Khải Nguyên HT
-
Số bài
:
270
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 28.01.2009
- Nơi: Hải Phòng - Việt Nam
|
RE: NHẬT KÍ LANG THANG
-
13.04.2009 16:49:44
NHẬT KÍ LANG THANG (tiếp) Thứ sáu 03-8-1990. Dần ra ngoại thành bắc Pari, đúng ra là bắc-đông-bắc. Nhà cửa thưa dần. Rải rác những đám đất trồng cây kiểu vườn nho. Cảng bay sang trọng hơn các cảng mình đã đi qua. Nhiều hàng xa xỉ. Đắt kinh khủng, mà là “hàng miễn thuế” đấy! Máy bay cất cánh chậm nửa giờ so với giờ ghi trên vé. Từ trên máy bay nhìn xuống ruộng đồng đông-bắc Pháp. Lưa thưa các nhóm nhà. Ruộng đã cày xen với ruộng cây đã phủ xanh. Không kịp nhìn xuống Bỉ và Hà Lan. Đan Mạch, bán đảo Portland. Một chỗ mây trắng mình ngỡ đám cháy rừng nơi doi đất nam bán đảo này. Eo biển. Những luồng tàu chạy. Như nhìn xuống một cái hồ. Biển lấp lánh. Có nơi trên đất liền như dát vàng. Thụy Điển, thị trấn rải rác. Vượt qua eo biển Ban tích. Đất Liên-xô, Lít-va? Lat-vi-a? hay Et-tô-ni-a? Nhiều đụn mây trắng. Rừng dày lên. Đường sá ngang dọc song vắng xe và người. Hình như không rải nhựa. Ngồi cạnh mình là một cô Nhật xinh xắn và cởi mở, làm tiếp viên hàng không của Air France tuyến Mát-Tokyo, có chồng chưa cưới là người Pháp. Mình hỏi vui: “Ở nước tôi có câu: ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật, phụ nữ Nhật rất chiều chồng phải không?”. Cô ta cười không nói gì. Cô ngồi cạnh cô ta phía ngoài cũng là người Nhật và cùng làm một chỗ còn xinh hơn; C. phải khen :”Đẹp tuyệt”. Mình và C. đi vé hạng ba, hạng “tiết kiệm”, nhưng lại được chuyển lên ngồi hạng nhì, hạng “du lịch” rộng rãi, thoải mái hẳn. Trước khi vào đất Nga, trời quang nhưng phía dưới có mù nên nhìn không rõ lắm. Tuy nhiên cũng thấy được là nông thôn châu Âu rất ít dân cư. Máy bay hạ dần độ cao xuyên qua mây trắng xuống dưới trần mây. Thấy rõ những đám ruộng vừa gặt xong, xen kẽ những vạt đã cày xới. Từng khoảnh như là ruộng tư. Sân bay Sê-rê-met-sê-vô, mình đến lần thứ hai. Qua biên phòng chóng vánh. Qua hải quan cũng qua loa. Riêng C. bị khám kĩ, chẳng rõ vì sao. Đi ta-xi vào thành phố Mát, lái xe người Nga còn rất trẻ. Hỏi Goocbachôp có tốt không? Lắc đầu. Hỏi đến Enxin, anh ta trỏ một ngón tay vào một bên đầu chếch trên thái dương (người ta cho mình biết như thế là chỉ đồ ngốc). Hỏi đến Khơrutsôp, đến Lênin, hắn đều lắc. Hỏi: “Vậy thì ai tốt?”. Hắn nói Butsơ, Mittơrăng. Hỏi: “Chủ nghĩa tư bản à?”. Hắn ta cười thoải mái. Hắn bảo Liên-xô hùng mạnh nhưng dân đói; Việt Nam nhỏ yếu nhưng dân giàu. Người Việt Nam ở đây không thèm đi bộ, đi xe buýt hay xe điện, chỉ đi taxi. Anh ta bảo mình hẳn là “ông to”. Mình bảo C. nói cho hắn biết lương mình chỉ tương đương 60 rúp. Anh ta không tin, nói: ít nhất phải 500 rúp. 04-8 . Nói chuyện với một đội trưởng lao động. Anh này từng học ở đây, có hai bằng đại học, đã về nước nay lại sang theo diện “xuất khẩu lao động”. Anh ta kể vừa phải đi “giải thoát” cho một công nhân đội mình. Cậu này hết giờ làm việc, ra cổng nhà máy tay xách một cái túi, thấy xe buýt sắp chuyển bánh vội chạy đến cho kịp, bảo vệ bèn giữ cậu ta lại. Một cuộc tranh cãi nổ ra: -Mày làm bảo vệ không tròn nhiệm vụ sao lại giữ người của tao? -Bọn chúng mày hay vô kỉ luật . Lôi thôi, chúng tao đuổi về Việt Nam. -Chúng tao sang đây làm việc là thực hiện hiệp định. Chúng tao ở Việt Nam sướng hơn đây nhiều. Mày uống rượu vào rồi làm bừa. -Tao đâu có uống rượu. -Mày có uống. Nhìn mặt mày tao biết. Gọi người ra đây xem! Lãnh đạo mà biết có chuyện uống rượu trong giờ làm việc thì lôi thôi to. Tay bảo vệ phải nhượng bộ. Mình thật đoảng, hay chủ quan, nóng vội, thiếu chu đáo. Không ghi lại tên nhà, đi lạc! Một chị người Nga còn trẻ dắt một đứa con chừng năm tuổi, nhiệt tình chỉ đường, cả dẫn đường. Khốn nỗi mình ấm ớ tiếng Nga. Loanh quanh đến hai giờ đồng hồ, thằng bé mỏi dừ cả chân. Ai bảo người Nga ở Mát rất ghét người Việt?! 11 giờ đêm, phố khá vắng, có cảm giác rờn rợn. 05-8 . Đến khu cư xá của sinh viên trường viết văn Goocki găp K., một nhà thơ, đang học ở đó. Anh ta tỏ ra dễ dãi, sẵn sàng mời ngủ lại, khen một số bài mình viết mà anh ta đã đọc trên V.N.Q.Đ.. Mấy cô lưu học sinh cùng ở đó cho biết anh ta sẵn sàng khen bất cứ ai. Lời khen như một thứ quà xã giao không mất tiền mua, chưa nói ra đã quên rồi. Có cái chất vừa chất phác, vừa ranh ma rất nông dân. Bốn mươi xuân vẫn còn độc thân. Gán cùng cô C., cũng là nhà thơ và cùng học tại đó, cũng đang quá lứa, song chẳng ai chịu ai. Mình thích cái xuề xoà của anh ta. Một người bảo: anh nông dân một khi nên quan thì rất kị bị lờn mặt, như sợ bị tóm đuôi. Chẳng lẽ đó là qui luật? Nghe nói công nhân Việt Nam tại Liên-xô bị phân biệt đối xử. Một tay đội phó kiêm phiên dịch thì oán trách ra mặt: “Tôi có hai bằng kĩ sư của Liên-xô mà lương chỉ 160 rúp/tháng. Một thằng Nga trình độ kĩ thuật trung cấp thì 400 rúp”. Nhưng trưa nay, một nghiên cứu sinh lại nói: Nhà máy đóng giày trả lương công nhân Việt Nam 200 rúp/tháng, mà công nhân Liên-xô thì 300-400 rúp/tháng cũng đúng thôi vì họ làm những công đoạn đòi hỏi kĩ thuật cao hơn; phúc lợi, như nghỉ mát chẳng hạn, của công nhân Liên-xô cũng ít. (Lương 400 rúp chỉ bằng khoảng 30 đôla Mĩ nếu đổi tự do, trong khi hối đoái chính thức là 1 USD ăn 0,64 rúp! Lương của một thứ trưởng Việt Nam, ông HXT, năm trước chỉ chừng 5 đôla Mĩ, do chính ông ta nói ra trong một cuộc họp). Nếu hàng hoá ở Liên xô vẫn sẵn như trước thì đồng lương ấy cũng sống được, khá ung dung. Giá tiền các hàng công nghệ ghi sẵn trên đó không thay đổi từ hàng mấy chục năm nay qui ra USD đổi chui thì rẻ như cho. Chẳng hạn một bàn là điện giá 7 rúp, chưa đến nửa đô la. Giá thực phẩm cũng thế. Ví như, một quả trứng phải mua có 8 cô-pêch, một rúp mua được 12 quả; một đôla Mĩ đổi chui thì mua được bao nhiêu? 06-8 . Gặp N.G.P., quen nhau từ hồi ở Hải Dương năm 1956. P. đi Anggôla dạy triết học lớp dự bị đại học. P. kêu mình gầy và già đi (tất nhiên!). P. bị nhỡ một tuần nay do máy bay Anggôla, đến Mát trễ. Hàng không Anggôla và Aeroflot đùn nhau trách nhiệm về “lưu trú chuyển tiếp (transit)”. Đăng kí chỗ về thành phố Hồ Chí Minh rất khó. Vợ trẻ đang chờ ở nhà, kì nghỉ cũng chóng hết đến nơi, P. như ngồi trên chảo nóng. Hôm nay, qua trung gian, P. hẹn với một tay người Nga lo “đi chui”. Giá cả thoả thuận là 400 rúp, đã đưa trước một nửa; nửa còn lại sẽ đưa tiếp khi được đưa ra tận phòng cách li, không phải O.K trực tiếp (dĩ nhiên là phải có “tay trong”). Không thấy tay người Nga đến, P. đứng ngồi không yên. 07-8 . Vườn Tônxtôi. Rậm cây mà thoáng. Thảm cỏ dưới các gốc cây đầy lá khô. Lối đi gọn và thanh. Những chiếc ghế gỗ dài có lưng tựa sơn màu ghi không có người ngồi. Đang giờ làm việc! Chỉ thấy một người đi qua. Hải Phòng chỉ cần có một công viên như thế này cũng đã tôn thành phố lên nhiều, tôn cả những vị “đầy tớ dân” lãnh đạo thành phố; còn người dân thì sẽ thấy chất lượng cuộc sống cao lên... 08-8 . Tham quan tháp vô tuyến truyền hình. Hôm qua đến, hết vé trong ngày![font=.vntime] Ở các nước tư bản chắc chẳng bao giờ để chuyện như vậy xảy ra, họ tận dụng năng suất phục vụ, tức năng suất kiếm tiền, tối đa. Tháp này cao hơn 520 mét, vốn cao nhất thế giới, sau này phải nhường cho tháp V.T.T.H. của Đông Đức. Tháp Epphen-Pari chỉ cao 330 mét. Đi thang máy lên đến tầng cách mặt đất 337 mét. Thang chạy khá êm, gần như không cảm thấy. Nhìn xuống toàn thành phố Mát qua “mờ mờ sương khói”, không rõ bằng hôm nhìn Pari từ đỉnh nhà tháp Mông Pacnatxơ, có lẽ vì thiếu bản đồ hướng dẫn (ở Pari, mua vé xe điện, xe buýt được phát không bản đồ giao thông và bản đồ thắng cảnh nội thành), có người giới thiệu nhưng có mấy du khách nước ngoài biết tiếng Nga! Thấy rõ người Pháp biết cách thu hút khách du hơn nhiều. Ở Pari, mình chạm trán nhiều người ngoại quốc: Anh, Hà Lan, Tây-ban-nha, Ý... Còn ở Mát thì hiếm. Trên tháp V.T.T.H. này chỉ thấy hình như một nhóm du khách Đức. Còn lại toàn là dân Liên-xô từ các địa phương về. Trên tháp có một tầng phục vụ ăn uống lưng chừng giời ngay dưới tầng tham quan. Nhớ lời Đ., một cựu lưu học sinh Việt Nam tại Liên-xô khoe: “Em quyết bỏ ra 200 rúp lên tháp xả láng một chuyến cho hả đời”. Học bổng lưu học sinh chỉ hơn trăm rúp/tháng! Chắc là “sĩ” với bạn hoặc với gái. Chuyện một lái xe của sứ quán ta tại Ba Lan. Anh ta không biết qua một tiếng Ba Lan nào mà một hôm có một cô gái Ba Lan bế con để đến “trả cho bố nó” là anh ta! Định mua vé máy bay đi Đức, tranh thủ, bởi đến tháng 9 này thì hợp nhất hai nước Đức. Chỗ bán vé đầy người xếp hàng. Không bán vé khứ hồi. Sang đó, nếu chuyện vé khó khăn thì có cơ không kịp chuyến bay đi Băngcốc đã đăng kí ngày giờ. Đi xe lửa thì sẽ không đủ ngày. Dự định đi Lêningrat cũng không thành. Bây giờ, người nước ngoài khi muốn ra khỏi Mát không còn buộc phải có vi-da hoặc giấy mời nữa, nhưng lại có những trắc trở khác. S., bác sĩ, kể chuyện tháng trước lấy vé đi Đức. Đông người, lộn xộn. Một người đứng ra tự động ghi tên vào một mảnh giấy, kiểu như bên Việt Nam trong các trường hợp tàu xe tương tự, rồi trao cho những người phụ trách bán vé. Cứ sắp “trọn” giờ, người Nga sắp thay phiên, họ cho người ra cầm danh sách điểm lại. Ai vắng mặt lúc đó là bị gạch tên. Một tay người Mĩ ban đầu xếp thứ mười, sau hai ngày thì mất tên. Anh ta không thể đứng lâu, hay chạy đi, để kiếm cái uống chẳng hạn. Tay S. láu cá, cũng hay bỏ đi, nhưng biết thóp lúc nào thì gọi tên nên quay lại đúng lúc, do vậy, từ số ba mươi bảy sau mấy lần điểm danh nhảy lên số tám. S, nói: “Vậy mà tôi cũng mất trọn một ngày”. Tay người Mĩ gặp S. biết tiếng Anh được dịp trút ra: “Chẳng hiểu bọn Nga làm ăn thế nào nữa. Máy vi tính cọc cạch gõ mãi mới hiện chữ, ngừng luôn. Bọn họ làm ăn rề rà, cửa quyền. Chúng ta lỡ sa vào địa ngục, phải cố tìm cách thoát ra thôi. Tôi thề không thèm trở lại chốn này nữa”. Âu đó là bài học cho những nước, không chỉ Liên-xô, muốn thu hút khách du lịch. Việt Nam mình “phát động” năm 1990 là năm du lịch Việt Nam trên những cơ sở nào? Nghĩ thấy buồn cười. Đến cửa hàng bách hoá Nhi-côn-nhi-ki mua máy ảnh. Chỉ có loại thiếu nhi. Mình xếp hàng đến nơi, một tay Nga xem hộ chiếu bảo không có dấu cư trú, nhất định không bán. Tay này biết tiếng Pháp và có vẻ hãnh diện về điều này. Mình được mấy người hay đi Liên-xô gà: “Đến đấy, nếu biết tiếng Nga cũng đừng nói, cứ xài tiếng Pháp, tiếng Anh cho chúng nó lác mắt(!)”). Mình bảo hắn: ”Những người cỡ tuổi tôi từng mến mộ Liên Xô. Chỗ này gây cho tôi một ấn tượng khác hẳn”. Ph. kể rằng nữ chuyên gia Việt Nam ở Angola dùng sách lược “bàn là”(!): gửi hàng bị kẹt thì cho Tây đen hải quan hôn một cái. Các bà thường vào tuổi bốn, năm mươi mà thằng hải quan chỉ độ ba mươi! 09-8. Trường đại học Lô-ma-nô-xốp. Nhớ chuyện linh mục Vũ Xuân Kỉ năm 1952 tới thăm khi trường mới xây dựng xong. Nghe giới thiệu khu trường có bốn vạn phòng, cụ dòm quanh rồi bảo với người trong đoàn Việt Nam: “ Những bốn vạn phòng nhưng lại thiếu một phòng! ”. Thì ra ông già mót đái mà chẳng thấy nhà vệ sinh đâu cả. Chủ nhà biết chuyện, cười vui vẻ và cho cụ toại nguyện. (Ít lâu sau, đoàn Việt Nam đến nước Áo, một lần linh mục vào nhà vệ sinh ra, người phục vụ chìa cái đĩa nhận tiền lệ phí đón cụ. Cụ bị bất ngờ quá. Về phòng, cụ chửi: “Đồ tư bản có khác, đi đái cũng phải trả tiền!”. (Giáo sư N.M.T. đã kể lại chuyện này trong một bữa tiệc chiêu đãi sinh viên tốt nghiệp). Nhìn ngoài, thấy dấu hiệu tàn tạ của ngôi trường vốn rất nổi tiếng một thời. Đứng trên quảng trường phía trước nhìn xuống có thể thấy hầu như toàn cảnh trung tâm thành phố Mát. Sông Matxcơva uốn khúc dưới chân đồi. Thuê ống nhòm thấy xa những tháp vuông của các nhà cao tầng, tháp củ hành mạ vàng của các nhà thờ, một cái tháp kiểu Epphen. Chỗ mình đứng là đồi, chưa được là núi, nhưng nghệ thuật phong lên là núi. “Bạn ơi! đi với tôi lên đỉnh núi Lênin khi trời chiều...”. Câu hát xưa gợi một phương trời xa. Nay ta đang đứng đây không phải lúc của thời bay nhảy. Thơ thẩn lạc tới vườn hoa nhỏ nơi quảng trường Tháng Mười. Xinh, mát trong chiều tà. Tám giờ tối, chưa tắt nắng. Cũng vẫn những toà nhà cao tầng và đại lộ, xe cộ nườm nượp, nhưng ít khung cảnh nào ở Mát dễ trông (ưa nhìn) như ở đây. Mấy gái, trai và trẻ em, có vẻ là người Ấn độ. Một gia đình da đen. Mấy cặp thanh niên và mấy bà da trắng. Bồn nước hình chữ nhật có nhiều vòi nước phun thẳng đứng, những hạt nước lên tới đỉnh như dẹt lại, lõm phía trên trước khi rơi xuống. Các tia nước phun cao ngang nhau làm thành một bức rèm thuỷ tinh di động. Phòng nội trú của một nghiên cứu sinh, buổi tối. Một cô nghiên cứu sinh VN về tâm lí học ở Lêningrat đang vốc từng nắm đồng hồ điện tử đeo tay, loại làm dởm ở Ba lan, cho vào túi du lịch loại to, vừa nhẹn tay làm vừa nói: “Cái lí tưởng xã hội chủ nghĩa biết có không mà xây dựng với bảo vệ”. Cô đang chuẩn bi để một giờ đêm ra ga xe lửa về thành phố Lê-nin. Hỏi sao đi ung dung vậy, cô cho biết đã móc ngoặc với các tay lái tàu rồi, muốn đi lúc nào cũng được. Lưu học sinh các nước ở nước ta chắc là khó mà có các ngón như thế. Cũng ở phòng này, cũng vào một tối năm trước, một cô kĩ sư người Nga mới ra trường, đã đi làm, đến thăm bạn người Việt, nhân thấy trên truyền hình Enxin đang kể về sáu cái xấu của Liên-xô trong chuyến đi Mĩ, do ông ta yêu cầu phát lại trong nước, đã vô tư nói: “Đời chính trị của Enxin vậy là sắp hết rồi”. Năm nay, xem ra không phải vậy. 10-8 . Phố Ac-bat cũ (khác với Phố Ac-bat mới) không cây. Đường lát gạch cổ hình chữ nhật nhẵn hơn loại tương tự ở ta. Mình đã tìm đến đây do cuốn tiểu thuyết “Những đứa con Phố Ac-bat” , ai là tác giả mình không nhớ; viết đã lâu, đến thời “cải tổ” mới được in. Đường cũng rộng rãi, song cấm xe cộ, khá đông người đi bộ, đi dạo, nhiều khách du ngoại quốc. Cả một dãy phố dài là nơi trưng bày hội họa lộ thiên hai bên đường. Tranh phong cảnh, chân dung, sự tích tôn giáo hay lịch sử. Có mấy tranh mình không hiểu nổi. Có tranh đính thêm những mẩu nến, hoặc một mảnh sắt tây dúm dó, hoặc một mớ giẻ, hoặc nữa một khung tranh lồng trong tranh... Có cả tranh sơn mài. Cả búp bê gỗ lồng nhau nổi tiếng của người Nga. Rất nhiều hoạ sĩ bày giá vẽ trên đường phố, vẽ chân dung thuê lấy ngay; mỗi lần mất dăm phút, giá 10 rúp (hơn nửa đôla Mĩ đổi chui). Vẽ lối kí hoạ và biếm hoạ. Du khách nước ngoài xúm lại xem chỗ này, chỗ khác. Các hoạ sĩ mời thuê vẽ, chỉ đưa qua một câu chứ chẳng nhiệt thành mời mọc, quá nhiệt thành, như những người chào hàng ở các điểm du lịch bên ta. Một cô khá xinh thuê vẽ bức chân dung “nhộn”, khi nhận tranh nói “Merci”, chắc là người Pháp. Cô khác, da mặt, mi mắt như người bị bệnh “phai màu”, mặt đầy tàn nhang, thuê vẽ bức chân dung “nghiêm chỉnh”; có lẽ là người Anh, nói “Thank you”. Có mấy người đàn ông được gạ, lắc đầu “Thank you”. Chẳng hiểu sao mình cũng từ chối, bỏ lỡ một dịp “kỉ niệm” chuyến đi, e rồi sẽ ân hận. Bên đường phố có mấy tờ báo tường. Một dòng chữ lớn: “Người có tán thành cấm ĐCSLX? Hãy kí tên!”. Đầu đề một bài báo: “Hoang tưởng kinh khủng hay phát lộ thiên tài?”. Mấy người xúm lại đọc, chẳng biết Goocbachôp bất lực hay có ý đồ! Hầu hết nhà hai bên đường là chung cư. Mình vào xem sân một nhà, cố mường tượng ra khung cảnh và nhân vật của cuốn tiểu thuyết “Những đứa con Phố Ac-bat” nhưng không đạt. Các nhà ở đây thường chỉ ba, bốn tầng. Thông thường, các khu chung cư ở Liên Xô được một khoảnh riêng, trong đó có các cửa hàng cửa hiệu cần thiết, cùng trường học, bệnh xá. Có cả sân chơi cho trẻ và công viên để dạo chơi hay ngồi ngơi. Các nhà đều trên dưới mươi tầng hoặc hơn, có thang máy. Kiểu nhà đơn điệu. Nhìn chung cả khu, ít được chú ý không gian thẩm mĩ. Chung cư ở Pari mà mình đã đến nằm ở rìa phía nam thành phố, không thành khu, chỉ có một ngôi nhà lớn gồm hai mươi tầng. Khu vực chân cầu thang có bảng sơ đồ các căn hộ cùng tên chủ hộ, khách đến chẳng cần hỏi tìm. Thang máy thuận lợi. Các tầng, hành lang đều ở giữa, khí hẹp, tối om bởi không để điện sáng thường xuyên dù là ban đêm như ở Liên-xô hay ở ta. Người đến trước cửa phòng bật công tắc, (có chỗ thì đèn tự sáng), sau mươi phút đủ để mở khoá cửa vào phòng thì đèn tự tắt. Các căn hộ nhiều buồng hay một buồng riêng biệt, kín đáo, hầu như chẳng ai biết ai mà cũng chẳng ai làm phiền ai. Tiện lợi, phải chăng, nhưng đi trong hành lang cảm thấy cô quạnh, lạnh lẽo. Có lẽ do mình không quen và tự kỉ ám thị với ý nghĩ các căn hộ như vầy để trú ngụ chứ không phải để sinh hoạt gia đình. Buổi chiều đến thăm quảng trường Hồ Chí Minh. Rộng, nhưng hình thế không đẹp mấy. Nhiều cây và bãi cỏ. Có vẻ hoang phế như hầu hết những nơi có cây cỏ trong thành phố này. Cũng có một chỗ đang xén cỏ dở. Một tượng đồng dựng trên một bệ đá hoa cương cao và rộng mài nhẵn bóng. Tượng gồm một hình tròn lớn, dẹt, mặt trước đúc nổi chân dung Hồ Chí Minh, mặt sau đúc nổi một khóm tre. Phía trước là nhóm tượng tròn mấy người đang trong tư thế vùng dậy. Tượng được làm trong dịp UNESCO tôn vinh Hồ Chí Minh là “Danh nhân văn hoá kiệt xuất thế giới và anh hùng giải phóng dân tộc”, khánh thành ngày 19-5-1990. Chi phí xây khu tượng là một triệu rúp. Nếu theo hối đoái chính thức thì hơn một triệu đôla Mĩ, một số tiền khá lớn (như đã biết, lương công nhân viên chức trung bình chỉ độ ba, bốn trăm rúp, và đời sống dân Liên-xô đang xuống). Gặp một lưu học sinh Việt Nam đang học Văn tại viện Hàn lâm, do UBKHXH Việt Nam gửi sang, đang ngồi cùng vợ và con mới sang thăm trong công viên cạnh tượng đài. Anh ta cho biết gần ngày khánh thành tượng đài có khoảng hai trăm người biểu tình (trong đó có cả ba người từng phủ quyết việc chống xây dựng) và rải truyền đơn, nói: Cảm ơn viện Hàn lâm đã cho biết di chúc đầy đủ của Hồ Chí Minh, trong đó tỏ ý không muốn xây lăng mộ to tát cho mình. Hồ giản dị, không xa hoa, sao ở đây lại xây dựng tốn kém... Ngày khánh thành cũng có dân đến dự. Có người viếng hoa. Chính mắt mình thấy có ba bông hoa mới héo trên bệ. Song, mình cũng thấy một con bé cưỡi lên một tượng người trước tượng chính; điều này hầu như không bao giờ xảy ra ở các nước văn minh đã đành mà cũng hiếm ở các nước lạc hậu. Lại có một thằng cha người Nga dắt đứa con trai bé tí hình như muốn xúi nó làm chuyện tồi tệ. Một bà người Nga rất già đến chào và bắt chuyện. Bà tự giới thiệu là kĩ sư về hưu đã lâu, chồng là bác sĩ đã chết trận trong chiến tranh vệ quốc, có một con trai. Bà ngồi thẳng trên ghế nói luôn miệng. Cậu nghiên cứu sinh nói người già ở Liên-xô ngày nay rất cô đơn. Xế trước mặt là khách sạn mang tên Hà Nội, đóng cửa một năm nay để tu sửa. Thêm một thanh niên Nga xin mình thuốc lá. Ở nhà khách sứ quán, người ta đã khuyên đừng hút thuốc lá ngoài đường, thế nào “bọn Nga” cũng đến xin. Ở Mát cũng như ỏ Pari rất hiếm quầy bán thuốc lá, không nhan nhản như ở ta và ở các nước chậm phát triển khác. Buồi tối, chuyện phiếm. Q., cán bộ sứ quán Việt Nam ở Môdămbích sắp sang Cônggô thay cho một người ở sứ quán bên ấy, lần lữa xả hơi ở Mát. Anh ta còn phải tìm cách gửi về nước hai vali to nặng. “Mỗi vali của em ít ra là mười cây”, và ”Đi nước ngoài mà chỉ kiếm được hai mươi cây thì chẳng thèm”. Hỏi ra, trong va-li chủ yếu là thuốc tây. Các nước Mô-dăm-bich, Ang-go-la nhập thuốc tây rồi trợ giá bán cho dân rất rẻ. Người mình ở các nước ấy vớ được mà gửi lọt về nước thì vớ bẫm. Nước bạn dần dần cũng vỡ lẽ “tổ con chuồn chuồn” nên cấm ngặt. Các vị đâu có dễ “co vòi”. Vậy nên, ở Anggola, hàng loạt bọc hàng bị tịch thu; sáu người bị bắt tại trận bị gọt trọc tại chỗ theo luật pháp sở tại, trước khi xử lí. Cậu Q. này có hộ chiếu ngoại giao nên hẳn là dễ trót lọt. Cùng đến với Q., có M., tham tán sứ quán Việt Nam, cùng ở Mô-dăm-bich, 63 tuổi, vốn người Huế, là "cây" háo chuyện tươi mát. Lúc này. M. đang uỷ cho Q. thương lượng với một “gái” cao cấp, hình như là người Ý. Cô ta đòi 300 USD, M. mới trả giá 200 USD, chưa xơ múi gì. Q. nói: “Có lẽ em sẽ chuyển cho một tay Nga lo thay. Dính với “bố” này cũng lôi thôi lắm”. Chẳng hiểu các vị “sứ” này thạo chuyện gì nhất?! 11-8 . Mai ta sẽ rời Matxcơva, mãi mãi. Cùng P. đi chơi công viên Goocki. Năm trước, mình đã đến đây. Hôm đó, có lúc trời mưa lún phún. Mình bị lạnh. Vé tham dự các trò giải trí khá rẻ. Có những trò vườn chơi Tuyn-lơ-ri ở Pari không có như đoàn tàu điện trên đoạn đường ray khép kín, lên dốc, xuống dốc, vòng vèo số 8, có lúc làm lộn ruột. Hay như phòng chiếu xi-nê vòng (circorama). Xem đứng, chẳng có ghế gì cả, Có cảm giác như ngồi máy bay lên thẳng liệng trên các vực núi; ngồi ô tô, mô tô phóng trên các con đường lắm dốc, nhiều ngoặt. Nhìn thấy cả tượng thần Tự do từ trên xuống. Hình như phim của Đông Đức. Ngồi “đu văng”. Xếp hàng chờ đến hơn nửa giờ. Mình ngại cho tim. Nhưng hai phút văng vòng tròn chỉ “sắp” chóng mặt thôi. Ngồi tàu du lịch dạo trên sông Matxcơva đi và về, từ cầu Crưm đến cầu Xôvôxpat, qua điện Kremli ở gần quãng giữa. Trời nắng dịu, gió hây hây. Không nóng như hôm đi trên sông Vônga. Cùng ngồi trên boong, có một du khách Ý biết sơ tiếng Pháp, như mình thôi. Mình hỏi cảm tưởng, anh ta ca ngợi, chẳng rõ có phải là xã giao không. Anh ta nói đi tàu đi trên sông Xen (Pari) thú hơn. Mình tiếc đã bỏ lỡ dịp, mặc dù kĩ sư T. đã gợi ý trước hôm mình đến Pari. Mặc dù rất mệt, vẫn tranh thủ thăm thú lần cuối. Đến ga xe điện ngầm cuối cùng phía tây nam. Một vùng đồi. Đang tiếp tục xây dựng. Nhiều nhà cao tầng mới xây. Một cái đang xây dở, mới lắp kính được nửa số tầng bên dưới. Chất lượng kém thấy rõ. Sân, hè nứt nẻ, cả bong nữa, khác hẳn những thứ đã làm từ lâu rồi ở các nơi khác. Nhận xét thêm: ga metro kế ga cuối, gạch men ốp tường bị dỡ đi cả một mảng lớn. Phía tây-nam xa xa, một cánh rừng trải ra, xem bản đồ thì đấy là công viên “Đại hội XXII Đảng Cộng sản Liên-xô” (đại hội chính thức hạ bệ Stalin) rìa thành phố. Chín giờ tối, mặt trời đỏ màu máu còn cách chân trời nửa con sào. Trong tàu điện ngầm trở về, người chật ních. Nghe tiếng đàn bà gọi “I-li-a”, một cặp vợ chồng già mới lên. Người vợ bảo chồng ngồi vào chỗ trống cạnh mình. Người chồng có lẽ ốm, gục đầu vào bàn tay vợ đang đặt trước bụng. Mình đứng lên nhường chỗ, ra hiệu bảo bà ta ngồi xuống cho chồng dựa, nhưng họ cảm ơn và từ chối. Về đến nơi nghỉ, 9g30 vẫn còn hoàng hôn. 12- 8 . Sáng nay, P. đã ra sân bay sau mười ngày bị kẹt lại và sau ba lần lỡ “hẹn”. Bị kẹt thì ngay ở Pari về Việt Nam vẫn xảy ra, nhất là vào dịp hè. Họ chật chỗ thật, không như ở Mát đi bằng máy bay Aeroflot, hành khách bị kẹt lại cả đống mà trên khoang máy bay còn rất nhiều ghế trống! 20 giờ ta sẽ “bay”, nếu không có gì trục trặc (sao cách làm ăn của họ cứ gây cho người ta tâm lí bất trắc thế!). Mặc không ít người nói xấu Matxcơva; mặc ý kiến “đến thành phố tư bản chủ nghĩa rồi về các thành phố xã hội chủ nghĩa, kể cả ở các nước phát triển, có cảm tưởng như ở thành thị về nông thôn”, mặc thành phố đang rõ dấu hiệu xuống cấp, mặc những khó chịu gặp phải, rời Matxcơva, mình cũng có tâm trạng như khi rời Pari, vẫn mang theo những ấn tượng đẹp. Anh em nhà C. thật chán. Chú em, điển hình của đố kị và thô bạo: “Tôi, hai bằng kĩ sư, mà giờ phải làm thuê nơi đây chưa đầy hai trăm rúp/tháng. Ông ấy kiếm bẫm, con cái học hành thành đạt cả. Vợ con tôi còn nheo nhóc”. Em không thèm tiễn anh, mà anh cũng không chào từ giã em. C. rất tâm đắc cuốn “Đắc nhân tâm” dịch của một tác giả Mĩ, khuyên mình nên đọc để vận dụng; riêng anh ta “đắc” được “tâm” của hầu hết những người giao du, nhưng lại chẳng “đắc” nổi “tâm” của em mình! Làm “khổ” lây cả đến mình. Mình cho người em một lọ nước hoa Pháp, hắn tỏ ra tử tế, nhưng khi hắn gạ bán cho mình mấy thứ hàng Liên-xô không được bèn trở mặt liền. Ga bay Sê-rê-met-sê-vô, không phải chuyến bay Mát-Hà Nội hay Mát-Thành phố Hồ Chí Minh nên không hỗn tạp. Trong phòng đợi, nhờ một cặp vợ chồng già người Âu, chẳng biết có phải người Nga không, trông hộ để đi ra một lúc lâu, vậy mà yên tâm có khi hơn cả gửi cho người mình ở chốn này. Máy bay cất cánh lúc 21 giờ, trễ 45 phút. Nhớ có lần mình cũng từ đây ra đi trong mưa lạnh. Lần này, nắng nóng, mặt trời vẫn còn trên chân trời, đỏ hồng Đêm, sân bay Tatsơken (thủ đô Udơbêkixtan). Một hành lang thật là dài để đến chỗ một chai nước ngọt dành cho hành khách miễn phí. Mình đã dừng lại nơi khá nhiều ga bay, chỉ riêng ga Tatsơken mới có “mục” này. Âu cũng là một ưu điểm. Có những ga bay, ghé lại bị khát mà không có tiền địa phương đành chịu “chết”, đưa USD thì họ không có tiền lẻ tương ứng để giả tiền thừa. Chẳng có gì bán. C. bảo năm trước ghé đây thấy có táo bán nhưng “dân xuất khẩu lao động” V.N. tranh nhau mua, những hành khách khác chỉ biết lắc đầu, không thể nào len vào nổi. Không như ở các ga bay “tư bản”, nơi mà các cửa hàng trong khu vực cách li mở suốt đêm, ở các ga bay Tát, Mát, các cửa hàng loại đó cửa đóng im ỉm”. 13- 8 . Sân bay Karachi (Pakistan). Đang mưng đất, sáng ra rất nhanh, chớp mắt đã sáng bạch. Hành khách không được xuống, vì lí do an toàn cho chuyến bay. Nhìn qua cửa mắt bò thấy “lèo tèo”. Sau 20 phút, máy bay lại cất cánh. Nhìn xuống, Karachi có những khu nhà gợi nghĩ đến những khu nhà tập thể bốn, năm tầng ở Việt Nam. Vùng đất ít cây, phơi màu đất sét trắng ợt. Một số nơi có cây dọc đường giao thông hoặc quanh nhà ở, hoặc từng đám như công viên, nhưng vẫn thấy đất “trọc“ nhiều hơn, có cảm giác như là vùng cận sa mạc. Mây trời hôm nay lộn xộn và bất thường. Có lúc nom xa dồn đống đặc. Có lúc tơi tả. Nhiều tầng, nhiều đám, nhìn xuống không ra biển mây. Lồi lõm, thấp cao, dày mỏng, thưa đặc. Phía dưới như những đám bọt chất đống nơi này nơi khác trên một biển nước sâu đen ngòm. Ngang tầm máy bay, một nền phẳng xa trên đó hiện rõ những hình thù bụi tre, lùm cây, tảng đá, thậm chí một khối đá đột khởi sừng sững. Dường như máy bay không đủ sức vượt lên quá tầng mây trên cùng. Nhưng rồi, máy bay cũng đã ở trên mây. Bây giờ “thế giới” mây đỡ lộn xộn hơn, song vẫn có “núi”, có “vực”, có “đồng bằng”. Ga bay Đenli (Ấn Độ). Chuyển tàu. Vào phòng đợi cách li phải qua bốn lần cửa, có chiếu điện kiểm tra hành lí, nhất là sờ nắn người, có lẽ là duy nhất trong các ga bay. Cái “anh” Ấn độ giở chứng hay do “anh” Aeroflot thuê? Có lần, ngồi máy bay của hãng Air France ghé nơi đây phải ngồi chết dí trong khoang tàu hàng mấy tiếng đồng hồ. Lần này, được tạm xuống nhưng xem ra nhiêu khê quá. Trên cao nhìn xuống, vùng Đenli nhiều cây hơn vùng Karachi, mặc dù K. gần biển. Mặt đất Ấn độ tựa như những đám ruộng chỗ xanh, chỗ vàng (xanh-cây, vàng-đất?), Có phải do qui hoạch khai thác và dưỡng rừng? Trời lại đầy mây che mặt đất, mặt biển. Sân bay Đôn Mương (Thái Lan). Nhà ga đẹp, văn minh, rộng thoáng không kém Roatxi (Pháp), hơn cả Sêrêmetsêvô (Liên-xô), tất nhiên là vượt xa Nội Bài và Tân Sơn Nhất. Đường phố Băngcốc chật xe và người. Đã thở không khí nhiệt đới Đông Nam Á và mùi... Tàu! Lái xe taxi người gốc Hoa có vẻ dễ thương, một vợ. một con, biết một ít tiếng Anh, tiếng Khme. Dùng phở cho bữa tối. Dù sao vị phở cũng đã gần phở Việt Nam chính hiệu hơn hồi ăn tại Pari. Thứ ba 14-8 . Mới chín giờ sáng đã nắng nóng, oi oi, dễ ra mồ hôi,- lâu ngày mới gặp lại cái tiết trời này. Băng-cốc nhiều ô tô hơn cả thành phố Hồ Chí Minh. Chật, ồn, bụi, không khí nặng nề hơn Pari, Matxcơva ... nhiều; nhưng không xô bồ như Hà Nội, Hải Phòng. Thăm một ngôi chùa lớn, mái đỏ dốc đứmg dạng lưỡi búa, hai đầu hơi vểnh lên. Leo núi Vàng (golden mount). Trên tầng thượng có cái chóp hình quả cầu với đuôi nhọn dát vàng. Quanh chóp là hành lang lộ thiên kiểu sân thượng. Đứng đây có thể nhìn bao quát Băng-cốc như đứng trên đỉnh Môngpacnat nhìn Pari, hay đứng trên tháp truyền hình nhìn Matxcơva. Oi nồng nhưng chưa đến mức của Bắc Việt Nam thời gian này. Người đông, đi lại nhiều nhưng không chen lấn, lộn xộn, nhố nhăng mấy. Không khí bị ô nhiễm nặng. Những dòng sông nước đen đặc bốc mùi tanh, làm người ta cảm thấy nặng nề, mệt mỏi. Những học sinh-sư mặc áo vàng đi có hàng lối. Nhóm du khách Úc. Du lịch Thái Lan qua việc giới thiệu Băng-cốc, còn kém du lịch Pháp qua việc giới thiệu Pari., Nhưng hơn hẳn du lịch Việt Nam. Năm nay, họ kỷ niệm 30 năm du lịch. Còn Việt Nam lấy năm 90 này làm năm du lịch liệu có chuyển biến chút nào không? 15-8 . Sáng dậy cảm thấy mệt mỏi, phải tạm nghỉ “du lịch”. Chiều ghé chợ Bobê, một chợ chỉ bán toàn quần áo. Không bán lẻ, bán theo tá (12 cái). Một cô nàng nhẹ nhõm, tươi cười, lịch sự, nhưng cương quyết không bán 8 cái, lại có thể bán 6 cái (nửa tá). Thật kì cục ! Về chủng loại, màu sắc , giá tiền, cô ta rất “giữ vững lập trường”. Mua cao hổ cốt, gặp một tay Tàu trung niên trắng trẻo, béo tốt, bán với giá 280 bạt. “Tôi đã ở Việt Nam, tôi bán giá ấy, chứ nơi khác phải 300 bạt”, anh ta nói bằng tiếng Anh. Lúc bọn mình đi ra, anh ta nói “cảm ơn” bằng tiếng Việt rất sõi. 19 giờ trời đổ mưa to. Ngồi trong phòng trọ, nghe mưa trên đất Thái, “cái buồn lữ thứ” là sao nhỉ? Thiếu tiền Thái (bạt) phải uống sữa đậu nành trừ bữa. Đưa đôla mua gì họ cũng không bán. (Ở Việt Nam thì “xài” chui xả láng! Vậy mà cái gì cũng tỏ ra rất chặt chẽ!). Thật là thiếu phòng xa! 16-8 . Đến Ngân hàng tài chính đề nghị đổi đôla ra bạt , họ không nhận. Một tư nhân đồng ý đổi nhưng với giá 1 USD ăn 19 bạt (giá đúng là 25 bạt). Đến Farmer Park, họ chỉ nhận đổi những đồng 20, 50 đôla. Thật nhiêu khê gần bằng ở Việt Nam! Ở Pari sao mà dễ dàng thế! Mà Thái Lan đang là nước tư bản chứ có phải “xoàng” đâu! Đổi tờ 100 đô phải đến Bangkok Bank. Thủ tục nhanh gọn. Niềm nở nhưng dứt khoát, xong, khách đang kiểm tiền đã bỏ đi làm tiếp công việc. Kênh đào sặc mùi xú uế, vậy mà có đôi trai gái vẫn ngồi hóng gió và tình tự được! Rẽ vào một ngôi chùa, có lẽ vào loại bé nhưng chùa chính khá cao, đường bệ, những hoa văn trang trí bằng mảnh sứ hơn hẳn cổng thành Huế. Những ngọn tháp mà hoa văn chính là cánh sen hoặc lá đề cách điệu. Một cây bồ đề cổ thụ; trong vành đai xi măng bao quanh gốc có những đám mà nom từ xa như phân người hoặc phân chim nhoe nhoét, lại gần mới biết là nến chảy. Những dãy nhà đồ sộ có nhiều thanh niên trẻ đẹp và những thiếu niên mặc áo vàng khoẻ mạnh, mặt mũi sáng sủa. Chắc là trường Phật học, và bọn họ đều là người Tàu. Ở Băng-cốc, người Tàu rất đông, nắm nhiều ngành kinh tế chủ chốt. Chiều tối. Phố xá Băng-cốc nhiều xe cộ, ít người đi bộ, có lẽ họ đi xe riêng hoặc đi xe buýt. Vỉa hè sạch, gọn và thoáng, không bày hàng hoá lấn ra. Các hàng ăn bày ở đoạn đường nối thông hai phố, khá rộng. Chập tối, các quán ăn dọn đi hầu hết; sau bảy giờ tối khó mà kiếm được cái ăn nơi đây. Các cửa hàng khác thường đóng cửa tầm 8 giờ tối. Gió thổi mạnh, trời đùn mây đen. Vội vàng chạy mưa, song mưa không tới như tối qua. Mưa gió ở đây cũng thất thường. 17-8 . Đi chơi công viên Xiêm (Siam park). Tương tự công viên Tuynlơri ở Pari hay công viên Goocki ở Matxcơva về qui mô, về nội dung, có khác biệt chút ít. Về tổ chức, chặt chẽ hơn: tiền vé vào cửa khá cao, và trong rồi dự hầu hết các trò chơi đều miễn phí. Phục vụ ăn uống khá chu đáo, không đắt hơn ở ngoài; hơi phiền một chút là mua dù chỉ một que kem cũng phải vé. Kiến trúc có phần tráng lệ hơn cả hai nơi kia; duy kém cổ kính hơn Tuynlơri. Chỗ công viên nước (water park) qui mô hơn hai nơi kia nhiều. Cảnh sắc cũng có vẻ hơn. Mình và C. tham dự một số trò. Hai người lớn trở lại làm trẻ nhỏ. Buồn cười chỗ “thuyền chao”, đúng là “lộn ruột”, người nôn nao, xốn xang khó tả, đang lúc như vậy mà C. còn thốt ra được “...tao cũng chịu” mượn lời ông lão trong chuyện tiếu lâm “Ăn quen bén mùi”. Khách du, chỉ thấy một cặp da trắng, đã cao tuổi. Khi đi từ trung tâm thành phố mất một giờ taxi. Lúc về, bắt nhầm xe buýt về hướng tây-bắc. May một bà già chỉ cho biết lại còn uỷ cho một thanh niên-sinh viên trường Luật, người Hoa, chỉ dẫn cụ thể. Hai lần xe buýt, mỗi lần một giờ, tăc đường gần một giờ nữa, về đến nhà trọ đã tối sẫm. Thứ Bảy 18-8-90. Sáng dậy chuẩn bị ra sân bay. Đã hơi nóng. Đường ra sân bay, dòng xe cộ nối đuôi nhau, nhiều lần ùn tắc. Lướt qua nhiều phố xá rộng rãi, khá đẹp. Không thấy đồng trống hoặc rừng cây như đường đến ga bay Roatxi hoặc Sêrêmetsêvô. Nhà ga hai tầng như Sêrêmetsêvô nhưng thoáng đãng, tươi mát hơn. Mình đã đi một vòng lên cả tầng ăn uống. Nhìn ra xa, một vùng cây cối, những nhà lầu xinh xắn, nhẹ nhõm thấp thoáng. Qua cửa hải quan, hai người còn vừa đúng 30 bạt để mỗi người một cốc sữa “cầm hơi”. Một cốc sữa hơn một đôla! Máy bay còn trống khá nhiều chố. Dân “thạo đi” nói tuyến Băng-cốc-Hà Nội người ta ưa chuộng máy bay Thái hơn mà còn vậy đó. Cât cánh chậm nửa giờ. Vĩnh biệt đất Thái! Nhìn xuống đồng ruộng Thái Lan thấy qui hoạch chu đáo, hơn kiểu “bờ vùng, bờ thửa” bên ta nhiều. Những thị trấn, những tụ điềm dân cư rải ra. Mấy ngọn núi tụm lại cô đọc giữa đồng bằng. Kia có phải là sông Mê Khoỏng (Mêkông)? Nước đục. Một cái hồ lớn- Một cái biển con- nước xanh, ở đâu nhỉ? Đã đến đất Lào chưa? Rừng xanh trùng điệp. Và mây trắng dồn xô bồ. Vào đất Việt lúc nào không biết. Đồng ruộng Việt Nam đây rồi! Không thấy chỉn chu như bên Thái. Cái manh mún rất rõ. Vùng dân cư “đặc” hơn nhiều. Thôn quê rất nhiều nhà gạch so với trước kia mấy năm. Con sông lớn kia là sông Đà hay sông Hồng? Máy bay hạ cánh xuống Nội Bài. Ngồi trước mình, một cô người Úc cũng mải mê nhìn ra xem phong cảnh. Hỏi ra, “lần đầu đến Hà Nội, đến Thành phố Hồ Chí Minh đã hai lần”. Lại đặt chân lên Đất Mẹ. Đã biết là sẽ rất nóng, vậy mà vẫn cảm thấy khó chịu. Đường về qua cầu Thăng Long. Hà Nội, những phố xá quen thuộc mà mình khó nhận ra. Cầu Chương Dương. Đường Năm. Cảnh đợi cho xe lửa qua ở cầu Phú Lương, đợi dòng xe ngược chiều qua hết ở cầu Lai Vu. Quen mà lạ. Về đến Hải Phòng phố xá đã lên đèn. Đường phố Việt Nam không lẫn với bất cứ nơi đâu. Những dòng xe đạp, lúc lúc một chiếc ô tô rẽ ra. Người đi đông trên hè đường. Những quầy hàng, quán nước tràn ra hè phố. Và cái nóng kinh khủng, người luôn luôn đẫm mồ hôi. Các khu nhà tập thể (chung cư) có nhiều thay đổi theo hướng xô bồ hơn và “tư lấn công” nhiều hơn. Có những nơi đã mọc thêm những bức tường khiến mình nhầm lối. Bát bún riêu cua đã lâu mới được ăn hoá ra lại lạ miệng. Đêm đầu tiên ngủ lại trên cái lát giường cứng, sau gần hai năm quen nằm trên nệm êm nào có thấy đau người như họ, một số người làm việc lâu tại nước ngoài trở về, vẫn nói đâu! * * *
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.04.2009 16:55:55 bởi Khải Nguyên HT >
|