triết Ấn vận hànhhh trong Vô Vô, Neti Neti, Thái Hư, Sunyata… Không không, đại không. Có thể lấy Vô làm nét đặc trưng đến độ không còn tỏa ra phía những con số chẵn biểu thị cho hiện-tượng.
    Nhìn lại cơ cấu Việt Nho đã được trình bày ở phần II ta thấy nó vận hành hoàn toàn trong số lẻ xuyên qua cả 5 chương.
    3 = Tam Tài, 5 = Ngũ hành, 9 = Cửu trù.
    Đấy là phần căn bổn nhất và đồng thời cũng nói lên nét đặc trưng căn bản hơn hết. Ta hãy nhìn trở lại sẽ thấy rằng khi còn trong phần I thì 2 nền Triết Tây Đông đối chiếu. Nhưng khi đến cuối phần I thì triết Tây Âu hầu như đóng trại lại tại đấy mà không chịu đi thêm nữa. Nói khác triết Tây không sang nổi được sông Tương để múa những vũ điệu Tam tài, Ngũ hành, Hoàng cực, nhưng ngồi lại bên này vày vò những số chẵn của bố, không biết đến rặng số lẻ của Mẹ là 9, 5, 3.
    Số 9 vì là nam thất nữ cửu
    Số 5 được bồng trong tay Nữ-Oa
    Số 3 đi với số 2 là số căn bản nói lên nét nối rõ rệt: ba trời hai đất: nghĩa là có cả đất cả trời, cả ngoài cả trong. Ngạn ngữ rằng:
    "Còn mẹ ăn cơn với cá,
    Mất mẹ liếm lá gặm xương".
    Có phải vì đấy mà triết cổ điển vận hành trong những ý-niệm ướp khô như xương (Idées - Momies, tiếng của Nietzche), và triết Việt còn được cái Nối. Vì thế ta hiểu được liều lượng của tâm cảnh. Nếu lấy trời làm Tâm. Đất làm Cảnh.
    Thì phải lấy tâm trùm cảnh
    Không thể lấy cảnh trùm tâm
    Vì khi cảnh trùm tâm như số 4 - 1, đất quá nặng không cho tiến lên được tới số Mẹ là số 9 Hoàng Cực. Bởi vậy Văn minh Mẹ cố tìm cách dẹp các số chẵn xuống. Số 2 chỉ dùng làm bàn đạp để lên. Còn số 6 và 8 thì luôn luôn bị đề phòng:
    Số 6 cho là lục cực. Số 8 là bát quái.
    Hẳn một đầu óc Việt Nho tinh nghịch nào đó đã đọc chữ là quái để đồng hoá với ác quái, quái gở. Cũng một lối chơi kẻ xâm lăng như người mà Hoàng Đế trao cho việc sửa lịch gọi là Đại Nạo **, có nghĩa là đại náo khung trời Việt Nho vốn vận hành theo số lẻ, nay bị những thử thách phá rối bằng số chẵn của Hán Nho. Bởi Hán tộc có tính chất du mục nên cũng vận hành theo số chẵn, số của vũ trụ khách quan đi theo đường 2, 4, 6, 8.
    lưỡng nghi sinh tứ tượng
    tứ tượng sinh bát quái.
    Bát quái lẽ ra phải là bát khải, bát khuê ** (thứ ngọc trong trên nhọn dưới vuông để chỉ cái "kỳ trung" của nội ngã tâm linh), nhưng khi đi với bốc-phệ thì nó hoá ra quái đản tai dị… che lấp mất tình người phát ra tự Trung Cung không cho vươn lên tới Cái Nối thường nằm khuất trong các số lẻ. Chính vì thế mà bao đời Kinh Dịch đã sa đọa ra cái mà Wilhelm gọi là "sự lừa gạt" (hocus pocus) làm ứ đọng tất cả mọi bước tiến đã có thời mở ra rất huy hoàng, thí dụ Nhạc là biểu tượng Cái Nối (Mysterium conjunctionis) thì đã không tiến được bước nào trong 5 ngàn năm, mà nhiều khi còn bị cấm đoán, và đánh mất luôn Kinh Nhạc. Và vì thế đôi ngọc Long Toại chỉ còn tàng ẩn ở phương Nam và hàm ngụ trong những trang huyền sử Việt như trong hình ảnh Trọng Thuỷ ôm xác Mị Châu nằm sâu trong Việt-tỉnh-cương là chính cái khung Lạc Thư, sách của Mẹ, của dân Lạc Việt. Nhưng dù sao thì ta còn có thể theo dấu lông Chim do Mị Châu trải trên đường tìm về Thái Thất được trình bày trong phần III. Đó là con đường ẩn ẩn, hiện hiện hàm ngụ trong Qui lịch. Trong Sử mệnh. Trong lối sống.
    Tất cả đều gắn liền với số lẻ là những số đầy ắp tình người. Trong Tam tài thì có tài Nhân. Ngũ hành nằm gọn trong tay Nữ-Oa nghi mẫu. Còn Cửu trù là cửu đỉnh của Cửu Lê. Tất cả đều nói lên con đường trở về từ 9 tới 1 như đã từ 1 đi ra tới 8. Muốn trở lại phải lần từ 9 để rồi trở lại với 1. Vì đường vũ trụ trở ra từ 1 tới 8 (bát quái).
    Đường con người trở lại từ 9 tới 1. (Bàn Cổ nhất nhật cửu biến). Và như thế thì những số không còn là số suông mà là số phận, tức là những con số nói lên cái phận, cái sứ mạng của nền triết lý Đông Nam, một nền triết lý nông nghiệp vĩ đại nhất. Vì thế xin kết triệt bằng một tác động tiêu biểu của chế tịch điền ghi trong nguyệt lệnh. Theo đó ta thấy mối liên hệ ăn ngầm ở trong 3 luống cày của vua (Tam Tài), 5 luống của tam công (Ngũ hành) và chín (9) luống của cửu khanh và chư hầu (thiên tử tam thôi, tam công ngũ thôi, Khanh, chư hầu cửu thôi… ) **. Sở dĩ trọng thể hoá việc tịch điền là cốt để cầu mùa và thường thì chỉ được hiểu có tới đấy nhưng thực ra đó là những tác động biểu tượng nền văn hoá nông nghiệp đi theo nguyên lý Mẹ với các con số lẻ 3,5,9. Tất cả đều nhắm vào Trung Cung hành thổ cần được vun tưới. Việc đó được hiện thực bằng sự vun xới tâm linh như câu " Thánh nhân lấy tình người làm ruộng" phải trông nom, và trên nữa còn nghĩa siêu hình ẩn trong các số 3,5,9 luống cày, như phần nào phản chiếu trong Kinh Lễ, chương Lễ Vận (Couvreur p.522) nói rằng: "Bởi thế khi bậc thánh triết lập luật thì đã lấy thiên hạ làm nền móng, lấy âm dương làm hai nguyên tố cấu tạo sự vật làm mối khởi đầu, lấy bốn mùa làm bánh lái, lấy mặt trời và trăng sao làm nhân tố chỉ thời giờ, lấy ngũ hành làm vật chất (rất biến dịch), lấy lễ nghĩa làm khí cụ, lấy tâm tình của con người làm ruộng phải trông nom vun tưới".
    Đó là đại để nền triết lý thâm sâu của Âu Cơ tuý gồm ba con số lẻ 3,5,9.
    Ba là Tam Tài đặt con người lên địa vị ngang cùng trời đất.
    Cửu là cùng cực của Tam, nói lên cái "Đạo vật chí cực" tức là làm nên việc hoàn bị nhất, một việc đặt trọn vẹn vào tác động nên có thể đạt được.
    Vì thế nếu căn cứ vào những thành tích lớn lao trong việc giải phóng con người thì ta có thể không sợ bị tiếng vu vơ khi nói đây là một nền triết học sâu xa nhất và dầu sao thì cũng ơn ích cho con người nhiều nhất.

    _________HẾT_________


    Ký hiệu một số tác-phẩm trưng trong sách.
    Calendier: Le Calendrier par Paul Couderc P.U.F. 1948
    Du temps: Du Temps et de l'Eternité par Louis Lavells. Aubier 1945
    Đại cương: Đại cương triết học Trung Quốc. Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê.
    Espace: La poétique de l'espace"
    I Ching: The I-Ching, book of Changes by Richard Wilhem.
    Kinh thư: Bản văn theo số trong Couvreur. Ed. lettres. etc…
    Mesure: La mesure du temps par Jean Grenier P.U.F 1958
    #17
      Trương Củng 30.03.2005 16:28:07 (permalink)
      Tác Phẩm Chữ Thời của triết gia Kim Định được Zhang nhờ đưa lên đã hoàn tất.

      Trong bản text độc giả có thể thấy những đồ hình về tượng số hoặc ngũ hành bị hỏng, biến thành một hàng số nằm dọc. Có thể là do bản text nguyên thuỷ người đánh máy dùng tab và space để tạo hình, và qua nhiều lần copy từ dạng(format) này sang dạng khác nên bị hỏng. Những dấu ** là các chữ Hán có lẽ do không có Unicode. Tuy có phần Phụ lục dùng Song Kiều cho tiếng Hán nhưng hoàn toàn không hiển thị được.

      Thân
      TC
      #18
        HongYen 30.03.2005 18:48:45 (permalink)

        4. Những con số biết định phận
        Nói đến nhị nguyên là nói đến con số


        Kính Trương Củng,

        Mong TC giải nghiã:
        * Nhị nguyên
        * Lưỡng Nghi
        * Đối Lập

        Có khác biệt hay liên hệ gì và cho thí dụ để dể hiểu.

        Đa tạ
        #19
          Ct.Ly 31.03.2005 06:46:26 (permalink)
          #20
            Trương Củng 31.03.2005 12:07:01 (permalink)
            Chắc nên đề là Kim Định thôi Ly à. Mình gọi tôn trọng thì gọi đủ là LM Lương Kim Định. Còn ngoài ra khi viết sách thì hình như ông dùng hai chữ Kim Định như là bút hiệu vậy.
            Hình thì không có đâu, bản text của Zhang gởi cho TC chỉ có như vậy thôi.
            Bốn chữ: Triết Lý An Vi là tên bộ sách nhiều quyển mà Chữ Thời này là một phần trong đó. Nghĩa là có thể trình bày tựa đại khái như sau:

            Kim Định

            (Triết Lý An Vi)
            Chữ Thời

            Thân
            TC
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 31.03.2005 12:17:48 bởi Trương Củng >
            #21
              Ct.Ly 31.03.2005 21:51:26 (permalink)
              #22
                zhang 06.04.2005 02:55:19 (permalink)
                Anh TC va` ct.ly ơi... Có cách nào thay đổi nguồn của quyển sách này không. Thực ra 1 bạn đọc tên Vũ Linh của zhang đọc mấy bài viết của zhang và có nhã ý gửi sách cho zhang tham khảo. Ghi nguồn của zhang thì giống như cướp công quá.

                Anh bạn tốt này sẽ còn gửi nhiều sách của Kim Định nữa, mấy chục cuốn lận. Chắc phải sửa cho nó đúng thôi anh TC và bạn ct.ly nhỉ?

                Mong sớm nhận được chỉnh sửa
                #23
                  Ct.Ly 06.04.2005 03:35:03 (permalink)
                  #24
                    zhang 08.04.2005 16:34:39 (permalink)
                    Từ quyển sau, thôi khỏi để tên zhang trong nguồn nha ct.ly. Mấy hôm nay anh TC đi đâu mất tiu rùi để zhang còn gửi thêm sách của Kim Định...
                    #25
                      Ct.Ly 08.04.2005 22:02:37 (permalink)
                      #26
                        Trương Củng 09.04.2005 13:09:48 (permalink)
                        Đi công chuyện mấy hôm, về nhà bây giờ có việc mới rồi. Đã nhận sách mới của Zhang, sẽ đăng trong nay mai.
                        PM của TC chết từ lâu rồi, chỉ có gởi đi chớ không nhận về. Ai có Nick có dấu tiếng Việt đều bị như vậy hết, Mars nói đang ngâm cứu. Cả tháng rồi mà chưa thấy nói chi hết. Ct.Ly có muốn gởi gì thi bấm vào email, hoặc dùng địa chỉ này: harryoman@yahoo.com

                        Thân TC
                        #27
                          Ct.Ly 09.04.2005 22:11:47 (permalink)
                          #28
                            Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 28 trên tổng số 28 bài trong đề mục
                            Chuyển nhanh đến:

                            Thống kê hiện tại

                            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                            Kiểu:
                            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9