Chương một Phần mười THÁNG MƯỜI, NGÀY MỒNG BẢY Phân nửa những người khuân vác của chúng tôi đã rời khỏi sáng này, trở lại qua đỉnh Jaljala đến Kali Gandaki, và những người Tây Tạng có thể thay thế họ đang bận rộn đào khoai tây để trao đổi qua những vùng núi non. George khó chịu một cách dễ hiểu: tại sao ông không được cảnh báo về mùa thu hoạch khoai tây bởi những người đại lý cho việc leo núi ở Kathmandu, họ đã bảo đảm với ông ta rằng những người khuân vác thì rất sẵn sàng ở Dhorpatan? Jang-bu nói rằng không thể tìm ra một người khuân vác nào – “có thể ngày mai.” Năm người Tamang trẻ từ Kathmandu, Tukten người Sherpa, và ông già Bimbahadur người Magar vẫn với chúng tôi. Người Tamang, hay Lamas, là những người đồi núi vốn gốc Mông Cổ từ lưu vực sông Trisuli, phía tây Kathmandu; giống như người Gurung và Magar, người Tamang là những cư dân cổ xưa của Nepal, và theo một số hình thức của đạo Bon cổ. Ngày nay họ có khuynh hướng nghiêng về Phật giáo, và họ liên hệ tốt với người Sherpa, những người rất giống với họ trong sự niềm nở, cung cách của thiện ý. Pirim và những anh em của anh ta là Tulo Kansha, Karsung, Danbahadur, và Ram Tarang là những người trẻ gầy còm, chân không, làm việc nặng nhọc, không làm hư những địa điểm mới của chuyến thám hiểm, và họ sẽ đi xa đến nơi nào mà chúng tôi muốn, mặc dù họ không có ủng hay áo quần cho những nơi tuyết dày sâu. Như vì người già Magar, Pirim nói lời chào từ biệt và đã ở điểm phải chia tay với những người còn lại, nhưng Tukten đùa với anh ta về điều ấy, Tukten này với nụ cười bối rối của cậu. Tukten với lỗ tai của người tinh nghịch và một cái cổ gầy, một khuôn mặt vàng, và đôi mắt thông tuệ hoang dã của một naljorpa, hay một hành giả du già Tây Tạng. Cậu ta tỏa ra cái im lặng nội tại, điều thường phối hợp với sự thành tựu về tâm linh, nhưng có lẻ cái điều cậu ta đạt đến là điều u thẫm. Những người Sherpa khác không thoải mái với cậu ta; họ càu nhàu rằng cậu uống quá nhiều, dùng những ngôn ngữ thô tục, và không thể tin cậy. Hiển nhiên Tukten tự hạ mình bằng việc nhận nghề nghiệp này như một người khuân vác. Tuy thế, họ chiểu theo cậu ta giống như cậu sở hữu một loại quyền phép nào đấy, và đôi khi tôi cũng nghĩ là tôi cũng cảm thấy năng lực của cậu ta. Thành viên tai tiếng này không biết làm sao được tôi biết đến, giống như một hình dáng mở ảo tử một đời sống khác. Tukten dường như tự cảnh giác rằng chúng tôi ở trong một quan hệ nào đấy, điều cậu ta chấp nhận trong một cách mà tôi không thể; rằng cậu ta không hiện diện ở đây như là điều ngẫu nhiên, đối với tôi, là khuynh hướng áy náy tự nhiên, trái lại Tukten xem mối quan hệ khác thường của chúng tôi là đương nhiên. Thường hơn tôi muốn, tôi cảm thấy cái nhìn chăm chăm của cậu ta, giống như cậu hiện diện ở đây để xem xét tôi, giống như cậu ta làm tôi phải cắt khúc gỗ làm cây gậy; cái nhìn chăm chăm mở ra, lẵng lặng, ôn hòa, không phán xét gì cả, và tuy nhiên, đối diện với nó, như với một tấm gương, tôi tĩnh thức với tất cả những điều ấy là giả dối trong tôi, tất cả điều ấy là tham lam, sân hận, không khôn ngoan(si mê). Tôi cảm ơn với một ngày ngơi nghĩ. Đầu gối và bàn chân cùng lưng tôi đau nhức, và tất cả vật dụng của tôi ướt át. Tôi mang đôi vớ khô cuối cùng đảo lộn vì thế cái lổ của gót chân phủ trên những ngón chân tôi, những quần dài mặc lót bên trong này, vết rách, phải được mặc ngược lại; gọng kính gãy của tôi được cột lại; tóc tôi rối tung, Dawa mang nước nóng để giặt và gội – Dawa và tôi là những thành viên duy nhất của cuộc thám hiểm này thích tắm gội – và tôi mặc vào quần áo sạch nhưng ẩm, và sau mệnh lệnh của tôi, George cắt mái tóc dài của tôi đến sát sọ. Bao năm qua tôi đã từng mang miếng da bao cổ tay viền sọc dày cộm, trước tiên vì nó là tặng phẩm, và sau này như một kiểu cách; cái này cũng bị cắt luôn. Cuối cùng, tôi tháo chiếc đồng hồ đeo tay của tôi, như thời gian nó cho biết là nhất định mất tất cả tầm quan trọng. Trong cơn mưa, suốt ngày, những người Tây Tạng đến và nhìn chúng tôi, và một lần nữa tôi bị làm cho gây ấn tượng bởi sự giống nhau giữa những người bản địa Mỹ châu và những người Mông Cổ này. Hầu hết những người Tây Tạng Dhorpatan có vóc người nhỏ, bàn tay nhỏ và chân cùng lỗ mũi của người Eskimo, mắt gấpMongoloid [một chủng người Á châu],da đồng đỏ sậm, và tóc đen: ngay cả đôi ủng thấp màu đỏ bằng da sống và len thì rất giống sự biểu hiện và thiết kế giày ống cao có lót da ở xứ lạnh của người Eskimo. Những đồ trang sức bằng ngọc lam và bạc, mặt khác, gợi nhớ đến người bản địa Mỹ châu Pueblo và Navajo, trong khi chuỗi hạt, bím tóc, và những đường sọc trên chăn mền vắt qua đôi vai trần chẳng gợi lên điều gì nhưng lại quá nhiều hình ảnh xưa của những bộ tộc Plains, một tác động nổi bật bởi sự nghèo khó của những lều trại của họ và những con chó hay sinh sự. Khi du hành, những người này dùng những lều bằng da, trẻ con được mang những đồ trang phục của những trẻ con người da đỏ Bắc Mỹ, và căn bản của sự kiêng khem của họ là lúa mạch hay ngô được biết là tsampa; không có mối liên hệ họ hàng thật sự minh chứng giữa ngôn ngữ của những người bản địa Mỹ châu và những người Á châu, tuy nhiên có một loại bột tương tự của những bộ tộc Algonkian của khu vực của tôi được gọi là “cháo ngô” [samp].
Đôi mắt thiêng – sacred eyes Nepal destinations.com/nepal/images/kathmandu/swayambhunath/kathmandu-swayambunath-c-sacredsites.jpg Những điều tương tự như thế là không có gì nghi ngờ ở bề mặt, nhưng những thứ khác thì đáng chú ý hơn trong những nền văn hóa cách xa nhiều qua thời gian và không gian. Sự quan hệ về thuyết vật linh với thế giới chung quanh đã ngấm vào đời sống của người Gurung và những bộ tộc khác trong những hẻm hóc của những núi non này (bao gồm một số đã tiếp nhận những tôn giáo hiện đại), cũng như người Chukchi Eskimos và dấu vết còn lại của tập họp những người săn thú phía đông Á châu, bất đồng nho nhỏ trong tâm linh của họ trong hầu hết những người Eskimos và người bản địa Mỹ châu. Chim lôi điểu to lớn của Bắc Mỹ được biết đến tận khu rừng Tungus của Tây Bá Lợi Á (Siberia); và những biểu tượng của mặt trời cùng đôi mắt thiêng liêng, chữ thập, cây vũ trụ, chữ vạn tượng trưng hóa của những giáo thuyết bí mật của Thế giới Cổ xưa từ cổ Ai Cập đến ngày nay của Tây Tạng đã được lan rộng trong Tân Thế giới (Mỹ châu) từ những thời gian rất sớm – quá sớm, thực tế, điều trình bày phỏng đoán thời gian cho làn sóng du cư của những người thợ săn băng qua cây cầu đất Bering đến Tân Thế giới dường như không giải thích cho họ. (Những niên đại thường quay ngược lại, và có thể không có ý nghĩa gì; vào một ngày rõ ràng người ta có thể thật sự thấy một lục địa từ ngoài khơi của những hải đảo của đảo khác, và cho tất cả chúng ta biết con người đã du hành trong cả hai hướng trên biển và và băng ngay cả khi Beringia còn ở dưới mặt nước.)
Chữ VẠN – Swastikas http://www.spiritualislibrae.com/wp-content/uploads/swastikas.bmp Quên đi rằng thân thể của kiến thức khác thường căn cứ trên sự biến mất của những lục địa và những chủ tể của vũ trụ [13] – và để qua một bên những suy đoán hiện tại về sự du hành đại dương bởi những người Ấn Độ không điển hình như người Inca, nhiều nền văn hóa tương tự giữa những người Dravidian tiền Aryan và người Maya, và sự trần thuật dường như cho biết rằng những nhà truyền đạo Phật giáo đã đến Aleutians và du hành xa đến phía nam California vào thế kỷ mười bốn [14] - một điều còn lại đã đối diện với một sự lựa chọn không thoải mái giữa những biểu tượng nguyên hình kỳ lạ tỉ mĩ và sự tồn tại cùng sự làm cho sống mãi một thân thể kiến thức trực giác thâm thúy đã xảy ra trước tất cả những tôn giáo được biết của lịch sử nhân loại. Những truyền thống của Á châu liên hệ đến một vương quốc bí ẩn – Shambala, Trung tâm – trong một phần không được biết của Bên trong Á châu bí ẩn. (Sa mạc Gobi [Đại Mạc], thuở xưa màu mở, bây giờ là chỗ chôn cất những xương cốt cổ xưa, thường được trích dẫn; sự khô khan của Trung tâm Á châu, như những hồ nước bao la biến mất trong những lòng chảo khô và đồng cỏ biến thành những đụn cát di động, có thể biến một thành phố thành một huyền thoại. Cái chết của một nền văn minh có thể đến một cách nhanh chóng: sự thay đổi trong thời tiết mà nó làm khô kiệt những dòng sông và tiêu diệt những đồng cỏ của trung bộ Phi châu rải rác những nền văn minh đồng quê của Fessan và Tasili chỉ trong vài thế kỷ sau 2.500 trước Công nguyên) Có lẻ đúng hơn, Shambala là một biểu tượng của những nền văn hóa Aryan nổi lên trong một khu vực rộng lớn giữa 6.000 và 5.000 năm trước Công nguyên – những nguồn gốc hiển nhiên của sự thờ cúng huyền nhiệm bí mật khắp đại lục Á- Âu, và chúng vẫn còn âm vang cho đến ngày nay trong Phật giáo Mật tông Tantric Tây Tạng. Theo một vị lạt ma Tây Tạng, những sự huyền bí này “là âm vang yếu ớt của những giáo huấn mà đã hiện hữu từ thời thượng cổ ở Trung và Bắc Á châu.” [15] một người khác tin rằng “chưa có người nào từ buổi ban sơ …hiện diện mà không có một vài phần của kiến thức bí mật này.” [16] Quan điểm này được sự ủng hộ của các nhà dân tộc học, [17] những người tìm thấy kiểu mẫu giống nhau của sự thực hành của đạo shaman không chỉ ở Á châu và Mỹ châu nhưng cả ở Phi châu, Úc châu, Đại dương châu, và Âu châu. Lịch sử phổ biến của những giáo lý như thế - và có lẻ cũng của cả thời tiền sử - được hổ trợ bởi những tính kiên định nổi bật trong sự thực tập của điều mà những người Tây phương, đang thất lạc những bí mật, mà họ cho là liên hệ đến hổn hợp của sự mê hoặc và khinh thường như “chủ nghĩa thần bí” hay “sự huyền bí” nhưng điều ấy lại phát triển ở những nền văn hóa ít xa lánh nó, trong quá khứ và hiện tại, chỉ là một khía cạnh khác của thực tại. Những truyền thống của người bản địa Mỹ châu là những nền văn hóa Đông phương, hàng nghìn dặm và có lẻ hàng nghìn năm từ nơi cội nguồn của họ. Bất cứ người nào quen thuộc với tư tưởng Thiền Tông Phật giáo, hay giáo lý của Phật giáo Tây Tạng sẽ không ngạc nhiên bởi sự hiểu biết sâu sắc trong những năm gần đây qui cho một nhà phù thủy người bản địa Yaqui ở miền bắc Mễ Tây Cơ [18]. Trong chủ đề, thái độ và đặc biệt trong tập tục khó hiểu của sự biểu hiện điều mà yêu cầu không thể diễn đạt được, không có điều gì trong những lời giải thích của người shaman này mà không có thể được nói bởi một lạt ma Kagyu-pa hay lão sư Thiền tông (Nhật Bản). Vô số sự tương đồng đến giáo lý Đông phương trong những truyền thống người bản địa Mỹ châu có thể được trích dẫn, chẳng hạn khái niệm của người Aztec về tồn tại như một trạng thái mộng, hay sự sợ hãi vô cùng với gió và bầu trời mà người Ojibwa của những đồng cỏ phía bắc của chúng tôi chia sẻ với sự biến mất của người Aryan của những cánh đồng hoang ở Á châu.[19] Những tu sĩ tiên tri Tây Tạng và những giáo sĩ shaman Tây Bá Lợi Á thực tập du hành qua giấc mộng, sự thần giao cách cảm, sức nóng huyền bí, chạy tốc độ, biết trước cái chết, và thuyết luân hồi, tất cả những điều ấy được biết bởi những giáo sĩ shaman của Tân Thế Giới: y sĩ Algonkian (người bản địa Bắc Mỹ) du hành như một con chim đến thế giới tâm linh, những người shaman của Amazon có thể bị gây ấn tượng nhưng không ngạc nhiên với những năng lực lạ lùng của những nhà yoga hay naljorpa. Năng lượng hay bản chất tồn tại hay hơi thở hiện hữu được gọi là prana bởi hành giả yogi Ấn giáo hay khí của Đạo giáo Trung Hoa được biết như orenda của người Cree ở Gia Nã Đại [20]. Những khái niệm như nghiệp báo (karma) hay vòng thời gian được coi là đương nhiên bởi hầu hết những truyền thống của người bản địa Mỹ châu; thời gian cũng như không gian và cái chết hình thành là tuyệt đối trong quan điểm về trái đất của người Hopi ở đông bắc Arizona, những người tránh tất cả những việc xây dựng đều nét tương tự, cũng được biết rõ bởi bất cứ Phật tử nào rằng Mọi thứ là Bây giờ và Ở đây. Như trong tất cả những tôn giáo lớn ở phương Đông, những người bản địa Mỹ châu có một sự phân biệt nhỏ giữa hành vi tôn giáo và hành động hàng ngày; nghi lễ tôn giáo là đời sống của chính nó Giống như ngã (atman) của Vệ đà, giống như Tâm của Phật giáo, giống như Đạo của Lão giáo, Tâm linh vĩ đại của người bản địa Mỹ châu là ở mọi nơi và trong tất cả mọi vật, không thay đổi. Giống như người bản địa Úc châu – được xem như là chủng tộc cổ xưa nhất trên trái đất – phân biệt giữa tuyến thời gian và một “Thời gian vĩ đại” của những giấc mơ, những thần thoại, và những anh hùng, trong điều mà tất cả hiện diện trong thời khắc này. Nó khuấy động tôi rằng trực giác ban đầu đã được ghi nhớ mãi bởi giọng nói và hành động xuyên qua những chân trời vô tận và qua hàng thế kỷ trên kết quả, sự bừng sáng cuộc-đời-như-giấc-mộng của buổi nguyên sơ, thời kỳ ban đầu của nền văn minh Ấn – Âu của người Sumeria và Hittites, Hy Lạp cổ đại và Ai Cập, gìn giữ bởi những giáo phái bí mật của thời kỳ Đen Tối (Trung Cổ Âu châu) nổi lên trong huyền thuật (sufism) của Cơ đốc giáo, Do thái giáo, và Hồi giáo cũng như trong tất cả những tôn giáo huy hoàng của phương Đông. Và nó là một sự an lạc thâm sâu, có lẻ là duy nhất, đến con vật thường được lui tới này mà nó đã lãng phí hầu hết một đời sống dài như một bóng ma lang thang ở trong tương lai và quá khứ trên những chân sau của nó, tìm kiếm cho những ý nghĩa chỉ để thấy trong những đôi mắt của những kẻ khác về bản chất của nó rằng nó phải chết (vô thường). ___
[13] Especially H. P. Blavatsky, various imaginative works, e.g., The Secret Doctrine
[14] Ma Tuan-lin, Non-Chinese People of China
[15] As quoted by A. David - Need
[16] Evans – Wentz, Tibetan Yoga and Secret Doctrines
[17] Mỉcea Eliade, Shamanism
[18] Carlos Castaneda, The teachings of Don Juan
[19]
- Không đúng, không đúng
Rằng chúng ta đến để sống nơi đây
Chúng ta đến chỉ để ngủ, chỉ để mơ
--- Anon. Aztec
- Đôi khi tôi lo trong điều đáng thương hại của tôi,
Và tất cả trong lúc
Một làn gió mạnh mang tôi qua bầu trời
---Anon. Ojibiwa
[20] A Sufi sheikh, quoted in Rafael Lefort
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.08.2009 03:28:46 bởi tueuyen >