Chữ Ăn: Cái thú đoạn trường
Hàn Lệ Nhân 09.04.2009 07:49:35 (permalink)
Chữ Ăn: Cái thú đoạn trường
Hàn Lệ Nhân
(Sưu tầm, lược soạn)
 
Ăn mới thực văn nhân tài tử,
Ăn nguyên là văn tự quốc gia.
 «Trăm năm trong cõi người ta»,
Không ăn thiên hạ cho là dở hơi.
 (Đào Trọng Đủ)

 
Trong loạt bài Miệng lưỡi đa sự ký, tôi đã tản mạn qua-loa-rơ-măng về chữ Ăn. Trong bài Tiếng Việt tình tôi, khi  trích lại bản sơ kết về chữ Cả trong tiếng nước ta, tôi đã đã nhưng chợt nghĩ lại chữ Ăn, so với chữ Cả, sự kỳ diệu của nó thật thụ gấp vài trăm lần, nên có bài này.  Tôi e chữ Ăn trong tiếng Việt là thêm một quái chiêu đáng khoe ra với thiên hạ – ngoài hào quang trong chiến tranh, phở Hà Nội, bún bò Huế, nước mắm Phú Quốc và hai chữ triệu phú dĩ nhiên.
 
Mở đầu :
Ai mở cuộc thi

 
[ Vào khoảng tháng 5 tháng 6 năm 1951, một tuần báo xuất bản tại Sài-Gòn tổ chức một cuộc thi Trau giồi tiếng Việt. Bài thi có bốn câu hỏi:
 

Tìm một chữ Việt Nam rất thông thường, dùng được rất rộng và có hàng chục nghĩa và giảng hết nghĩa của chữ ấy.
Cắt nghĩa tường tận hai bài thơ của Hồ Xuân Hương mà ban tổ chức gọi là Bà Chúa thơ nôm: bài Chùa Quán sứ và bài Hờn duyên (Tự tình 2) 
Tiếng Việt Nam có tính cách tượng thanh nên có nhiều trạng từ rất hay, đọc lên đủ làm cho người ta tưởng tượng được nghĩa của nó. Tỉ dụ: say chuếnh choáng, treo tòn ten, cúi lom khom, trắng phau phau… 
Xin các bạn tìm những trạng từ tiếng gấp đôi (như các tỉ dụ trên) có thể dùng sau các hình dung từ hay động từ sau đây: Nhai, nỗi, gõ, vỗ, rộng, tròn, sâu, cười, dài, treo, lo, quạt, gầy, mừng, vừa, kêu, khấn, rét, im, chối, tươi, say, chạy, đứng, cao, nhiều, gọi, đi, yêu, thơm.
 
Nếu tìm được nhiều trạng từ khác 30 tiếng trên, các bạn có thể ghi thêm vào càng hay.
 

Vấn đề thống nhất Việt ngữ: Thí sinh phải đọc bài : Vài đề nghị thống nhất Việt ngữ (*) của Phan-Hữu và giả nhời ba câu hỏi sau: 
      a/   Có nên thống nhất triệt để ?
b/   Nên đặt nguyên tắc theo đề nghị của ban tổ chức hay không ?
c/   Nếu không nên thì cần thay đổi nguyên tắc thế nào cho tiếng Việt thống nhất hoàn toàn ?]
 
********************

 
Tôi (tác giả Cô Đào-Đào trọng Đủ) yêu tiếng Việt, lẽ tất nhiên là phải dự thi. Bài tôi làm cũng chia làm 4 đoạn, nhan đề của mỗi đoạn có 4 chữ, ghép 4 câu thành ra bài Tứ ngôn như sau:
 
Ai mở cuộc thi
để tôi kiêu ngạo,
tôi trêu giám khảo,
tôi nhạo chàng Phan.

 
Cuộc thi không thành, vì được ít lâu tờ Điện Báo phải đình bản. Thế là bài thi hài hước của tôi cứ việc nghỉ ngơi trong tủ sách.
 
Rồi đến một Tết nào đó, lâu ngày tôi quên, tôi trích ra 2 đoạn nói về chữ Ăn và chữ Đánh, được một tờ báo Xuân xuất bản ở Nam vang đăng, nhưng lại bị kiểm duyệt… Mãi về sau, Cam-pu-chia cho tự do thêm, một báo tiếng Việt mới được phép đăng cả bài.  Rồi tuần tự nhi tiến, bài thơ Ăn của tôi đi đến đài Pháp-Á, rồi ra tới Hà Nội, lại được Bộ Quốc Gia Giáo Dục cho đăng vào tạp chí Văn Hoá… Sau cùng, vào năm 1964-1965, khi báo Trung-Lập ra đời tại Nam Vang, bài thơ Ăn lại được đăng một lần nữa và do đó, được theo một bạn yêu thơ đem sang tận Pháp cho nhiều đồng bào thưởng thức… Tôi cũng phấn khởi và trẻ lại được phần nào, rồi đem bản sao ra chép lại cho khỏi thất lạc. Mà cũng may có chép lại, tôi mới nhận thấy 28 năm về trước, tôi ngây thơ…không đoán ra chữ nhà báo đã in nhầm là Nỗi (dấu Ngã) cho nên dạo ấy tôi đã viết :
 
Còn chữ Nỗi văn chương quá Nỗi
Khuya rồi mà nghĩ mãi không ra !

 
Thì ra, tôi đợi 28 năm giời mới nhận thấy chính là chữ Nổi (dấu Hỏi) mà thợ xếp chữ đã xếp lầm ra chữ Nỗi (dấu Ngã). Vậy câu thơ ngày trước xin đổi lại như sau :
 
Còn chữ Nổi lênh đênh quá nỗi
Khuya rồi mà nghĩ mãi mới ra !

 
Sửa lại có thế thôi, còn cả bài thơ 28 năm trước thế nào, bây giờ vẫn thế ấy, mặc dầu bản thân  tôi có đổi, cũng như quan niệm tôi đối với đời cũng có khác trước một phần nào… Tôi chắc mười mươi các bạn cũng thừa hiểu rằng 55 {tuổi} phê bình thế nào chả khác 83 {tuổi}.
 
Antony ngày 28-6-1979
Cô Đào
Để tôi kiêu ngạo
(Chữ Ăn)
Cô Đào-Đào trọng Đủ
 
Các ngài mở cuộc thi đặc biệt,
Thời tôi đây xin viết một bài.
Trước là kính tặng các ngài,
Sau là khoe món khôi hài của tôi.
 
Câu thứ nhất lôi thôi quá đỗi,
Khách văn phòng nhiều nỗi phân vân,
Đang khi tẩn ngẩn, tần ngần
Tiếng rao ngoài phố: Ai Ăn bánh mì ?
 
Tôi nghe thấy, cười khì một cái,
Chữ Ăn rồi, ngài cãi hay sao ?
Chữ Ăn ý nghĩa dồi dào,
Tha hồ thi sĩ nghêu ngao, ỡm ờ.
 
Bị Ăn cắp, ngồi trơ mắt ếch,
Vì Ăn tham nên mếch lòng nhau.
Ăn thua vang vẻ gì đâu ?
Ăn gian, Ăn lận của nhau bấy rầy.
 
Người túng bấn Ăn vay từng bữa,
Kẻ giàu sang Ăn bửa từng xu.
Ăn chơi quen thói lu bù,
Ăn tiền hối lộ như Vu (1) mới là.
 
Ông ốm nghén vì bà Ăn rở,
Cậu đi tu để mợ Ăn chay.
Trước khi Ăn tiệc mày đay,(2)
Học cho biết cách Ăn mày huy chương.
 
Chồng cặm cụi Ăn lương nhà nước,
Vợ ung dung hút thuốc Ăn trầu.
Tổ tôm, ông phải ngồi chầu,
Cài khàn không phỗng mặc dầu bà Ăn.
 
Mong chóng đến ngày Xuân: Ăn Tết,
Vợ chồng ai Ăn kết xe điều.
Bánh chưng, bánh tét cho nhiều,
Để dành Ăn giỗ bao nhiêu cho vừa.
 
Ba ngày Tết, Ăn bừa, Ăn bãi,
Tết xong rồi họ lại Ăn chơi.
Khi âm nhạc, lúc cờ người,
Nhạc thời Ăn nhịp, cờ thời Ăn quân.
 
Người lao động cởi trần, Ăn nắng,
Khách phòng khuê da trắng như ngà
Thiên nhiên sẵn đúc một toà
Để cho Ăn ghét, chẳng ma nào thèm. (3)
 
Vãi nào vãi Ăn khem suốt tháng,
Sư nào sư Ăn mặn quanh năm.
Ăn ngồi rồi lại Ăn nằm,
Ăn kham mặc khổ, Quan âm độ trì.
 
Ăn hương hoả thiếu gì sung sướng,
Ăn hoa hồng, tôi tưởng bền hơn.
Ăn thề là để rửa hờn,
Nhân dân đầy đủ, giang sơn vững vàng.
 
Kẻ xấu thói Ăn lường, Ăn lận,
Người quen mui Ăn bẩn, Ăn bây,
Ăn lời, Ăn lãi không đầy,
Bụng ta cũng vậy, bụng Tây khác gì ?
 
Người Ăn xổi, ở thì vô số,
Kẻ Ăn không nói có gia-na, (4)
Ăn non lại được Ăn già,
Ăn bây cờ bạc mới là người ngoan.
 
Ai chẳng biết làm quan Ăn lễ,
Ai không hay lính lệ Ăn bòn,
Ăn quèo, Ăn quịt mới ngon,
Ăn quanh, Ăn quẩn hãy còn ngô nghê.
 
Ăn lót dạ tỉ tê rồi đói,
Ăn thông lưng sành sỏi càng no,
Ăn chung đổ lộn tự do,
Ăn cầm chừng để vừa cho có chừng.
 
Trai cướp vợ Ăn mừng ỏm tỏi,
Gái tranh chồng Ăn hỏi linh đình.
Ăn thua có một chữ tình,
Để người Ăn cắp rồi mình Ăn năn. (5)
 
Cô Đào-Đào trọng Đủ
(gồm 53 chữ Ăn kép)

 
Chú thích bài Để tôi kiêu ngạo, phần chữ Ăn:
(*) Cuốn này đã thất lạc.
(1)   Vu, tiếng Pháp: Vous = Ông, bà ; quý ông, quý bà. (HLN ghi thêm)
(2)   Mày đay, tiếng Pháp: Médaille = Huy chương (HLN ghi thêm)
(3)   Việt Nam Tự Điển quên chữ Ăn nắng và Ăn ghét.
(4)   Gia-na, tiếng Pháp: Il y en a = có (HLN ghi thêm)
(5)   Về chữ Ăn, cụ Đào dứt bài thơ với 4 câu mưỡu bài này. Phần kế tiếp là nói về chữ Đánh nên không ghi ra đây, tôi để dành cho mục khác ; ngoài ra cụ còn nói về câu hỏi 2 và 4.
 
Trong bài thơ trên có 53 chữ Ăn kép ; hai chữ Ăn cắp, Ăn chơi, Ăn lận được dùng hai lần, tôi (HLN) cho là có hơi phá cách:
 
1)       Ăn bãi (tiếng đệm: Ăn bừa ăn bãi)
2)       Ăn bẩn (ăn hối lộ, Ăn quịt v.v. một cách đê tiện)
3)       Ăn bây (cờ bạc: vơ lấy tiền người khác mà đánh, lối đánh cù nhây không hợp lệ)
4)       Ăn bòn (ăn mót)
5)       Ăn bừa (ăn lung tung, bạ gì ăn nấy, ăn xàm)
6)       Ăn cầm chừng (ăn cầm hơi)
7)       Ăn cắp (lén lấy của người khác: móc túi chẳng hạn)
8)       Ăn chay (ăn hoa quả đạm bạc của Phật giáo đại thừa, tục gọi ăn lạt)
9)       Ăn chơi  (ăn chơi phóng túng)
10)   Ăn chung (khác với ăn riêng ; cờ bạc : ăn thì lấy, thua thì trả)
11)   Ăn ghét (chất bẩn bám vào da)
12)   Ăn già (ăn già ăn non)
13)   Ăn gian (Cờ bạc gian lận)
14)   Ăn giỗ (ăn kỵ, ăn cỗ)
15)   Ăn hoa hồng (hưởng phần lợi nhuận khi làm trung gian)
16)   Ăn hỏi (lễ, tiệc trước khi làm đám cưới)
17)   Ăn hương hoả (hưởng phần gia tài của cha mẹ, ông bà để lại)
18)   Ăn kết (cờ bạc: thắng bộ đôi hay bộ ba cuối một ván bài Tam cúc, ăn trút kết)
19)   Ăn kham (ăn uống kham khổ)
20)   Ăn khem (ăn kiêng, ăn cử)
21)   Ăn không nói có (dựng chuyện nói điêu)
22)   Ăn lãi (ăn lời)
23)   Ăn lận (ăn gian)
24)   Ăn lễ (ăn mừng ngày nghỉ lễ ; nghĩa bóng: Ăn phong bì)
25)   Ăn lời (ăn lãi)
26)   Ăn lót dạ (ăn đở, ăn để khỏi đói)
27)   Ăn lường (như ăn quịt)
28)   Ăn lương (ăn lộc)
29)   Ăn mặn (khác với ăn nhạt)
30)   Ăn mày (ăn xin)
31)   Ăn mừng (ăn khao)
32)   Ăn nằm (vợ chồng ăn nằm với nhau: chung đụng xác thịt)
33)   Ăn năn (hối hận việc đã làm, tự hối)
34)   Ăn nắng (dễ bắt nắng)
35)   Ăn ngồi (đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an, Kiều)
36)   Ăn nhịp (có sự hoà hợp về nhịp điệu, tiết tấu)
37)   Ăn non (cờ bạc: thắng được là thôi chơi)
38)   Ăn quanh (kiếm ăn quanh quẩn trong họ, trong vòng thân hữu)
39)   Ăn quân (cờ tướng : ăn xe, ăn pháo)
40)   Ăn quẩn (như ăn quanh)
41)   Ăn quèo (tiếng đệm: ăn quèo ăn quịt)
42)   Ăn quịt (ăn lận)
43)   Ăn rở (ăn dở: đàn bà mới có thai thèm ăn thức chua hoặc một vài món khác thường.
44)   Ăn Tết (ăn chơi ngày đầu năm)
45)   Ăn tham (ăn nhiều)
46)   Ăn thề (hẹn thề với nhau)
47)   Ăn thông lưng (thông đồng)
48)   Ăn thua (tranh hơn thua)
49)   Ăn tiệc (ăn cỗ)
50)   Ăn tiền (ăn tiền công, tương đương với ăn bạc ăn tiền)
51)   Ăn trầu (nhai trầu)
52)   Ăn vay (mượn ăn từng bữa)
53)   Ăn xổi (ăn cấp kỳ: muối  dưa ăn xổi ; nghĩa bóng: không biết làm ăn lâu dài)

 
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9