VỀ VỚI TÂY SƠN TAM KIỆT
6- Nguyễn Vương thu phục Phú Xuân. Chiếm Thị Nại Vương sai Văn Trương (18) Ra đánh lấy Quảng Nam Quảng Nghĩa. Thành Bình Định Tây Sơn vây ngặt Phá không xong sắp đặt người vào Bảo Tính, Chu vượt rào thóat ra (19). Nhưng anh hào quyết thà tử tiết Bảo vệ thành chẳng tiếc tấm thân. Tính phúc thư: Phú Xuân bỏ trống Kíp lên đường chiếm đóng thì hơn, Thành Qui Nhơn chớ vội giải vây… Vương xem đây liều thuốc an thần Cần Văn Thành đối phó Diệu, Dũng. Lúc bấy giờ Tây Sơn bối rối Ở Nghệ An bao mối hiểm nguy Chư tướng Nguyễn- thụy, Tường đánh phá (20) Ở Thanh Hóa- Công, Thái khởi binh (21) Tin Hưng Hóa- Bá Phụng khuấy nhiễu (22) Còn Bắc Hà ai hiểu tông giáo? Rối tung lên sói cáo hiện hình- Đạo Thiên Chúa cũng múa thương trường Giúp nhà Nguyễn thuận đường tiêu diệt Thương bá tánh thua thiệt về mình… Mong Nguyễn Vương nhận nhìn sáng suốt Đưa thần dân hết buốt giá sương.
Ngài Nguyễn Vương thấy dân oán giận Mong ngài về như trận mưa Xuân (23) Bèn đem quân vào cửa Tư Dung Gặp Văn Trị-Qui Sơn chắn giữ (24) Tiền quân Nguyễn dịch chuyển khó khăn. Sai Duyệt, Chất hung hăng tập hậu… Trị dẫu tài khó tậu bền lâu Lẩn rừng sâu mang quân chạy trốn… Binh Nguyễn Vương vào chốn Thuận An Thành Phú Xuân dàn ngang tập kích… Vua Tây Sơn ngự giá thân chinh Đến giữa trưa quan binh tan vỡ. Quân Nguyễn Vương đã ở trong thành Chiêu an dân dỗ dành trăm họ. Cho Lê Chất đuổi đánh Tây Sơn; Sai Văn Trương chặn ở Linh Giang; Phạm Văn Nhân- Thuận An chắn giữ; Lưu Phúc Tường được cử- Vạn Tượng; Truyền dân Mường giữ đường yếu lộ Chặn Tây Sơn cuốc bộ tràn sang… Đang vây hảm nhận tin thất thủ Trần Quang Diệu điều tướng cứu nguy. Đến Quảng Nghĩa gặp quân Văn Duyệt Triệt mất đường phải nương trở lại. Ông nhẩn nại đốc thúc quan binh Xiết vòng dây gây ép đối phương. Nay trong thành binh, lương suy kiệt Quan Võ Tính đành diệt thân mình Gửi thư ra tỏ tình thắm thiết: Xin Quang Diệu đừng giết tướng binh. Ông chất rơm dưới lầu Bát Giác Tự thiêu mình cứu các anh em Xem cái chết nhẹ tợ lông hồng. Ngô Tùng Chu trọn lòng tuẫn tiết. Diệu vào thành chẳng giết một ai Sai tẩn liệm anh hùng nghĩa khì Truyền Định, Phượng theo đường thượng đạo (25) Đánh Phú Xuân, đại quân tiếp ứng. Mới nửa đường lương mang hết sạch- Phượng về Nguyễn vạch ngách đi lên; Định lênh đênh chết ở xứ mường. Trần Quang Diệu khó lường sự việc Sai Văn Điền ra diệt Phú Yên (26) Chẳng được chuyện còn thêm hao tổn…
Thành Qui Nhơn Tây Sơn chiếm giữ
Nhưng ba bề tiến về công kích:
Từ Quảng Nam, Quảng Nghĩa đánh vào
Quân Duyệt Chất- gió gào sóng dậy;
Cửa Thị Nại- Văn Thành xông tới:
Nơi Phú yên- Phúc, Tính tràn ra… (27)
Quân Tây Sơn ba bề thụ địch
Cố giữ gìn chờ Bắc cứu nguy.
Khi Phú Xuân rơi vào Nguyễn Vương
Vua Cảnh Thịnh lên đường ra Bắc
Mong khởi sắc đổi hiệu Bảo Hưng
Và truyền hịch gọi binh các trấn
Sai Quang Thùy ra trấn Nghệ An (28)
Tháng mười một tuyển non ba vạn
Vua Tây Sơn mạnh dạn sang sông
Đem trăm thuyền giữ trông Nhật Lệ.
Bùi Thị Xuân trí tuệ vô song-
Vợ Quang Diệu cũng mong góp sức
Xin tòng chinh hạ thủ năm ngàn
Tất cả sẳn sàng vì non sông.
Ở Linh Giang tướng trông kinh hoảng
Lùi Đồng Hới tránh choảng Tây Sơn.
Nguyễn Vương tin, thân chinh tiếp ứng
Sai Văn Tường trấn giữ mặt bể (29)
Để mặt lộ- Văn Nhân, Trần Thường.
Sang nhâm tuất vua sai Quang Thùy (30)
Tiến binh lênh đánh lũy Trấn Ninh
Nhưng quan binh công mãi không thành
Định rút quân, Xuân xin đốc chiến
Suốt một ngày chẳng tiến chẳng lui.
Bổng có tin thủy binh đại bại
Quân Tây Sơn bỏ chạy như ong
Vua Tây Sơn cũng dong về bắc
Nhắc Văn Thuận chống giữ Nghệ An (31)
Tướng Văn Kiên đầu hàng nhà Nguyễn (32)
Thành Trấn Ninh binh biến trôi qua
Ngài Nguyễn Vương cũng ra Phú Xuân
Để Văn Tường giữ gìn Đồng Hới
Để Lương, Thường chận lối- Linh Giang.
Trận Trấn Ninh , binh tan tướng trốn
Chốn Qui Nhơn Diệu, Dũng khó tồn
Đến tháng ba quyết dồn sức mạnh
Bỏ Qui Nhơn theo đường thượng đạo
Qua Ai Lao lần vào Nghệ An
Hội cùng vua an thua nhà Nguyễn.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.05.2009 17:59:48 bởi SĨ ĐOAN >
7- Nguyễn Vương lên ngôi tôn: Từ Linh Giang đến miền Gia Định Thuộc giang san chúa Nguyễn tiền thời Được khôi phục- rạng ngời tổ tiên Các quan viên xin Ngài lên ngôi Đặt niên hiệu- xa xôi hay biết… Lời thống thiết phù hợp tâm tư Đến tháng năm cũng vào nhâm tuất Ngài lập đàn tế cáo đất trời Rồi thiết triều nhận lời chúc tụng Đặt niên hiệu Gia Long nguyên niên. Lên ngai vua, Ngài sai Đức, Tĩnh (33) Lĩnh phẩm vật, ấn sách nhà Thanh Phong Tây Sơn sang nộp thiên triều. Xin phong vua- thuận điều hợp lẻ; Sai Văn Trương lĩnh cả thủy binh Còn bộ binh- Duyệt, Chất lĩnh quản Đánh Bắc Hà hai mảng cùng xông. Trong tháng sáu- bộ- sang Linh Giang Đóng Hà Trung bình an vô sự Còn mặt bể- thủy- vào Hội Thống Đánh đồn lũy nhanh chóng đọat giành. Nguyễn Văn Thuận bỏ thành Nghệ An Lòng hoang mang giữ đồn Tiền Lý. Trần Quang Diệu ra đến Quì Hợp Xuống Hương Giang sờn lòng chiến sĩ Bởi Nghệ An binh tan tướng chạy Bèn củng Xuân về huyện Thanh Chương Giải tán quân vài hôm bị bắt. Vũ Văn Dũng cân nhắc- Nông Cống Cũng bị dân khống chế bắt nộp. Quan quân Nguyễn chộp lấy Thanh Hóa Quân Tây Sơn chưa phá đã tan… (Chỉ một tháng đánh tràn Thăng Long). Vua Bảo Hưng thấy không giữ được Cùng hai em Quang Thùy, Quang Thiệu Bọn đô đốc Văn Tứ, Văn Tú Sang Nhị Hà chạy ra phía bắc Đến Phượng Nhỡn dân ắt bỏ qua Nguyễn Quang Thùy quyết ra thiên cổ Tú cùng Vợ giành chỗ theo hầu Số còn lại rụt đầu vào củi Giải Thăng Long- tủi hổ vô cùng…! Chỉ một tháng mất vùng rộng lớn Thành tội đồ - hớn hở Nguyễn Vương. ………………………………………………………….
LỜI BÌNH Cổ kim thời thế tạo anh hùng Nếu Tây Sơn vẫn cùng đòan kết Bọn đại thần chẳng chết vì danh Liệu Nguyễn Vương giành nhanh thắng lợi??? Thương anh tài trọn đời trung liệt Gặp vua hèn thua thiệt tấm thân. Dẫu biết Ánh mưu thần chước quỉ Chí bền bỉ khôi phục giang san Trãi gian nan lòng càng son sắt Chuộng anh tài nắm bắt thời cơ… Giương ngọn cờ- chiến công hiển hách Tiếp tiền nhân- kế sách yên dân! _______________________________
PHẦN IV CẬN KIM THỜI ĐẠI NHÀ NGUYỄN ( 1802- 1945) 1- Thế Tổ ( 1802- 1819) Niên hiệu : Gia Long. Thu non sông Nam Bắc một nhà Ánh lên ngôi hiệu là Gia Long Cải quốc hiệu hằng mong Việt Nam Tọa kinh đô nơi thành Phú Quân. Lấy Bắc Hà Ngài tha nhân dân Một vụ thuế, ân cần khuyên nhủ Bao chiến sĩ hội đủ đức tài Đều thăng thưởng chẳng nài lớn nhỏ Phong cháu con hai hai Lê , Trịnh Cấp ruộng đất thờ phụng ông cha. Đổi Bắc Hà gọi ra Bắc Thành Đặt Tổng Trấn- Văn Thành cai quản Đặt Tam Tào là binh, bộ, hình Để Trần Thường, Khiêm, Đăng coi giúp (1) Đến tháng bảy Thế Tổ về Kinh Giải bại tướng vua tôi Tây Sơn Đến Thái miếu làm lễ hiến phù Đưa pháp trường sát thủ ra tay. Đào bới mã hai vua Nhạc, Huệ Vứt thây đi , đầu giam ngục tối. Bọn văn thần- Thì Nhiệm, Huy Ích Bỏ ra hàng nọc đánh cho tha Nhưng Thì Nhiệm trước hiềm Trần Thường Dụng cơ hội mượn tay đánh chết.
Vua Thế Tổ định xong công tội Lo sửa sang quốc nội chi li Xây Cần Chính để lập thường triều Xây Thái Hòa thiết lập đại triều Xây Kinh đô, Hoàng Thành, doanh trấn… Toàn quân dân phấn chấn đi lên. Năm giáp tí nhà Thanh phong Vương (2) Năm bính dần ở điện Thái Hòa (3) Ngài làm lễ mới xưng đế hiệu Định triều nghi chi li mọi lẽ Trong sửa sang thuần phong mỹ tục Đặt pháp luật chỉnh đốn quân dân Ngoài giao hiếu ân cần tế nhị Từ nước Tàu, Tiêm La, Chân Lạp… Đưa Việt Nam hòa nhập lâng bang Mở thái bình vững an cơ nghiệp.
Ở trong cung không ngôi hoàng hậu Chỉ Hoàng phi và các cung tần. Việc quan lại đại khái theo Lê Từ Bắc Nam một dãi sơn hà Phân bốn doanh, hai mươi ba trấn. Việc binh chế phân theo từng vùng Nơi Kinh Thành lập ra ba chỗ Sở xạ trường- thao quân tập bắn; Các cửa bể xây đồn đặt súng Thuận quan sát các tàu qua lại… Bởi non sông gắn liền biển cả Nên Thế Tổ hối hả đóng thuyền Tuyển dân binh ở miền ven bể. Việc thuế má phân định rõ ràng: Thuế đinh điền thuế các sản vật, Khai thác mỏ giao khoáng người Tàu Thu lấy thuế trông vào nhiều ít. Năm quí hợi mở sở đúc tiền (4) Có hai loại tiền đồng, tiền kẽm Rồi đúc thêm nén vàng, nén bạc. Thuận giao dịch tọa lạc Bắc Thành, Định thước đo sáng chế bằng đồng Có khắc chữ đôi dòng hai mặt. (5) Năm ất dậu, chế cân Thiên Bình (6) Cấp các trấn dùng cân sản vật. Về công vụ sửa sang đường sá Đắp đê điều mở thông sông rạch Vạch lê dân góp công kiến thiết Bù lỗ gạo- da diết hoàn thành. Cứ xa xa lập ra nhà trạm Để khách quan nghỉ tạm qua đường. Dường Nam Quan đến miền Bình Thuận Có hết thảy chín mươi tám trạm. Từ Bình Thuận cho tới Hà Tiên Đi bằng thuyền mênh man sông nước.
Năm quí mùi biên soạn sách luật (7) Dựa Hồng Đức- bộ luật triều Lê Cùng tham chước bộ luật nhà Thanh Làm thành bộ- hai mươi hai quyển. Năm ất hợi in tuyển thành sách (8) Truyền dạy dân học hỏi luật nhà Nhưng thực ra luật Thanh phần lớn. Việc học hành- các doanh, các trấn Lập Văn miếu phụng thờ Khổng Tử Tỏ tấm lòng mến trọng nho gia. Nơi Kinh Thành đặt Quốc Tử Giám Dạy con quan và các sĩ tử Mở thi Hương kén chọn nhân tài Bày thêm chức đốc học các trần Dùng quan Lê từng đỗ khoa mục Chuyên trông coi thúc giục chúng sinh… Vua Thế Tổ nhận nhìn mọi lẻ Từ địa dư đến cả quốc sử Sai Quang Định kê cứu giang san (9) Chốn Lạng Sơn về miền Hà Tiên Vẽ tất cả thiêng liêng sông núi… Ghi tất cả phong tục, thổ sản… Năm bính thìn đóng xong mười quyển (10) Lưu thiên thu cho quốc sơn hà. Năm quí mùi ban ra chỉnh sửa Sách dã sử đời Lê- Tây Sơn.
Giao thiệp Tàu muôn phần thuận lợi Nhận thụ phong- vua sai Bá Phẩm (12) Mang đồ cống tạ ơn Thanh triều Và biết điều ba năm nộp lễ. Nước láng giềng Tiêm La nể cả Nước Chân Lạp hối hả thần phục Nước Hồng Mao tiệt giao qua lại. (13) Pháp Lan Tây trước đây cậy nhờ Tuy việc lớn đợi chờ vô vọng Nhưng Đa Lộc trân trọng giữ lời Đưa tứ thuyền gọi mời người giúp Nên Thế Tổ dành chỗ ưu tiên. Riêng điều ước ngày trước ủy quyền Vua kiên quyết hủy liền tức khắc. Nhắc thêm đau , lệ sao vẫn trào Bao công thần ra vào sinh tử Theo Nguyễn Vương gìn giữ cơ đồ Chết oan uổng quả là nuối tiếc…!!! Ngài vẫn biết cứ thế làm ngơ Bởi bài thơ con trẻ vô tình Đưa cha mình tức tưởi ra đi. Ghi ra đây hậu thế nghĩ suy: “ Ái Châu nghe nói lắm người hay Ao ước cầu hiền đã bấy nay. Ngọc Phác, Kinh Sơn tài sẳn đó, Ngựa Kỳ, Ký Bắc biết lâu thay. Mùi hương hang tối xa nghì dặm, Tiếng Phượng gò cao suất chín mây. Sơn tể phen này dù gặp gỡ Giúp nhau xoay trở hội cơ này”. Đã là bài thơ- giải bày đôi nghĩa Bọn gian thần muốn tỉa trung lương Mượn ý tưởng trút vương tội trạng. Triều đình bênh tỏ cạn trắng đen… Vua Thế Tổ chẳng men theo ý Giam Văn Thành xử lý về sau, Bắt Văn Thuyên khảo tra ép tội Đưa pháp trường vội vả giết đi.
Đặng Trần Thường trốn Nguyễn Tây Sơn Về Gia Định giúp vua Thế Tổ Vốn anh tài- văn trổ ngọc châu Đặng chức tước- Binh Bộ Thượng Thư Cảm Ngũ Phúc dường như kính trọng Vị anh hùng vang vọng non sông Làm sắc phong thần- định tội tử. Nhưng Lê Chất mất hết lương tri Đi soi mói thuở coi tào binh: Chiếm đầm lầy, ẩn lậu đinh điền Bắt bỏ ngục xử liền tội giảo. Tục tương truyền “ Hàn Vương Tôn Phú” Bằng quốc âm khi trú ngục tù Ông ví mình Hàn Tín thuở xưa! Chát chua thay! Cay đắng ngậm ngùi! Xét cho cùng Thế Tổ khôn ngoan Rộng tài trí, đảm đang quốc sự Dạ kiên trì bởi tự thân sinh Vững niềm tin khôi phục sơn hà… Ngài nhận ra nhân tài đất nước Tạo lòng tin nhấc bước vươn lên Nên không lâu nam Bắc chung nhà. Âu cũng là dày công đất nước Chỉ tiếc rằng Ngài tước sinh linh Đại công thần hết mình trợ giúp Đại kiên trung chung vai vận nước Đại anh hùng trên bước phục hưng… Năm kỷ mão xoay lưng trần thế (14) Về cửu tuyền chuyền ghế cho con Mười tám niên nước non khởi sắc Năm chín xuân máu khắc nên hoa. Hết kêu ca- “ Thế Tổ Cao Hoàng Đế” Miếu hiệu Ngài hậu thế khắc ghi. ……………………………………………………
2. Thánh Tổ ( 1820- 1840) Niên hiệu: Minh Mạng Năm canh thìn Thái Tử lên ngôi (1) Đặt niên hiệu gọi là Minh Mệnh. Ngài thông minh hiếu học hay làm Phàm việc gì xét xem tỉ mỉ Tính chăm chỉ luôn nghĩ lê dân Dạ ân cần tinh thâm Nho học Sùng Khổng Tử giữ tâm trong sáng Cấm Gia Tô chẳng đáng tôn thờ. Việc triều chính chẳng chờ chẳng đợi Trống canh hai mới vội đi nằm Ngài đặt thêm các tự, các viện. Cơ Mật Viện gắn liền Nội Cát Có kim bài ban phát tiện phân. Năm bính thân, lập Tô Nhân Phủ (2) Đặt quan tước coi đủ mọi bề Trong họ vua chẳng nề sau trước Chiêu hay Mục mực thước rõ ràng. Có bảy miếu thờ dàn tổ tiên Nơi phía tả gọi thường là Chiêu Nơi phía hữu thường kêu là Mục Con cháu dòng nào vào chi đó…
Việc quan chế định phân cửu phẩm… Việc học hành chú trọng hơn xưa Được bổng lộc vào học Tử Giám Ai thực tài trám trong lục bộ. Năm nhâm ngọ thi Hội, thi Đình (3) Lấy Tiến Sĩ rõ tình hiếu học. Năm kỷ sửu, những người trúng cách (4) Không cập phân, được mách phó bảng Lệ ba năm mới hâm một lần Nội dung thi muôn phần sáo rỗng… Ngài chú trọng việc làm sách vở Mở Quốc Tử Giám- cán đán Sử. Xuống chiếu truyền cho quyền nộp sách Mới hay cũ- đặt cách thưởng ban. Vua Thánh Tổ sai quan soạn lại Riêng phần Ngài hai bộ tự ra (5) Mãi cuối đời thiết tha huấn dục Ra mười điều thúc giục dân theo.(6) Lập Dưỡng Tế các trấn Bắc Thành Luôn sẳn dành cấp phát dân đen. Việc đinh điền và tiền thuế má Tùy hạng đinh chẳng quá khắc khe. Việc võ bị yên trị an dân Ngài thưởng ban binh, quan luyện tập Lập ải đồn dồn nơi hiểm yếu Lập pháo đài dài theo cửa bể… Làm tàu đồng vòng quanh kiểm soát Giữ bình yên thiêng liêng Tổ Quốc. Vua Thánh Tổ luôn trổ tài năng Mong đất nước gia tăng thịnh vượng... Nhưng về sau sóng lượn tư bề Lắm giặc giã kéo về dấy lọan. May, tôi hiền khéo chọn thời cơ Bao tướng giỏi phất cờ chính nghĩa Lui lâng bang , cắt tỉa phản loàn Mở bờ cõi há còn ai hơn!
* Giặc Bắc kỳ gan lỳ bản tính: Năm bính tuất uất ức Cát, Vàng (7) Khởi Nam Định lấn giành địa hạt Giết Trung Diễn, Đình Miễn đương triều (8) Chiến hai phủ Lân Hải, Trà Lý. Lê Mậu Cúc tinh ý giải nguy… Giặc chém đầu lấn sâu chiếm đóng. Quân các trấn nhanh chóng tụ về Khắp tư bề giặc chạy tứ tán Bắt Đức Cát, gốc gát vẫn tồn Cuối năm ấy giặc dồn mặt bể Phá Minh Tiên kể cả Nghi Dương (9) Thế giặc mạnh khó đương cự đặng. Vua huy động tướng tài ra trận Nguyễn Đức Thuận cùng Nguyễn Công Trứ Đem binh thuyền hai xứ Thanh, Nghệ Hợp Hữu Thận đang trấn Bắc Thành Đánh phá Vành vỗ yên trăm họ. Năm đinh hợi, chúng gieo thất đảm (10) Hảm Thiên Trường và phủ Kiến Xương Vây Chợ Quán khó lường thế sự. Nguyễn Công Trứ cùng Phạm Văn Úy Chẳng nao núng xử lý nghịch thù Đến giải vây chúng ù té chạy Đóng Trà Lũ nhẩn nại duy trì... Bì chẳng đặng tớ thầy bắt sống Non ngàn người- mầm móng tiêu tan. (11)
Dẹp xong Vành bình an một thuở
Dòng dõi Lê nẩy nở phong trào. *Lê Duy Lương nởi vào quí tỵ (12) Tại Ninh Bình hội nghị thổ ti Tự xưng danh Đại Lê Hoàng Tôn Đánh phủ huyện chiếm hơn ba châu (13) Vây Hưng Hóa bền lâu xiếc chặc. Vua Thánh Tổ sắp đặt Cự, Trọng (14) Đánh Duy Lương xóa mộng phục thù. Vài ba tháng đóng tù cả lũ Bọn thổ ti cũng đi mỗi ngả Vua hối hả truy tìm dòng dõi Đày Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Bình Định Phân tán mỏng, yên tịnh làm ăn.
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu: