LI HƯƠNG + DÂY MƠ
Khải Nguyên HT 09.04.2009 11:17:54 (permalink)
  LI  HƯƠNG
-truyện ngắn-
 
      Rời sân bay anh ngại về nhà. Anh đi lang thang rồi dừng lại nơi một vườn hoa vắng. Giờ chỉ còn trơ lại một mình anh. Đứa con duy nhất của hai người đã chết yểu. Mãi mười giờ khuya, anh mới về đến nhà. Cửa đóng im ỉm. Mọi khi thì anh đã gọi: "Mai ơi!". Một cái thắt nhẹ nơi tim. Giờ này em đang ở đâu? Trên bầu trời Ấn Độ hay Tây Á? Anh không bật đèn, lần mở cửa sổ đứng nhìn ra, đốt một điếu thuốc nhưng vội dụi đi ngay. Vô vị mà hăng hắc. Phải đi nằm thôi. Người bải hoải nhưng đầu óc thì tỉnh quá.
      Em đã bay rồi. Em đi là phải. Chúng mình chẳng phải là loại người không biết việc hoặc ý thức làm việc tồi, nhưng người ta không dùng được, không dung  được. Vậy thì đây là dịp để em thử sức mình. "Em đi về, chúng mình sẽ sống và làm việc đỡ nheo nhóc". Đó cũng là một cái cớ. Còn anh, hiện thời chỗ đứng của anh là ở đây. Bọn anh chịu đựng vùi dập năm năm trời để bảo vệ cái đề án ấy. Lúc này là lúc phải khuấy công luận để cho nó được chào đời. Một cảm giác ran ran nơi ngực. Năm xưa, anh đã bị một cơn nhồi máu cơ tim. Đang làm việc tại nhà, anh gục xuống ngất đi. Chị đi công tác xa. May có đứa bé hàng xóm nhìn thấy. Chuyện ấy, anh đã giấu chị. Người ta bảo bị nhồi máu cơ tim lần sau khó qua hơn. Anh cố nằm thư giãn và thở sâu. Vậy là em đã bay rồi. Chúng mình đã quen có nhau trong gian nhà chật. Quen với cả sự nghèo nàn. Thôi! tạm gọi là thanh đạm. Thanh đạm à? Thanh đạm có tầm thường hóa ước mơ và làm mòn mỏi hạnh phúc? Chưa có ai nói thế. Chà! Anh thật vô lí, bắt em hứng chịu những hậu quả của sự cả tin và cả nể của mình, trong cuộc đời, trong công việc. Với những công chức như chúng ta, liệu có đất cho những cao vọng, dẫu rất đỗi hiền lành? Anh đã xử sự như người ngoài cuộc trước cảnh sống nhọc nhằn và nặng nề ngày càng lấn tới cái tổ ấm của chúng ta.
      Đêm lành lạnh, gợi nhớ tiết cuối thu. Cả anh, cả chị đều thích thời tiết này. Đắp một vỏ chăn mỏng thật là dễ chịu. Anh nhớ bàn tay chị hay mân mê ngực anh. Tóc chị thơm mùi dầu sả ấp vai anh. Thường đó là lúc chị "bắt" anh nghe chuyện: chuyện nhà, chuyện cơ quan, chuyện đời, chuyện đọc được đâu đó.  Từng mẩu thôi, thích gì kể nấy, nhớ đâu nói đấy. Đột ngột: "Thôi, em ngủ đây". Sẽ sàng, đầu chị chuồn khỏi vai anh. Chỉ chốc lát là chị ngủ. Hôm nào không thế, ắt chị có điều bất như ý. Anh phải quàng tay ôm chị với một cử chỉ dỗ dành không lên tiếng. Và chị, như chỉ chờ có vậy "dốc hết" với anh.
      Vậy mà… Tự lúc nào em đã bớt đi những câu chuyện tâm tình, những lời tâm sự. Em ít chờ ở anh những câu khích lệ hay an ủi. Em cũng không như trước kia hay nhìn vẻ mặt anh khi đi làm về để đón bắt vui, buồn.
      Anh bỗng thấy vừa thương, vừa giận chị. Chị đã ra đi một cách quá ư "đơn giản", - đúng như anh mong muốn và đã khuyên nhủ chị, - dường như chẳng bịn rịn, chẳng cảm xúc trước cuộc chia li dài nhất giữa hai người cả về không gian lẫn thời gian. Anh đâu biết, khi đã vào trong máy bay, chị thả rơi người xuống ghế, ngồi nhắm mắt lại mà không giữ nổi hai dòng lệ tràn xuôi má. Chị đã tỏ ra thanh thản, đàng hoàng, cứng cỏi nữa, trước không nhiều người ra tiễn. "Nếu em khóc, họ sẽ không nghĩ là vì nhớ anh". Đêm cuối cùng nằm bên anh, chị đã nói vậy. Chị có tên trong danh sách thực tập sinh ở một nước Tây Âu, bỗng nhiên phải "nhường" cho một người "chen ngang" và được ghép vào một nhóm chuyên gia y tế đi Châu Phi. Việc "lên gân cốt" đã làm chị rã rời. May mà máy bay cất cánh sớm nửa tiếng đồng hồ.
      Giờ đây, máy bay đã ở độ cao ổn định, khoảng mười nghìn mét. Chị nhìn chếch về phía trước qua ô kính bầu dục. Phía tây, những đụn mây đang xếp lớp. Cửa phòng mình cũng hơi chếch về tây và về chiều cũng thường nhìn thấy những đụn mây như thế. Anh hay đọc câu thơ của ai đó: "Mặt đất mây đùn cửa ải xa". Ở đây, chẳng thể có cánh chim nào, kể cả cánh "chim bằng". Ráng chiều đang lan dần như một đám cháy phía xa loang mãi ra. Trên cao, chiều tắt chậm, hoàng hôn kéo dài. Ngôi sao hôm lẻ loi trên bầu trời. Chị cảm thấy ớn lạnh. Anh đơn chiếc và đơn độc biết mấy. Bạn bè cùng vui chuyện thì chẳng thiếu, nhưng khi phải đương đầu thì anh chỉ có hai người bạn thân. "Em cứ yên tâm mà đi. Hai đã là nhiều lắm". Anh sẽ sống rất khó khăn. Khó khăn lớn nhất lại do anh sống thiên về nội tâm và có những cảm nghĩ dường như kì khôi. Chị nhớ một câu trong lá thư xưa anh bộc lộ với chị: "Yêu thật là nhọc nhằn". Một câu tỏ tình độc đáo. "Chỉ đứa ngốc như em mới chấp nhận được thôi". Sau này, chị chọc anh, và anh đâm ra bực chị. Kỉ niệm ấy gọi về những yêu thương chị từng dành cho anh mà thời gian gần đây tưởng đã nhàm đi, bạc đi. Chỉ đến lúc này, chị mới nhận ra, hay mới dám nhìn thẳng vào đáy tâm hồn mình rằng, mặc dù rất không vừa ý, thâm tâm chị coi chuyến đi như một sự giải thoát - giải thoát cái gì đó, những cái gì đó. Ờ, chẳng hạn, giải thoát một sự tù túng, ít nhất biết thêm một chân trời, dù chỉ là chân trời Phi châu. Cái ý biện bạch này chẳng phải là chợt đến, nhưng đã nhắc chị những cái sắp phải đương đầu mà chị chưa hình dung ra được, mặc dù đã có không ít những lời đồn thổi. Vậy là, cái xốn xang của sự nhớ thương, cái nao nao - chưa được là cái náo nức - của một lần đi đến phương trời xa lắng lại, nhường cho những ý nghĩ lo toan thiết thực.

       *  *  *
Mồng một Tết, 2 giờ sáng Việt nam - 20 giờ địa phương của ngày hôm trước (năm 198…)  
     "Anh thương nhớ
     Giờ này bên nhà, như mọi năm, chắc anh chưa ngủ. Bọn em vừa họp mặt đón giao thừa. Đúng 18 giờ ở đây, đúng nửa đêm bên đó.
      Sáng nay, em vừa thức giấc sớm rồi không ngủ lại được như mọi lần. Mấy đêm liền em hay mơ linh tinh. Hôm nay, em đã "tổng quét dọn" nhà cửa như mọi năm anh vẫn làm ở nhà vào dịp này. Xong rồi, em đi sắm một bó hoa. Ở đây đang là cuối hạ, đầu thu của Nam bán cầu. Hoa vùng này khá hiếm.
      Đón Tết nơi xa quê hương hàng vạn ki-lô-mét, bọn em có hoa, có hương, có nem rán, có trà, có hạt bí,… hầu hết được mang từ nhà sang, hôm ra đi. Chỉ thiếu bánh chưng, bánh tét! Bọn em tập hợp gần chục người Việt nam làm việc ở thành phố này và vùng lân cận, vừa giáo sư trung học và đại học, vừa bác sĩ, vừa kĩ sư, có một nhạc sĩ. Nâng cốc chúc Tết nhau, rồi ngồi nói chuyện tào lao hơn giờ đồng hồ. Tuy vắng cái không khí Tết quê nhà, nhưng lúc giải tán tưởng đã khuya lắm. Cô Thu đòi về phòng ngủ ngay, một lát qua gõ cửa phòng em, kêu lên: "Tưởng đã một hai giờ sáng, hóa ra mới có tám giờ tối!".
      Ở đất nước này, ngay thành thị, ban đêm khá tĩnh. Em ngồi đây, trước chiếc bàn viết con con trong căn phòng gọn xinh, nhớ sắc hoa đào, nhớ mùi trầm và tiếng pháo. Nhất là nhớ anh. Em hơi "nhè"một tí, một tí thôi. Anh đừng buồn em. Chẳng dễ gì mà tâm hồn bé bỏng trở lại dầu chỉ phút giây, anh ơi! Lúc này, quanh anh hẳn đã im tiếng pháo? Tết năm nay có vui không anh? Trời tạnh ráo hay mưa đưa lạnh? Chắc là pháo vẫn nổ nhiều. Anh có gọi thầm em trong hương vị Tết? Em vừa tạm dừng bút, ra nhìn trời sao. Đêm mát. Sao lưa thưa. Bầu trời ở đây, đến giờ em vẫn chưa quen, nhất là vì nó vắng cái màu xanh thăm thẳm nơi quê nhà. Hướng đông-bắc khuất sau ngàn cây của khu rừng bên kia sông. Anh có đang đứng trên sân thượng nhìn về hướng tây-nam này không?
      Hồi nãy, lúc chúc nhau năm mới, một giáo sư trung học cỡ hơn anh dăm tuổi đã đọc một bài thơ mở đầu bằng bốn câu:
          Năm cũ giã từ non nước Việt
          Giao thừa lạc nẻo đất trời Phi
          Hồn quê bảng lảng từng gương mặt
          Khép mở riêng chung rượu một li.
       Mấy con người li hương ngồi lại đón giao thừa nơi đất khách, khép nhiều hơn mở, riêng nhiều hơn chung. Ra đi, ai cũng nghĩ chẳng qua là đổi sức lao động lấy ít "đô" về cải thiện cuộc sống gia đình, có người thậm chí còn dùng từ "cứu đói". Hầu hết đều lo tròn chức trách, kể cả số người hay tìm cách xoay xở ngoài (Trong số đó, em nghĩ giá như hồi còn ở bên nhà, họ làm việc với tinh thần này thì phúc cho người bệnh biết mấy). Công việc làm em vợi bớt nỗi nhớ nhà, nhớ anh. Sự quí trọng của các đồng nghiệp khác màu da, khác quốc tịch, lòng tin phục của bệnh nhân cũng là một thứ kích thích. Sau này về nước, ngoài những "tờ xanh", nếu mang thêm được một ít tri thức có ích cho công tác thì không uổng, phải không anh? Viết đến đây, em nhớ lần gặp kĩ sư Tài, một chuyên gia tài năng. Anh ta khen người bản xứ có cách ngâm sắn tươi thành một thứ bột thơm ngon không còn nồng mùi sắn. Em hỏi sao không tìm cách học để về bày cho đồng bào miền núi và trung du thì anh ta thản nhiên đáp: "Tôi không được giao nhiệm vụ ấy". Anh ta nguyên là một vụ trưởng kia đấy. Càng đáng phục ông cha ta xưa, những người đi sứ đã kì công, và mạo hiểm nữa, mang giống mới hoặc nghề mới về cho dân mình.
       Anh ạ, em có nghe nói những tài liệu kĩ thuật phương Tây liên quan đến đề án của anh. Có lẽ phải nhờ các chuyên gia người Âu làm việc tại đây tìm hộ, hoặc đến lục ở thư viện trung ương. Hơi khó đấy, nhưng em sẽ cố.
       Anh phải lo giữ sức khỏe cho em yên lòng. Mỗi ngày không được hút quá năm điếu thuốc lá đâu đấy! Chịu khó thổi nấu mà ăn nóng. Anh là chúa ngại vào bếp. Thương em, anh cố gắng nhé".

       *  *  *
      Trong các thư gửi về nhà, Mai tránh viết những điều không vui. Trái với ngày trước chị luôn luôn muốn được chồng chia sẻ những buồn lo.
      Bệnh viện nơi chị làm việc có bốn người Việt Nam: Mai, Phùng, Lộc - ba bác sĩ, và cô Thụ - kĩ thuật viên. Phùng cùng học chuyên tu như Mai và cùng ra làm việc tại thủ đô. Phùng đậm người, dáng đi chắc, ăn nói sắc cạnh và rất "dám làm". Sau năm 1975, Mai tính về lại Sài Gòn, nơi chị đã sống ít năm tuổi nhỏ không mấy yên ổn. Phùng đã xin "chi viện" thành phố kết nghĩa của Hà Nội, nhưng rồi ở lại vì một vụ đề bạt. Hai người ít khi gặp nhau. Đất khách có người quen, biết mấy là mừng. Mai đề xuất Phùng làm nhóm trưởng.
      Địa bàn bệnh viện phụ trách rất rộng, gồm cả vùng phụ cận  ven thành phố thưa dân và nghèo. Phía bạn giao cho nhóm chuyên gia Việt một xe ôtô cùng khoản tiền xăng dầu và chi phí bảo dưỡng hàng tháng khá rộng rãi để tuỳ nghi sử dụng. Tháng đầu suôn sẻ, tiền thừa chút đỉnh cũng dễ dàng thu xếp. Tới tháng thứ hai, Phùng vạch kế hoạch "tăng chi trên giấy, giảm thực chi". Mai không đồng tình. Lộc cũng tỏ ý nghi ngại. Nhóm trưởng cứ quyết. Đến khi "trang trải" thì có chuyện. Lộc ném tập giấy bạc được chia xuống bàn, bảo Phùng.
      - Mày vơ vào nhiều thế? Tham vừa chứ! - Hai người vẫn là bạn từ trước.
      - Mày ít tuổi hơn tao mà ăn nói thế, tao đánh bỏ mẹ. - Phùng xông tới.
      - Tao sợ mày à? - Lộc cũng xáp tới.
      Hai bên túm cổ áo nhau. Có cơ nổ ra "thụi chiến". Mai can chẳng ăn thua.  Nhà chuyên gia ở riêng biệt, nhưng nếu làm ầm ĩ thì có thể bị rát mặt với người sở tại. Cô Thụ chạy lại gạt hai người ra. Cô này to khoẻ. Phùng rất chịu cô.
      Không khí nhóm chẳng căng lâu. Chỉ riêng nhu cầu nói tiếng mẹ đẻ cũng đã là một thứ dây nối. Tuy nhiên, khó nói trước được chuyện gì!
      Chiều nay đi làm về, Mai chặn Phùng ở cửa phòng khách của căn hộ dành cho chuyên gia.
      - Anh bảo chủ nhiệm khoa là từ ngày mai tôi nghỉ làm việc phải không? - Mai không cao giọng.
      - Cô thắc mắc hả? - Phùng nói với vẻ hạ cố.
      - Gọi tôi bằng chị. Tôi không là em anh, cũng chẳng là cô anh. Trước đây, Phùng vẫn xưng hô vậy, song chị chưa phản ứng bao giờ.
      - Được thôi. Tôi tạm đình chỉ công tác của đồng chí vì đồng chí không chấp hành nhiệm vụ được giao.
      Mai được giao một ca nạo thai. Trước nay, Phùng vẫn tranh làm. Được bồi dưỡng hậu từ phía các đương sự, thường là các bà, các cô có máu mặt bị "nhỡ". Nhưng lần này cái thai đã quá to, sức khoẻ người mẹ lại không bình thường. Ca nạo sẽ khó tránh sự cố. Mai từ chối và thuyết phục các bác sĩ bạn nên đình lại. Bác sĩ Fabrice, một chuyên gia Pháp cùng bệnh viện, cũng đồng ý với Mai.
      - Anh có quyền gì?
      - Quyền nhóm trưởng.
      - To nhỉ! Anh thừa biết cái chức ấy chẳng có nghĩa lí gì trong chuyện điều hành chuyên môn ở bệnh viện.
      - Cứ thử đi làm đi!
      - Nè! - Mai đanh giọng - Tôi nói cho anh hay. Tôi chẳng muốn phô nội bộ chuyên gia lủng củng với bạn, chứ không phải không lật tẩy nổi anh đâu.
Chuyện như đùa mà lại có thật. Sứ quán phải mời vị nhóm trưởng lên bảo nhẹ.

       *  *  *
      Một vườn hoa nhỏ bên sông, kề khách sạn Phương Đông của một Việt kiều ở ngoại vi thành phố. Nơi đây, người ta ít đi dạo.
      Đã lâu, Mai không được tin nhà. Một chuyến thư thường mấy bốn tuần lễ. Phải qua đường Paris; gặp hồi nhân viên bưu điện Pháp đình công thì rầy rà. Còn những bất trắc khác. Thêm một điều bất an cho tâm tưởng. Trước đây, chị vẫn dành phần lớn thì giờ rảnh để đọc sách báo chuyên môn và tìm hiểu người bản xứ - đối tượng chăm nom sức khoẻ, điều mà người thầy thuốc thực sự không bỏ qua. Fabrice đã tận tình giúp chị. Nay, đọc khó vào.
      Dòng sông trước mặt mới trông có vẻ hoang dã, nhìn quen rồi lại thấy có cái đẹp nguyên sơ. Ở nước mình có con sông nào như thế này không nhỉ? Ai đó nói sông quanh queo như lòng người. Ví von hay ho thật! Nhưng lòng cái tay Phùng thì... Vẫn cười nói ra vẻ một người lịch duyệt mà hảo tâm. Khối người phục lăn. Cả anh chàng Vĩnh chuyên gia giáo dục, một "tay tổ làm ăn", không bỏ lỡ dịp nào được hầu trà thuốc "thủ trưởng" phụ trách chuyên gia. Nhất là cô Thụ. Buồn cười cái cô Thụ. Nghe Phùng ta giảng giải: "Người xưa đã từng nói phải cảnh giác với bọn cơ hội, như trong câu: Tích cốc phòng cơ (!)", cô ta cứ há mồm ra nghe. Anh ta căm mình có lẽ vì mình mách chuyện hai người với sứ quán. Chuyện cù lần! Bây giờ thì mình đã biết do đâu mà mấy lâu nay anh ta tỏ ra tử tế với mình quá mức bình thường.
      Mai quen thân Thái, chủ khách sạn Phương Đông. Chị đã hướng dẫn cô đầu bếp người Pháp của khách sạn làm một số món ăn Việt Nam. Khách ăn rất khoái món nem Sài Gòn. Cái từ "nem" đã vào vốn từ vựng của nhiều người Âu và Phi. Phùng nhờ Mai dẫn đến làm quen với Thái. Hôm đó, chị thấy một Phùng khác. Hơn tuổi Thái, lại là buổi sơ ngộ, mà Phùng cứ gọi chị, xưng em ngọt như không. Mai ngượng thay cho anh ta, viện cớ cáo lui trước. Nhưng Phùng chỉ cần đến chị có thế. Sau đó, tự anh ta năng đến gặp Thái. Xem chừng anh ta muốn dọn đất để ở lại làm ăn thêm một thời gian sau khi hợp đồng chuyên gia hết hạn. Nghe nói Thái có nhiều thế lực cả trong giới kinh doanh, cả trong giới chính khách xứ này.
      Thái bảo Mai:
      - Cái ông Phùng do chính chị giới thiệu với tôi mà nói chị chẳng ra sao. Lại còn động đến bác sĩ Fabrice.
      Mai không bị bất ngờ lắm. Nhưng lạ ở chỗ anh ta vẫn rất tỏ ra tử tế với chị. Tử tế nhưng cười bằng miệng, không cười bằng mắt, chị nhớ ra. Nếu chị biết anh ta còn có thể làm những gì nữa!
      Song, điều khiến chị phải bận tâm nhiều chẳng phải ở đó. Fabrice mới bảo chị là khi hết hợp đồng một năm ở đây, nếu chị thích, anh ta sẽ giới thiệu chị với "Thầy thuốc - tình thương", một tổ chức quốc tế phi chính phủ. Một bất ngờ đáng nể. Bởi, không dễ xảy ra. Và chẳng phải với bất kì ai.
      Phải sớm quyết định. Fabrice bảo cần đưa vấn đề trước ít nhất hai tháng.  Anh sẽ nghĩ thế nào nhỉ? Giá có anh bên cạnh những lúc như thế này!
Con sông Phi châu đang mùa nước to cuồn cuộn sóng. Nước chồm lên trào bọt; dễ thấy lòng sông đầy ghềnh đá ngầm. Một cái thác thực sự. Dòng nước rẽ đôi bao vây cái đảo nhỏ tùm lum cây cối dưới kia đầy bí hiểm. Nước sông luôn luôn một màu nâu đen nhạt, vẩn nhiều mảnh vụn li ti của lá cây mục, gợi nhớ nước rừng U-minh miền tây Nam Bộ.
      Chắc anh sẽ khuyên mình nên nhận lời. Nhưng mình không thể quyết định khi chưa biết rõ tình cảnh mọi mặt của anh hiện nay. Tháng tới mình sẽ xin nghỉ phép, dù có phải tự lo chi phí chuyến đi.

       *  *  *
      Anh ngồi trước tập đề án không mở ra. Qua chao đèn bàn, ánh sáng chỉ rọi lờ mờ khuôn mặy. Anh cố tập hợp những ý tưởng đã nẩy sinh, đã phác họa từ sau ngày nhận được những lời góp ý chị gửi về. Hẳn là chị đã mất nhiều công sức để tìm đọc những tài liệu có liên quan đến công trình của anh. Đề án của anh, theo lời chị, về cơ bản là tốt. Nhưng có những nét về phương hướng và kĩ thuật đối với trong nước là táo bạo, - quá táo bạo đến đỗi người ta dễ có cớ để bác bỏ -, song trình độ thế giới đã vượt xa rồi. Anh ngồi đó cố tập trung suy nghĩ nhưng trong đầu vẫn lởn vởn câu chuyện chiều nay.
      Chiều nay, một đồng nghiệp trẻ gọi riêng anh ra hỏi thăm sức khoẻ của anh, tin tức của chị. Vòng vo một lúc, và sau khi anh cho biết đã bảy tuần chưa nhận được thư chị, anh ta nói: "Em kính trọng anh và cảm thông tình cảnh anh ở viện này nên... nên... - anh ta ngập ngừng rồi quyết định- nên báo anh tin em nghe được để anh tìm hiểu. Anh phải bình tình, thật bình tĩnh, và sáng suốt mới được. Đời này chán gì chuyện nhảm. Em nghe họ kháo nhau rằng một chị nào đó làm chuyên gia y tế ở nước ấy đã bắt "bồ" với một tay chuyên gia người Pháp và hình như đang tính chuyện sẽ sống với nhau ở Paris".
      Chuyện ai đấy thôi. Tính cách em không phù hợp với những chuyện như vậy. Tình yêu của em không buông trôi như vậy. Em thuộc loại người chỉ yêu một lần. Ờ, nhưng nếu là em thì sao? Cũng là chuyện thường tình, rất người và rất đời. Bậy! Mình nghĩ bậy. Nhưng mà thời buổi này chẳng nên vội khẳng định một cái gì. Không được! Không phải! Suy nghĩ ấy không xứng với em.  Thế giới này có đảo điên thì cũng còn có cái gì đó trường tồn chứ!
      Một cái nhói phía trên mỏ ác như có ai đâm dùi từ bên trong. Cơn đau dội lên, dâng đầy ngực. Anh vừa kịp nhớ lại nó giống y hệt lần trước đây thì bỗng cảm thấy  đang lịm đi, nhẹ tênh. Em sẽ về. Anh biết em sẽ về, dẫu anh có đi vào hư vô...
      Được một tối khu nhà anh ở không bị mất điện một lúc nào. Đèn phòng anh chong suốt đêm.
      Cũng đêm ấy, Mai bồn chồn thao thức trên một chiếc Boeing đang lướt cao trong bầu trời đen hướng về sân bay Tân Sơn Nhất.

IX-1994  
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.04.2009 12:38:37 bởi Khải Nguyên HT >
#1
    Khải Nguyên HT 14.04.2009 13:01:47 (permalink)
    DÂY MƠ


           Y đang đứng tư lự trong hiên ngôi nhà dành cho chuyên gia Việt Nam. Mặt trời đang nghiêng xuống chân trời. Gió tây mang hơi thở Đại Tây Dương chạy đuổi trên đầu đám cỏ tranh trải rộng phía trước tới chỗ y gợi nhớ ngọn gió nồm Thái Bình Dương. Trời hơi nóng nhưng nhẹ nhõm, không oi. Lúc này ở Bắc bán cầu đang là mùa xuân, ở Nam bán cầu đang là mùa thu. Còn ở đây mùa gì? Đường xích đạo đi qua cách chỗ y đứng chừng mươi mét về phía Bắc. Y không mang cái nỗi sầu viễn xứ vớ vẩn nhưng cũng hay nghĩ ngợi, và lúc này đang thả hồn về quê hương cách xa hơn một phần tư vòng quả đất. Chợt một chiếc Toyota trờ tới đỗ rất êm trên con đường nhỏ trước nhà. Sau vòng lái là một khuôn mặt Á Đông, thoạt trông trẻ như một thanh niên. Người lái xe hướng về y, nói bằng tiếng Pháp:
          - Xin chào.
          - Chào - Y đáp lời - Xin lỗi, ông có việc gì?
          - Tôi đi loanh quanh, biết các ông ở đây…
          - Ông làm việc tại đây?
          - Tôi đang xây một cơ sở tiếp nhiên liệu cho chính phủ nước này.
          - Ông thuộc quốc tịch nào?
          - Pháp.
          - Trông ông không có vẻ người Âu.
          - Tôi đích thị người Âu.
          Y nhìn mái tóc đen hơi hoe vàng và lượn sóng nhẹ tự nhiên.
          - Có lẽ ông là người Âu lai Á?
           - Vâng. Mẹ tôi là người Việt Nam.
          Người lạ tự giới thiệu là Henri M., cha là người Pháp từng là giám đốc xe lửa Đông Dương, trước chiến tranh thế giới lần thứ hai đã về Pháp. Sau khi Pháp trở lại xâm lược Đông Dương, ông ta lại sang làm việc từ 1950 cho đến sau Điện Biên Phủ. Henri sinh tại Pháp, học ở Việt Nam từ năm lên tám đến năm mười hai tuổi. Y mời uống nước chè. Henri tỏ ra rất thích thú. Anh ta nhắc lại những kỉ niệm Việt Nam, còn nhớ món "đu đủ - thịt bò khô" bên cổng trường, nhớ mùa thu Hà Nội gió cuốn lá vàng lăn trên đường nhựa. "Mẹ tôi không bỏ một ngày lễ, Tết Việt Nam nào. Bà biết tiếng Pháp, nhưng chỉ nói với con bằng tiếng Việt". Henri bốn mươi bảy tuổi, kĩ sư điều hành một công ti xây dựng ở Pháp, đã từng nhận thầu cấp chính phủ tại Đông Nam Á và Tây Á. Hiện Henri đang làm cho hai nước ở Phi châu. Henri nói trong các nước Phi châu, anh ta thích Sát hơn cả. "Ở đấy nóng, nhưng con người siêng năng hơn ở các nước khác". Hai người đang trò chuyện, một chuyên gia Việt Nam khác đi qua phía ngoài bảo y: "Anh hỏi thằng ấy xem nó có biết xực mắm tôm không". Y thấy sắc mặt Henri thoáng biến đổi rất nhanh, hầu như không nhận ra được.   Mấy hôm sau gặp lại, anh ta lựa cách ngỏ cho biết mình hiểu tiếng Việt, chỉ không nói được thôi.
          Trước lúc Henri cáo từ, nhân nói chuyện sinh hoạt, y cười bảo rằng mình quên mất mùi vị nước mắm rồi. Henri bảo: "Ở thủ đô có nơi bán nước mắm đấy. Hôm nào về đó tôi sẽ mua cho ông". Thủ đô cách sáu trăm kilômét, mấy vị chuyên gia Việt chỉ có thể đến đó khi nào về phép. Những tưởng Henri hẹn vậy thôi. Đang hí húi nấu cơm, y nghe tiếng ô tô đỗ trước nhà, rồi có tiếng gõ cửa. Henri bước vào trao cho y một cái lọ con gắn kín đựng một chất nước màu nâu đen và nói: "Về tới nhà, tôi thấy còn lọ này". 
           Y cảm ơn, nói: - Ông vội vã thế?
          - Tôi đang rỗi mà - Henri đáp rồi cáo từ. Nơi anh ta ở chỉ cách năm kilômét.
          Cái lọ có dạng các loại lọ đựng mắm, dấm ở các quán ăn Việt Nam xưa. Nhãn in chữ "nước mắm" to đậm, dưới là chữ saumure tiếng Pháp nhỏ hơn. Nơi sản xuất là… Thái Lan. Dung tích chỉ có 150ml mà giá những gần bốn đô la rưỡi. Giở ra nếm, chẳng thấy chút mùi vị nước mắm nào. Tuần sau, Henri về B. và mang đến cho bắp cải, thứ rất hiếm ở M., miến, bánh phở khô, nước mắm, thịt lợn, những thứ đừng hòng tìm thấy ở M. Miến từ Tàu, bánh phở, nước mắm từ Thái nhập qua các hãng buôn của Pháp. Y nghĩ bụng: "Ông phụ trách ngoại thương ở nước ta hiện giờ nghe nói nổi danh lắm mẹo, chẳng rõ tài ông ta thi thố những đâu. Hàng Trung Hoa lục địa, hàng Bắc Triều Tiên có mặt ở nước Phi châu này từ chiếc quạt giấy gấp tròn được cho đến các hàng điện tử cao cấp, chẳng biết các vị cầm cương trong nước có ai rầu lòng không?
           Hôm đó, Henri đưa xe riêng đến đón bốn người Việt Nam về nhà mình ăn tối. Henri thuê ngôi biệt thự của viên bộ trưởng năng lượng nước sở tại xây nơi thị xã quê hương ông ta. Nhà mới chỉ có cái xác mà thuê trong vòng mười tháng phải trả tới 50.000 đô la kèm điều kiện: người thuê phải tự trang bị toàn bộ nội thất và, khi hết hạn, ra đi tay không. Trong nhà có máy điều hòa nhiệt độ từng phòng, có máy điện thoại tự động nhắn và ghi, tủ lạnh và máy làm đá, các bộ xa lông sang trọng như ở các khách sạn cao cấp, máy thu hình màu đời mới nhất và các tiện nghi sinh hoạt khác. Có tới bốn phòng ngủ đầy đủ tiện nghi.
          - Sao ông thuê đắt ghê gớm vậy? - Khách hỏi.
          - Ông ta là người trực tiếp kí hợp đồng với tôi. Tôi cho tay này, sẽ lấy lại bằng tay kia nhiều hơn!
           - Gấp đôi?
          - Có thể hơn chứ?
          - Đáng thương cho những người dân thường nước này.
          - Ở những xứ như thế này, họ đều thế cả. Chẳng mấy ai nghĩ được xa hơn những sự thu vén riêng.
          Y nghe nhoi nhói trong người. Không biết đã có những người nước ngoài nào nói hoặc nghĩ về người Việt Nam như vậy chưa! Ngày nay, sự kì thị có lẽ chủ yếu không vì màu da. Y hỏi tiếp, tò mò hơn là hào hứng:
          - Nghe nói chính phủ nước ông kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng tiền viện trợ ở các nước này.
          - Một khi con bệnh không muốn khỏi bệnh tham nhũng thì ép dùng thuốc sẽ chẳng có hiệu lực gì.
          Y đã toan nói: Vậy việc ông làm trong chuyện kí hợp đồng kia có giúp chữa bệnh không, hay là giúp bệnh hoành hoành thêm? Y nhớ lần trò chuyện với Henri cách đây chưa lâu. Xem ra còn xa, thâm tâm những nhà doanh nghiệp những nước giầu, như Henri, mới coi những người Phi châu (hẳn rằng không chỉ những người Phi châu) là những người ngang hàng, những đối tác cần trọng thị. Henri nói: "Bọn mọi đen trồng trọt, chăn nuôi rất dở, cung cách chưa thoát khỏi kinh tế hái lượm và săn bắn. Chúng nuôi dê chẳng phải để ăn, để lấy sữa, mà như người Âu châu nuôi chó vậy thôi".
           Henri có một đầu bếp người bản xứ. Anh này gợi nhớ các "bồi annam" xưa, xoa tay khúm núm trước khách của chủ Tây. Nhưng trong bữa ăn hôm đó, anh ta chỉ được dùng để sai vặt. "Đầu bếp chính" lại là Fabrice, một kĩ sư người Pháp chính hiệu được Henri thuê phụ trách công trình xây dựng ở M. này với lương tháng khoảng 3.500USD. Nhã ý của chủ nhân chắc chẳng phải để phô trương. Tuy vậy, bữa ăn rất đơn giản. Đồ uống thì đa dạng, song đồ ăn chỉ có ba món và một món tráng miệng. Món nào cũng chỉ vừa đủ hoặc thừa chút ít. Y nghĩ bụng: "Trên thế giới, trong việc đãi đằng, nhậu nhẹt, về mặt thừa thãi, hoang phí thì có lẽ nhất Tàu, nhì Việt, song Tàu ngày nay nghe nói cũng đã khác đi rồi". Ít lâu sau, y lại có dịp trở lại ý nghĩ ấy khi một giáo sư đại học, nguyên vụ trưởng bản xứ, đãi y và một người Việt nữa ăn bữa đêm Noen; cũng chỉ ba món, trong đó có món nem rán Việt Nam thuê làm.
           Bữa ăn tại nhà Henri hôm đó khá xôm chuyện. Fabrice còn trẻ, chỉ trên dưới ba mươi, sống độc thân. Trong số người Việt có một chàng trai Hà Nội gốc. Chàng biết gợi cái điểm mà cả Fabrice, cả Henri khoái nói. Fabrice khoe có thể xài ba "em" một đêm. Hứng chí, anh ta cho xem một bức "tình thư" của một nữ sinh trung học bản xứ đẫm lời trách móc anh ta đã sai hẹn với cô. Hai vị văn minh loạn "xài" nhưng lại hay chê trách người ta. Một hôm, Henri bảo y:
           - Ông có biết câu ngạn ngữ của họ "Cậu hơn cha" không?
           - Nghĩa là sao?
           - Cậu thì dứt khoát cùng máu mủ rồi, còn cha thì chưa chắc.
    Henri có một người vợ Pháp nòi nhưng biết thưởng thức và nấu các món ăn Việt do bà mẹ chồng dạy. Anh ta nói mình yêu vợ, trung thành với vợ, tuy có những lúc "giải quyết với đàn bà". Một người khách hỏi vui:
           - Ông xa nhà suốt để bà ấy cô đơn mà không ngại sao?
           - Vợ tôi mà lăng nhăng, tôi tống cổ ra cửa ngay - Anh ta đáp điềm nhiên.
            Khẩu khí có mùi gia trưởng đông phương ấy được thốt ra từ miệng con dân một nước văn minh hàng đầu, kể cũng hơi hài hước. Ít lâu sau, Henri đưa vợ vừa từ Pháp qua đến thăm mấy chuyên gia Việt Nam kia bấy giờ đang ngụ tại một khách sạn chờ về nước nghỉ phép. Một người xinh xắn, tươi tắn, gọn gàng như một thiếu nữ dẫu con đầu của chị đã mười tám tuổi (điều hơi hiếm đối với phụ nữ Âu) và khá cởi mở. Một người Việt nói đùa: "Các bà cần kiểm soát chặt các ông chồng hay đi xa lâu". Chị ta chỉ cười hồn nhiên. Trước đó mươi ngày, Henri dẫn đến một cô bạn còn trẻ và rất hay nói bằng một thứ tiếng Pháp còn "khiêm tốn" hơn của mấy vị người Việt nhiều và giới thiệu là người Nga.  Và sau đó độ hai tuần, hai người Việt đến thăm Henri đã gặp tại nhà khách anh ta một cô tóc vàng mà Henri bảo là người Ý và đưa lánh vào phòng riêng anh ta vì "cô ta ngượng, không muốn tiếp xúc với các ông".
           Đã đến lúc mấy chuyên gia Việt nghỉ phép. Họ phải chờ vé máy bay từ thủ đô gửi tới. Thường là chậm, có khi rất chậm. Thị trưởng gợi ý: "Hay là các ông nhờ người bạn Pháp của các ông". Henri thường vẫn đi về giữa M. và thủ đô. Mấy người Việt vừa ngỏ ý, anh ta nhận lời ngay nhưng bảo: "Nếu các ông đi vào đầu tháng tới mới được. Chuyến này tôi phải đi T. (một nước Trung Phi) ngay và sau đó về Pháp".
           Mấy chuyên gia Việt Nam nhà ta cẩn thận họp nhau bàn bạc rằng dọc đường phải chiêu đãi người ta cho phải phép và thật đàng hoàng. Vậy thì hay nhất là góp tiền lại giao cho trưởng nhóm "tùy nghi ứng phó".
            Bảy giờ rưỡi sáng, Henri đánh xe đến đón. Một chiếc Toyota con. Các xe Henri dùng đều do Nhật sản xuất, kể cả xe tải. Khi được hỏi tại sao chuộng xe Nhật, anh ta nhún vai nói rằng chẳng phải chuộng hơn xe Pháp nhưng tiện cho công việc. Nếu bốn vị chỉ đi nhờ không thôi thì cũng không nặng gánh lắm.  Đằng này mỗi vị đều kèm theo vali, túi xách lỉnh kỉnh. Mọi khi rong ruổi đường trường, ông chủ Henri phó mặc tài xế mọi chuyện, mình chỉ việc ngồi ngắm cảnh hoặc ngủ. Bây giờ chật chỗ, phải để lái xe ở lại đi máy bay về sau. Anh ta sắp đặt các thứ cồng kềnh rất nhẹn. Dọc đường đến một đoạn quá xóc, đồ đạc của mấy vị đi nhờ xe có cơ rơi vãi, Henri phải dừng xe xếp lại cật lực. Thiết nghĩ ở Việt Nam người ta cũng chỉ cầu mong gặp được những lái xe, phụ lái xe khách năng nổ, tận tụy, hòa nhã đến thế là cùng!
           Xe đi được hơn tám chục kilômét, qua thủ phủ vùng, Henri cho dừng xe trước một cửa hàng ăn lịch sự, sạch sẽ (chỉ phải mỗi tội phục vụ lề mề) và bước vào với vẻ quen thuộc. Anh ta chủ động gọi các món. Thực khách chính lại là các vị nhờ xe. Henri chỉ ăn mấy lát bánh mì với trứng đúc thịt và uống nước quả. Xong mấy người Việt giành trả tiền, nhưng Henri không chịu, điềm nhiên và kiên quyết: "Các ông đừng ngại. Tôi dễ dàng hơn các ông".
           Y nghĩ thầm: Chẳng hiểu tay này có đoán ra những gì đằng sau cái "sĩ" của mấy ông người Việt không?
           Tưởng Henri sáng sớm đã ăn điểm tâm rồi, hóa ra không phải. Vậy mà suốt quãng đường 600km, lái xe suốt từ sáng đến tối, anh ta chỉ ăn có chừng ấy và uống một chai nước cam tại G. vào lúc nghỉ giữa độ đường. Chỉ có hút thuốc lá là hầu như liên tục. Vẫn tươi tỉnh, không nề hà. Một tư sản chẳng phải loại xoàng, lại là trí thức, mà người ngoài cuộc có thể tưởng là một anh chở thuê cho mấy ông chuyên gia Việt.
           Tốc độ xe có lúc lên tới 110km/giờ, nhưng có lúc phải giảm xuống 40 - 50km/giờ ở những đoạn xấu. Hai bên đường hoang vu, đồng cỏ xen những rừng cây thấp. Tràn lan là một loại cỏ gì giống như lau lách, hoa xám xỉn, và cỏ tranh, loại cỏ của hoang sơ, nguyên thủy, của hoang phế, điêu tàn. Đó đây bình nguyên bao la. Y nói:
           - Bao nhiêu là đất hoang mà dân thiếu ăn.
            - Cả đất nước này đang bỏ hoang đấy thôi - Henri chỉ hơi đưa mắt nhìn qua hai bên đường - Mấy vị chóp bu trên diễn đàn tuyên ngôn cũng giọng điệu lắm. Mà dân thì có vẻ không thích làm lụng.
           - Nghe nói người nước này ở phía Nam khá cần cù.
           - Cũng có thể - Henri không đổi giọng - Họ mạnh về cơ bắp. Nhưng chính một trí thức nước này bảo tôi rằng dân họ làm cho mình thì rông rài, người nước ngoài thuê với giá rẻ mạt thì lại lao vào.  
           - Có lẽ là vì làm cho nước ngoài thì có cái ăn ngay, không phải chờ.
           - Châu Phi… - Một cái lắc đầu nhẹ thay cho phần tiếp câu nói.
           Thái độ và giọng điệu của Henri khác hẳn khi anh ta tiếp xúc với người bản xứ, thường là lịch thiệp, nhất là nhữg khi bàn công chuyện. Và chính y chứng kiến một lần Henri cho xe ủi san lấp sân vận động, giúp không cho một trường trung học.
           - Nhưng châu Phi là một trong những cái nôi xưa nhất của loài người - Y đâm ra thích phản bác.
           - Thật à? - Có hơi hướng hồ nghi trong câu hỏi lại của Henri.
           - Những phát hiện khảo cổ ở Đông Phi cũng chưa lâu lắm.
           - Chẳng qua - Henri nhún vai - Đất đai những nơi khác đã bị khai phá nhiều không còn giữ được những di tích tiền sử, châu Âu chẳng hạn.
           - Cromagnon thì sao? (Cromagnon ở Pháp là nơi khai quật được di cốt người tiền sử mà niên đại muộn hơn nhiều so với di cốt khảo cổ Phi châu).
           Henri im lặng quặt tay lái tránh một mảng đường nhựa bị nước mưa xói trơ cả đá hộc. Mưa ở xứ này không dầm dề nhưng lắm khi dữ dội. Được cái không thấy có giông bão.
           Xe lướt cạnh một làng nhỏ chỉ mươi nhà. Henri hất cằm về phía một ngôi nhà gạch gần đường:
           - Nhà lưu niệm một tổng thống quê tại đây. Ông ta bị anh em mình giết cách đây hơn mười năm.
            - Anh em?
           - Những bạn chiến đấu của ông ta ấy mà. Ông lấy làm lạ à? Lạc hậu thì dễ dẫn đến hoặc là không bảo được nhau hoặc là cực quyền.
           Quang cảnh đột ngột hiện ra mĩ lệ. Núi đồi hơi nhấp nhô uốn lượn trải rộng mãi ra, phảng phất Tây Nguyên. Một màu xanh lam, màu khói chiều, bàng bạc rồi đậm dần lên và đọng lại nơi xa. Phía tây những dãy núi mờ xanh gợi nhớ Trường Sơn từ quốc lộ Một nhìn vào.
           Y định chia sẻ niềm thích thú với Henri, nhưng sực nhớ lời anh ta từ đầu chuyến đi: Các ông sẽ thấy phong cảnh đơn điệu, đơn điệu khủng khiếp và nhàm chán.
           Đến thủ đô, đường phố đã lên đèn. Henri đưa mấy người Việt Nam về nhà mình. Anh ta thuê một biệt thự tại trung tâm thủ đô, có bể bơi riêng, giá nghìn đô la một tháng. So sánh với giá thuê ngôi nhà của viên bộ trưởng ở M., một nơi tỉnh lẻ, thì quá chừng là rẻ. Biết các vị khách có thể có khó khăn về nơi ở tối nay, Henri bảo:
           - Các ông có thể nghỉ lại đây, mai hãy hay.
           Mấy vị xem chừng cũng muốn thử tiện nghi sinh hoạt của một nhà giầu phương Tây xem sao, trưởng nhóm thận trọng đáp:
           - Vâng, để xem. Có thể tối nay chúng tôi đã phải họp ở sứ quán.
           (Quả nhiên, thận trọng là đúng. Trưởng nhóm thỉnh thị và được góp ý là "không tiện").
           Để khách ngồi xả hơi và giải khát trong phòng khách, chủ nhân tranh thủ tắm, rồi lại đích thân lái xe đưa các vị cùng hành lí về khu chuyên gia. Trước khi tạm chia tay, Henri bảo: - Nửa giờ nữa tôi sẽ đón các ông đi ăn tối.
            Henri đặt bữa tại khách sạn L.D. của một Việt kiều có cơ sở kinh doanh cả ở Pháp và Mĩ. Sau bia khai vị là phở rồi đến cơm với các món nem rán, tôm xào chua ngọt, thịt bò xào, càri, và tráng miệng bằng chè đậu đen. Món nào cũng không thừa thãi. Nấu không thật ngon, nhưng còn hơn những tiệm ăn tồi ngay tại Hà Nội. Đầu bếp là một chị người Phi dưới sự chỉ đạo của một chị Việt kiều sinh tại Thái Lan. Bữa ăn không có cái "hăng hái" của các bữa tiệc "công chuyện" hoặc "liên hoan" trong nước. Cũng không tẻ như ở các nhà ăn tập thể trước đây. Nó dung dị, thân mật như một bữa cơm bạn bè nơi quê nhà.
    Trước khi trả về nơi ở, Henri lái xe đưa các vị khách đi một vòng thủ đô. Ở một phố trung tâm, một cô gái da trắng xinh xẻo đang đi trên hè. Một người Việt hỏi:
           - Đồng bào ông đấy phải không?
           - Không. Người Pháp chúng tôi không bao giờ đi bộ. Đó chỉ có thể là người Nga hoặc Ru-ma-ni. Họ lấy chồng đen khá nhiều.
           Henri nói thực. Nhiều người Phi du học tại các nước Đông Âu và Liên Xô cũ khi về nước đã mang theo cô vợ người sở tại, dù rằng có thể họ đã có vợ ở nhà, bởi đa thê ở một số nước châu Phi là chuyện thường. Dẫu vậy, y thấy cần phải nói:
           - Tôi đã từng gặp tại đây một cặp vợ Pháp, chồng Phi.
           Có một chút mạo nhận. Y chỉ biết bộ trưởng giáo dục nước này lấy vợ Pháp. Và y chỉ gặp ở khách sạn L.D, một cô sinh viên khảo cổ Pháp sang đây nghiên cứu đã cặp bồ với một người Phi. Y nói với vẻ tự nhiên, nhưng thật ra là có dụng ý. Song Henri thản nhiên gật gù:
           - Cũng có thể.
           Sực nhớ tin vừa đọc được trên một tờ báo Pháp, y hỏi Henri:
           - Chẳng biết việc một ngân hàng Pháp đặt chi nhánh tại Việt Nam có chóng thực hiện không?
            - Phía người Pháp thì sẽ chóng thôi. - Câu trả lời chẳng phải ngẫu hứng.
           Mấy chuyên gia Việt Nam sắp đến ngày lên máy bay. Một vị bảo Henri: "Ông có gửi thư cho ai bên Việt Nam chúng tôi sẽ chuyển hộ". Anh ta ngẫm nghĩ rồi nói: "Vâng tôi sẽ nhờ các ông". Tối đó, trưởng nhóm cho họp nhóm. Vị ta kịch liệt phê cái sự gợi ý "vô chính trị" khiến vị kia cố thanh minh: "Em tưởng chỉ nói đãi bôi thôi". Trưởng nhóm bảo: "Thế là tự mang ách vào mình. Bây giờ phải bàn xem nên trả lời hắn như thế nào. Nhận hay không nhận?".  Trưởng nhóm là người có học vị cao nhất nhóm, lại vốn là thủ phó một trường nghiệp vụ trực thuộc một bộ, đã từng đi du học và tham quan nước ngoài ba lần nên có kinh nghiệm.
           Vị đã trót đề xuất chuyện chuyển thư sốt sắng bàn: "Ta cứ nhận rồi xé quách đi là xong".
           Một vị khác: "Sao lại làm cái trò ấy? Cứ mang về nước dán tem gửi qua bưu điện giúp hắn!".
          Trưởng nhóm: "Không lợi! Không lợi! Theo tôi, từ chối là hơn!".
          Vị thứ tư: "Anh ta sẽ nghĩ sao về chúng ta, về nước ta? Thư gửi tay chắc sẽ để ngỏ theo phép lịch sự. Ta mang về chẳng cần giấu diếm gì. Nếu cần thì họ kiểm duyệt".
           Trưởng nhóm bật lên: "Làm thế có mà…", rồi dịu giọng: “Phiền lắm. Trình bày, giải thích làm sao? Hay là các ông muốn không sang đây nữa, bị thu hồi hộ chiếu ngay khi về đến Nội Bài? Thôi! Tôi đã quyết rồi.”
           Hôm sau trưởng nhóm nói với Henri:
           - Chuyện này tôi xin nói bằng tiếng Việt để ông hiểu thật đúng ý tôi.  (Trước nay, các vị vẫn dùng tiếng Pháp với Henri). Ông thông cảm, chúng tôi không được phép.
            - Không sao - Henri vẫn dùng tiếng Pháp - Tôi cũng đã biết vậy.
           Trưởng nhóm là người kín cạnh. Trong thời gian các chuyên gia Việt Nam còn lưu lại chờ vé máy bay, Henri thường đến chơi vào buổi tối. Không bao giờ trưởng nhóm tiếp một mình. Có một cô kĩ sư, từng là cán bộ phụ trách thuộc một bộ về kinh tế bên nhà, nhờ một trong bốn vị - cái vị đã gợi ý cái chuyện gửi thư,- giới thiệu làm quen với Henri. Nghe nói cô (gọi là bà mới phải) mới ngoài bốn mươi, nom trẻ và xinh. Cũng nghe nói cô bỏ chồng, gửi con, quyết tâm đi làm chuyên gia. Trưởng nhóm bảo vị ta: "Cậu định cúng cô L. cho thằng Henri đấy à? Tôi yêu cầu chấm dứt!". Trưởng nhóm vẫn coi mình là người đỡ đầu vị nọ, và cũng được vị nọ gián tiếp thừa nhận. Cũng có khi trưởng nhóm và vị đó "gặp nhau" trong những chuyện không phù hợp với nhiệm vụ chuyên gia cho lắm. Nhưng đấy là lúc đang còn ở nhiệm sở nước người. Còn bây giờ thì đang chờ để về nước. Đang "mật đàm" trong phòng riêng, vị nọ đùng đùng xô cửa bước ra nói toáng lên: "Anh cứ như Gia-ve ấy, luôn luôn đè nén tôi". Và từ đấy cứ gọi vụng nhóm trưởng là "thằng sứt mũi".  Có lẽ nhóm trưởng quá lo xa. Xem ra Henri chẳng mặn mòi gì lắm cái chuyện cô kĩ sư.
           Một người bạn của y đi chuyên gia đợt trước kể:
           - Tôi đang đi bộ trên hè đường thì một chiếc ô tô con ghé sát, người lái xe mở cửa mời tôi lên, hỏi tôi muốn đi đâu. Tôi hỏi chuyện: "Ông là Việt kiều?". Anh ta lẳng lặng chìa cho xem giấy tờ gì đó trong đó ghi tên là Henri M., đã từng học trường Việt Nam. Tôi nói: "Vậy là chúng ta nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt được chứ?". Anh ta lắc đầu: "Lâu rồi, tôi quên". Anh ta khoe là đã đi nhiều ở Việt Nam. Sau đó tôi về nước  nên không có dịp gặp lại.
            Y thật tình không hiểu vì sao Henri lại tỏ ra tử tế với mấy người Việt như vậy. Trước kia ở Việt Nam, Tây lai (người Pháp lai Việt) rất hay lên mặt với người bản xứ, bởi họ muốn tỏ ra là người Pháp thực thụ, trong khi bọn Tây thuộc địa coi họ chỉ là "nửa Pháp". Trong tụi mật thám và sen đầm Pháp thời ấy, Tây lai là ác nhất. Vậy mà tay “Tây lai” Henri này… Vì thiếu bạn chăng? Chẳng phải. Do công chuyện làm ăn, Henri giao du rất rộng. Ở đây cũng có nhiều người nước ngoài, đàn ông và đàn bà, nhất là người Pháp. Hay anh ta có dự tính gì? Vâng. Giá là dăm năm về trước thì cũng đáng giật mình. Hay là anh ta tự hào mang dòng máu Việt Nam? Chẳng có lẽ! Có một chi tiết nhỏ. Một lần, y tập cho một chuyên gia Việt và Henri đánh tổ tôm. Để kiểm tra, y giơ một quân bài lên hỏi Henri: "Quân gì đây?". Anh ta ngần ngừ mãi. Không phải vì không biết. Rồi mới đáp: "Cửu vạn" - Một thứ tiếng Việt rất sõi. Sau đó, Henri nhận là nói được tiếng Việt, nhưng "Tôi muốn để các ông nói và nghe tiếng Pháp cho quen". Câu này bằng tiếng Pháp. Sau này vẫn vậy. Hắn ta không "tự hào" tiếng Việt - y nghĩ.
           Bà mẹ Henri lúc đó đã 76 tuổi, góa chồng từ 1973. Được biết, qua Henri, bà chưa về thăm lại quê hương lần nào, mà cũng không có ý định ấy. Y hỏi:
           - Bà vẫn giữ được những tập tục Việt Nam mà chẳng nhớ quê hương ư?
           - Bà rất nhớ - Henri trầm giọng - Nhưng bà sợ bị xúc động quá. Lúc về đến quê, lúc lại ra đi… Bà đã quá già e không chịu đựng nổi.
           Một nét khác biệt với nhiều người Việt li hương cùng độ tuổi. - y tự nhủ -         Thường họ muốn được chết ở quê nhà, hay ít nhất cũng được nhìn thấy quê hương lần chót trước khi nhắm mắt nơi đất khách.
            Y hỏi Henri có định đến Việt Nam nhận thầu xây dựng không. Anh ta lắc đầu: "Chưa thuận tiện". Cả anh ta nữa, cũng chưa có ý định thăm lại Việt Nam…
           Tiếp xúc với người nước ngoài cũng là dịp để soi lại mình. Tự nhiên, y cho là như vậy. Song, đối với y, Henri còn là một hiện tượng - một hiện tượng có những mâu thuẫn dường như khó giải thích. Có lẽ trong tâm hồn anh, còn có chỗ, dẫu là khiêm tốn, dành cho quê mẹ - từ "quê mẹ" đúng theo nghĩa đen.  Có phải do người mẹ, do những kỉ niệm ấu thơ ở Việt Nam? Và Việt Nam dù sao ngay trong những năm tháng đang bị "mang tiếng" nhiều nhất ấy vẫn là một "sự kiện thế giới" không dễ mờ phai? Cứ nghĩ rằng có nhiều, có rất nhiều cặp vợ chồng người Việt chính tông sinh sống ở nước ngoài, con cái họ chẳng những không biết tiếng Việt mà còn chẳng có một chút ý niệm gì về tập tục Việt Nam, văn hóa Việt Nam, nói chi các trường hợp chỉ một trong hai người là gốc Việt, thì hiện tượng Henri có thể gợi ra nhiều điều, đằng sau và cả ngoài những điều y ghi nhận được. Song, y tự nghĩ là chưa hiểu hết.

    1995
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.04.2009 12:47:08 bởi Khải Nguyên HT >
    #2
      Chuyển nhanh đến:

      Thống kê hiện tại

      Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
      Kiểu:
      2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9